LUẬN VĂN:
Nâng cao hiệu quả công tác quản lý
Ngân sách Quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội
Mở Đầu
Đất nước ta đang bước vào năm thứ mười sáu của quá trình đổi mới kể từ
Đại hội Đảng VI năm 1986. Trong những năm qua, mọi mặt đời sống kinh tế xã
hội được cải thiện đáng kể, tạo cho đất nước ta một diện mạo mới trong mắt bè
bạn quốc tế.
Trong những năm tới đây, phát triển kinh tế vẫn là quan điểm chủ đạo của
Đảng dựa trên nội lực là chính. Chúng ta đang đẩy mạnh cải cách, phát triển tài
chính nhằm tạo dựng nền tài chính quốc gia vững mạnh, cơ chế tài chính phù hợp
với thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ
chiến lược là công nhgiệp hoá, hiện đại hoá, thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh, bền
vững; giữ vững an ninh tài chính quốc gia trong phát triển và hội nhập. Mặt khác,
Đảng cũng chủ trương phát triển toàn diện giữa nông thôn và thành thị, đồng bằng
và miền núi, thu hẹp tối đa khoảng cách giầu nghèo.
Ngân sách nhà nước với tính cách là nội lực tài chính để phát triển, trong
những năm qua đã khẳng định vai trò của mình đối với toàn bộ nền kinh tế quốc
dân. Nguồn vốn đầu tư vào nền kinh tế hàng năm lên tới hàng nghìn tỷ đồng.
Trên tinh thần phát triển kinh tế của Đại Hội Đảng IX, Ngân sách nhà nước
hơn lúc nào hết hiểu rõ trách nhiệm, vai trò của mình trong tình hình mới - là động
lực của sự phát triển.
Với chủ trương phát triển toàn diện của Đảng, cấp ngân sách Quận-Huyện
đang ngày càng thể hiện rõ chức năng, vai trò, nhiệm vụ của mình trên địa bàn
quận, huyện. Ngân sách Quận-Huyện là một cấp ngân sách trung gian, ở giữa
ngân sách cấp Tỉnh, Thành phố và ngân sách cấp Xã, Phường. Chính vì vậy mà
Ngân sách Quận - Huyện chưa thể hiện được vai trò của mình đối với kinh tế địa
phương.
Hiện nay, trên cả nước có 263 đơn vị cấp ngân sách Quận - Huyện. Vừa
qua đã có rất nhiều quan điểm, kiến nghị về việc tổ chức, đổi mới lại hệ thống
hành chính nhằm làm rõ chức năng, nhiệm vụ của mỗi cấp chính qủyền. Mỗi
phương án đều có những ưu điểm, hạn chế riêng. Tuy nhiên theo em, dù có thay
đổi theo phương án nào, Ngân sách nhà nước phải đảm bảo hai nguyên tắc: Tập
trung thống nhất và phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của mỗi cấp chính quyền.
Sau ba tháng thực tập tại Phòng Tài Chính-Vật Giá, Quận Hai Bà Trưng,
Thành phố Hà Nội, em đã tiếp thu được rất nhiều kiến thức thực tế để củng cố
thêm lý luận đã học của mình. Trước những đòi hỏi bức xúc về Ngân sách Quận-
Huyện như đã nêu, em đã mạnh dạn đi vào nghiên cứu đề tài: “Nâng cao hiệu
quả công tác quản lý Ngân sách Quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội”
Chương I: Một vài vấn đề lý thuyết về
Ngân sách Quận - Huyện
I/ Khái quát Ngân sách nhà nước(NSNN).
1. Khái niệm NSNN .
Quá trình chuyển đổi, xây dựng và phát triển thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta không những đòi hỏi sự chuyển đổi thể chế và cơ cấu
kinh tế nói chung mà còn đòi hỏi những chuyển đổi cần thiết về cả nhận thức và
thể chế tài chính, ngân sách. Việc nhận thức đúng đắn bản chất, chức năng NSNN,
sẽ cho phép xác định đúng vai trò, đặt đúng vị trí để sử dụng có hiệu quả công cụ
sắc bén NSNN trong điều hành kinh tế vĩ mô. Do vậy, việc nghiên cứu và khẳng
định bản chất, chức năng, vai trò của NSNN trong kinh tế thị trường là hoàn toàn
cần thiết. Tuy nhiên, trước hết cần phải thống nhất định nghĩa về NSNN để trên cơ
sở đó mới có thể nhìn nhận NSNN một cách đúng đắn hơn.
Pháp: “NSNN là văn kiện được Nghị viện hoặc Hội đồng thảo luận và phê
chuẩn mà trong đó, các ngiệp vụ tài chính (thu, chi ) của một tổ chức công (Nhà
nước, chính quyền địa phương, đơn vị công ) hoặc tư ( doanh nghiệp, hiệp hội)
được dự kiến và cho phép”.
Trung Quốc: “NSNN là kế hoạch thu - chi tài chính hàng năm của Nhà
nước được xét duyệt theo trình tự pháp định”.
ở Việt Nam, ít nhất cũng có hai định nghĩa khác nhau về NSNN :
Giáo trình lý thuyết tài chính ( 2000- ĐH TC-KT Hà Nội ): “NSNN là
phạm trù kinh tế và phạm trù lịch sử. NSNN được đặc trưng bằng sự vận động của
các nguồn tài chính gắn liền với quá trình tạo lập, sử dụng quỹ tiền tệ tập trung
của Nhà nước và các chủ thể trong xã hội, phát sinh khi Nhà nước tham gia phân
phối các nguồn tài chính quốc gia theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ
yếu”.
Luật NSNN: “NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước rong dự
toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện
trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”.
Hầu hết các khái niệm đều quan niệm ngân sách là kế hoạch thu, chi được
xác định trong một thời gian xác định, thường là một năm.
Pháp và Trung Quốc chú trọng đến khía cạnh pháp lý, chỉ rõ những yếu tố
căn bản, cụ thể để hiểu một cách thống nhất về NSNN, có lợi cho công tác điều
hành. Tuy nhiên, khái niệm có phạm vi hẹp, chỉ nhìn nhận ngân sách dưới góc độ
tài chính, kế toán, pháp lý, chưa chỉ ra được bản chất, chức năng, vai trò của ngân
sách. Đối với định nghĩa NSNN trong Giáo trình lý thuyết Tài chính mang tính
bác học, trừu tượng. Tuy nhiên cách diễn đạt dễ dẫn tới hiểu rằng mọi hoạt động
tài chính gắn liền với sự vận động của các quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước thì
đều thuộc NSNN. Thực tế, các Nhà nước thường định ra nhiều quỹ tiền tệ tuy vẫn
tập trung nhưng vẫn để ngoài ngân sách.
Trong khi đa số đều dừng ở khâu dự toán thì quan niệm của Luật NSNN đã
đề cập đến khâu lập và thực hiện dự toán ngân sách. Quan niệm của Luật ngân
sách là sâu sắc hơn cả, vừa phản ánh được nội dung cơ bản của ngân sách ( toàn
bộ các khoản thu, chi ) vừa thể hiện được tính chất “dự kiến” chưa xảy ra của
ngân sách (trong dự toán ) đồng thời cũng phản ánh quá trình chấp hành ngân sách
( được thực hiện ); vừa phản ánh tính niên độ của ngân sách ( trong một năm )
đồng thời thể hiện được tính pháp lý của ngân sách ( đã được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền quyết định ); vừa thể hiện quyền chủ sở hữu ngân sách (thu, chi nhà
nước ) đồng thời cũng thể hiện vị trí, vai trò, chức năng của NSNN (đảm bảo thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước ).
Như vậy định nghĩa về ngân sách như trong Luật NSNN sửa đổi năm 1998
là đúng đắn. Định nghĩa này đã nhìn nhận NSNN một cách toàn diện theo nhiều
góc độ khác nhau.
2. Bản chất NSNN.
Lịch sử hình và phát triển của các nước trên thế giới cho thấy NSNN ra đời,
phát triển cùng với kinh tế hàng hoá và Nhà nước. Kinh tế hàng hoá và Nhà nước
là hai điều kiện tiền đề để cho NSNN ra đời, phát triển. Cùng với sự phát triển của
kinh tế hàng hoá và mức độ hoàn thiện của Nhà nước phạm trù NSNN cũng phát
triển tương ứng.
Bản chất kinh tế của NSNN là quan hệ kinh tế - tài chính giữa một bên là
Nhà nước và bên kia là các tác nhân của của nền kinh tế hàng hoá trong quá trình
phân bổ, sử dụng các nguồn lực của nền kinh tế, phân phối và phân phối lại thu
nhập do các tác nhân kinh tế mới sáng tạo ra. Bản chất kinh tế không tách rời bản
chất chính trị của NSNN. Bản chất chính trị của NSNN gắn liền với bản chất của
giai cấp cầm quyền, NSNN là ngân sách của Nhà nước của giai cấp cầm quyền, do
Nhà nước đó mà sinh ra, vì Nhà nước đó mà tồn tại và phát triển. Bản chất chính
trị của NSNN giải thích lý do ra đời, điều kiện tồn tại, muc tiêu và sứ mạng mà
NSNN phụng sự là lợi ích của giai cấp cầm quyền.
3.Vai trò của NSNN .
Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của NSNN là đảm bảo nguồn tài
chính thực hiện chức năng Nhà nước công quyền, duy trì sự tồn tại của thể chế
chính trị, là công cụ thúc đẩy tăng trưởng, ổn định và điều chỉnh kinh tế vĩ mô của
Nhà nước, bù đắp những khiếm khuyết của thị trường, đảm bảo công bằng xã hội,
bảo vệ môi trường sinh thái.
3.1 Ngân sách tiêu dùng: Công cụ bảo đảm thực hiện chức năng Nhà nước
công quyền và bảo vệ tổ quốc .
Như đã trình bày ở trên, NSNN mang bản chất chính trị, có nghĩa là nó
thực hiện ý chí của giai cấp thống trị. Do vậy, NSNN phải đảm bảo hoạt động của
bộ máy hành chính, công bằng xã hội, duy trì, cải thiện cơ sở hạ tầng, giữ gìn an
ninh, quốc phòng, trật tự và an toàn xã hội. Chính điều đó đã tạo nên bộ phận ngân
sách thường xuyên ( bao gồm cả chi cho cơ sở hạ tầng) của mọi loại hình ngân
sách Nhà nước.
3.2 Ngân sách phát triển: Công cụ thúc đẩy tăng trưởng, ổn định và điều
khiển kinh tế vĩ mô của Nhà nước.
Ngoài ngân sách đảm bảo chi thường xuyên, quốc phòng, an ninh là ngân
sách can thiệp vào kinh tế. Nhà nước cần phải tác động vào quá trình phát triển
kinh tế dù đó là kinh tế kế hoạch tập trung hay kinh tế thị trường. Với ý nghĩa đó,
tiềm lực tài chính của Nhà nước phải đủ mạnh đảm bảo cho Nhà nước chủ động
thực hiện chính sách tài khoá nới lỏng hoặc thắt chặt, thực hiện kích cầu đầu tư,
tiêu dùng nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường hiện đại, không một Nhà nước nào
không sử dụng ngân sách để tác động vào nền kinh tế. Tuy nhiên trong thực tế, vai
trò công cụ thúc đẩy tăng trưởng, ổn định, điều tiết vĩ mô của một Ngân sách phát
triển đã được nhận thức vận dụng rất khác nhau tuỳ thuộc quan niệm của mỗi Nhà
nước, tuỳ theo bối cảnh kinh tế của mỗi thời kỳ.
Tất cả những điều đó thể hiện vị trí quan trọng của NSNN với tư cách là
một công cụ tài chính vĩ mô sắc bén, nhạy cảm, hiệu quả để Nhà nước can thiệp,
điều chỉnh nền kinh tế. Do đó, Nhà nước cần phải nắm chắc cơ chế tác động của
thu, chi ngân sách đối với kinh tế thông qua nhận thức đầy đủ và làm chủ cơ chế
tác động của hiệu ứng kích thích kinh tế của NSNN để phát huy vai trò thúc đẩy
tăng trưởng, ổn định và điều khiển kinh tế vĩ mô của NSNN.
3.3 NSNN: Công cụ bù đắp những khiếm khuyết của thị trường, đảm bảo
công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái.
Những khiếm khuyết của thị trường là không thể tránh khỏi, Nhà nước cần
can thiệp để đảm bảo công bằng xã hội. Tuy nhiên cần phải có sự thống nhất giữa
mong muốn can thiệp với cách thức hoạch định và thực hiên các biện pháp can
thiệp nhằm bảo vệ tầng lớp nghèo và công bằng. Việc sử dụng thiếu thận trọng các
công cụ tài chính đôi khi lại phủ nhận mục đích và bản chất tốt đẹp của người
quyết định.
Thị trường thường xuyên chạy theo mục đích kinh tế không chú ý đến lợi
ích cộng đồng, công bắng xã hội, môi trường sinh thái. Khiếm khuyết của thị
trường chỉ có thể bù đắp phần nào nhờ vào Nhà nước, nhờ vào hiệu quả sử dụng
quyền lực pháp lý, quyền lực kinh tế.
4. Chức năng của NSNN.
Nhận thức đúng đắn, đầy đủ các chức năng vốn có của NSNN là điều hết
sức quan trọng, bởi điều đó quyết định chất lượng, hiệu quả của các quyết định
xây dựng và sử dụng công cụ NSNN trong kinh tế thị trường, tránh được các
quyết định chủ quan, duy ý chí- cội nguồn của các sai lầm không đáng có.
4.1 Chức năng phân phối:
Đặc điểm cơ bản của phân phối NSNN:
Thứ nhất, phân phối dưới hình thức giá trị, chủ yếu sử dụng tiền tệ làm đơn
vị tính, phương tiện phân phối.
Thứ hai, tham gia không đầy đủ vào quá trình phân phối các yếu tố đầu
vào.
Thứ ba, thực hiên phân phối kết quả của quá trình sản xuất, cung ứng hàng
hoá, dịch vụ.
Thứ tư, phân phối NSNN tác động đến cả cung và cầu của nền kinh tế gắn
liền với sự hình thành và sử dụng quỹ NSNN.
Thứ năm, Nhà nước là chủ thể trong các quan hệ phân phối có liên quan
đến NSNN. Nhà nước sử dụng tối đa quyền lực chính trị, quyền chủ sở hữu trong
quá trình phân phối NSNN.
Thứ sáu, về cơ bản, quá trình phân phối lại NSNN mang tính không hoàn
trả trực tiếp, không phát sinh nghĩa vụ vay trả nợ.
Các đặc điểm trên cho thấy phân phối NSNN làm tăng luồng tiền đầu tư
cho sản xuất, tăng mức thu nhập của những người hưởng lương từ NSNN, tạo ra
lượng cầu mới cho nền kinh tế. Chính những đặc điểm này, phân biệt phân phối
NSNN với phân phối theo cơ chế cạnh tranh thị trường hoặc phân phối theo mệnh
lệnh của kế hoạch hoá.
4.2 Chức năng giám đốc.
Giám đốc ở đây được hiểu là giám sát, đôn đốc, kiểm tra bằng tiền, tiến
hành một cách thường xuyên, liên tục cùng với quá trình vận động của các đối
tượng phân phối NSNN. Giám đốc NSNN thông qua các nghiệp vụ thống kê, kế
toán, kiểm toán, thanh tra, kiểm tra tài chính, chế độ công khai tài chính ngân sách
và các phương tiện thông tin đại chúng. Giám đốc NSNN được thực hiện cả ở tầm
vĩ mô và vi mô, cả trực tiếp và gián tiếp. Thông qua giám đốc NSNN, Nhà nước
kiểm soát tình hình tài chính vĩ mô, Nhà nước xem xét kết quả mức độ thực hiện
chế độ, hạn mức tại các cơ sở, đơn vị.
Thực hiện tốt chức năng giám đốc, một mặt, Nhà nước được cung cấp
những hình ảnh đúng đắn, trung thực về thực trạng, quá trình diễn biến, xu hướng
vận động của NSNN. Mặt khác, trên cơ sở hiệu quả giám đốc, Nhà nước tiếp tục
vững bước hoặc có những điều chỉnh cần thiết trong điều hành NSNN, tiến tới các
mục tiêu chiến lược đã xác định có hiệu quả.
5. Tổ chức hệ thống ngân sách nhà nước.
Hệ thống NSNN là tổng thể các cấp Ngân sách có quan hệ hữu cơ với nhau
và được tổ chức theo nguyên tắc nhất định.
Theo như định nghĩa trên thì việc tổ chức hệ thống Ngân sách là việc giải
quyết các mối quan hệ hữu cơ giữa các cấp Ngân sách theo nguyên tắc. Tuỳ theo
đặc điểm mỗi quốc gia, tình hình kinh tế xã hội mà hệ thống NSNN được tổ chức
theo các cách thức, mô hình khác nhau. Dù hệ thống đó được tổ chức như thế nào
đi chăng nữa cũng phải xuất phát từ hai căn cứ:
Thứ nhất, hệ thống NSNN phải phù hợp với cơ cấu hệ thống quản lý. Có
nhiều mô hình quản lý khác nhau trên thế giới, mỗi mô hình đều tìm ra cho mình
một cách đi riêng sao cho hiệu quả, chính xác.
Thứ hai, Hệ thống NSNN phải phù hợp với trình độ phân cấp quản lý kinh
tế giữa các cấp chính quyền Nhà nước.
ở Việt Nam, hệ thống NSNN đựợc tổ chức một cách thống nhất phù hợp
với hệ thống quản lý Nhà nước nhằm đảm bảo hai nguyên tắc:
5.1 Nguyên tắc thống nhất .
Đó là sự thống nhất về hoạt động tài chính trong nền kinh tế Quốc dân và
tính thống nhất giữa nội dung hoạt động tài chính và các hoạt động kinh tế khác
trong nền kinh tế quốc dân. Toàn bộ các chế độ, chính sách, các nghiệp vụ đều
được hoạch định, thực hiên, chỉ đạo sát sao của Chính Phủ. Cơ quan cao nhất có
quyền phê duỵệt Ngân sách là Quốc hội.
5.2 Nguyên tắc tập trung dân chủ .
Việc xây dựng kế hoạch dự toán Ngân sách từ cơ sở huy động sự tham gia
đông đảo của các cá nhân. Đây là nguyên tắc thể hiện bản chất Nhà nước ta là: dân
chủ, của dân, do dân và vì dân.
6. Tổ chức hệ thống NSNN ở Việt Nam.
Việt Nam là một quôc gia thống nhất, hệ thống chính quyền được phân
thành bốn cấp. Do vậy, hệ thhống NSNN cũng được phân thành bốn cấp. Ngân
sách trung ương đống vai trò chủ đạo, ngân sách xã, phường đống vai trò hạt
nhân, Ngân sách tỉnh, huyện đóng vai trò trung gian.
7. Phân cấp quản lý NSNN
Phân cấp quản lý NSNN là việc giải quyết tất cả các mối quan hệ giữa các
cấp chính quyền liên quan đến quản lý và điều hành NSNN.
7.1 Nguyên tắc phân cấp quản lý NSNN
Thứ nhất, phân cấp quản lý NSNN phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế xã
hội của Nhà nước.
Thứ hai, phân cấp quản lý NSNN đảm bảo ngân sách TW giữ vai trò chủ
đạo và tính độc lập, tự chủ của các cấp Ngân sách địa phương.
Thứ ba, phân cấp quản lý NSNN phải phân định rõ nguồn thu, nhiệm vụ chi
giữa các cấp và ổn định phần trăm các khoản thu.
7.2 Nội dung phân cấp quản lý NSNN
Một là, phân cấp về các vấn đề liên quan đến chế độ của NSNN.
Hai là, phân cấp về các vấn đề liên quan đến nghiệp vụ quản lý và điều
hành NSNN, trách nhiệm của các cơ quan chức năng.
Ba là, phân cấp về nội dung thu, chi Ngân sách.
8. Năm ngân sách và chu trình ngân sách
8.1.Năm ngân sách
Năm ngân sách chỉ khoảng thời gian mà trong đó dự toán thu, chi ngân
sách đã được phê chuẩn có hiệu lực thực hiện.
Thông thường trên thế giới năm ngân sách có thời gian là 12 tháng nhưng
khác nhau về thời điểm bắt đầu và kết thúc.
ở Việt Nam, năm ngân sách gồm 12 tháng, bắt đầu từ 1/1 đến 31/12 ( tính
theo năm dương lịch ).
8.2 Chu trình ngân sách .
Chu trình ngân sách là quá trình tính từ khi bắt đầu hình thành nên dự toán
NSNN của một năm nào đó cho tới khi kết thúc.
Chu trình ngân sách gồm ba giai đoạn:
Giai đoạn 1: Hình thành kế hoạch NSNN ( thu, chi )
Giai đoạn hai: Chấp hành NSNN ( thực hiện kế hoạch thu, chi )
Giai đoan 3: Quyết toán NSNN
II.Cấp ngân sách Quận -Huyện
1. Khái niêm và lịch sử hình thành.
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp , NSNN ta tổ chức thành
hai cấp: Ngân sách TW và Ngân sách tỉnh, thành phố. Việc phân cấp như vậy là
phù hợp với nhiệm vụ của mỗi cấp chính quyền trong việc huy động tối đa nguồn
lực tài chính. ở thời kỳ này, Ngân sách Quận -Huyện đóng vai trò là một cấp dự
toán.
Ngày 15 /5 /1978, với chủ chương xây dựng Quận, Huyện thành một cấp
có cơ cấu kinh tế hoàn chỉnh, có tư cách là một đơn vị kinh tế công nông nghiệp
phát triển toàn diện, Hội Đồng Chính Phủ đã ra Nghị Quyết 108 /CP xác định
quyền hạn và trách nhiệm của chính quyền địa phương cấp Quận, Huyện về quản
lý tài chính, ngân sách. Nghị quyết có quy định các khoản thu, chi Ngân sách
Quận- Huyện. Ngày 19 /11 /1983, HĐBT ra Nghị quyết số 138 / HĐBT về cải tiến
phân cấp ngân sách địa phương, nói rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của Ngân
sách Quận -Huyện.
Sau Đại Hội Đảng lần thứ VI , nền kinh tế nước ta chuyển đổi sang nền
kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, định hướng XHCN. Cùng với đà
đổi mới của nền kinh tế đất nước, Ngân sách Quận -Huyện cũng được xác định lại
vai trò, nhiệm vụ của mìmh. Cụ thể, ngày 27 /11 /1989 HĐBT đã ra nghị quyết số
186 /HĐBT vè phân cấp quản lý ngân sách địa phương trong đó có Ngân sách
Quận - Huyện. Ngày 16 /2 /1992 HĐBT ban hành Nghị quyết số 186 / HĐBT sửa
đổi bổ sung nghị quyết186 / HĐBT ngày 27/11/1989.
Kỳ họp thứ 8 Quốc Hội khoá IX khẳng định: Quận, Huyện là một cấp
chính quyền có Ngân sách, Ngân sách Quận -Huyện là một bộ phận hợp thành
Ngân sách địa phương thuộc hệ thống NSNN.
Như vậy, Ngân sách Quận -Huyện là một cấp ngân sách thực hiện vai trò,
chức năng, nhiệm vụ của NSNN trên phạm vi địa bàn Quận, Huyện.
Khảo sát quá trình hình thành Ngân sách Quận -Huyện, ta có thể thấy Ngân
sách Quận -Huyện từ một cấp dự toán đã trở thành một cấp ngân sách có nguồn
thu và nhiệm vụ chi riêng. Đó là một lối đi đúng đắn trong quá trình phát triển nền
tài chính quốc gia. Trước tiên, nó giúp cho Ngân sách cấp Tỉnh, TW giảm được
khối lượng công việc. Tiếp theo, nó giúp cho các cấp chính quyền có thể nắm bắt
được tình hình kinh tế nói chung và tài chính nói riêng từ cơ sở.
Ngân sách Quận -Huyện mang bản chất của NSNN, đó là mối quan hệ giữa
Ngân sách Quận -Huyện với các tổ chức, cá nhân trên địa bàn quận trong quá trình
phân bổ, sử dụng các nguồn lực kinh tế của Quận. Mối quan hệ đó được điều
chỉnh, điều tiết sao cho phù hợp với bản chất Nhà nước XHCN. Đó là Nhà nước
của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Nhà nước
Việt Nam là Nhà nước của công nhân và nhân dân lao động, bộ phận người chiếm
tuyệt đại đa số trong xã hội. Do vậy, lợi ích của Nhà nước XHCN Việt Nam
không có gì hơn ngoài mong muốn được phục vụ tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Có thể nói, việc Ngân sách Quận -Huyện trở thành một cấp ngân sách đã
làm cho bộ mặt NSNN mang một diện mạo, sắc thái mới, nền tài chính quốc gia
trở nên lành mạnh và hiệu quả hơn. Thực tế đã chứng minh, trong những năm qua,
xét riêng ở cấp độ Quận,Huyện, tình hình kinh tế - tài chính có những bước tiến
đáng kể. Ngoài ra, Ngân sách Quận -Huyện còn thể hiện bản chất chính trị của
Nhà nước ta thông qua việc thực hiện đúng đắn, hiệu quả, có sáng tạo các chủ
chương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm
đã pháy huy được là một loạt những hạn chế cần khắc phục kịp thời, đòi hỏi sự
quan tâm, tâm huyết của các cá nhân, ban, ngành phối hợp cùng giải quyết.
2.Vai trò của Ngân sách Quận -Huyện
Như đã nêu trong định nghĩa Ngân sách Quận -Huyện có vai trò của NSNN
trên địa bàn Quận, Huyện. Đó là vai trò đảm bảo chức năng Nhà nước ; an ninh,
quốc phòng; thúc đẩy phát triển , ổn định kinh tế; bù đắp những khiếm khuyết thị
trường, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
2.1 Ngân sách Quận -Huyện - bảo đảm thực hiện chức năng Nhà nước,
bảo vệ an ninh trật tự cấp Quận Huyện.
Là một cấp chính quyền Quận, Huyện cũng tổ chức ra cho mình một hệ
thồng các cơ quan, đoàn thể hành chính nhằm thực hiện các chức năng của Nhà
nước. Điều đó cũng có nghĩa là để cho các cơ quan đoàn thể đó hoạt động được
cần phải có một quỹ tài chính tập trung cho nó- Đó chính là Ngân sách Quận -
Huyện. Mặc dù không lớn mạnh như ngân sách TW nhưng Ngân sách Quận -
Huyện cũng tạo cho mình một vị thế nhất định nhằm chủ động trong việc thực
hiện chức năng Nhà nước ở điạ phương. Tuỳ theo phạm vi địa lý, tình hình kinh tế
xã hội trên từng Quận, Huyện mà nhu cầu đảm bảo này là khác nhau.
Hiện nay, nước ta có trên 1.380.000 công chức ( số liệu năm 2000 ) đang
làm việc trong cả nước. Để duy trì hoạt động của bộ máy này phải tốn một khoản
Ngân sách khổng lồ. Nhưng trong khi Nhà nước đang chắt chiu từng đồng thì ở
một số đơn vị việc sử dụng Ngân sách vẫn lãng phí, sai phạm. Do vậy, đòi hỏi
Ngân sách Quận -Huyện, với tư cách là Ngân sách của các đơn vị cơ sở cần phải
quản lý chặt chẽ, cấp phát đúng chính sách, chế độ, hạn mức làm sao cho bộ máy
Nhà nước hoạt động tốt mà vẫn tiết kiệm, hiệu quả.
Trong các chức năng của Nhà nước, chức năng đảm bảo an ninh trật tự,
quốc phòng đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Đây là công cụ quyền lực của Nhà
nước, nhằm bảo vệ ý chí của Nhà nước, tạo điều kiện an toàn để Quận, Huyện
phát triển mọi mặt. Để đảm bảo cho chức năng đặc biệt này, Ngân sách Quận -
Huyện cần phải có kế hoạch cụ thể, chi tiết, có các khoản dự phòng hợp lý.
2.2 Ngân sách Quận -Huyện -Công cụ thúc đẩy, phát triển ổn định kinh tế
Để thực hiện tốt chiến lược kinh tế - tài chính của cấp tỉnh, cấp TW, cấp
Quận - Huyện cần phải sử dụng các công cụ sẵn có của mình để điều tiết , định
hướng. Một trong những công cụ đắc lực là Ngân sách. Sẽ không có một cơ câú
kinh tế ổn định, phát triển nếu bỏ qua công cụ này. Các Quân- Huyện phải căn cứ
vào thế mạnh của địa phương mình để định hướng, hình thành cơ cấu kinh tế, kích
thích phát triển. Đồng thời các Quận -Huyện phải cung cấp kinh phí, vốn đầu tư,
hỗ trợ về cơ sở hạ tầng, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động.
Thuế là một phương tiện đắc lực trong điều tiết vĩ mô kinh tế, Quận -
Huyện có thể sử dụng công cụ này để điều chỉnh cơ cấu kinh tế. Ngoài ra cấp
Quận -Huyện phải xây dựng cho mình một tiềm lực kinh tế riêng, đó là các doanh
nghiệp Nhà nước do cấp Quận quản lý. Loại hình doanh nghiệp này phải đóng vai
trò chủ đạo trong nền kinh tế Quận - Huyên.
2.3 Ngân sách Quận -Huyện - Phương tiện bù đắp khiếm khuyết thị
trường, đảm bảo công bằng xã hội, gìn giữ môi trường.
Đây là vai trò không thể thiếu đối với Ngân sách mỗi quốc gia. Nó có tác
dụng xoa dịu nền kinh tế thị trường. Như chúng ta đã biết, kinh tế thị trường là
chạy theo lợi nhuận bất chấp hậu quả. Do đó, một loạt các vấn đề xảy đến: Thất
nghiệp, hố ngăn cách giàu nghèo tăng, không quan tâm đến người già, trẻ em,
người tàn tật, lừa đảo, chiếm đoạt, môi trường ô nhiễm... Những điều đó tạo ra cho
nền kinh tế - xã hội một vực thẳm phía trước. Cấp Quận -huyện theo dõi các báo
cáo tổng hợp từ cấp xã, phường phải có biện pháp giải quyết.
Ngoài việc quan tâm đến đời sống vật chất của người lao động, Quận -
Huyện phải thường xuyên quan tâm đến đời sông văn hoá, tinh thần của quần
chúng, cải tạo các sân chơi, phương tiện giải trí lành mạnh, tiến bộ. Các dịch vụ
công cộng như giáo dục, y tế phải giảm được chi phí cho người dân, làm sao để ai
cũng được học hành, chăm sóc sức khoẻ đầy đủ.
3. Chức năng của Ngân sách Quận -Huyện
Ngân sách Quận -Huyện cũng có hai chức năng là phân phối và giám đốc.
3.1 Chức năng phân phối của Ngân sách Quận -Huyện
Thống nhất với chức năng phân phối tài chính nói chung, Ngân sách Quận -
Huyện được cụ thể hoá trong phạm vi phân phối Ngân sách của Quân, Huyện.
Phân phối Ngân sách Quận -Huyện không chỉ dừng lại ở khâu phân phối thu nhập
mà bao gồm cả phân phối các yếu tố đầu vào, cụ thể là phân bổ nguồn tài chính.
Nguồn tài chính phân phối là thu nhập mới sáng tạo ra, phần mà thuộc
Ngân sách Quận -Huyện gắn liền với khả năng thu, chi. Thông qua việc hạch toán
thu, chi mà Ngân sách Quận -Huyện thực hiện chức năng phân phối của mình với
các chủ thể khác của nền kinh tế. Tuy nhiên Ngân sách Quận -Huyện chỉ thực hiện
các chức năng phân phối của mình trong giới hạn ở các nghiệp vụ có liên quan
đến nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền Quận- Huyện.
Chức năng phân phối của Ngân sách Quận -Huyện thể hiện ở: Phân phối
lần đầu khi tham gia vào quá trình phân chia kết quả sản xuất, với tư cách là chủ
sở hữu; Phân phối lại thông qua thuế và chi tiêu.
3.2 Chức năng giám đốc của Ngân sách Quận -Huyện
Song song với chức năng phân phối, chúng ta phải giám đốc thường xuyên,
kiểm tra đôn đốc các đối tựong phân phối Ngân sách Quận -Huyện. Chức năng
giám đốc gắn liền với chức năng phân phối, thông qua phân phối mà giám sát,
kiểm tra; Nhờ có giám sát, kiểm tra mà phân phối có hiêụ quả, chính xác. Ngân
sách Quận -Huyện phải tiến hành lập các đoàn thanh kiểm tra, giám đốc từ quá
trình hình thành đến quá trình sử dụng, xem xét quá trình đó có tuân thủ đúng chế
độ, đúng dự toán được phê chuẩn, có nằm trong khuôn khổ luật pháp không. Đồng
thời, phải xem xét kỹ lưỡng tính hiệu quả của Ngân sách.
4. Nội dung Ngân sách Quận – Huyện
Nội dung của Ngân sách Quận -Huyện bao gồm hai vấn đề cơ bản: Thu
Ngân sách và chi Ngân sách
4.1 Nội dung thu Ngân sách Quận -Huyện
Đây là quá trình tạo lập, hình thành Ngân sách Quận - Huyện, đóng vai trò
quan trọng, quyết định đến khâu sau: Chi Ngân sách. Để đảm bảo nguồn thu cho
Ngân sách cần phải có chính sách thu hợp lý hiệu quả.
Chính sách thu Ngân sách là tập hợp các biện pháp, chủ trương nhằm huy
động nguồn thu vào cho NSNN
4.1.1 Vị trí của chính sách thu Ngân sách
Thứ nhất, chính sách thu Ngân sách là một bộ phận trong quản lý kinh tế
nói chung và quản lý tài chính nói riêng. Việc tăng hay giảm thu ở một lĩnh vực
nào đó được thực hiện theo chiến lược phát triển kinh tế, tài chính vĩ mô. Một khi
chính sách thu ngân sách thay đổi thì lập tức cơ cấu kinh tế, dù ít hay nhiều cũng
có sự chuyển dịch. Bởi vì, đối tượng thu của Ngân sách là rất đa dạng, rộng lớn,
phong phú, đặc biệt là nhạy cảm với các chính sách thu (thuế, phí, lệ phí...).
Thứ hai, các chính sách thu của Ngân sách có tác động đến các chính sách
quản lý kinh tế, tài chính khác. Dường như vị trí này trùng lắp vị trí trên, nhưng
không, nó hoàn toàn khác. Các chính sách kinh tế, tài chính khác ở đây là thuộc
các lĩnh vực ngoài Ngân sách (kinh tế, tài chính của các tổ chức, doanh nghiệp...).
Do việc có ảnh hưởng đến tình hình tài chính của doanh nghiệp nên NSNN có thể
can thiệp sâu vào doanh nghiệp.
4.1.2 Các quan điểm cần quán triệt khi xây dựng và thực hiện các chính
sách thu Ngân sách
Một là, các chính sách thu phải góp phần vào khuyến khích và phát triển
sản xuất kinh doanh, mở rộng lưu thông hàng hoá và thúc đẩy cạnh tranh lành
mạnh giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Như phần trên đã trình
bày, các đối tượng nộp thuế rất nhạy cảm với việc đánh thuế. Thế mà, việc thu
thuế là có giới hạn, cónghĩa là, thu bằng thuế chỉ đạt được kết quả tối đa tại một
điểm thuế suất nào đó.
Đây là hiện tượng “thuế giết thuế, có nghĩa là với chủ trương tăng thuế để
tăng thu Ngân sách, nhưng đến khi thực hiện lại có tác động ngược lại: Sản xuất
kinh doanh bị đình trệ, hiện tượng trốn thuế phát triển do tâm lý “lười lao động”.
Hai là, chính sách thu phải đảm bảo tâp trung quản lý hợp lý nguồn thu cho
Ngân sách, đồng thời bảo đảm mức sống hợp lý cho các đối tượng dân cư dọ tác
động của chính sách thu. Theo quy định của Nhà nước, tất cả các khoản đều được
tập trung vào Kho Bạc Nhà nước cùng với sự phối hợp của Ban Tài Chính, cơ
quan thuế, Hải quan.
Ba là, chính sách thu phải đảm bảo công bằng xã hội cho các tầng lớp dân
cư. ở đây bao gồm cả công bằng theo chiều dọc và công bằng theo chiều ngang.
Công bằng theo chiều dọc có nghĩa là đối tượng nào có khả năng nộp thuế nhiều
hơn phải nộp nhiều hơn. Công bằng theo chiều ngang có nghĩa là các đối tợng có
khả năng nộp thuế như nhau sẽ phải nộp thuế như nhau.
Bốn là, chính sách thu phải đảm bảo tính quần chúng. Do trình độ của các
đối tượng nộp thuế là khác nhau, thậm chí chênh lệch rất lớn, việc đưa ra một
chính sách thuế quá khó hiểu, phức tạp là một sai lầm. Bởi vì chi phí cho việc
tuyên truyền, giải thích chính sách thu đó sẽ rất lớn. Khi đó, chính sách thu có khi
lại phản tác dụng. Do đó, nội dung chính sách thu phải đơn giản, dễ hiểu, dễ thực
hiện, dễ dàng được chấp nhân.
4.1.3 Các khoản thu của Ngân sách Quận -Huyện
Theo quy định của pháp luật, Ngân sách Quận -Huyện có các nguồn thu
như sau:
*) Các khoản thu 100%
a) Thuế môn bài thu từ các doanh nghiệp, hợp tác xã và các hộ sản xuất
kinh doanh ngoài quốc doanh gồm:
-Từ bậc 1 đền bậc 3 thu trện địa bàn xã, thị trấn
-Từ bậc 1 đến bậc 6 thu trên địa bàn phường.
b) Thuế sát sinh thu từ các doanh nghiệp giết mổ gia súc trên địa bàn
phường.
c) Các khoản phí và lệ phí từ các hoạt động do các cơ quan thuộc cấp Quận
- Huyện quản lý.
d) Tiền thu từ hoạt động sự nghiệp của các đơn vị do cấp Quận - Huyện
quản lý.
đ) Viện trợ không hoàn lại của các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài cho cấp
Quận - Huyện theo quy định của pháp luật.
g) Đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài nước cho
Ngân sách Quận –Huyện.
h) Thu từ xử lý vi phạm hành chính trong các lĩnh vực thu từ các hoạt động
chống buôn lậu và kinh doanh trái phép luật theo phân cấp của tỉnh.
i) Thu kết dư ngân sách cấp huyện.
k) Bổ xung từ ngân sách cấp tỉnh.
l) Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
**) Các khoản thu được phân chia theo tỷ lệ phần trăm giữa ngân sách cấp
tỉnh và Ngân sách Quận - Huyện và Ngân sách xã, thị trấn, phường.
a) Thuế chuyển quyền sử dụng đất.
b) Thuế nhà đất.
c) Tiền sử dụng đất.
d) Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm giữa Ngân sách cấp tỉnh
và Ngân sách TW, do tỉnh quy định trong phạm vi tỉnh được phân cấp.
e) Các khoản thuế sử dụng đất nông nghiệp; thuế tài nguyên; lệ phí trước
bạ nhà đất; thuế tiêu thụ đặc biệt hàng sản xuất trong nước thu vào mặt hàng bài
lá; vàng mã; hàng mã và các dịch vụ kinh doanh vũ trường, mát-xa, karaokê, kinh
doanh gôn; bán thẻ hội viên, vé chơi gôn; kinh doanh ca-si-no; trò chơi bằng máy
giắc-pót; kinh doanh vé đặt cược, đua ngựa, đua xe (Ngân sách địa phương hưởng
100%). Việc phân cấp cho Ngân sách các cấp ( tỉnh, huyện, xã ) do cấp tỉnh quy
định. Riêng tỷ lệ phần trăm phân chia thuế sử dụng đất nông nghiệp cho xã, thị
trấn tối đa là 100%, tối thiểu là 20%.
***) Đối với thị xã, thành phố thuộc tỉnh: Được phân chia thêm một phần
theo tỷ lệ phần trăm đối với lệ phí trước bạ không kể lệ phí trước bạ nhà đất phát
sinh nộp trên địa bàn và được tiến hành lập quỹ đầu tư theo quy định của Chính
phủ.
4.2 Nội dung chi của Ngân sách Quận –Huyện
.
Nếu như quá trình thu là quá trình tạo lập, hình thành Ngân sách thì chi
Ngân sách là quá trình sử dụng Ngân sách. Nó ngược lại hoàn toàn với quá trình
thu nhưng lại chịu sự điều khiển của quá trình thu ( Không thể chi nhiều trong khi
thu ít và ngược lại ) đồng thời, lại tạo thêm nguồn thu ( Đầu tư Ngân sách nhàn
rỗi vào các cơ sở sản xuất, kinh doanh ).
Chi Ngân sách là quá trình sử dụng quỹ NSNN theo nguyên tắc không hoàn
trả trực tiếp nhằm thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội của Nhà nước.
4.2.1 Đặc điểm chi Ngân sách Quận -Huyện
Với tư cách là một quá trình sử dụng quỹ NSNN, chi Ngân sách có các đặc
điểm sau:
Một là, chi tiêu Ngân sách luôn gắn liền với các nhiệm vụ kinh tế, chính trị,
xã hội mà Nhà nước đảm nhiệm trong mỗi thời kỳ. Đặc điểm này có thể nhìn ra từ
vai trò của Ngân sách và bản chất Ngân sách Nhà nước. Ngân sách Nhà nước
mang bản chất chính trị, duy trì hoạt động của bộ máy Nhà nước, ổn định phát
triển kinh tế, đảm bảo xã hội ổn định, phát triển.
Hai là, tác dụng của các khoản chi Ngân sách bao giờ cũng được xem xét ở
tầm vĩ mô bởi vì thông thường, những khoản chi Ngân sách sẽ phát huy tác dụng
trong phạm vi nhất định. Việc chi tiêu Ngân sách Quận - Huyện phải phát huy
được tác dụng trong phạm vi Quận, Huyện.
Ba là, tính hiệu quả của các khoản chi được thể hiện toàn diện trên các mặt
kinh tế, chính trị, xã hội. Đặc điểm này là biểu hiện mối quan hệ giữa tài chính với
kinh tế, chính trị, xã hội.
4.2.2 Một số yêu cầu cần đạt được trong quá trình chi Ngân sách.
Thứ nhất, khi xem xét, đánh giá tính hiệu quả của chi Ngân sách, chúng ta
phải xây dựng một loạt các chỉ tiêu, chỉ số bao gồm cả định tính và định lượng.
Điều đó sẽ giúp cho các nhà phân tích đúng đắn hơn, đánh giá chính xác hơn tính
hiệu của của chi Ngân sách.
Thứ hai, thực hiện chi Ngân sách đúng dự toán, tiết kiệm, hiệu quả.
4.2.3 Nhiệm vụ chi của Ngân sách Quận -Huyện :
*) Chi thường xuyên về:
a) Các hoạt động sự nghiệp GD- ĐT, Ytế thực hiện theo phân cấp của tỉnh.
b) Các hoạt động sự nghiệp văn hoá, thông tin, thể dục thể thao, xã hội và
các sự nghiệp khác do cơ quan cấp huyện quản lý.
c) Các hoạt động sự nghiệp kinh tế do cơ quan cấp huyện quản lý:
- Nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ lợi.
- Giao thông.
- Sự nghiệp thị chính.
- Các sự nghiệp kinh tế khác.
- Quốc phòng, an ninh trật tự, an toàn xã hội.
+ Quốc phòng: Giáo dục quốc phòng; tuyển quân và đón tiếp quân nhân
hoàn thành nghĩa vụ; đăng ký quân nhân dự bị; huấn luyện dân quân tự vệ.
+ An ninh, trật tự và an toàn xã hội: Tuyên truyền giáo dục quần chúng bảo
vệ an ninh; hỗ trợ các chiến dịch giữ gìn an ninh; tổng kết phong trào bảo vệ an
ninh tổ quốc; hỗ trợ trật tự, an ninh cơ sở.
đ) Hoạt động của các cơ quan Nhà nước cấp huyện.
e ) Hoạt động của cơ quan cấp huyện của ĐCS Việt nam.
g ) Hoạt động của cơ quan cấp huyện, của MTTQ Việt nam, Đoàn TNCS
Hồ Chí Minh, Hội CCB VIệt nam, Hội LHPN VN, Hội Nông Dân Việt nam.
h ) Tài trợ cho các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp cấp Quận - Huyện
theo quy định của pháp luật.
i ) Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
**) Chi đầu tư phát triển:
- Chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội theo
phân cấp của tỉnh, thành phố.
- Chi đầu tư xây dựng các trường phổ thông quốc lập, các công trình phúc
lợi công cộng, điện chiếu sáng cấp thoát nước, giao thông nội thị, an toàn giao
thông vệ sinh đô thị.
- Chi bổ xung cho Ngân sách cấp dưới.
4.2.4 Cấp phát kinh phí, các khoản chi của Ngân sách Quận -Huyện
Căn cứ vào dự toán chi NSNN năm được giao và dự toán Ngân sách quý;
căn cứ vào yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chi, Phòng Tài chính- Vật giá tiến hành
cấp phát kinh phí theo nguyên tắc cấp trực tiếp đến các đơn vị sử dụng Ngân sách
và thanh toán trực tiếp từ Kho bạc Nhà nước cho người được hưởng
Các hình thức cấp phất kinh phí:
a) Cấp phát bằng hạn mức kinh phí
Đối tượng cấp phát theo hình thức hạn mức kinh phí là các khoản chi
thường xuyên của các đơn vị dự toán của NSNN , bao gồm :
- Các cơ quan hành chính Nhà nước
- Các đơn vị sự nghiệp hoạt động dưới hình thức thu đủ , chi đủ hoặc gán
thu - bù chi.
- Các tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức xã hội và tổ chức xã hội nghề
nghiệp thường xuyên được NSNN cấp kinh phí.
b) Cấp phát bằng hình thức lệnh chi tiền
Đối tượng cấp phát theo hình thức lệnh chi tiền là các doanh nghiệp, các tổ
chức kinh tế - xã hội không có quan hệ thường xuyên với Ngân sách , các khoản
giao dịch của Chính Phủ với các tổ chức và cá nhân nước ngoài; các khoản bổ
sung từ Ngân sách cấp trên cho Ngân sách cấp dưới và một số khoản chi đặc biệt
khác theo quyết định của thủ trưởng cơ quan tài chính .
c) Chi cho vay của Ngân sách Quận -Huyện
Đối với các khoản chi cho vay của Ngân sách Quận -Huyện cơ quan tài
chính chuyển nguồn cho cơ quan được giao nhiệm vụ cho vay hoặc chuyển tiền
theo hợp đồng cho tổ chức được vay trong trường hợp cho vay trực tiếp .
Cơ quan được giao nhiệm vụ cho vay hoặc cơ quan tài chính trong trường
hợp cho vay trực tiếp có trách nhiệm quản lý, cho vay, thu hồi nợ gốc, lãi nộp vào
NSNN và quyết toán theo chế độ quy định.
d) Chi trả nợ vay của Ngân sách Quận -Huyện
Đối với các khoản chi trả nợ, Chi cục Kho bạc Nhà nước thực hiện thanh
toán theo lệnh chi của Phòng Tài chính - Vật giá.
e) Đối với chi sự nghiệp kinh tế:
Cơ quan Tài chính, Kho bạc Nhà nước thực hiện cấp phát, thanh toán theo
quy trình cấp phát hạn mức kinh phí trừ một số khoản kinh phí sự nghiệp kinh tế
có tính chất đặc thù Bộ Tài chính có văn bản hướng dẫn riêng.
f) Đối với các khoản chi cho các chương trình mục tiêu quốc gia
Đối với các khoản chi đã giao cho các đơn vị trực tiếp thực hiện thì cấp
phát theo quy trình.
Đối với các khoản chi uỷ quyền thì cơ quan tài chính cấp trên chuyển kinh
phí uỷ quyền cho cơ quan tài chính cấp dưới để cấp phát .
g) Cấp phát và cho vay vốn đầu tư XDCB:
Thực thiện theo quy trình quy định của Chính Phủ, Bộ Tài chính sẽ hướng
dẫn thêm.
h) Chi bằng hiện vật và ngày công lao động
Đối với các khoản chi Ngân sách bằng hiện vật: Căn cứ vào biên bản bàn
giao hiện vật, giá hiện vật được duyệt, cơ quan tài chính quy đổi ra đồng Việt nam
để làm lệnh ghi thu, ghi chi Ngân sách gửi Kho bạc Nhà nước để hạch toán thu,
chi NSNN .
Đối với các khoản chi bằng ngày công lao động: Căn cứ giá ngày công lao
động được duyệt, cơ quan tài chính làm lệnh ghi thu, ghi chi gửi Kho bạc Nhà
nước để hạch toán thu, chi Ngân sách
i) Cấp phát kinh phí uỷ quyền:
Trường hợp cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên uỷ quyền cho cơ quan quản
lý Nhà nước cấp dưới thực hiện nhiệm vụ thuộc chức năng của mình thì phải
chuyển kinh phí từ Ngân sách từ cấp trên cho cấp dưới để thực hiện nhiệm vụ đó.
Hình thức chuyển kinh phí chủ yếu bằng hạn mức kinh phí. Đối với các khoản chi
nhỏ, nội dung chi đã xác định rõ thì có thể chuyển kinh phí bằng hình thức lệnh
chi tiền.
k) Cấp phát cho các tổ chức chính trị-xã hội và tổ chức xã hội-nghề nghiệp:
- Đối với các tổ chức chính trị -xã hội:
+ Các tổ chức chính trị -xã hội được Ngân sách bảo đảm cân đối kinh phí
hoạt động theo quy định.
+ Sau khi được giao nhiệm vụ chi Ngân sách, từng tổ chức chính trị -xã hội
thực hiện phân bổ dự toán Ngân sách (Phần được NSNN cấp ) chi tiết theo Mục
lục NSNN hiện hành.
+ Cơ quan tài chính thực hiện cấp phát kinh phí hàng quý cho các tổ chức
chính trị- xã hội theo quy trình cấp phát hạn mức kinh phí quy định, trừ các trường
hợp đặc biệt thủ trưởng cơ quan tài chính quyết định cấp phát bằng lệnh chi tiền.
- Đối với các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội-nghề nghiệp thuộc đối tượng
được Nhà nước tài trợ kinh phí theo quy định:
+ Cấp phát theo hình thức hạn mức kinh phí như các tổ chức chính trị -xã
hội nếu là tài trợ thường xuyên.
+ Cấp phát theo hình thức lệnh chi tiền nếu được tài trợ đột xuất theo mục
tiêu cụ thể.
4.3 Cân đối Ngân sách Quận -Huyện
Cân đối Ngân sách là phương hướng xuyên suốt trong toàn bộ quá trình tạo
lập và sử dụng Ngân sách. Căn cứ vào dự toán thu, cơ quan quản lý Ngân sách
mới có thể đưa ra được dự toán chi. Vậy chi bao nhiêu để phù hợp với thu: Chi
vừa hết, chi thừa, chi thiếu ? Sẽ không có một cách chi nào là phù hợp nếu không
quan tâm đến tính hiệu quả của công tác chi. Hiệu quả sễ quyết định !
Tuy nhiên, để an toàn, các nhà hoạch định thường đảm bảo tổng thu lớn
hơn tổng chi một lượng nhỏ nào đó để phòng khi có những khoản chi đột xuất xảy
đến. Điều 8 mục3 Luật NSNN quy định: “Ngân sách địa phương được cân đối
theo nguyên tắc tổng chi không được vượt quá tổng thu”. Quy định này nhằm đảm
bảo tính ổn định cho Ngân sách địa phương.
Với tư cách là một Ngân sách địa phương, Ngân sách Quận -Huyện cũng
phải tuân thủ nhũng quy định về cân đối Ngân sách. Hầu hết các Quận - Huyện
đều có xu hướng khai thác tối đa nguồn thu trên địa bàn nhằm tạo cho Ngân sách
Quận -Huyện đủ mạnh để đáp ứng nhu cầu phát triển địa phương. Chính vì vậy
mà một số Quận - Huyện đã khai thác một số nguồn thu sai quy tắc. Điều này là
hoàn toàn cấm kỵ, để có thể cân đối được Ngân sách chúng ta phải tìm các nguồn
thu do pháp luật quy định thậm chí có thể đi vay.
Kết dư NS Q_H=Tổng thu Ngân sách Q_H- Tổng chi Ngân sách Q_H
+ Ngân sách bội thu khi kết dư Ngân sách Q_H >0, tức là tổng thu
lơn tổng chi.
+ Ngân sách bội chi khi kết dư Ngân sách Q_H<0, tức là tổng thu
nhỏ hơn tổng chi
+ Ngân sách cân bằng khi tổng thu = tổng chi: Trường hợp này ít
xảy ra.
Trong trường hợp bội chi lớn sẽ có tác động xấu đến nền kinh tế và năm
Ngân sách tiếp theo. Thông thưòng thâm hụt Ngân sách xảy ra do các nguyên
nhân sau:
Một là, do Quận - Huyện thực hiện một số chủ trương, chính sách trong
việc quản lý kinh tế, quản lý tài chính. Mặc dù đã dự toán nhưng do Quận -
Huyện không khảo sát hết các khoản chi nên khi thực hiện chính sách xuất hiên
các khoản chi vượt dự toán. Nguyên nhân này xuất phát từ khâu lập dự toán.
Hai là, do sự yếu kém trong quản lý và điều hành Ngân sách. Nguyên nhân
này là một vấn đề bức xúc hiện nay - Cải cách hành chính. Bộ máy hành chính
cồng kềnh, công tác thu chi phải qua nhiều cửa, cán bộ quản lý yếu kém, biến
chất, cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu.
Ba là, do tác động của các yếu tố điều kiện tự nhiên. ở cấp Quận trực thuộc
thành phố Hà Nội nên các thiên tai ít xảy ra nhưng không phải là không có: bão,
lụt, cháy, nổ... Để khắc phục nguyên nhân này cần có các khoản dự phòng Ngân
sách cho các vấn đề thiên tai.
Bốn là, do diễn biến của chu kì kinh doanh. Thông thường chi Ngân sách
vận động ngược chiều với chu kì kinh doanh. Khi chu kì kinh doanh đang ở giai
đoạn tăng trưởng, phát triển thì chi Ngân sách lại ít, khi chu kì kinh doanh đang
suy thoái thì chi Ngân sách tăng vì phải bơm thêm vốn vào nền kinh tế.
Đối với hai nguyên nhân đầu mang tính chủ quan, xuất phát từ việc quản lý
Ngân sách. Do vậy, chúng ta phải lập dự toán thật chi tiết từ cơ sở, không ngừng
nâng cao trình độ, năng lực cán bộ quản lý, cải cách hành chính, cải tạo cơ sở hạ
tầng. Đối với nguyên nhân thứ ba và thứ tư, chúng ta phải luôn luôn theo dõi diễn
biến, phân tích để có thể đưa ra biện pháp phòng chống, khắc phục.
5.Nội dung quản lý Ngân sách Quận –Huyện
ở phần 4 mục II, chúng ta đã nghiên cứu nội dung Ngân sách Quận -Huyện
gồm: Thu, chi và cân đối Ngân sách. Tuy nhiên, dưới góc độ quản lý Ngân sách,
thì Ngân sách Quận -Huyện bao gồm các khâu sau:
1)_Lập dự toán Ngân sách Quận –Huyện.
2)_Chấp hành Ngân sách Quận –Huyện.
3)_Kế toán và quyết toán Ngân sách Quận –Huyện.
Quản lý Ngân sách Quận -Huyện là quá trình quản lý hệ thống các quan hệ
kinh tế phát sinh trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ của
chính quyền Nhà nước cấp Quận; quản lý các khoản thu, chi của Quận - Huyện đã
dự toán bởi UBND thành phố và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ của cấp trên giao và Quận đề ra.
5.1 Lập dự toán Ngân sách Quận -Huyện
5.1.1 Yêu cầu của việc lập dự toán
Thứ nhất, dự toán Ngân sách Quận -Huyện phải phản ánh đầy đủ các khoản
thu, chi theo đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức, kể cả các khoản thu, chi từ nguồn
viện trợ và các khoản vay.
Thứ hai, dự toán Ngân sách Quận -Huyện phải lập theo đúng biểu mẫu,
đúng thời gian quy định và phải lập chi tiết theo Mục lục NSNN.
Thứ ba, dự toán Ngân sách Quận -Huyện phải tổng hợp theo từng lĩnh vực
thu, chi, theo cơ cấu giữa chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển, chi trả nợ.
Thứ tư, bản báo cáo Ngân sách Quận -Huyện phải kèm theo bản thuyết
minh chi tiết các cơ sở, căn cứ tính toán.
Thứ năm, dự toán Ngân sách Quận -Huyện phải đảm bảo cân đối theo
nguyên tắc sau: Dự toán Ngân sách của các năm trong thời kì ổn định phải cân
bằng giữa thu, chi trên cơ sở số thu của Ngân sách.
5.1.2 Căn cứ lập dự toán Ngân sách Quận -Huyện
Một là, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo quốc phòng an ninh;
chỉ tiêu nhiệm vụ của năm kế hoạch và những chỉ tiêu phản ánh quy mô, nhiệm
vụ, đặc điểm hoạt động, điều kiện kinh tế -xã hội và tự nhiên.
Hai là, các luật, pháp lệnh thuế chế độ thu; chế độ, tiêu chuẩn định mức do
cấp có thẩm quyền quyết định; các chế độ chính sách hiện hành làm cơ sở lập dự
toán chi Ngân sách. Trường hợp cần sửa đổi, bổ xung phải được nghiên cứu và
ban hành trước thời điểm lập dự toán Ngân sách
Ba là, những quy định về phân cấp quản lý kinh tế- xã hội, phân cấp quản
lý Ngân sách.
Bốn là, tỷ lệ phần trăm phân chia các khoản thu và mức bổ xung từ Ngân
sách cấp trên.
Năm là, chỉ thị của Thủ tướng CP về kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội và
dự toán Ngân sách năm sau; Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính về lập dự toán
Ngân sách và văn bản hướng dẫn của các Bộ.
Sáu là, số kiểm tra về dự toán Ngân sách do cơ quan có thẩm quyền thông
báo.
Bảy là, tình hình thực hiện dự toán các năm trước.
5.1.3 Nhiệm vụ, quyền hạn của phòng Tài chính - Vật giá trong việc lập dự
toán Ngân sách Quận -Huyện.
Tổ chức làm việc với UBND cấp dưới, các cơ quan đơn vị cùng cấp về dự
toán Ngân sách; có quyền yêu cầu bố trí lại các khoản thu, chi trong dự toán chưa
đúng chế độ, tiêu chuẩn chưa hợp lý, chưa tiết kiệm, chưa phù hợp với khả năng
Ngân sách và định hướng phát triển kinh tế -xã hội.
Trong quá trình thảo luận để tổng hợp và lập dự toán Ngân sách, nếu còn
có ý kiến khác nhau, cơ quan tài chính ở cấp địa phương phải báo ngay UBND
cùng cấp quyết định .
Chủ trì phối hợp với cơ quan kế hoạch và đầu tư, các cơ quan, đơn vị khác
liên quan trong việc tổng hợp lập dự toán Ngân sách và phương án phân bổ dự
toán Ngân sách của cấp mình.
Phối hợp với cơ quan kế hoạch đầu tư cùng cấp trong việc lập và phân bổ
dự toán chi đầu tư xây dựng cơ bản tập trung cho từng đơn vị, từng dự án, công
trình.
Phối hợp với cơ quan quản lý chương trình quốc gia trong việc lập phương
án phân bổ dự toán chi chương trình quốc gia.
Đề xuất các phương án cân đối Ngân sách và các biện pháp nhằm thực hiện
chính sách tăng thu, tiết kiệm chi Ngân sách.
Phòng Tài chính xem xét dự toán Ngân sách của các đợn vị thuộc Quận -
Huyện , dự toán thu do cơ quan thuế lập; dự toán thu, chi Ngân sách của các xã,
phường; lập dự toán thu NSNN trên địa bàn, dự toán thu, chi Ngân sách Quận-
Huyện ( gồm dự toán Ngân sách cấp xã và dự toán Ngân sách Quận -Huyện), dự
toán các khoản kinh phí uỷ quyền trình UBND Quận - Huyện để báo cáo thường
trực HĐND xem xét báo cáo UBND tỉnh, đồng gửi Sở Tài chính-Vật giá, Sở Kế
hoạch-Đầu tư (phần dự toán Ngân sách theo lĩnh vực, dự toán chi đầu tư XDCB),
Sở quản lý ngành, lĩnh vực, cơ quan quản lý chương trình quốc gia của tỉnh (phần
dự toán chi chương trình quốc gia).
5.1.4 Phân bổ, giao Ngân sách Quận -Huyện
Sau khi Quận - Huyện nhận được quyết định giao nhiệm vụ thu, chi Ngân
sách của UBND Tỉnh, Thành Phố, Phòng tài chính có tránh nhiệm giúp UBND
Quận Huyện trình HĐND Quận Huyện quyết định dự toán thu, chi Ngân sách
Quận -Huyện , phương án phân bổ Ngân sách cấp Quận -Huyện; UBND Quận -
Huyện có tránh nhiệm báo cáo UBND tỉnh, Sở tài chính - vật giá dự toán ngân
sách Quận - Huyện và dự toán phân bổ Ngân sách Quận -Huyện đã được HĐND
Quận - Huyện quyết định.
Căn cứ vào Nghị quyết của HĐND Quận - Huyện, UBND Quận - Huyện
quyết định giao nhiệm vụ thu, chi Ngân sách cho từng cơ quan, đơn vị trực thuộc
Quận - Huyện; nhiệm vụ thu, chi và mức bổ sung Ngân sách cho từng xã, phường.
5.1.5 Điều chỉnh dự toán Ngân sách .
Khi có một số đơn vị dự toán phải điều chỉnh, các đơn vị này phải điều
chỉnh dự toán Ngân sách của mình (chủ động hoặc theo yêu cầu của cơ quan tài
chính cùng cấp hay cơ quan tài chính cấp trên ), lập dự toán Ngân sách điều chỉnh
gửi cơ quan tài chính cấp trên hoặc cùng cấp, cơ quan kế hoạch và đầu tư. Cơ
quan tài chính có trách nhiệm báo cáo UBND.
5.2 Chấp hành Ngân sách Quận Huyện.
5.2.1 Dự toán Ngân sách quý
Trên cơ sở nhiệm vụ thu cả năm được giao và nguồn thu dự kiến phát sinh
trong quý, cơ thu lập dự toán thu Ngân sách quý có chia ra khu vực kinh tế, địa
bàn và đối tượng thu chủ yếu và hình thức thu, gửi cơ quan tài chính cùng cấp.
Dự toán thu quý gửi trước ngày 10 của tháng cuối quý trước.
Trên cơ sở dự toán chi cả năm được duyệt và nhiệm vụ phải chi trong quý,
các đơn vị sử dụng Ngân sách lập dự toán chi quý (có chia tháng ), chi tiết theo
các mục trên của mục lục NSNN gửi cơ quan quản lý cấp trên. Cơ quan quản lý
cấp trên tổng hợp, lập dự toán chi Ngân sách quý (có chia ra tháng ), gửi cơ quan
tài chính đồng cấp trước 10 ngày của tháng cuối quý trước .
Cơ quan tài chính căn cứ vào nguồn thu và nhiệm vụ chi trong quý lập dự
toán điều hành Ngân sách quý báo cáo UBND. Trong báo cáo, cân đối Ngân sách
phải được lập một cách chắc chắn, đồng thời nêu rõ các biện pháp thực hiện và
các kiến nghị cần thiết đối với các cấp có thẩm quyền.
5.2.2 Tổ chức thu Ngân sách Quận -Huyện .
Căn cứ và tờ khai thuế và các khoản phải nộp NSNN của các tổ chức cá
nhân có nghĩa vụ phải nộp Ngân sách , cơ quan thu kiểm tra, xác định số thuế và
các khoản phải nộp Ngân sách và ra thông báo thu Ngân sách gửi đối tượng nộp.
Nếu hết thời hạn nộp tiền trong thông báo thu Ngân sách mà tổ chức, cá
nhân vẫn chưa thực hiện nghĩa vụ nộp thì cơ quan thu được quyền yêu cầu Ngân
Hàng hoặc Kho Bạc Nhà nước trích số tiền phải nộp từ tài khoản của tổ chức, cá
nhân đó để nộp Ngân sách hoặc áp dụng các biện pháp tài chính khác để thu Ngân
sách.
Phương thức thu NSNN: Toàn bộ các khoản thu của NSNN phải nộp trực
tiếp vào Kho bạc Nhà nước trừ các khoản dưới đây do cơ quan thu có thể thu trực
tiếp song phải định kỳ nộp vào Kho bạc Nhà nước trong thời hạn quy định:
-Thu phí, lệ phí
-Thu thuế Hộ kinh doanh không cố định
-Các khoản thu ở địa bàn xã, nơi không có điểm thu của Kho bạc Nhà nước
.
5.2.3 Hoàn trả các khoản thu Ngân sách Quận -Huyện .
Các trường hợp được trả thu Ngân sách là:
+Thu không đúng chính sách, chế độ.
+Trả lại đối tượng nộp theo chính sách của Nhà nước .
Việc hoàn trả các khoản thu Ngân sách được thực hiện theo các nguyên tắc
sau:
Một là, Ngân sách Quận -Huyện được hưởng khoản thu này từ cơ quan tài
chính cấp Quận - Huyện ra quyết định hoàn trả. Nếu khoản thu đã phân chia giữa
Ngân sách các cấp thì cơ quan tài chính ở cấp cao nhất ra quyết định hoàn trả.
Hai là, khoản thu đã hạch toán vào chương, loại, khoản, mục, tiểu mục nào
thì hoàn trả từ chương, loại, mục, tiểu mục đó. Trường hợp hoàn trả cho khoản thu
đã quyết toán vào niên độ Ngân sách các năm trước cơ quan tài chính ra lệnh cấp
hoàn trả vào chương “ Các quan hệ khác của Ngân sách".
Ba là, khoản thu đã hạch toán và quỹ Ngân sách Quận -Huyện thì được
hoàn trả từ quỹ Ngân sách Quận -Huyện .
Bốn là, căn cứ vào chứng từ hoàn trả của cơ quan tài chính, Kho Bạc Nhà
nước hạch toán giảm thu hoặc hạch toán chi NSNN và thanh toán trực tiếp cho đối
tượng được hưởng .
5.2.4 Tăng giảm thu, chi Ngân sách
Số tăng thu hoặc tiết kiệm chi số dự toán được đuyệt được sử dụng để giảm
bội chi, tăng trả nợ hoặc bổ sung quỹ dự chữ tài chính, hoặc tăng chi một số khoản
cần thiết khác, kể cả tăng chi cho Ngân sách cấp dưới nhưng không được tăng chi
về quỹ tiền lương, trừ trường hợp Nhà nước thay đổi chính sách về tiền lương
hoặc các khoản trợ cấp, thưởng có tính chất tiền lương.
Nếu giảm thu so với dự toán được duyệt thì phải xắp xếp lại để giảm một
số khoản chi tương ứng.
Khi phát sinh các công việc đột xuất như khắc phục hậu quả thiên tai, địch
hoạ và các nhu cầu chi cấp thiết chưa được bố trí hoặc bố trí chưa đủ trong dự
toán được giao mà sau khi xắp xếp lại các khoản chi, cơ quan chủ quản đơn vị sử
dụng Ngân sách không xử lý được thì từng cấp phải chủ động sử dụng dự phòng
cấp mình để xử lý. Nếu không còn dự phòng Ngân sách thì sắp xếp lại chi để đáp
ứmg nhu cầu chi đột xuất.
5.2.5 Xử lý thiếu hụt tạm thời
Khi xảy ra thiếu hụt Ngân sách tạm thời do nguồn thu và các khoản vay
trong kế hoạch tập trung chậm hoặc có nhiều nhu cầu phải chi trong cùng thời
điểm dẫn đến mất cân đối tạm thời về quỹ Ngân sách .
Ngân sách Quận -Huyện được vay quỹ dự trữ tài chính của tỉnh theo quyết
định của Chủ tịch UBND Tỉnh. Các khoản vay quỹ dự trữ tài chính phải được
hoàn trả trong năm Ngân sách. Nếu đến thời hạn mà không trả thì bên cho vay có
quyền yêu cầu Kho bạc Nhà nước trích tài khoản của bên vay để trả nợ.
5.2.6 Sử dụng quỹ dự phòng, quỹ dự trữ tài chính.
Dự phòng Ngân sách được sử dụng để khắc phục hậu quả thiên tai, địch
hoạ và trong trừơng hợp phát sinh nhu cầu chi cấp thiết chưa được bố trí.
Quỹ dự trữ tài chính được sử dụng để cho vay hoặc đầu tư .
5.3 Kế toán và quyết toán Ngân sách Quận -Huyện .
Các cơ quan quản lý Ngân sách Quận -Huyện, các đơn vị dự toán có trách
nhiệm tổ chức thực hiện công tác kế toán Ngân sách thuộc phạm vi quản lý, lập
quyết toán thu chi Ngân sách, tổng hợp báo cáo quyết toán Ngân sách.
5.3.1 Tổ chức bộ máy kế toán Ngân sách
Đơn vị dự toán và cấp chính quyền, phải tổ chức bộ máy kế toán Ngân
sách. Những cán bộ làm công tác kế toán phải được bố trí theo đúng chức danh
tiêu chuẩn quy định của Nhà nước và được bảo đảm quyền độc lập về chuyên môn
nghiệp vụ.
Khi thay đổi cán bộ kế toán phải thực hiện bàn giao giữa cán bộ kế toán cũ
với cán bộ kế toán mới, cán bộ kế toán cũ vẫn phải chịu trách nhiệm về công việc
của mình đã làm kể từ ngày bàn giao về trước, cán bộ kế toán mới phải chịu trách
nhiệm về công việc của mình kể từ ngày nhận bàn giao.
Khi giải thể, sát nhập hoặc chia tách đơn vị kế toán, thủ trưởng và kế toán
trưởng hoặc người phụ trách công tác kế toán phải hoàn thành việc quyết toán của
đơn vị cũ đến thời điểm đó.
5.3.2 Khoá sổ kế toán Ngân sách
Hết kỳ kế toán ( tháng, quý, năm ) các đơn vị dự toán và Ngân sách các cấp
chính quyền phải thực hiện công tác khoá sổ kế toán.
5.3.3 Báo cáo kế toán thu, chi Ngân sách
Các đơn vị dự toán các cấp phải báo cáo kế toán theo chế độ kế toán hành
chính sự nghiệp và các Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính.
Cơ quan kho bạc Nhà nước tổ chức hạch toán và kế toán xuất, nhập quỹ
NSNN theo chế độ kế toán Kho bạc Nhà nước.
Cơ quan tài chính phải tổ chức hạch toán kế toán và báo cáo kế toán thu,
chi NSNN theo chế độ kế toán NSNN hiện hành. Hàng tháng, lập báo cáo thu
NSNN, chi Ngân sách địa phương gửi UBND và cơ quan tài chính cấp trên.
5.3.4 Quyết toán Ngân sách
Nguyên tắc lập báo cáo quyết toán Ngân sách:
- Số liệu trong báo cáo quyết toán phải chính xác trung thực. Nội dung báo
cáo quyết toán Ngân sách phải theo đúng các nội dung ghi trong dự toán được
duyệt và phải báo cáo quyết toán chi tiết theo Mục lục NSNN.
- Báo cáo quyết toán năm của đơn vị dự toán gửi cơ quan tài chính phải gửi
kèm các báo cáo sau đây:
+ Bảng cân đối tài khoản cuối ngày 31/12.
+ Báo cáo thuyết minh quyết toán năm.
( Báo cáo quyết toán năm phải có xác nhận của Kho bạc Nhà nước)
- Báo cáo quyết toán Ngân sách của các đơn vị dự toán và của các cấp
chính quyền không được quyết toán chi lớn hơn thu.
- Cấp dưới không được quyết toán các khoản kinh phí uỷ quyền của Ngân
sách cấp trên vào báo cáo quyết toán Ngân sách cấp mình.
Phòng Tài chính có trách nhiệm thẩm tra báo cáo quyết toán thu, chi Ngân
sách cấp Quận - Huyện; tổng hợp báo cáo thu NSNN trên địa bàn; quyết toán thu,
chi Ngân sách Quận -Huyện trình UBND Quận - Huyện để gửi Sở tài chính - Vật
giá và HĐND Quận - Huyện phê chuẩn. Trường hợp báo cáo quyết toán năm do
HĐND Quận - Huyện phê chuẩn có thay đổi so với quuết toán năm do UBND
Quận - Huyện đã gửi Sở tài chính - Vật giá thì UBND Quận - Huyện phải báo cáo
bổ sung, điều chỉnh gửi Sở tài chính - Vật giá.
6. Tính tất yếu của công tác quản lý Ngân sách Quận - Huyện
Trong các phần đã nghiên cứu về Ngân sách Quận - Huyện, về vai trò,
chức năng, nội dung của Ngân sách Quận -Huyện. Qua đó, ta có thể hiểu rõ được
tầm quan trọng, tính phức tạp của Ngân sách Quận -Huyện.
Ngân sách Quận - Huyện là thuộc về chính quyền Quận - Huyện, nó thể
hiện tiềm lực tài chính của chính quyền Quận - Huyện. Thế nhưng tiềm lực đó
phải tương xứng với nền kinh tế của Quận - Huyện, có nghĩa là phải đủ mạnh, đủ
lớn để có thể đáp ứng được các yêu cầu kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của
Quận - Huyện. Vậy làm cách nào có thể tạo dựng được một Ngân sách Quận -
Huyện đủ lớn mạnh để đáp ứng những yêu cầu trên ? Không còn cách nào khác là
phải quản lý Ngân sách Quận -Huyện và không ngừng nâng cao hiệu quả quản lý
Ngân sách Quận -Huyện.
Cho nên quản lý Ngân sách Quận -Huyện là tất yếu bởi:
Thứ nhất, không có một doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân nào tự nguyện nộp
thuế cho Nhà nước. Các đối tượng nộp thuế, phí luôn luôn tìm cách trốn thuế,
tránh thuế, lách thuế, thậm chí còn “rút ruột thuế”. Như chúng ta dã biết, trong
những năm qua, việc áp dụng thuế giá trị gia tăng khuyến khích xuất khẩu đã tạo
ra những “lỗ hổng”, tạo điều kiện cho kẻ xấu lợi dụng chính sách hoàn thuế đã
“rút” ngân sách đền hàng trăm tỷ đồng. Thế mà, thuế lại là nguồn thu chủ yếu của
Ngân sách. Nếu như chúng ta để cho các đôi tượng nộp tự nguyện nộp thuế thì
Ngân sách sẽ rỗng không. Lý do này xuất phát từ đặc điểm “không hoàn trả trực
tiếp” của thuế. Khác với phí và lệ phi, thuế không mang tính hoàn trả trực tiếp:
Nếu như các đối tượng nộp phí, lệ phí thì họ sẽ được hưởng trực tiếp các hàng
hoá, dịch vụ mà nhà nước cung cấp còn thuế thì không, các đối tượng phải nộp
thuế mà không thu được bất cứ hàng hoá dịch vụ nào.
Thứ hai, các đối tượng được Ngân sách cấp phát chi sẽ ra sức “rút ruột”
Ngân sách để phục vụ cho tổ chức, cá nhân mình mà không nghĩ đến tổ chức cá
nhân khác. Đây là hiện tượng làm lãng phí, thất thoát Ngân sách.
Chính vì vậy, chúng ta phải quản lý Ngân sách: quản lý từ các nguồn thu
đến các khoản chi.
7. Các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến quản lý Ngân sách Quận -
Huyện
Ngân sách Quận -Huyện là một trong các nguồn tài chính trong nền kinh tế
thị trường. Do vậy, nó chịu ảnh hưởng của các quy luật kinh tế khách quan.
7.1 Yếu tố giá cả
Giá cả là một chỉ tiêu quan trọng ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế, do
vậy nó có tác động mạnh đến Ngân sách. Người ta thường phân tích giá cả thông
qua các chỉ số: Lạm phát; chỉ số giá tiêu dùng...
Thông thường, khi lập dự toán, các cấp Ngân sách đều phải quan tâm đến
yếu tố giá cả được biểu hiện qua chỉ số lạm phát, nếu không chấp hành dự toán sẽ
vấp phải những cản trở khó khăn đó là “vỡ kế hoạch”. Khi lạm phát tăng nhanh,
giá cả trượt dài, các khoản thu, chi theo kế hoạch sẽ không thể đảm bảo tính hiệu
quả được.
Tuy nhiên, Ngân sách lại có thể điều chỉnh được giá cả thông qua chính
sách tiền tệ, chính sách tài khoá và một loạt các công cụ kinh tế vĩ mô khác tác
động vào các quy luật kinh tế trên thị trường.
7.2 Các nhân tố tác động đến sự tăng, giảm của tổng sản phẩm quốc dân
(GNP)
Ngân sách có nguồn gốc từ tổng sản phẩm quốc dân do các tổ chức, cá
nhân đóng góp mà thành. Do vậy, biến động của tổng sản phẩm quốc dân hay đến
nền kinh tế cũng là biến động của Ngân sách.
7.3 Các yếu tố về văn hoá, chính trị, xã hội
Ngày nay, khi thế giới đang chuyển biến manh mẽ theo xu hướng toàn cầu
hoá, khu vực hoá, các sự kiện chính trị diễn ra liên tiếp. Các cuộc chiến tranh đều
mang màu sắc văn hoá. Các dân tộc quốc gia đang tìm cho mình những nét riêng,
độc đáo khi phát triển và hội nhập. Tất cả các sự kiện đều ảnh hưởng đến nền kinh
tế, do đó mà ảnh hưởng đến Ngân sách .
Trong phạm vi Quận - Huyện, Ngân sách Quận -Huyện chịu ảnh hưởng của
các chính sách, chủ trương của Đảng là chính. Các yếu tố về văn hoá xã hội cũng
đóng một vai trò quan trọng trong quản lý Ngân sách .
Chương II . Thực trạng công tác quản lý Ngân sách Quận Hai Bà
Trưng, Thành phố Hà Nội trong những năm qua (1999-2001 )
I. Một số đặc trưng về kinh tế, văn hoá, xã hội của Quận Hai Bà
Trưng
1.Về địa lý hành chính
Quận Hai Bà Trưng nằm ỏ phía Đông Nam thành phố Hà nội, phía Bắc
giáp Quận Hoàn Kiếm, phía Đông giáp sông Hồng, phía Nam giáp Huyện Thanh
Trì, phía Tây giáp Quận Đống Đa.
Quận Hai Bà Trưng có diện tích tự nhiên là 1.465,36 ( ha ), trong đó:
-Diện tích đất nông nghiệp: 107,5 ( ha ), chiếm khoảng 7,3% tổng diện tích.
-Diện tích đất đô th: 565 (ha ), chiếm khoảng 38,6% tổng diện tích.
-Diện tích đất lâm nghiệp : 792,86 (ha), chiếm khoảng 54,1% tổng diện
tích, trong đó:
+Đất chuyên dùng:683 (ha)
+Đất chưa sử dụng: 109,86 (ha )
2. Về kinh tế
Cơ cấu kinh tế của Quận chủ yếu là tiểu thủ công nghiệp, thương mại và
dịch vụ được bố trí tương đối đồng đều giữa các khu vực, trong đó:
- Tiểu thủ công nghiệp : 47,9%
- Thương mại dịch vụ: 45,41%
- Nông nghiệp: 6,69%
Quận Hai Bà Trưng có bốn đơn vị kinh tế Nhà nước thuộc Quận quản lý và
có một số cụm công nghiệp tập trung là: Minh Khai- Vĩnh Tuy; Thượng Đình-
Đuôi Cá; Văn Điển- Pháp Vân. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp của Quận như
Công ty Ăn uống Du lịch và Dịch vụ, Công ty kinh doanh thương nghiệp đang
từng bước thực hiện cổ phần hoá.
3. Về văn hoá -xã hội
Tính đến thời điểm 31 /12 /2000, tổng số dân số của Quận là 365 nghìn
người và được chia làm 25 Phường. Cùng với đà tăng trưởng kinh tế, đời sống vật
chất, văn hoá, tinh thần của người dân được nâng cao nhưng bên cạch đó còn
không ít “mảng tối”, đó là các tệ nạn xã hội, tham ô , tham nhũng ...
Về y tế, Quận có 30 cơ sở y tế, trong đó:
+ Cấp phường có 25 cơ sở y tế.
+ Cấp Quận có bốn phòng khám và một nhà hộ sinh.
Về giáo dục, tổng số cơ sở giáo dục là 83, trong đó:
+Mầm non: 38 trường- 919 cán bộ nhân viên, giáo viên- 9000 học sinh .
+ Tiểu học: 25 trường- 930 cán bộ nhân viên, giáo viên- 21000 học sinh.
+ THCS: 19 trường - 1125 cán bộ nhân viên, giáo viên - 14000 học sinh.
+ GDTX: 1 trung tâm - 16 cán bộ nhân viên, giáo viên -500
học sinh.
Ngoài ra, Quận còn có một số Trường Đại học, Cao Đẳng, Trung học chuyên
nghiệp đóng trên địa bàn làm cho bộ mặt giáo dục của Quận ngày càng sáng sủa.
II. Thực trạng công tác quản lý Ngân sách Quận Hai Bà Trưng,
Thành phố Hà Nội ( 1999-2001 )
Dựa trên điều kiện kinh tế xã hội kết hợp với Nghị quyết của Quận Uỷ và
Hội Đồng Nhân dân Quận về công tác quản lý Ngân sách, UBND Quận Hai Bà
Trưng đã tập trung chỉ đạo, điều hành mọi mặt trong công tác quản lý Ngân sách
Quận đảm bảo đúng chính sách, chế độ và luật NSNN.
1. Công tác thu Ngân sách
Trong những năm qua các nguồn thu Ngân sách trên địa bàn không ngừng
được tăng nên, cụ thể:
Từ năm 1999, tổng thu Ngân sách trên địa bàn là 136,996 ( triệu đồng )
trong đó, Ngân sách Quận là: 52153,4 ( triệu đồng ). Năm 2000 tổng thu Ngân
sách là 126.718,3 (triệu đồng), trong đó Ngân sách Quận là 66.198,7 (triệu đồng),
Năm 2001 tổng thu Ngân sách là 138.599.5 (triệu đồng ), Ngân sách quận là
84.713,37 (triệu đồng).
Tốc độ tăng thu trung bình khoảng: 16%, như thế là tương đối cao.
Cụ thể được trình bày trong biểu 1 và 2
2. Công tác chi Ngân sách Quận
Cùng với việc nguồn thu tăng, trong những năm qua, tổng chi của
Ngân sách Quận cũng tăng, cả về chi trong cân đối và chi mục tiêu thành phố.
Năm 1999, tổng chi là 83.339,5 (triệu đồng), trong đó chi trong cân
đối là 46.388,5 (triệu đồng ). Năm 2000, tổng chi là 98.375,9 ( triệu đồng), trong
đó chi trong cân đối là 60385,4 ( triệu đồng ). Năm 2001, tổng chi là 121.984,9 (
triệu đồng ), trong đó chi trong cân đối là 58.717,7 ( triệu đồng ).Như vậy, năm
2001, chi cân đối giảm do Ngân sách quận phải thực hiện chi mục tiêu cho Ngân
sách cấp trên lớn.
Tốc độ tăng chi là khoảng 20% lớn hơn thu. Sở dĩ tăng, không phải
do chi vượt thu mà do Quận thực hiện chi mục tiêu của Ngân sách thành phố.
3. Tình hình cân đối Ngân sách
Nguyên tắc chống thâm hụt được Quận chấp hành, một cách nghiêm túc.
Thật vậy, trong những năm qua, kết dư Ngân sách Quận luôn luôn dược giữ ở
mức hợp lý, cụ thể:
Năm 1999 : 1.463,5 ( triệu đồng )
Năm 2000: 1.211 ( triệu đồng )
Năm 2001: 4.105,89 ( triệu đồng ) .
4. Công tác khai thác nguồn thu Ngân sách trên địa bàn.
Trong những năm qua, Quận đã chỉ đạo các nghành liên quan tổ chức khai
thác các nguồn thu còn bỏ sót. Thực tế đã chứng minh, Ngân sách Quận liên tục
tăng với tốc độ khá cao.
III.Một vài đánh giá về công tác quản lý Ngân sách Quận Hai Bà
Trưng
Được sự chỉ đạo của cấp trên, cùng với sự nỗ lực của các ban, nghành, Ngân
sách Quận Hai Bà Trưng ngày càng thể hiện được vai trò của mình trong nền kinh
tế. Các khoản thu được khai thác, huy động, tập trung ngày một lớn. Các khoản
chi được tiết kiệm, hiệu quả. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đã đạt được
vẫn tồn tại một số hạn chế đòi hỏi phải giải quyết kịp thời
1. Những thành tựu:
Quận đã có nhiều cố gắng trong việc chỉ đạo các cơ quan chức năng thực
hiện Luật Ngân sách Nhà nước và các chế độ quản lý kinh tế Tài chính, từng bước
đưa công tác quản lý Tài chính vào hoạt động có nề nếp từ việc lập, chấp hành đến
quyết toán Ngân sách, phát huy hiệu quả sử dụng kinh phí Ngân sách Nhà nước,
phục vụ tốt nhiệm vụ kinh tế - xã hội của Quận có cơ cấu kinh tế chủ yếu sản xuất
tiểu thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ, chưa có nghành kinh tế mũi nhọn
nhưng Quận đã từng bước đưa công tác thu vào hoạt động có hiệu quả, có nề nếp.
Chi cục Thuế, Chi cục Kho bạc Nhà nước và Phòng Tài chính (Đây là ba
đơn vị đóng vai trò chủ đạo trong việc quản lý và điều hành Ngân sách Quận ) đã
làm khá tốt nhiệm vụ tham mưu cho UBND và HĐND Quận về công tác lập kế
hoạch theo kế hoạch Luật NSNN.
Công tác chấp hành Pháp lệnh Kế toán thống kê tương đối tốt, thường xuyên
có sự hướng dẫn và kiểm tra của Phòng Tài chính - Vật giá.
Quận đã xây dựng được đội ngũ, tổ chức cán bộ ngày càng kiện toàn. Các
nhân viên không ngừng rèn luyện, học tập, tìm tòi để nâng cao chất lượng công
tác. Quận đã tổ chức được các đợt sinh hoạt chính trị, đã tạo môi trường thuận lợi
để cán bộ không ngừng lớn mạnh về đạo đức, tác phong, củng cố quan điểm, lập
trường kiên định. Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, coi trọng công tác thi
đua khen thưởng là một nội dung, một biện pháp hữu hiệu để tổ chức phong trào
quần chúng trong toàn nghành phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ.
Trong những năm qua, UBND Quận đã tập trung chỉ đạo các phòng, ban,
nghành thực hiện dự toán Ngân sách bám sát mục tiêu và Nghị quyết của Quận
uỷ, HĐND Quận cũng như chỉ đạo của UBND thành phố Hà Nội về công tác quản
lý thu, chi Ngân sách. Kết quả thu NSNN trên địa bàn đạt khá và toàn diện trên
các lĩnh vực. Đặc biệt là thu thuế ngoài quốc doanh, thuế nhà đất và tiền thuê đất
để đạt kết quả cao, UBND Quận đã chỉ đạo các phòng, ban phối hợp với Chi cục
Thuế chủ động thực hiện các biện pháp tăng cường thu, chống thất thu, dư đọng.
+ Thu ngoài quốc doanh chiếm trung bình khoảng 50%tổng thu NSNN
+ Thu thuế nhà đất chiếm khoảng 10% tổng thu NSNN
+Thu tiền thuê đất chiếm khoảng20% tổng thu NSNN
Công tác quản lý nguồn vốn có tính chất đầu tư XDCB được quan tâm,
thực hiện, tạo điều kiện thúc đẩy việc dải ngân đôí với công trình. Nhiều công
trình được bàn giao và đưa vào sử dụng như: Trường học, Trung tâm thể dục thể
thao, Nhà văn hoá, Trụ sở và UB các phường, đường ngõ xóm phục vụ đời sống
nhân dân.
Về chi Ngân sách, các khoản chi Ngân sách hầu như đều tăng so với năm
trước, kể cả chi trong cân đối và chi mục tiêu của thành phố
-Tổng chi:
+ Năm 1999, vượt dự toán : 2%
+Năm 2000, vượt dự toán :0,89%
tăng so với năm 1999 : 18%
+Năm 2001 , vượt dự toán: 0.49%
tăng so với năm 2000: 2%
Năm 1999 tỷ lệ chi vượt dự toán 2% là tương đối cao, năm 2000, 2001đều
có các tỷ lệ vượt dự toán không cao lắm. Việc tổng chi tăng mạnh qua các năm là
do Quận thực hiện nhiệm vụ chi của Ngân sách thành phố:
+ Năm 1999: 32.428 ( triệu đồng ).
+ Năm 2000: 33.388,2 ( triệu đồng ).
+ Năm 2001 : 41.377,282 ( triệu đồng ).
Các khoản chi sự nghiệp văn xã, quản lý hành chính, an ninh - quốc phòng,
chi khác Ngân sách đều đạt và vượt dự toán, tạo điều kiện tốt đảm bảo an ninh trật
tự, đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân.
2. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác quản lý Ngân sách Quận
còn một số hạn chế nhất định xuất phát từ cả nguyên nhân chủ quan và nguyên
nhân khách quan.
Trong việc lập kế hoạch thu, chi Ngân sách chưa tạo được cơ sở vững chắc
để lập cho nên có khi kế hoạch năm nay thấp hơn thực hiện năm trước. Xây dựng
dự toán còn thiếu yếu tố tăng trưởng kinh tế, yếu tố trượt giá, chưa căn cứ vào
năng lực thu thực tế để xây dựng kế hoạch, cụ thể:
+Năm 1999: Kế hoạch là 58.000 ( triệu đồng),
thực hiện 52.445,4 (triệu đồng )
+ Năm 2000: Tiền thu phí, lệ phí kế hoạch là 625,04 ( triệu
đồng ) thực hiện 107,36 ( triệu đồng )
Việc giao kế hạch cho các phường, các cơ quan quản lý chưa có căn cứ kế
hoạch của các đơn vị xây dựng và bảo vệ có cơ sở (giao theo tỷ lệ thực hiện năm
trước ). Một số đơn vị có số thu khác được để lại chi quản lý qua NSNN nhưng
không được tổng hợp để gao kế hoạch, dẫn đến có đơn vị hoàn thành kế hoạch
cao, có đơn vị không hoàn thành kế hoạch .
Về việc thu và quản lý, khai thác nguồn thu còn bỏ sót, chưa tương xứng
với tình hình kinh tế - xã hội, công tác thu chưa được cải tiến, cụ thể:
- Số thuế thu trung bình trên tháng 325.183 đ/hộ/tháng, trong khi đó bình
quân của thành phố là: 433.000 đ/hộ/tháng. Rõ ràng, mức độ thu như trên là chưa
tương xứng với một Quận là trung tâm thành phố.
-Thuế nhà đất: Còn một số khu vực chưa xác định mục đích sử dụng, hoặc
chưa khai thác hết tiềm năng.
-Thu từ xí nghiệp quốc doanh địa phương còn khiêm tốn.
-Thu từ công thương nghiệp và thương mại dịch vụ - là lĩnh vực thế mạnh
của Quận - tuy cao nhưng không ổn định
+ Năm 1999: 7.826,2 ( triệu đồng )
+ Năm 2000: 6.255,4 ( triệu đồng )
+ Năm 2001: 10.487 ( triệu đồng )
Về chấp hành nhiệm vụ chi , tuy hầu hết các khoản chi vượt dự toán nhưng
có khoản chi sự nghiệp kinh tế không đạt dự toán và còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong
tổng chi. Một số khoản chi còn chưa đúng đối tượng, chính sách, chế độ.
- Các đơn vị thụ hưởng Ngân sách còn chưa thực sự chủ động trong công
tác sắp xếp bố trí nhiệm vụ chi.
- Chi các chương trình mục tiêu thành phố triển khai còn chậm, hiệụ quả
chưa cao.
Về việc quản lý, điều hành Ngân sách còn một số khoản chi không đúng
chế độ như chi hỗ trợ ngoài nhiệm vụ chi đã được phân cấp. Ngoài ra, còn quản lý
chưa kịp thời các nguồn thu sự nghiệp. Một số đơn vị trong Quận còn chi chưa
đúng chế độ.
Công tác chấp hành Pháp lệnh kế toán thống kê còn hiện tượng sai sót, cu.
thể:
- Hạch toán sai Mục lục NSNN ở một số đơn vị.
- Tại một số đơn vị còn một số chứng từ chưa đảm bảo đầy đủ tính hợp
pháp, hợp lệ như: Chứng từ chưa đúng quy định, không có hoá đơn do Bộ Tài
chính phát hành, một số phiếu chi thiếu chứng từ, chi tiết.
Có thể nói, công tác quản lý thu chi Ngân sách Quận Hai Bà Trưng đang
còn nhiều bộn bề cần phải khắc phục bên cạnh những thành tựu cần phát huy.
Những hạn chế trên đây đòi hỏi phải tiếp tục khắc phục, cải tiến triệt để. Muốn
thực hiện được điều đó, trước tiên, ta phải tìm hiểu nguyên nhân của các hạn chế
trên.
3. Nguyên nhân của hạn chế.
Hạn chế còn tồn tại do cả nguyên nhân chủ và nguyên nhân khách quan.
Do vặy , công việc khắc phục những tồn tại không chỉ bó hẹp trong phạm vi Quận
mà nó yêu cầu sự cải tiến, đồng bộ từ sự chỉ đạo, điều tiết của cấp trên đến sự thực
hiện nhất quán ở cơ sở.
3.1 Những nguyên nhân chủ quan
Do trong khâu lập dự toán còn chưa đi sâu, đi sát tại các đơn vị dự toán,
chưa quan tâm tới các yếu tố tăng trưởng kinh tế, trượt giá ...Việc giao kế hoạch
còn chưa căn cứ vào kế hoạch của các đơn vị.
Trong công tác thu và khai thác thu còn bỏ sót, chưa khai thác triệt để, chưa
có biện pháp xử lý mạnh đối với các đối tượng trốn lậu thuế và các khoản đóng
góp khác. Ngoài ra, việc để nợ đọng thuế từ năm này qua năm khác vẫn nổi cộm.
Trong công tác quản lý chi Ngân sách còn lỏng lẻo, khả năng kiểm soát chi
qua Kho bạc Nhà nước còn chưa cao dẫn đến một số khoản chi không đúng đối
tượng, nhiệm vụ được giao. Các nguồn chi sự nghiệp kinh tế tuy bước đầu đã
được cải thiện đáng kể nhưng còn nhỏ, công tác thực hiện dự án, phê duyệt quyết
toán các dự án còn chưa kịp thời cho nên một số công trình đã hoàn thành nhưng
chưa có hồ sơ hoàn công.
Việc thực hiện Luật NSNN, các chế độ, chính sách , Pháp lệnh kế toán
thống kê còn sai lệch.
3.2 Những nguyên nhân khách quan.
Những bất cập trong phân cấp quản lý Ngân sách còn tồn tại nhiều. Cơ chế
phân cấp này đã làm cho Ngân sách Quận ở thế bị động. Những khoản thu phải
chuyển giao cho cấp trên còn nhiều, các khoản thu trong điều tiết còn nhỏ. Điều
này, dẫn đến các khoản bổ sung từ Ngân sách cấp trên nhiều làm cho việc thực
hiện chi chậm trễ không kịp thời.
Có thể nói, cơ chế phân cấp hiện tại không tạo ra được thế chủ động trong
công tác quản lý Ngân sách Quận.
Hệ thống các chỉ tiêu, định mức còn mang tính cứng nhắc, lạc hậu so với
thực tế. Nhu cầu chi thường xuyên cho một loại dịch vụ bằng cách chi cho một đối
tượng thụ hưởng tiềm năng và có tính đến hệ số khác biệt về chi phí. Chi đầu tư
bảo dưỡng phải xác định bằng cách áp dụng các tiêu chuẩn kĩ thuật cho những cơ
sở hạ tầng hiện có như đường bộ, nhà xưởng.
Các quy trình thu còn rườm rà, chưa gọn nhẹ, chưa tạo ra cho đối tượng thu
sự tự giảc trong việc tự tính, tự nộp.
Các quy định về hoá đơn chứng từ, sổ sách ghi chép có một số chi tiết đã
không phù hợp với hiện tại.
Chương III: Một vài biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công
tác quản lý Ngân sách Quận Hai Bà Trưng,
thành phố hà nội
I. Định hưóng chung Ngân
sách Quận Hai Bà Trưng là một đơn vị hình thành nên NSNN. Do vậy, Ngân sách
Quận Hai Bà Trưng phải luôn luôn không ngừng cải cách đổi mới nhằm góp phần
tạo nên một Ngân sách Nhà nước để phát triển nền kinh tế quốc dân. Muốn thực
hiện được mục tiêu lớn đó, theo em, ngành quản lý Ngân sách Quận Hai BàTrưng
cần phải vươn tới những định hướng sau :
Thứ nhất, tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới theo quan điểm của Đảng và
Nhà nước là phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, liên kết
đầu tư phát triển với các quận khác, ra sức cần kiệm để đẩy mạnh Công nghiệp
hoá - Hiện đại hoá, nâng cao hiệu quả kinh tế và đầu tư.
Thứ hai, thực hiện cụ thể hoá các chính sách tài chính - tiền tệ, kết hợp với
tình hình kinh tế địa phương tạo động lực góp phần phát triển sản xuất ngày
càng tăng, ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, tạo điều kiện cho việc công nghiệp hóa nông thôn .
Thứ ba, huy động đến mức cao nhất mọi nguồn lực nhằm tăng trưởng kinh tế
với tốc độ cao và bền vững, tăng cường tiềm lực Tài chính địa phương. Mặt
khác thực hiện phân bổ các nguồn lực một cách có hiệu quả, chú trọng cho đầu
tư xây dựng cơ bản, kết hợp với phát triển văn hoá giáo dục, thực hiện công
bằng và tiến bộ xã hội, đồng thời động viên được mọi thành phần kinh tế, mọi
người phát triển sản xuất kinh doanh, - Cái gốc của sự tăng trưởng kinh tế cũng
như sức mạnh tài chính, xây dựng một nền tài chính lành mạnh và an toàn với
tăng cường hiệu quả đầu tư làm hạtnhân.
Thứ tư, chấp hành hệ thống pháp luật tài chính đảm bảo phát huy vai trò kiểm
tra, giám sát của tài chính nhằm tăng cường trật tự kỷ cương Tài chính chống
tham nhũng, tham ô, lãng phí làm thất thoát tài sản, tiền vốn của Nhà nước và
nhân dân. .
Thứ năm, đẩy mạnh quá trình đa dạng hoá hình thức huy động vốn,
khuyến khích hình thành các quỹ đầu tư, quỹ tín dụng để huy động các nguồn
vốn của mọi thành phần kinh tế, tầng lớp dân cư cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng kinh tế - xã hội phục vụ đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Thực hiện có
hiệu quả chính sách động viên nhằm khai thác các nguồn thu thông qua thuế,
phí và lệ phí từ tất cả các khu vực, bồi dưỡng các nguồn thu.
Thứ sáu, đẩy mạnh công tác chống thất thu thuế nhằm tăng thu Ngân sách,
tạo nguồng thu vững chắc. Có chính sách Tài chính khuyến khích các doanh
nghiệp địa phương tăng khả năng tích luỹ, sử dụng lợi nhuận sau thuế để tái
đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, ổn định và tăng trưởng nguồn thu cho
Ngân sách
Thứ bảy, chấp hành nghiêm chỉnh Luật NSNN ở tất cả các cấp Ngân sách
và các đơn vị dự toán, trong tất cả các khâu từ xây dựng dự toán, phân bổ,
phân cấp và điều hành quản lý đến việc thực hiện cấp phát, thanh tra, kiểm tra,
kiểm toán, quyết toán Ngân sách Quận -Huyện, đổi mới cơ cấu Ngân sách
Quận -Huyện, thực hiện thu, chi Ngân sách theo đúng luật. Đẩy mạnh xã hội
hoá một số nội dung chi sự ngiệp giáo dực - đào tạo, y tế xã hội, góp phần
giảm nghèo.
Thứ tám, đánh giá hiệu quả hoạt động của hệ thống doanh nghiệp Nhà
nước. Phân loại và và định hướng bước đi để thực hiện cổ phần hoá doanh
nghiệp, đa dạng hoá hình thức sở hữu.
Thứ chín, nâng cao năng lực và hiệu quả của bộ máy hành chính. Tiếp tục
hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý tài chính xuống tận các phường, đảm bảo
dủ năng lực phát triển; quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng
tổ chức trong hệ thống Tài chính .
II.Mộtsố giải pháp
Trên đây là những định hướng cơ bản cho chiến lược Tài chính quốc
gia nói chung và Ngân sách nói riêng. Đó là những mục tiêu mà Quận Hai
Bà Trưng phải vươn tới trong tương lai. Để đạt được các mục tiêu đó, theo
em, cần có các giải pháp sau:
1. Xây dựng, lập dự toán Ngân sách phải chính xác chi tiết, tránh thâm
hụt.
Lập dự toán là khâu đầu tiên của quá trình quản lý Ngân sách, chất lượng
quản lý Ngân sách phụ thuộc khâu lập dự toán. Lập dự toán là việc lên kế
hoạch thu, chi Ngân sách cho năm Ngân sách tới, toàn bộ các dự kiến về
các khoản thu (thuế, phí, viện trợ ...) và các khoản chi (thường xuyên, phát
triển ...) đều được định hình rõ nét - Đó là yêu cầu cơ bản mà khâu lập dự
toán cần phải đạt được. Với tư cách là khâu mở đầu, lập dự toán có vai trò
đặc biệt quan trọng trong việc quản lý Ngân sách cũng như làm cho Ngân
sách có tính ổn định, an toàn và hiệu quả.
Hiểu được tầm quan trọng của xây dựng dự toán, Ngân sách Quận -
Huyện phải chỉ đạo đôn đốc các đơn vị tổ chức, cá nhân lên kế hoạch cụ
thể cho Ngân sách. Xây dựng dự toán Ngân sách Quận -Huyện phải bắt đầu
từ tổ, thôn, xóm, đến xã, phường, các phòng, ban, đơn vị hành chính, các
cơ sở sản xuất kinh doanh lớn, nhỏ. Cần phải tránh tình trạng bỏ sót nguồn
thu, quên nhiệm vụ chi. Khi các trường hợp đó xảy ra sẽ làm cho việc quản
lý Ngân sách dẫn đến bị động, ảnh hưởng đến năm Ngân sách và cả các
năm sau đó
UBND Quận, hằng năm, căn cứ vào hướng dẫn và thông báo số
kiểm tra của UBND Thành phố và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của
Quận, tiến hành lập dự toán thu, chi Ngân sách địa phương mình. UBND
Quận phải chỉ đạo các cơ quan quản lý Ngân sách tiến hành lập dự toán .
Một, Chi cục thuế lập dự toán thu Ngân sách và cơ sở tính toán từng
nguồn thu, dự kiến số thuế giá trị gia tăng phải hoàn trả cho các doanh
nghiệp trên địa bàn thuộc phạm vi Quận quản lý gửi cơ quan thuế cấp trên,
UBND Quận, Phòng Tài chính-Vật giá, cơ quan kế hoạch đầu tư.
Hai, Phòng kế hoach đầu tư chủ trì phối hợp với cơ quan Tài chính
tiến hành lập và dự kiến phương án phân bổ dự toán chi đầu tư XDCB cho
từng đơn vị, dự án thuộc Ngân sách địa phương báo cáo UBND Quận.
Đồng thời, Phòng Kế hoạch Đầu tư phối hợp với cơ quan quản lý chương
trình quốc gia cùng cấp trong việc lập phương án phân bổ dự toán chi
chương trình quốc gia.
Ba, Phòng Tài chính - Vật giá là đơn vị chịu trách nhiệm chính trong
việc lập dự toán. Phòng Tài chính - Vật giá phải năng động, linh hoạt trong
việc phối hợp với cơ quan khác để lập dự toán hoàn chỉnh báo cáo UBND
Quận và Sở Tài chính - Vật giá .
Các cơ quan quản lý Ngân sách phải đôn đốc các doanh nghiệp căn
cứ vào kế hoạch sản xuất kinh doanh của đơn vị dự kiến các khoản phải
nộp, số thuế giá trị gia tăng được hoàn lại gửi cơ quan thuế và cơ quan
được giao nhiệm vụ thu. Riêng các doanh nghiệp Nhà nước, ngoài việc
đăng ký nộp thuế và dự kiến số thuế giá trị gia tăng được hoàn lại còn phải
lập kế hoạch thu, chi tài chính, mức đề nghị bổ xung vốn lưu động (nếu có
nhu cầu), khoản Ngân sách chi hỗ trợ theo chế độ quy định (nếu có ).
Các cơ quan quản lý Ngân sách yêu cầu các
đơn vị thuộc diện được cấp Ngân sách, kinh phí xem xét dự toán Ngân sách
của các đơn vị trực thuộc, tổng hợp lập dự toán thu, chi Ngân sách theo
Mục lục NSNN ; dự toán chi từ nguồn kinh phí uỷ quyền.
Sau khi dự toán Ngân sách được lập
xong phải gửi lên cơ quan có thẩm quyên quyết định.
2. Không ngừng tăng cường kiểm tra, kiểm soát lại tất cả các nguồn thu.
Như đã trình bày thuế có vai trò quyết định đối với NSNN. Không có
nguồn thu sẽ không có Ngân sách. Để nguồn thu không ngừng được phát
triển, chúng ta phải tăng cường kiểm tra, kiểm soát các nguồn thu.
Đối với các khoản thu 100% mà Ngân sách Quận được hưởng, cơ quan
quản lý phải theo dõi bám sát, đối tượng thu. Từ đó, biết được tình hình sản
xuất kinh doanh của đơn vị để có thể đưa ra mức thu cao nhất có thể.
Đối với các khoản thu được phân chia theo tỷ lệ phần trăm với Ngân
sách Thành phố, Ngân sách phường, gồm có: Các khoản thu thuế sử dụng
đất nông nghiệp, thuế tài nguyên ; lệ phí trước bạ nhà đất; thuế tiêu thụ đặc
biệt hàng sản xuất trong nước thu vào các mặt hàng bài lá, vàng mã và các
dịch vụ kinh doanh vũ trường, mát- xa: ka- ra-ô-kê: kinh doanh gôn ; bán
thẻ hội viên vé chơi gôn; kinh doanh vé đặt cược đua ngựa, đua xe...
Trong các nguồn thu của Ngân sách Quận nói riêng và Ngân sách
Nhà nước nói chung thì thuế đóng vai tròp chủ đạo. Do vậy Chi cục thuế
phải thực hiện tốt các giải pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện hệ thống chính sách
thuế cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong tình hình
mới. Chính sách thuế vừa phải đảm bảo nguồn thu ổn định, vững chắc cho
Ngân sách vừa phải bồi dưỡng, phát triển mạnh mẽ nguồn thu, vừa khuyến
khích phát triển tối đa sản xuất , kinh doanh của các thành phần kinh tế .
Thứ hai, bám sát thực tế, lắng nghe ý kiến doanh nghiệp và của nhân
dân, tập trung chỉ đạo thông suốt các luật thuế mới bảo đảm thu đúng, thu
đủ cho Ngân sách nhưng không được lạm thu đối với cơ sở sản xuất kinh
doanh. Có biện pháp thực hiện cải cách mạnh mẽ các thủ tục hành chính
trong công tác thu thuế, thực hiện công khai minh bạch công tác thu thuế.
Khắc phục bằng được những thủ tục chậm trễ, phiền hà, những hành vi tắc
trách, tiêu cực trong nghành thuế.
Thứ ba, thường xuyên nghiên cứu, tìm tòi các biện pháp quản lý thu
cho sát đúng với yêu cầu, nhiệm vụ mà chính quyền giao, gắn từng địa
phương từng lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế, bảo đảm quản lý, kiểm
soát được toàn bộ các nguồn thu của Ngân sách theo pháp luật.
Thứ tư, thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật thông tin
về quản lý kịp thời cho cán bộ, nhất là cán bộ cơ sở; trong đó, coi trọng
việc bồi dưỡng nghiệp vụ , học tập lý luận, rèn luyện phẩm chất đạo đức,
nhất là cán bộ lãnh đạo, đảng viên phải gương mẫu đi đầu; nhằm xây dựng
được đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị, có trình độ nghiệp vụ tinh thông
và toàn tâm, toàn ý vơí nhiệm vụ của mình.
Cuối cùng, tiếp tục củng cố bộ máy tổ chức gọn nhẹ, có hiệu lực, có
hiệu quả, thực sự trong sạch, vững mạnh, đi đôi với việc chuyển giao đồng
bộ Pháp lệnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng. Tạo
mọi điều kiện để nhân dân kiểm tra và góp ý xây dựng đội ngũ cán bộ Chi
cục Thuế.
3. Tạo dựng, khai thác, phát triển nguồn thu mới.
Khác với việc kiểm soát các nguồn thu, việc khai thác nguồn thu ngốn
nhiều công sức hơn, đòi hỏi cán bộ quản lý am hiểu, sáng tạo trong các
nguồn thu.
Trước hết khắc phục tình trạng thất thu, nợ đọng thuế bằng cách tăng
cường kiểm tra chống thất thu, chống nợ đọng thuế của NSNN. Để làm tốt
nội dung này, song song với sự chỉ đạo điều hành của cấp Uỷ, UBND, sự
hỗ trợ của các ngành là hết sức quan trọng. Cơ quanThuế cần tham mưu
chủ động đề xuất, kiến nghị với UBND và sự hỗ trợ của các nghành mạnh
mẽ hơn nữa trong viêc thực hiện thu thuế tại địa phương, kể cả việc kiểm
tra chống buôn lâu và gian lận thương mại.
Thực hiện các biện pháp, bồi dưỡng các nguồn thu để bù đắp các
khoản thu thiếu hụt như tăng cường kiểm tra chống thất thu về hộ, kiểm tra chặt
chẽ các khoản thuế đầu vào trên các bảng kê của các đối tượng nộp thuế theo
phương pháp khấu trừ, đặc biệt là các đơn vị có số thuế GTGT lớn, phải hoàn
thuế.
Tiếp tục tháo gỡ các khó khăn cho các doanh nghiệp trong quá trình thực thi
pháp luật thuế nhằm thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh phát triển tăng tạo
nguồn thu cho ngân sách.
Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật thuế
mà trọng tâm là hướng dẫn thật cụ thể về nội dung chính sách thuế, quy trình quản
lý thuế, cách ghi chép hoá đơn, chứng từ, cách kê khai nộp thuế, miễn giảm, công
khai quy trình hoàn thuế để đối tượng nộp thuế tự giác chấp hành tốt nghĩa vụ thuế
cho ngân sách.
4.Tổ chức quản lý thu một cách khoa học, chính xác, đơn giản, dễ hiểu.
Quy trình thu ngân sách là một khâu quan trọng trong quản lý thu
ngân sách đóng vai trò mắt xích. Chúng ta phải tạo được một quy trình
tương đối hợp lý: Vừa đảm bảo cho các đối tượng, chủ động, tự giác nộp
thuế, vừa đảm bảo thu đúng, thu đủ. Quá trình thu ngân sách vừa hiện đại
để chính xác, vừa đơn giản, dễ hiểu đối với mọi tầng lớp dân cư.
5. Tăng cường hiệu quả chi Ngân sách Quân, giám sát, giảm
thiểu những khoản chi lãng phí, vô ích. Chấp hành đúng dự toán.
Song song với việc bồi dưỡng, phát triển nguồn thu, các cơ
quan quản lý khi thực hiện nhiệm vụ chi cần phải chú ý tới tính hiệu quả,
lợi ích. Nếu như thu Ngân sách là để tạo ra Ngân sách thì chi Ngân sách thể
hiện tính ưu việt, sức mạnh tài chính của Ngân sách.
Nâng cao hiệu quả chi Ngân sách không chỉ ở các khoản chi phát
triển, đầu tư mà ở cả chi thường xuyên. Các khoản chi cho nhân viên khu
vực hành chính, công cụ, dụng cụ làm việc, phải được tiết kiệm triệt để.
Tính hiệu quả của chi Ngân sách sẽ thể hiện toàn diện trên các mặt cả về
kinh tế, chính trị và xã hội. Thể hiện ở khía cạnh kinh tế, Ngân sách Quận
đối với tư cách là " Bàn tay hữu hình" tác động vào nền kinh tế. Thể hiện ở
khía cạnh chính trị, Ngân sách quận mang bản chất giai cấp, phục vụ giai
cấp cầm quyền. Thể hiện ở khía cạnh xã hội, Ngân sách Quận có vai trò bù
đắp khiếm khuyết của thị trường. Do vậy, khi xem xét, đánh giá tính hiệu
quả của chi Ngân sách, chúng ta phải xây dựng một loạt các chỉ tiêu bao
gồm cả định tính và định lượng.
Giám sát, giảm thiểu những khoản chi lãng phí là nhiệm vụ trọng tâm trong
mục tiêu lành mạnh hoá trong tài chính quốc gia . Trước tiên, phải thực
hiện ở các khoản chi trường xuyên ở các đơn vị dự toán được Ngân sách
cấp phát. Đây là một bước đột phá hết sức khó khăn gắn liền với cải cách
hành chính. Tuy nhiên các cơ quan quản lý Ngân sách ( Phòng Tài chính,
Chi cục thuế, Chi cục kho bạc,....), cải cách bộ máy của mình sao cho gọn
nhẹ, hiệu quả. Tiếp theo, phải bãi bỏ các khoản chi sai, chi thừa ở bộ phận
chi đầu tư phát triển, chi phúc lợi xã hội. Đảng và Nhà nước ta chú trọng
quan tâm tới những gia đình chính sách, người nghèo, người cô đơn, người
tàn tật,... luôn luôn tạo điều kiện để cho họ sống có ích, tự khẳng định
mình. Tuy nhiên, do lợi ích cá nhân, tha hoá đạo đức, một số đối tượng đã
làm hồ sơ, giấy tờ không đúng sự thực để được hưởng chính sách phúc lợi
của Nhà nước. Do vậy, Phòng Tài chính kết hợp với các phòng ban có chức
năng khác làm rõ các khoản chi để tránh việc chi nhầm, bỏ sót và chi thừa.
Việc chấp hành đúng dự toán để ổn định Ngân sách tạo thế chủ động trong
việc quản lý và điều hành Ngân sách. Muốn hoàn thành tốt công tác chấp
hành Ngân sách, cơ quan quản lý phải làm tốt khâu dự toán.
6. Phòng chống, khắc phục triệt để các sai phạm trong các đơn vị hành
chính sự nghiệp của Quận.
Các cơ quan quản lý Ngân sách phải yêu cầu các đơn vị hành
chính sự nghiệp sử dụng Ngân sách chấp hành việc lập dự toán, quyết
toán các nguồn kinh phí phải đúng nguồn, đúng mức, đúng nội dung
chi. Thu và sử dụng các loại phí ( học phí, viện phí,...) phải đúng quy
định và hạch toán đầy đủ kịp thời vào Ngân sách Quận.
Tất cả các đơn vị hành chính sự nghiệp phải chấp hành nghiêm
chỉnh Luật NSNN, các Luật thuế và Pháp lệnh kế toán thống kê, chú
trọng việc chi theo dự toán, mục, thực hiện đúng chế độ hoá đơn chứng
từ, định mức chi ( Các đơn vị hành chính sự nghiệp như: trường học, y
tế, công chứng,...)
Để khắc phục các sai phạm trong cơ quan hành chính sự nghiệp
ngoài việc kiểm điểm làm rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân, thì các cấp
các ngành có liên quan cũng phải xem xét lại hệ thống văn bản, chế tài, kịp
thời sửa đổi những văn bản không còn phù hợp. Đồng thời phải nghiên cứu
ban hành những văn bản mới cho loại hình nghiệp vụ hành chính mới. Việc
làm đó không những tạo hành lang pháp lý cho hoạt động này phát triển
đúng hướng mà còn góp phần ngăn chặn những sai phạm trong quản lý.
7. Nâng cao
vai trò kiểm soát chi qua Chi cục Kho bạc. Hệ
thống Kho bạc Nhà nước có nhiệm vụ quản lý chi Ngân sách Nhà nước
trên toàn quốc. Vì vậy, phải nâng cao vai trò kiểm soát chi qua Kho bạc là
chiến lược lâu dài của toàn ngành Kho bạc: Đảm bảo các khoản chi đúng
tiêu chuẩn, định mức, chế độ quy định, tiết kiệm, có hiệu quả. Để đạt được
mục đích đó cần phải làm tốt các công tác sau: - Tổ chức
các hội nghị để hướng dẫn thực hiện quy trình kiểm soát chi Ngân sách
Nhà nước qua Kho bạc. Qua đó công khai hoá nội dung kiểm soát chi đối
với các đơn vị sử dụng Ngân sách Nhà nước để có sự phối hợp chặt chẽ
thực hiện đúng các quy định của Luật Ngân sách Nhà nước.
- Thực hiện tốt công tác tuyên truyền chủ trương và cơ chế kiểm
soát chi Ngân sách, góp phần nâng cao nhận thức chung của mọi người
trong việc thực hiện các quy định của Luật Ngân sách Nhà nước.
- Tập trung làm tốt công tác quản lý chi trên hai giác độ: thanh toán
kịp thời các nhu cầu chi trả của các đơn vị sử dụng Ngân sách Nhà nước,
kiểm tra, kiểm soát các khoản chi do Kho bạc trực tiếp cấp phát, thanh
toán theo đúng quy định.
- Cần quán triệt quan điểm kiểm soát chi cho các ngành, các cơ quan, đơn
vị, cá nhân có liên quan đến quản lý. Ngân sách chứ không chỉ riêng của Phòng tài
chính - vật giá và Chi cục Kho bạc. Các ngành, các cấp cần thấy rõ trách nhiệm
của mình trong quá trình quản lý chi Ngân sách từ khâu lập dự toán, phân bổ dự
toán, thông báo hạn mức kinh phí cấp phát thanh toán, kế toán, quyết toán các
khoản chi Ngân sách.
- Ban hành đồng bộ và đầy đủ các định mức chi tiêu Ngân sách. Đây là
nhân tố đóng vai trò quan trọng tới việc thực hiện quản lý chi Ngân sách từ khâu
duyệt, phân bổ dự toán tới thực hiện kiểm soát, thanh và quuyết toán chi Ngân
sách.
8. Hoàn thiện một số vấn đề chủ yếu trong cơ chế quản lý Ngân sách
phường.
Làm tốt công tác quản lý Ngân sách phường có ý nghĩa quan trọng,
tăng thêm hiệu quả các hoạt động quản lý Ngân sách quận, góp phần thúc đẩy
kinh tế hội, kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
Một là, về thu Ngân sách phường, cần phải phân biệt rõ tính chất các
khoản thu phát sinh trên địa bàn để áp dụng cơ chế và phương thức quản lý cho
phù hợp theo nguyên tắc vừa đảm bảo đúng tính chất của khoản thu Ngân sách
vừa đơn giản thuận lợi cho công tác quản lý, ghi chép sổ sách của cán bộ quản lý
Ngân sách phường và Kho bạc Nhà nước Quận. Theo nguyên tắc này, đối với các
khoản thu theo luật định, nhất thiết phải được phản ánh vào tài khoản thu Ngân
sách Nhà nước. Các khoản đóng góp của dân được HĐND phường quyết định
phải được phản ánh vào tài khoản thu Ngân sách tại Kho bạc Nhà nước. Các
khoản thu phí và lệ phí cũng cần được thống nhất cả về mức thu, biện pháp quản
lý thu, quy trình thu, nộp từng khoản thu Ngân sách vào Kho bạc Nhà nước. Đối
với các khoản thu ngoài phạm vi luật định không đưa vào cân đối Ngân sách như
các khoản do dân tự nguyện đóng góp hình thành các quỹ để thực hiện các công
việc vì lợi ích chung của cộng đồng thì không nhất thiết phải phản ánh vào tài
khoản thu Ngân sách Nhà nước mà chỉ cần mở tài khoản tiền gửi theo dõi riêng tại
Kho bạc Nhà nước Quận là đủ. Các quỹ an ninh, quốc phòng, quỹ từ thiện không
phản ánh vào Ngân sách phường mà thực hiện theo quy chế dân chủ. Các khoản
thu này phải được dân bàn bạc công khai từ khâu lập dự toán đến quyết định mức
huy động, hình thức huy động, mục đích sử dụng vốn. Chứng từ thu Ngân sách
phường bằng tiền mặt cũng nên quy định lại giao cho ban tài chính thực hiện.
Hai là, về chi Ngân sách phường cũng giữ vai trò quan trọng không kém
nhiệm vụ thu Ngân sách. Thực hiện chi đúng, đủ, kịp thời sẽ tạo điều kiện cho
việc ổn định kinh tế xã hội, trật tự an ninh trên địa bàn phường, góp phần thực
hiện được tính dân chủ công khai và mục tiêu về công bằng văn minh sẽ trở thành
hiện thực. Để đạt được những mục đích này về chi Ngân sách phường cần giải
quyết hai vấn đề:
+ Có chế độ chi tiêu tài chính riêng cho phường để tránh tình trạng chi tiêu
tuỳ tiện, bởi vì phường là một cấp Ngân sách đồng thời là một đơn vị dự toán trực
tiếp NSNN, do đó có các tiêu chuẩn, định mức chi tiêu tài chính như chi về y tế,
giáo dục, văn hoá thông tin, ... như vậy mới có các căn cứ quản lý cấp phát thanh
toán và kiểm tra giám sát.
+ Thay đổi phương thức cấp phát lệnh chi tiền hiện nay bằng phương thức
cấp phát bằng hạn mức kinh phí ( trừ trường hợp đặc biệt: thiên tai, địch họa bắt
buộc phải cấp phát bằng lệnh chi tiền ), bởi lẽ nếu cấp phát bằng lệnh chi tiền theo
chế độ quy định thì Kho bạc Nhà nước không kiểm soát chi mà chỉ thực hiện cấp
quỹ Ngân sách theo lệnh chi của cơ quan chuẩn chi sẽ tạo ra những sơ hở trong
quản lý. Mặt khác, cấp phát bằng lệnh chi tiền sẽ gây ra những phiền hà và phức
tạp trong quản lý do làm thêm khối lượng công việc ghi chép sổ sách và chứng từ
kế toán. Hơn nữa, mỗi lệnh chi tiền chỉ giải quyết cho một chương và có rất ít
dòng trong khi hàng tháng, phường phát sinh nhiều khoản chi có liên quan đến
nhiều chương. Do vậy, làm tăng số lượng chứng từ chi Ngân sách Nhà nước .
Ba là, phải sửa đổi bổ sung những vấn đề nghiệp vụ chuyên môn có liên
quan để phục vụ tốt cơ chế quản lý sửa đổi về thu chi Ngân sách phường.
9. Nâng cao chất lượng cán bộ nhân viên, không ngừng đào tạo mới và
đào tạo lại nguồn nhân lực.
Như chúng ta đã biết, cải cách hành chính và cải cách tài
chính có trọng tâm là cải cách con người. Kinh tế ngày càng phát triển, xã hội
ngày càng hiện đại, phức tạp, do đó, cán bộ quản lý Ngân sách phải đủ trình độ và
đạo đức tốt.
Trong những năm qua đã không ít những trường hợp thất thu, chi sai, nhằm
tư lợi có " bàn tay" của cán bộ quản lý Ngân sách. Do đó, bên cạnh việc đào tạo
nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên phải quan tâm đến tư cách đaọ đức nữa.
Các cán bộ cần có tư cách liêm khiết, chí công vô tư, phục vụ hết mình vì tập thể,
vì nhiệm vụ. Bên cạnh đó Ban kiểm tra luôn luôn phải theo dõi giám sát việc quản
lý Ngân sách để trình HĐND xử lý kịp thời. Để có thể tạo dựng được đội ngũ cán
bộ đủ đức, đủ tài chúng ta thường phải có biện pháp giáo dục, đào tạo khoa học
cho cả lực lượng mới và lực lượng cũ. Đối với các
cán bộ cũ, hầu hết đã trải qua thời kì kinh tế tập trung bao cấp, thường đã có tư
chất cách mạng tốt, giờ đây cần phải bồi dưỡng những kiến thức mới, hiện đại
bằng các hình thức: chuyên tu, tại chức, cao học,... Đối với các cán bộ mới - chủ
yếu là học sinh, sinh viên cần chú trọng đến việc giáo dục đạo đức cho họ. Học
sinh, sinh viên ngày này ham học hỏi, chịu khó, dễ tiếp thu với những cái mới,
không còn phải nghi ngờ gì về trình độ , khả năng làm việc của họ. Tuy nhiên, do
tiếp xúc với nền kinh tế thị trường nên tư tưởng " vật chất", thực dụng có ảnh
hưởng rất lớn đến con người họ. Do vậy, cùng với nhà trường, các cơ quan phải
giáo dục, giúp đỡ họ thật nghiêm khắc, nhiệt tình. UBND và HĐND
Quận cũng như các cơ quan quản lý Ngân sách phải luôn có chế độ chính sách thu
hút nhân tài thông qua cơ chế tiền lương, tiền thưởng, phúc lợi, điều kiện sống và
làm việc. Cuối cùng, bản thân các
cán bộ đang làm cũng như đang học công tác quản lý Ngân sách phải luôn trau dồi
đạo đức, nghiệp vụ của mình. Cán bộ nhân viên quản lý Ngân sách phải luôn nhớ
rằng mình đang quản lý Ngân sách mang bản chất XHCN, thành quả ngày hôm
nay được đánh đổi bằng máu của rất nhiều đồng bào, chúng ta phải biết trân trọng
phát triển nó.
III.KIến NGHị
Nâng cao hiệu quả công tác quản lý Ngân sách Quận là một tất yếu,
do đòi hỏi của thực tiễn khách quan. Các cơ quan quản lý Ngân sách Quận cần
hiểu rõ và từng bước nhanh chóng nâng cao chất lượng quản lý và điều hành Ngân
sách. Tuy nhiên, không chỉ ở các Quận, để có thể thực hiện tốt công tác khó khăn
này đòi hởi phải có sự tham gia, góp ý của toàn thể các ban ngành chức năng và
quần chúng nhân dân. Do vậy, em xin đưa ra một số kiến nghị sau nhằm nâng cao
hiều quả công tác quản lý cấp Quận:
1. Hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý Ngân sách Nhà nước tạo thế chủ
động tối đa cho chính quyền cơ sở nói chung và chính qưyền Quận nói
riêng.
1.1 Về các cấp ngân sách trong hệ thống phân cấp ngân sách Nhà nước và
Ngân sách địa phương.
Tranh luận về các cấp ngân sách đã từng kéo dài nhiều năm ở nước
ta, thực tiễn đang đặt ra vấn đề phải xem lại các cấp Ngân sách. Cơ chế phân cấp
quản lý NSNN giữa các cấp chính quyền địa phương nên thiết lập như sau:
- Đối với địa bàn các thành phố trực thuộc TƯ hệ thống NSNN nên
bao gồm 3 cấp TƯ, Thành phố trực thuộc TƯ, Quận. Cấp phường sẽ không còn
tồn tại để đảm bảo khả năng quản lý của cấp quận. Khi đó có 2 hướng sử lý:
+ Một là, phải có nhiều Quận hơn để có quy mô nhỏ hơn và
trong hướng này các nguồn thu và nhiệm vụ chi của cấp quận thay đổi về cơ bản
do gộp cả phần đã phân cấp cho phường trước đây.
+ Hai là, quy mô các quận vẫn được giữ nguyên và trong
Quận có các địa bàn nhỏ hơn, mỗi địa bàn có đại diện hành chính của Quận.
Trong trường hợp này đại diện hành chính của quận chỉ là một đơn vị dự toán
(thuộc Ngân sách cấp quận ).
1.2 Xác định thẩm quyền của quốc hội trong việc quyết định
dự toán, phân bổ dự toán và phê chuẩm quyết toán Ngân sách.
Để khắc phục tính trùng lắp và chồng chéo trong việc quyết
định dự toán và phân bổ Ngân sách của Quốc hội và HĐND các cấp xin đề xuất
biện pháp sau: Nhà nước sửa đổi cơ bản các điều có liên quan của Hiến Pháp năm
1992 và sửa đổi cơ bản Luật NSNN. Theo đó, Quốc hôi chỉ quyết định dự toán
Ngân sách TƯ và phân bổ Ngân sách TƯ ( chứ không quyết định NSNN một cách
tổng thể như hiện hành nữa). Đây là biện pháp khá căn bản về cơ chế quyết định
dự toán và phân bổ Ngân sách ở cả cấp TƯ và cấp địa phương với định hướng như
sau:
Thứ nhất, Quốc hội quyết định dự toán và phân bổ Ngân sách TƯ
cho từng Bộ, cơ quan TƯ; quyết định bổ sung từ NSNN cho Ngân sách từng tỉnh,
thành phố trực thuộc TƯ; thông qua báo cáo tổng hợp dự toán NSNN. Tương tự,
về quyết toán, Quốc hội phê chuẩn quyết toán Ngân sách TƯ và thông qua báo
cáo tổng hợp quyết toán NSNN. Thứ
hai, Quốc hội quyết định các chương trình dự án quốc gia, các công trình xây
dựng cơ bản quan trọng được đầu tư từ nguồn Ngân sách TƯ.
Thứ ba, Quốc hội quyết định điều chỉnh dự toán Ngân sách TƯ trong trường
hợp cần thiết.
Thứ tư, HĐND quyết định dự toán và phân bổ Ngân sách cấp mình, không
bao gồm Ngân sách cấp dưới. HĐND phê chuẩn Ngân sách cấp mình và thông
qua báo cáo tổng hợp Ngân sách cấp mình và cấp dưới; điều chỉnh dự toán Ngân
sách địa phương trong trường hợp cần thiết.
Tuy nhiên, vấn đề cần quan tâm trong biện pháp này là: Khi HĐND các
cấp hoàn toàn tự chủ quyết định Ngân sách cấp mình thì vai trò quản lý vĩ mô của
các cơ quan thuộc Quốc hội, Chính phủ có bị giảm đi không? Có đảm bảo được
nguyên tắc tập trung trong quản lý Ngân sách hay không? Sẽ không đáng lo ngại
về vấn đề này, vì Quốc hội đã quyết định dự toán và phân bổ Ngân sách TƯ là
ngân sách chủ đạo của cả nước một cách trực tiếp, đồng thời đã quyết định mức
bổ sung từ Ngân sách TƯ cho từng tỉnh, thành phố trực thuộc TƯ và thông qua
báo cáo tổng hợp dự toán NSNN, thì vẫn bảo đảm dược yêu cầu quản lý vĩ mô và
tính thống nhất của nền tài chính Quốc gia. Mặt
khác, Quốc hội và các cơ quan TƯ còn có quyền thực hiện chức năng giám sát
tình hình chấp hành Ngân sách địa phương, có quyền ban hành các chính sách chế
độ, tiêu chuẩn, định mức thống nhất trong cả nước, buộc các địa phương phải
chấp hành. Hơn nữa, cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên (bao gồm cả cấp TƯ) vẫn
đảm đương nhiều nhiệm vụ kinh tế- xã hội tại địa phương và đây cũng là vai trò
điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế - xã hội tại địa phương.
Trong trường hợp cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên uỷ quyền cho cơ quan
quản lý Nhà nước cấp dưới thực hiện nhiệm vụ chi thuộc chức năng của mình thì
cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên chuyển kinh phí từ Ngân sách cấp trên uỷ
quyền cho cấp dưới để thực hiện nhiệm vụ đó. Như vậy, việc HĐND các cấp hoàn
toàn tự chủ quyết định Ngân sách cấp mình không làm giảm vai trò quản lý vĩ mô
của các cơ quan quản lý cấp trên, cũng như không làm giảm tính tập trung thống
nhất.
1.3 Hoàn thiện cơ chế phân cấp nguồn thu nhiệm vụ chi cho các cấp Ngân
sách theo hướng rõ ràng, ổn định, phù hợp trong tình hình mới.
Cơ chế phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi giữa các cấp chính
quyền địa phương cần ổn định lâu dài, đặc biệt chú trọng cơ chế cho phép các địa
phương, cơ sở mở rộng thêm nguồn thu tuỳ theo khả năng đặc thù của mình, phù
hợp với quy định của pháp luật. Cơ chế phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi nên
thực hiện như sau:
+Về phân cấp nguồn thu: Luật NSNN đã xác định cụ thể các khoản thu
từng cấp Ngân sách được hưởng 100%, các nguồn thu điều tiết... Tuy nhiên,
những hạn chế của việc phân cấp này cho thấy cần phải hoàn thiện cơ chế này
theo hướng.
Thứ nhất, nguồn thu Ngân sách mỗi cấp được hưởng 100%. Đây được coi
là nguồn thu chủ yếu của các cấp Ngân sách, vì vậy, cần phân cấp mạnh hơn
nguồn thu này cho Ngân sách cấp dưới. Mở rộng danh mục đối tượng thu cho
Ngân sách cấp Quận. Phường và tương đương trong các lĩnh vực nông nghiệp,
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, thương mại... với thuế tài nguyên, thuế
sử dụng đất nông nghiệp, nên mạnh dạn phân cho hai cấp là Quận và Phường và
để đáp ứng nhu cầu chi tại cơ sở và khuyến khích quan tâm tới các nguồn thu này.
Thứ hai, với nguồn thu phân chia giữa các cấp Ngân sách cần hòan thiện
thiện hướng: Giảm số lượng các khoản thu phân chia giữa Ngân sách các cấp.
+Về phân cấp nhiệm vụ chi giữa các cấp Ngân sách: Trước hết, cần rà soát
lại toàn bộ các quy định về phân cấp quản lý kinh tế- xã hội hiện hành để xác định
rõ các nhiệm vụ quản lý giữa các cấp chính quyền. Trên cơ sở đó sẽ thực hiện việc
sửa đổi cơ chế phân cấp nhiệm vụ chi theo 3 nhóm:
*) Nhóm 1: Nhóm các nhiệm vụ chi cấp trên chi phối và đảm nhận 100%.
Đây là những nhiệm vụ được phân cấp gắn với vai trò chủ đạo, chi phối và điều
tiết của Ngân sách cấp trên đối với Ngân sách cấp dưới.
**) Nhóm 2: Nhóm các nhiệm vụ chi cấp dưới phải đảm nhận 100%
gắn trực tiếp với sự chỉ đạo của chính quyền địa phương cấp dưới. Đây là nhiệm
vụ chi có tính chất địa phương rõ nét, sát sườn. Cơ sở có điều kiện chăm lo và khả
năng thực hiện tốt hơn cấp trên.
***) Nhóm 3: Nhóm các nhiệm vụ chi liên đới giữa cấp trên và cấp dưới:
Thành phố trực thuộc TƯ với các địa phương. Khi đã phân cấp thì phải phân cấp
"trọn gói". Đơn vị thuộc cấp nào quản lý thì Ngân sách đài thọ toàn bộ. Khắc phục
tình trạng một đơn vị, một nhiệm vụ mà có nhiều cấp cùng quản lý, cùng chi.Việc
phân định nhiệm vụ chi giữa các cấp chính quyền cần phải được quy định trong
các Luật và phải được chi tiết hoá bằng hệ thống văn bản pháp quy chặt chẽ và
thống nhất.
1.4 Xây dựng hệ thống định mức, tiêu chuẩn chi tiêu phù hợp.
Để có hệ thống định mức tiêu chuẩn chi tiêu Ngân sách phù hợp cần thực
tốt những yêu cầu sau:
- Khẩn trương rà soát các định mức, tiêu chuẩn chi tiêu; xoá bỏ các định
mức, tiêu chuẩn chi lạc hậu; ban hành đủ các định mức có tính khoa học và khả thi
cần thiết cho quản lý tài chinh, Ngân sách.
- TW chỉ ban hành các chế độ, chính sách, tiêu chuẩn, định mức chủ
yếu, quan trọng thống nhất trong phạm vi toàn quóc, còn địa phương quyết định
các định mức phân bổ Ngân sách cho sự nghiệp giáo dục, y tế, sinh hoạt cho cán
bộ phường trên cơ sở khung của TƯ. Các định mức này phải tính theo các đồi
tượng phục vụ cụ thể. Tất nhiên để đảm bảo tính thống nhất của nền tài chính
Quốc gia, ngoài các chế độ đã được TƯ phân cấp, địa phương chỉ được quy định
chế độ chi riêng theo yêu cầu nhiệm vụ của địa phương. Trong trường hợp này
phải đảm bảo:
+ Phải thực sự là yêu cầu cần thiết của địa phương, cơ sở nhằm thúc đẩy
nhiệm vụ thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội.
+ Phải đảm bảo sự hài hoà với các chế độ của TƯ
+ Khả năng thu cân đối nguồn bằng cách tăng thu, tiết kiệm
chi nhưng không ảnh hưởng đến các nguồn chi đã quy định
Quy định sự phối hợp giữa các cơ quan và các cấp, ngành
đảm bảo chế độ, tiêu chuẩn, định mức ban hành sát với thực tế, có tính khả thi cao
không những phù hợp với điều kiện đặc thù chi của từng ngành, từng lĩnh vực mà
còn với điều kiện địa lý, kinh tế- xã hội của từng vùng.
1.5 Hoàn ttiện cơ chế nổ xung cho Ngân sách Địa phương.
Xuất phát từ tình hình cụ thể ở Việt Nam, cần hoàn thiện cơ chế bổ xung
cho Ngân sách địa phương như sau:
+ Đối với việc bổ xung Ngân sách địa phương như sau: Cơ
chế này chỉ áp dụng đối với các địa phương được xác định là thu thường xuyên
không đủ chi thường xuyên. Do đó, còn gọi là cơ chế bổ xung ( hỗ trợ ) chi
thường xuyên. Mục tiêu bổ xung, chi thường xuyên lả để đảm bảo cho tất cả các
địa phương có đủ nguồn kinh phí trang trải các nhiệm vụ chi thường xuyên theo
đúng các chế độ, tiêu chuẩn, đúng mức đã được cấp trên ban hành. Nhưng do các
dịa phương có các điều kiện tự nhiên, kĩ thuật - xã hội khác nhau , cho nên cần
cộng thêm hệ số cho từng vùng để đảm bảo công bằng.
+ Đối với cơ chế bổ xung có mục tiêu: Bổ xung có
mục tiêu phải căn cứ vào một số yêu cầu: Mức thu nhập bình quân đầu người cả
nước; Căn cứ vào số thu (thuế )bình quân đầu người cả nước có tổng thu Ngân
sách địa phương và của từng địa phương; căn cứ vào chính sách phát triển vùng
động lực, khuyến khích và tạo iều kiện cho các địa phương xây dựng cơ sở hạ
tầng, phát triển kĩ thuật - xã hội ở các địa phương đặc biệt khó khăn. Riêng đối với
những địa phương có nguồn thu khá, thừa khả năng đảm bảo chi thường xuyên và
một phần chi đầu tư phát triển thì Nhà nước có thể xem xét bổ xung một phần cho
những công trình trọng điểm với quy mô lớn, đồng thời khuyến khích khai thác để
thu hồi vốn...
1.6 Hoàn thiện quy trình Ngân sách địa phương theo hướng tăng cường tính
độc lập tương đối của địa phương.
Muốn đảm bảo tính độc lập tương đối của địa phương trong việc lập, quyết
định dự toán, phân bố và phê chuẩn quyết toán Ngân sách địa phương, thì ngoài
việc quy định Quốc Hội chỉ quyết định và phân bổ dự toán Ngân sách TƯ, HĐND
quyết định và phân bổ dự toán Ngân sách địa phương, về phía Chính Phủ cần phải
bỏ cơ chế giao chỉ tiêu nhiệm vụ thu, chi cho các địa phương, thay vào đó là cơ
chế thu, chi theo luật - địa phương phải chấp hành, bởi vì, thu theo kế hoạch là nếp
làm quyen thuộc của thời kì nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế kế hoạch
hoá tập trung bao cấp, điều này dễ dẫn đến khả năng lạm thu, không khuyến khích
tích tụ vốn để đầu tư phát triển, nuôi dưỡng nguồn thu lâu dài
1.7 Đổi mới và hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý thu, chi Ngân sách
phường
Muốn thực hiện phân cấp thu, chi cho Ngân sách phường có hiệu quả phải
nhận thức đúng về Ngân sách phưòng, phải có sự quan tâm thường xuyên, chỉ đạo
kịp thời của các cấp chính quyền, bảo đảm thực hiện chặt chẽ nghiêm túc các
nhiệm vụ, chế độ, tiêu chuẩn định mức thu, chi Ngân sách phường.
2. Đổi mới quy trình thu thuế đối với các với các doanh nghiệp nhằm
nâng cao ý thức tự khai, tự tính, tự nộp cho doanh nghiệp
Ngiên cứu kết hợp tờ khai thuế đồng thời với việc thanh toán thuế, tiến tới
bỏ thông báo thuế, nâng cao ý thức tự giác thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của doanh
nghiệp, giảm chi phí hành thu thuế.
Hệ thống chính sách , thủ tục và các mẫu biểu quy định về thuế cần được
nghiên cứu cải tiến thống nhất, đơn giản, dẽ hiểu để các doanh nghiệp có thể thực
hiện việc tự tính tự khai thuế của mình một cách chính xác, đầy đủ và dễ dàng
hơn.Tổ chức sắp xếp lại bộ máy nghành thuế, bổ xung lực lượng cho đội ngũ cán
bộ thanh kiểm tra thuế, nâng cao chất lượng đội ngũ này. Bên cạnh đó, cần tăng
mức phạt và xử lý thật nghiêm những trường hợp vi phạm chế độ kê khai nộp
thuế, cần giao quyền cho cơ quan thuế khởi tố vụ án các vi phạm nghiêm trọng
của Luật thuế. Thành
lập bộ phận dịch vụ thuế của các doanh nghiệp tại các Cục thuế với chức năng giải
thích, hướng dẫn, trả lời các vướng mắc về chính sách cũng như các thủ tục kê
khai, tính thuế. Bên cạnh đó, cần phát triển dịch vụ tư vấn thuế. ở nứoc ta dịch vụ
này còn khá mới mẻ và chỉ có ít một số công ty tư vấn tài chính thực hiện tư vấn
thuế giúp ngưòi được tư vấn khai thuế sao cho số thuế phải nộp đúng theo Luật và
có thể "tiết kiệm"chi phí về thuế. Trên thực tế, có nhiều doanh ngiệp kinh doanh
nhiều ngành hàng khác nhau trong khi hệ thống thuế chưa đảm bảo được yêu cầu
đơn giản, dễ hiểu, dễ làm thì tư vấn thuế là hết sức cần thiết.
Cần ban hành Luật kế toán để các doanh nghiệp thực hiện chế độ sổ sách
chứng từ kế toán theo Luật, cơ quan thuế có căn cứ xác định nghĩa vụ thuế cũng
như thuận lợi trong việc điều tra, xử lý vi phạm về thuế. Cơ quan thuế cần trang bị
phương tiện làm việc hiện đại như máy tính và tiến hành kết nối thông tin với
KBNN. Mặc dù đây là một việc làm cần nhiều chi phí nhưng sẽ đem lại hiệu quả
thiết thực cho công tác quản lý thuế.
3. Tăng cưòng thanh tra tài chính.
Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền, nền kinh tế đang vận theo cơ
chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, Nhà nước điều hành và quản lý
vĩ mô nền kinh kinh tế, nên định hướng của công tác thanh tra nói chung, công tác
thanh tra tài chính nói riêng không thể vượt ra ngoài phạm vi chung nhất về
phương pháp quản lý một nền kinh tế thị trường. Công tác thanh tra tài chính phải
được phát triển để đáp ứng yêu cầu của Nhà nước về quản lý và điều hành vĩ mô
nền kinh tế. Thanh tra Tài chính tuy trực thuộc Bộ Tài chính nhưng là thanh tra
chuyên lĩnh vực Tài chính, khác với thanh tra nghành, ví dụ như thanh tra Ngân
hàng. Công tác thanh tra, kiểm tra Tài chính có thể thực hiện ở hầu hết các nghành
các cấp, các đơn vị cơ sở nhằm đảm bảo pháp luật, chế độ tài chính- kế toán được
chấp hành nghiêm chỉnh, giữ vững sự lãnh đạo vĩ mô của Nhà nước. Do vậy,
thanh tra Tài chính cần sớm được kiện toàn về mọi mặt cả về tổ chức cũng như số
lượng và chất lượng thanh tra viên. Đặc biệt là trontg tình hình hiện nay, khi mà
nạn tham nhũng, nạn lãng phí của công đang trở thành quốc nạn; hiện tượng mất
dân chủ ở địa phưong và cơ sở có nơi khá gay gắt thì cồng tác thanh kiểm tra,
giám sát càng cần nhanh chóng kiện toàn để trở thành công cụ quản lý sấc bén của
Nhà nước.
Công tác thanh tra Tài chính thời gian tới càng tập chung thì hiệu quả càng
cao. Hiện tại, theo cơ cấu tổ chức, ngoài thanh tra Tài chính ở Bộ Tài chính còn có
thanh tra thuế, thanh tra Kho bạc. Các hệ thống thanh tra này hoạt động chưa có
sự gấn kết với nhau, đôi khi còn chồng chéo dẫn tới giảm hiệu lực của công tác
thanh tra. Đi đôi với kiện toàn về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của thanh tra Tài
chính, pháp lệnh thanh tra được ban hành từ những năm 1990 đến nay cũng đã bộc
lộ nhiều vấn đề hạn chế càng được sửa đổi. Pháp lệnh sửa đổi cần phân định rõ
chức năng, nhiệm vụ cũng như mối quan hệ giữa các cơ quan thanh tra, tránh tình
trạng người đi thanh kiểm tra về Tài chính - kế toán lại không am hiểu gì về công
tác Tài chính -kế toán . Việc lựa chọn cán bộ làm
cồng tác thanh tra và nâng cao năng lực thanh tra viên nhằm nâng cao uy tín của tổ
chức thanh tra củng là một trọng tâm mà thời gian tới phải làm .
4. Công khai Ngân sách
Công khai Ngân sách là một nội dung quan trọng trong tiến trình cải cách
Ngân sách nằm đánh giá, kiểm tra, quản lý Ngân sách một cách khách quan. Ngày
20/11/1998, TTCP đã ra Quyết định số 225/1998/QĐ-TTg về việc ban hành quy
chế công khai Tài chính đối với NSNN các cấp đơn vị dự toán Ngân sách, các
doanh nghiệp Nhà nước và các quỹ có nguồn thu từ các khoản đóng góp của nhân
dân. Tuy nhiên, để quyết định này thực sự đi vào cuộc sống cần phải thực hiện các
công việc sau: - Các tổ
chức, cá nhân được phân công trách nhiệm công khai Ngân sách của cấp mình
phải thực sự thấy được sự cần thiết và lợi ích đối với công khai Ngân sách Nhà
nước, từ đó tổ chức thực hiện theo đúng quy định của Thủ tướng Chính phủ.
- Trong pham vi quyền hạn, nhiệm vụ của mình, cơ quan quản lý Nhà nước
có trách nhiệm kiểm tra việc thực hiện; các tổ chức đoàn thể, các tổ chức xã hội và
nhân dân giám sát việc thực hiện. Tuyên truyền cho các cán bộ công nhân viên,
các tầng lớp nhân dân thấy được lợi ích và phải có trách nhiệm trong việc giám sát
việc thực hiện quản lý, công khai Ngân sách của cơ quan và của địa phương mình.
- Phải có hình thức xử phạt nghiêm khắc đối với những tổ chức, cá nhân
không thực hiện đúng các quy định về công khai Ngân sách.
-Việc ban hành quyết định này cùng với việc thực hiện quy chế dân chủ ở
cơ sở đã thể hiện được đường lối của Đảng là dân biết, dân làm, dân kiểm tra;
Thực hiện công bằng, dân chủ trong công tác quản lý Ngân sách Nhà nước, góp
phần thực hiện chính sách tiết kiệm, chống lãng phí đẩy lùi tệ tham nhũng, quan
liêu.
5. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách giá cả nhằm góp phần cân
đối Ngân sách .
Giá cả là một chỉ tiêu quan trọng của nền kinh tế, biểu hiện tình
trạng kinh tế, tình trạng Ngân sách. Để ổn định giá cả từ đó tạo cân đối cho Ngân
sách cần phải làm tốt các công việc sau:
Một là, bình ổn được giá cả thị trường để góp phần ổn định nguồn thu, chi
Ngân sách.
Hai là, tăng cường quản lý giá bằng các hình thức thích hợp như:
Thực hiện quy chế thẩm định giá, và đấu thầu trong việc sử dụng nguồn vốn Ngân
sách mua sắm các thiết bị, vật tư, tài sản sẽ góp phần làm giảm chi Ngân sách,
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
Trong thời gian tới, cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan giá
cả và cơ quan Tài chính trong việc quản lý chi mua sắm tài sản của các cơ quan
hành chính sự nghiệp, đặc biệt là chi mua sắm máy thiết bị tài sản trong các dự án
đầu tư xây dựng cơ bản thì chắc chắn sẽ giảm được chi Ngân sách và nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
Ngoài ra, việc quản lý chặt chẽ chi cho đền bù thiệt hại khi
thu hồi đất giải phóng mặt bằng xây dựng, chi cho việc thực hiện chính sách trợ
giá, trợ cước vận chuyển hàng hoá cho miền núi, hải đảo, đồng bào dân tộc; chi
trợ giá cho việc thực hiện chính sách xã hội, công tác tuyên truyền...Thông qua
việc kết hợp chặt chẽ giảm quản lý giá cả và quản lý Tài chính thì cũng sẽ giảm
được chi cho Ngân sách, bảo đảm thực hiện chi đúng chính sách, sử dụng nguồn
vốn trợ giá, trợ cước có hiệu quả.
Ba là, phát huy mạnh mẽ vai trò, chức năng quản lý giá cả nhằm thúc đẩy
tăng năng suất lao động, giảm chi phí nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh
nghiệp, từ đó tăng thu cho Ngân sách.
Tóm lại, quá trình đổi mới, hoàn thiện chính sách giá, cơ chế quản lý giá và
hệ thống giá ở nước ta trong thời gian vừa qua đã góp phần giải quyết một phần
khó khăn cho Ngân sách Nhà nước. Trong thời gian tới, dưói sự chỉ đạo trực tiếp
của Chính Phủ, ngành giá sẽ có sự kết hợp chặt chẽ hơn với ngành Tài chính để
thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về giá cả, góp phần thực hiện tốt các chỉ
tiêu phát triển kinh tế -xã hội.
6.Hoàn thiện cơ chế sổ sách hoá đơn chứng từ.
Công tác sổ sách hoá đơn chứng từ là việc ghi chép, phản ánh điều
hành, quản lý, sử dụng Ngân sách. Nó là công cụ để các cấp Ngân sách nhìn nhận,
xem xét lại việc quản lý Ngân sách của mình và dự kiến kế hoạch Ngân sách năm
sau. Đó cũng là phương tiện tối ưu dể thực hiện kiểm tra, thanh tra công tác Ngân
sách.
Tuy nhiên, trong tình hình mới đã có nhiều thay đổi, chế độ sổ sách, hoá
đơn, chứng từ đã không còn phù hợp nữa, tạo trở ngại trong kế toán Ngân sách.
Do vậy, đề nghị các cơ quan có thẩm quyền, nhiệm vụ nhanh chóng sửa đổi, bổ
xung những bất cập, lạc hậu cho phù hợp, tiện lợi.
kết luận Nâng
cao hiệu quả quản lý Ngân sách Quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội là tất yếu,
đó là một quá trình lâu dài, gian khổ, đòi hỏi sự nỗ lực phát huy của mỗi cá nhân,
mỗi cấp, mỗi nghành. Thế nhưng, trước hết, mỗi cán bộ quản lý Ngân sách phải
không ngừng trau dồi cả tài và đức của mình. Tiếp đến, là những chỉ đạo, điều tiết
của các cấp chức năng.
Tóm lại, nâng cao hiệu quả quản lý Ngân sách không chỉ riêng ở cấp quận
mà phải được thực hiện ở tất cả các cấp nhằm phát huy tối đa Tài chính quốc gia,
góp phần đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quận Hai Bà Trưng với tư
cách là một cấp Ngân sách, đã, đang và sẽ không ngừng hoàn thiện hệ thống quản
lý Ngân sách của mình trên toàn bộ các mặt. Cùng với sự tâm huyết, quan tâm của
quần chúng nhân dân, nhất định Ngân sách Quận sẽ thúc đẩy kinh tế của Quận
phát triển.
Trang
Mở Đầu 1
Chương I Một vài vấn đề lý thuyết về ngân sách Quận - Huyện 3
I Khái quát Ngân sách nhà nước(NSNN) 3
1. Khái niệm NSNN 3
2. Bản chất NSNN 5
3. Vai trò của NSNN 5
3.1. Ngân sách tiêu dùng: Công cụ bảo đảm thực hiện chức năng 5
Nhà nước công quyền và bảo vệ tổ quốc
3.2. Ngân sách phát triển: Công cụ thúc đẩy tăng trưởng, ổn định 6
và điều khiển kinh tế vĩ mô của Nhà nước
3.3. NSNN: Công cụ bù đắp những khiếm khuyết của thị trường, 6
đảm bảo công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái
4. Chức năng của NSNN 7
4.1. Chức năng phân phối 7
4.2. Chức năng giám đốc 5
5. Tổ chức hệ thống ngân sách nhà nước 5
5.1. Nguyên tắc thống nhất 9
5.2. Nguyên tắc tập trung dân chủ 9
6. Tổ chức hệ thống NSNN ở Việt Nam 9
7. Phân cấp quản lý NSNN 10
7.1. Nguyên tắc phân cấp quản lý NSNN 10
7.2. Nội dung phân cấp quản lý NSNN 10
8. Năm ngân sách và chu trình ngân sách 10
8.1. Năm ngân sách 10
8.2. Chu trình ngân sách 11
II. Cấp ngân sách Quận -Huyện 11
1. Khái niêm và lịch sử hình thành 11
2. Vai trò của Ngân sách Quận –Huyện 13
2.1. Ngân sách Quận -Huyện - bảo đảm thực hiện chức năng Nhà 13
nước, bảo vệ an ninh trật tự cấp Quận Huyện
2.2. Ngân sách Quận -Huyện -Công cụ thúc đẩy, phát triển ổn 14
định kinh tế
2.3. Ngân sách Quận -Huyện - Phương tiện bù đắp khiếm khuyết 14
thị trường, đảm bảo công bằng xã hội, gìn giữ môi trường
3. Chức năng của Ngân sách Quận -Huyện 15
3.1. Chức năng phân phối của Ngân sách Quận -Huyện 15
3.2. Chức năng giám đốc của Ngân sách Quận -Huyện 15
4. Nội dung Ngân sách Quận – Huyện 16
4.1. Nội dung thu Ngân sách Quận –Huyện 16
4.2. Nội dung chi của Ngân sách Quận –Huyện 19
4.3. Cân đối Ngân sách Quận -Huyện 24
5. Nội dung quản lý Ngân sách Quận –Huyện 25
5.1. Lập dự toán Ngân sách Quận -Huyện 26
5.2 Chấp hành Ngân sách Quận Huyện 29
5.3. Kế toán và quyết toán Ngân sách Quận -Huyện 32
6. Tính tất yếu của công tác quản lý Ngân sách Quận - Huyện 33
7. Các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến quản lý Ngân sách 34
Quận –Huyện
7.1. Yếu tố giá cả 35
7.2. Các nhân tố tác động đến sự tăng, giảm của tổng sản phẩm 35
quốc dân (GNP)
7.3. Các yếu tố về văn hoá, chính trị, xã hội 35
Chương II. Thực trạng công tác quản lý Ngân sách Quận Hai Bà Trưng, 36
Thành phố Hà Nội trong những năm qua (1999-2001 )
I. Một số đặc trưng về kinh tế, văn hoá, xã hội của Quận Hai Bà 36
Trưng
1. Về địa lý hành chính 36
2. Về kinh tế 36
3. Về văn hoá -xã hội 37
II. Thực trạng công tác quản lý Ngân sách Quận Hai Bà Trưng, 37
Thành phố Hà Nội ( 1999-2001 )
1. Công tác thu Ngân sách 37
2. Công tác chi Ngân sách Quận 39
3. Tình hình cân đối Ngân sách 40
4. Công tác khai thác nguồn thu Ngân sách trên địa bàn 41
III. Một vài đánh giá về công tác quản lý Ngân sách Quận Hai 41
Bà Trưng
1. Những thành tựu 41
2. Hạn chế 43
3. Nguyên nhân của hạn chế 45
3.1. Những nguyên nhân chủ quan 45
3.2. Những nguyên nhân khách quan 45
Chương III. Một vài biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý 46
Ngân sách Quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội
I. Định hưóng chung 46
II. Một số giải pháp 49
1. Xây dựng, lập dự toán Ngân sách phải chính xác chi tiết, 49
tránh thâm hụt
2. Không ngừng tăng cường kiểm tra, kiểm soát lại tất cả các 50
nguồn thu
3. Tạo dựng, khai thác, phát triển nguồn thu mới 51
4. Tổ chức quản lý thu một cách khoa học, chính xác, đơn giản, 52
dễ hiểu
5. Tăng cường hiệu quả chi Ngân sách Quân, giám sát, giảm 52
thiểu những khoản chi lãng phí, vô ích. Chấp hành đúng dự
toán
6. Phòng chống, khắc phục triệt để các sai phạm trong các đơn 54
vị hành chính sự nghiệp của Quận
55 7. Nâng cao vai trò kiểm soát chi qua Chi cục Kho bạc
56 8. Hoàn thiện một số vấn đề chủ yếu trong cơ chế quản lý Ngân
sách phường
9. Nâng cao chất lượng cán bộ nhân viên, không ngừng đào tạo 57
mới và đào tạo lại nguồn nhân lực
59 III. Kiến nghị
59 1. Hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý Ngân sách Nhà nước tạo
thế chủ động tối đa cho chính quyền cơ sở nói chung và
chính qưyền Quận nói riêng
2. Đổi mới quy trình thu thuế đối với các với các doanh nghiệp 65
nhằm nâng cao ý thức tự khai, tự tính, tự nộp cho doanh
nghiệp
3. Tăng cưòng thanh tra tài chính 66
4. Công khai Ngân sách 67
5. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách giá cả nhằm góp 68
phần cân đối Ngân sách
6. Hoàn thiện cơ chế sổ sách hoá đơn chứng từ 69
70 Kết luận
71 Tài liệu tham khảo