intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nghiên cứu tạo và đánh giá biofilm của Staphylococus aureus trên một số bề mặt vật liệu

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

2
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu được thiết kế để tạo và đánh giá biofilm của Staphylococcus aureus trên 4 bề mặt inox, nhôm, kính, nhựa polystyren, với mong muốn ứng dụng để nghiên cứu các hoạt chất kháng biofilm của vi sinh vật trên các bề mặt này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nghiên cứu tạo và đánh giá biofilm của Staphylococus aureus trên một số bề mặt vật liệu

  1. Journal of Pharmaceutical Research and Drug Information 2025; 00(00); 000–000 Journal homepage: jprdi.vn/JP Journal of Pharmaceutical Research and Drug Information An official journal of Hanoi University of Pharmacy Research article Formation and evaluation of Staphylococcus aureus biofilm on some material surfaces Tiep Khac Nguyena*, Vu Thanh Lapa a Faculty of Biotechnology, Hanoi University of Pharmacy, Hanoi, Vietnam * Corresponding author: Tiep Khac Nguyen [0904771009, tiepnk@hup.edu.vn] Article history: Received 12 November 2024 Resived 14 December 2024 Accepted 21 December 2024 ABSTRACT This study aimed to develop and evaluate Staphylococcus aureus biofilms on four materials: inox, aluminum, glass, and polystyrene, with the goal of developing a reliable model for testing anti-biofilm compounds on these materials. After being incubated at 37°C for 24h, S. aureus ATCC 33591, at a initial concentration of 7 log10 CFU/mL in Tryptic Soy Broth supplemented with 1% glucose and 2% sodium chloride, formed mature biofilms on all surfaces. In these biofilms, bacterial viability and total biomass were unchanged after at least 48h, so they may be utilized to evaluate the efficacy of anti- biofilm compounds. These 24-hour biofilms were further evaluated for physical stability and protective ability against antibiotics. All biofilms demonstrated physical stability; after three washes with phosphate-buffered saline solution, the viable bacteria within the biofilm decreased insignificantly, and the overall biomass remained unchanged. These biofilms were also capable of protecting inside bacteria against antibiotic pressure. Following exposure to moxifloxacin at a Cmax concentration of 4 mg/L for 24h, none of the biofilms exhibited a reduction of up to 1 log10 CFU/mL, and the overall biomass remained unchanged, while this antibiotic can eliminate over 3 log10 CFU/mL of planktonic bacteria. Biofilms on these surfaces can be used to evaluate the anti-biofilm efficacy of bioactive compounds following screening on 96-well polystyrene plates. Keywords: Biofilm formation, Staphylococus aureus, materials surface. 1 http://doi.org/10.59882/1859-364X/261
  2. Journal of Pharmaceutical Research and Drug Information 2025; 00(00); 000–000 Journal homepage: jprdi.vn/JP Journal of Pharmaceutical Research and Drug Information An official journal of Hanoi University of Pharmacy Bài Nghiên cứu Nghiên cứu tạo và đánh giá biofilm của Staphylococus aureus trên một số bề mặt vật liệu Nguyễn Khắc Tiệpa*, Vũ Thành Lậpa a Khoa Công nghệ sinh học, Trường Đại học Dược Hà Nội 13-15 Lê Thánh Tông, Hoàn Kiếm, Hà Nội Tác giả liên hệ: Tiep Khac Nguyen [0904771009, tiepnk@hup.edu.vn] Ngày gửi bài: 12/11/2024 Ngày nhận bản sửa: 14/12/2024 Ngày chấp nhận đăng: 21/12/2024 TÓM TẮT Nghiên cứu được thiết kế để tạo và đánh giá biofilm của Staphylococcus aureus trên 4 bề mặt inox, nhôm, kính, nhựa polystyren, với mong muốn ứng dụng để nghiên cứu các hoạt chất kháng biofilm của vi sinh vật trên các bề mặt này. Nghiên cứu sử dụng tụ cầu vàng S. aureus ATCC 33591, với nồng độ ban đầu 107 CFU/ml, được nuôi cấy trong môi trường Tryptic Soy Broth có bổ sung glucose 1% và natri clorid 2%, cho khả năng tạo biofilm hoàn chỉnh sau 24 giờ ủ ở 37°C, trên cả 4 bề mặt. Biofilm tạo thành trên các bề mặt đều ổn định ít nhất 48 giờ, cả về số lượng vi sinh vật sống trong biofilm và tổng sinh khối biofilm, phù hợp cho đánh giá các hoạt chất kháng biofilm. Các biofilm 24h được đánh giá về mặt vật lý và khả năng bảo vệ vi sinh vật trong biofilm khi tiếp xúc với kháng sinh. Các biofilm này ổn định về mặt vật lý, sau khi rửa 3 lần với đệm PBS, lượng vi sinh vật trong biofilm không thay đổi và tổng sinh khối giảm một lượng không đáng kể. Các biofilm cũng có khả bảo vệ tốt vi sinh vật bên trong khi tiếp xúc với kháng sinh. Sau khi tiếp xúc 24 h với moxifloxacin nồng độ Cmax, không một mẫu nào bị giảm đến 1 log10 CFU/ml, trong khi nồng độ này có thể diệt hơn 3 log10 CFU/ml với vi khuẩn ở dạng tự do. Biofilm trên các bề mặt này có thể ứng dụng để nghiên cứu các hoạt chất có khả năng kháng biofilm, sau sàng lọc cơ bản trên đĩa 96 giếng. Keywords: Tạo biofilm, Staphylococcus aureus, bề mặt. 2 http://doi.org/10.59882/1859-364X/261
  3. Nguyễn Khắc Tiệp và cộng sự JPRDI 2025; 00(00); 000 - 000 Đặt vấn đề Staphylococcus aureus là một vi khuẩn gây bệnh cơ hội, là một trong những tác nhân gây bệnh nguy hiểm, liên quan đến các nhiễm trùng cộng đồng cũng như nhiễm trùng bệnh viện. S. aureus tồn tại tự nhiên trên cơ thể tóc, da và niêm mạc hay các hốc tự nhiên của cơ thể như mũi, cổ họng của người, và thường không gây bệnh với những người khỏe mạnh. S. aureus có thể gây nên những nhiễm khuẩn từ nhẹ trên da, đến những nhiễm khuẩn hô hấp, hay những nhiễm khuẩn nặng hơn như nhiễm trùng vết mổ, các bộ phận cấy ghép, các nhiễm khuẩn tim mạch, nhiễm khuẩn huyết [1]. Việc điều trị nhiễm trùng do S. aureus gặp nhiều khó khăn, không chỉ do vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh với tỷ lệ cao, sự đa dạng của các yếu tố độc lực, mà còn do khả năng hình thành biofilm trên các bề mặt khác nhau của vi khuẩn này [2, 3]. Biofilm là một cộng đồng vi sinh vật phức tạp được gắn vào một bề mặt tự nhiên hoặc nhân tạo, được bao bọc bởi một chết nền ngoại bào nội sinh. Về cơ bản, chất nền ngoại bào này được cấu tạo từ polysaccharid, ADN ngoại bào (eDNA) và các protein của vi sinh vật sinh ra hoặc từ xác vi sinh vật, với cấu trúc, số lượng phụ thuộc nhiều vào chủng vi sinh vật cũng như điều kiện hình thành [4]. Vi sinh vật trong biofilm có khả năng chống chịu được các điều kiện khắc nghiệt cũng như các phương pháp điều trị thông thường với kháng sinh [4,5]. Khả năng chống chịu lại tác động của kháng sinh xuất phát từ cả yếu tố dược động học và yếu tố dược lực học. Trước hết, chất nền ngoại bào cản trở sự tiếp xúc của kháng sinh với vi sinh vật, dẫn tới kháng sinh có nồng độ thấp, không đủ để diệt vi sinh vật. Ngay cả khi nồng độ kháng sinh đủ cao khi tiếp xúc với vi sinh vật, đáp ứng của các vi sinh vật trong biofilm với kháng sinh vẫn rất hạn chế. Dưới ảnh hưởng của sự thiếu hụt của dinh dưỡng và oxy, sự dày đặc về mật độ vi sinh vật, các vi sinh vật trong biofilm có xu hướng chuyển sang trạng thái ngủ, và giảm đáp ứng với nhiều loại kháng sinh khác nhau [4-7]. Biofilm được cho rằng liên quan đến các bệnh mạn tính cũng như các thất bại trong điều trị nhiễm khuẩn do sự kém đáp ứng của vi khuẩn trong biofilm với kháng sinh [4, 5]. S. aureus có thể hình thành biofilm trên rất nhiều bề mặt khác nhau, từ các bề mặt sinh học cho đến nhân tạo như ống thông tĩnh mạch, van tim giả, khớp giả, ống thông lọc màng bụng, máy tạo nhịp tim, ống nội khí quản…, gây áp lực lớn cho việc chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Biofilm liên quan đến 65-80% trường hợp nhiễm khuẩn ở người, đặc biệt là những bệnh có biểu hiện dai dẳng hoặc tái phát [3, 4]. Việc nghiên cứu sự hình thành biofilm trên các bề mặt sẽ chỉ ra được khả năng và mức độ hình thành biofim trên các bề mặt khác nhau của S. aureus. Nghiên cứu này cũng sẽ đem đến một mô hình để đánh giá về tác động của các mẫu thử lên biofilm của S. aureus trên những bề mặt này, với mục đích tìm kiếm các ứng viên tiềm năng để diệt vi sinh vật trong biofilm nói chung và S. aureus trong biofilm trên các bề mặt này nói riêng. Nguyên liệu và Phương pháp nghiên cứu Nguyên liệu Chủng giống: Tụ cầu vàng kháng methicillin (Methicillin-resistant Staphylococcus aureus- MRSA) S. aureus ATCC 33591, được bảo quản ở -80ºC, tại Khoa Công nghệ sinh học, Trường Đại học Dược Hà Nội. Chủng được sử dụng dựa trên khả năng tạo biofilm mạnh, ổn định trên đĩa 96 giếng polystyren ở các nghiên cứu trước của cùng nhóm nghiên cứu [6-8]. Môi trường nuôi cấy: Môi trường Tryptic Soy Broth (TSB), môi trường thạch Tryptic soy Agar (TSA) từ Himedia (Ấn độ). Môi trường TGN (Tryptic Soy Broth- Glucose – NaCl) được chuẩn bị trên cơ sở môi trường Trytic Soy Broth, bổ sung 2% glucose và 1% natri clorid. Môi trường này được lựa chọn dựa trên các nghiên cứu đã thực hiện trước đây của cùng nhóm nghiên cứu [6-8]. Hóa chất, dụng cụ: Tím tinh thể (Crystal violet - CV) từ Merck (Đức). Glucose, natri clorid, đĩa 3
  4. Nguyễn Khắc Tiệp và cộng sự JPRDI 2025; 00(00); 000 - 000 Petri, dụng cụ thủy tinh và các hóa chất thông dụng khác của Trung Quốc, đạt tiêu chuẩn tinh khiết hóa học. Đĩa 96 giếng của Aptaca (Italya) và đĩa 6 giếng của SPL (Hàn Quốc). Các micropipet đơn kênh của AHL (Đức). Máy đọc vi đĩa huỳnh quang và tử ngoại VarioskanLUX (Thermofisher) và các máy móc, dụng cụ, thiết bị khác của phòng thí nghiệm. Các bề mặt: Inox 304, kích thước 1×20×20 mm, được cắt ra từ tấm lớn mua tại công ty Inox Chín Hà; Nhôm 6061, kích thước 1×20×20 mm, được cắt ra từ tấm lớn mua tại công ty Dave’s store; Polystyren bề mặt nhẵn, kích thước 1×20×20 mm, cắt tá từ tấm lớn, mua tại SC home; Bề mặt kính là miếng lamen thuỷ tinh, kích thước 0,15×20×20 mm, của Sail Brand (Trung quốc). Các bề mặt này được cung cấp bởi Phòng thí nghiệm Hoá học vật liệu, Khoa Hoá, Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nuôi cấy tạo biofilm của S. aureus lên các bề mặt: Biofilm được tạo trên các bề mặt bằng vi sinh vật được nuôi cấy trong môi trường tĩnh, trong môi trường TGN ở 37°C, trong 24 giờ và 48 giờ. Chuẩn bị hỗn dịch vi sinh vật trong đệm PBS vô khuẩn (Phosphate Buffered Saline, pH 7.4), để được OD bằng 0,5 khi đo ở bước sóng λ= 600 nm, pha loãng 100 lần trong môi trường nuôi cấy TGN để có nồng độ vi khuẩn tương đương 107 CFU/ml. Các bề mặt inox, nhôm, kính, nhựa được đặt nằm trong đĩa Petri có 20 ml môi trường TGN. Ủ tĩnh trong tủ ấm 37°C và đánh giá biofilm ở các thời điểm 24 giờ và 48 giờ. Phương pháp thử nghiệm các biofilm với tác động vật lý Biofilm 24h được đánh giá sơ bộ độ bền vật lý, các biofilm chứng và biofilm thử nghiệm được tạo trên cùng đĩa Petri, sau đó được chọn ngẫu nhiên để làm mẫu chứng và mẫu thử nghiệm. Trong thí nghiệm này, biofilm thử nghiệm được rửa bằng dung dịch PBS bằng cách xịt trực tiếp lên biofilm bằng bình xịt đường kính vòi phun 0,6 mm, thể tích phun mỗi lần phun: 1,2±0,1 ml (theo thông số của nhà sản xuất). Biofilm thử nghiệm được để cách vòi xịt 5 cm, thực hiện 3 lần liên tục. Sau đó, các biofilm trên sẽ được đánh giá về tổng sinh khối và lượng vi sinh vật sống trong biofilm Phương pháp thử nghiệm các biofilm với tác động của kháng sinh Biofilm 24h được đánh giá khả năng bảo vệ vi sinh vật trong biofilm trước tác động của kháng sinh. Biofilm thử nghiệm và biofilm chứng được chuẩn bị tương tự như trên thử nghiệm tác động vật lý. Biofilm thử nghiệm tiếp xúc với kháng sinh moxifloxacin nồng độ Cmax=4 mg/l (nồng độ cao nhất trong máu người, khi được điều trị với liều cơ bản), trong TGN [6, 9]. Trong khi đó mẫu chứng được tiếp xúc với môi trường nuôi cấy TGN không bổ sung kháng sinh. Mẫu được ủ tĩnh 24 giờ, trong tủ ấm 37°C. Sau đó, các biofilm trên sẽ được đánh giá về tổng sinh khối và lượng vi sinh vật sống trong biofilm. Đánh giá lượng vi sinh vật sống trong biofilm Mẫu biofilm cần xác định vi sinh vật sống trong biofilm được rửa nhẹ nhàng 2 lần trong đệm PBS. Vi sinh vật sau đó được phá ra khỏi biofilm với 1 ml nước cất vô khuẩn, hút và nhả với pipet, sau đó được lắc xoáy 1 phút và siêu âm 1 phút để tách rời hoàn toàn các vi khuẩn. Mẫu sau đó sẽ được pha loãng trong PBS trên đĩa 96 giếng theo cấp số log10 đến nồng độ phù hợp. Khuẩn lạc sẽ được đếm sau khi cấy trải và ủ 24 giờ ở 37℃ trên môi trường thạch Tryptic soy agar (TSA). Lượng vi sinh vật trong mẫu được tính toán dựa trên số lượng khuẩn lạc trên đĩa và nồng độ pha loãng, được biểu thị dưới dạng log10 CFU/ml [6-8]. Đánh giá tổng lượng sinh khối biofilm Tổng lượng sinh khối biofilm sẽ được đánh giá thông qua việc nhuộm với tím tinh thể (Crystal violet - CV) và đo hấp thụ. Mẫu biofilm được rửa nhẹ nhàng 2 lần với PBS. Biofilm sau đó sẽ được sấy khô để cố định ở 60℃ trong 2 giờ. Mẫu sau đó sẽ được nhuộm với tím tinh thể (nồng độ 50 mg/l) trong 15 phút, ở nhiệt độ phòng, tránh ánh sáng. Lượng CV dư, không bám vào biofilm sẽ được loại bằng cách rửa nhẹ nhàng với nước RO. CV bám biofilm sẽ được hòa tan trong acid acetic 66% trong vòng 1 tiếng, 4
  5. Nguyễn Khắc Tiệp và cộng sự JPRDI 2025; 00(00); 000 - 000 trong các đĩa 6 giếng, tránh ánh sáng. Các mẫu sẽ được chuyển vào các đĩa 96 giếng, 200 µl/giếng, để thực hiện đo hấp thụ UV tại bước sóng 570 nm trên máy đọc vi đĩa VarioskanLUX [6-8]. Kết quả nghiên cứu và bàn luận Tạo biofilm trên các bề mặt khác nhau Nghiên cứu đã tạo được biofilm của S. aureus ATCC 33591 trên tất cả 4 bề mặt nghiên cứu (inox, nhôm, kính, nhựa polystyren). Với cả 4 bề mặt, sau 24 giờ ủ, S. aureus ATCC 33591 đều tạo biofilm trưởng thành. Các biofilm này ổn định trong ít nhất 24 giờ tiếp theo, đảm bảo cho thử nghiệm biofilm với các tác nhân kháng biofilm. Cụ thể, ở 24 giờvà 48 giờ tổng sinh khối biofilm thể hiện qua giá trị độ hấp thụ CV lần lượt khoảng 2,63-2,90 và 2,81-3,36; lượng vi khuẩn trong biofilm lần lượt khoảng 6,35-6,97 và 6,48-7,23 log10 CFU/ml. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về cả tổng sinh khối và lượng vi sinh vật giữa thời điểm ban đầu 0h và các thời điểm 24 giờ và 48 giờ (p < 0,05, t-test). Không quan sát thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về các các chỉ tiêu đánh giá biofilm, khi so sánh (i) biofilm 24 giờ và 48 giờ trên mỗi bề mặt và (ii) biofilm trên các bề mặt khác nhau, ở cùng thời điểm (xem Hình 1). Các hợp kim inox và nhôm được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực y tế như các thiết bị cấy ghép nha khoa, xương khớp, tim mạch. Nhựa polystyren cũng được sử dụng rộng rãi trong các thiết bị như dây truyền dịch, ống thống nước tiểu, ống thông tĩnh mạch. Nghiên cứu này xác nhận lại việc S. aureus có thể tạo biofilm trên các bề mặt inox, nhôm, nhựa polystyren, kính, trong điều kiện in vitro, phần nào thể hiện khả năng của chúng có thể tạo biofilm ở cả trên các yếu tố cấy ghép trên, trong cơ thể người. Trên một khía cạnh tiếp cận khác, tạo biofilm trên vật liệu kính sẽ cho phép các nghiên cứu chuyên sâu hơn về cấu trúc biofilm cũng như tác động của mẫu thử trên biofilm, thực hiện bởi các dạng kính hiển vi phù hợp [6, 7,10]. Hình 1. Khả năng tạo biofilm của S. aureus trên 4 bề mặt tại các thời điểm 0 giờ, 24 giờ và 48 giờ. A. Sinh khối biofilm thể hiện qua giá trị độ hấp thụ, sau khi nhuộm biofilm với tím tinh thể (CV). B. Lượng vi sinh vật sống trong biofilm thể hiện quá giá trị log10 CFU/ml. Giá trị p 0,05 (t-test), không có khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các mẫu ở thời điểm 24 giờ và 48 h. Độ bền của biofilm dưới tác động vật lý 5
  6. Nguyễn Khắc Tiệp và cộng sự JPRDI 2025; 00(00); 000 - 000 Biofilm 24 giờ được trực tiếp đem đánh giá độ bền vật lý bằng cách xịt rửa với dung dịch PBS. Sau khi xịt rửa, biofilm được đánh giá lại về tổng sinh khối và lượng vi sinh vật sống trong biofilm, so sánh với mẫu chứng không có tác động vật lý. Trên tổng lượng biofilm, quan sát thấy một sự giảm về giá trị sinh khối, ở các mẫu có xịt rửa, so với các mẫu không có tác động, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê, ở tất cả các nhóm mẫu (p > 0,05, t-test). Trên giá trị lượng vi sinh vật sống trong biofilm, nghiên cứu không quan sát thấy sự khác biệt giữa 2 nhóm, tất cả các cặp biofilm chứng- biofilm xịt rửa đều không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 0,05, t-test) (xem Hình 2) Sơ bộ có thể thấy biofilm 24 giờ tương đối ổn định với các tác động vật lý nhẹ như khi được xịt rửa với bình xịt thông thường. Độ bền này tạo điều kiện dễ dàng cho các thử nghiệm trên đối tượng này, tránh được các sai số trong quá trình thao tác. Hình 2. Độ bền của biofilm trên các bề mặt dưới tác động vật lý bằng xịt rửa. A. Sinh khối biofilm thể hiện qua giá trị độ hấp thụ, sau khi nhuộm biofilm với tím tinh thể (CV). B. Lượng vi sinh vật sống trong biofilm biểu hiện dưới dạng log10 CFU/ml. Giá trị p > 0,05 (t-test) với tất cả các cặp mẫu biofilm chứng- biofilm xịt rửa. Khả năng bảo vệ của biofilm với vi khuẩn dưới tác động của kháng sinh Biofilm 24 giờ được đem thử nghiệm với kháng sinh, để đánh giá khả năng bảo vệ của biofilm với đối tượng vi sinh vật. Nghiên cứu sử dụng moxifloxacin, một trong những kháng sinh có tác dụng tốt nhất trên đối tượng biofilm S. aureus [6, 7, 10], với nồng độ sử dụng tương đương với nồng độ tối đa của kháng sinh này trong máu người (Cmax) tương đương 4 mg/l [9]. Biofilm 24 giờ sẽ được cho tiếp xúc 24 giờ với kháng sinh thử nghiệm, biofilm trên các bề mặt sau đó được đánh giá các chỉ tiêu. Kết quả như trong Hình 3. Trên tổng lượng biofilm, không quan sát thấy khác biệt giữa hai nhóm có tiếp xúc kháng sinh moxifloxacin và nhóm chứng không tiếp xúc kháng sinh (p > 0,05). Kết quả này tương đồng với các nghiên cứu tác dụng của moxifloxacin trên biofilm của S. aureus, khi mà moxifloxacin không có tác dụng trên tổng sinh khối biofilm [6, 7, 10]. Trên giá trị lượng vi sinh vật sống trong biofilm, nghiên cứu quan sát thấy tác dụng bảo vệ của biofilm với các vi sinh vật trong đó. Với biofilm trên tất cả các vật liệu, moxifloxacin hoạt động kém và không diệt được đến 1 log10 CFU/ml, trong khi moxifloxacin dễ dàng diệt > 3 log10 CFU/ml với S. aureus ở 6
  7. Nguyễn Khắc Tiệp và cộng sự JPRDI 2025; 00(00); 000 - 000 dạng tự do. Kết quả này tương tự với tác dụng moxifloxacin trên đối tượng S. aureus trên đĩa 96 giếng [6, 7, 10]. Hình 3. Khả năng bảo vệ vi khuẩn của biofilm khi tiếp xúc với kháng sinh moxifloxacin. A. Sinh khối biofilm thể hiện qua giá trị độ hấp thụ, sau khi nhuộm biofilm với tím tinh thể (CV). B. Lượng vi sinh vật sống trong biofilm thể hiện dưới dạng log10 CFU/ml. Với cả 4 bề mặt, trên tổng sinh khối, giá trị p > 0,05 (t-test); trên lượng vi sinh vật sống, giá trị p < 0,05 (t-test), khi so sánh mẫu biofilm không KS và biofilm tiếp xúc với moxifloxacin. Kết luận Nghiên cứu đã tạo được biofilm của S. aureus trên 4 bề mặt inox, nhôm, kính, nhựa polystyren. S. aureus tạo biofilm trưởng thành sau 24 giờ ủ trong môi trường lỏng TSB có bổ sung glucose và natri clorid, tại 37°C. Biofilm này có độ bền nhất định với tác động vật lý như xịt rửa và có khả năng bảo vệ vi sinh vật trong biofilm với tác động của kháng sinh. Biofilm ổn định trong ít nhất 24 giờ tiếp theo. Việc tạo nên một biofilm ổn định trên các bề mặt này cho phép thực hiện các đánh giá hoạt tính kháng biofilm trên các bề mặt này, góp phần sàng lọc, tìm kiếm các ứng viên có hoạt tính kháng biofilm S. aureus nói chung cũng như biofilm trên các bề mặt này nói riêng. Lời cảm ơn Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) trong đề tài mã số 108.06-2021.31. Nghiên cứu cảm ơn sự hỗ trợ thực nghiệm của Nguyễn Thị Lan Anh và Nguyễn Thị Như Quỳnh, học viên cao học khóa 28 và 29, Trường Đại học Dược Hà Nội. Xung đột lợi ích Không. Tài liệu tham khảo 1. Gordon YCC, Justin SB, Otto M, Pathogenicity and virulence of Staphylococcus aureus, Virulence, 2021; 12(1):547–569 2. Archer NK, Mazaitis MJ, Costerton JW, Leid J G, Powers M E (2011), Staphylococcus aureus biofilms: properties, regulation, and roles in human disease, Virulence, 2021; 2(5):445–459 3. Donlan RM, Costerton JW, Biofilms: Survival Mechanisms of Clinically Relevant Microorganisms, 7
  8. Nguyễn Khắc Tiệp và cộng sự JPRDI 2025; 00(00); 000 - 000 Clin. Microbiol. Rev., 2002; 15(2):167-93 4. Otto M, Staphylococcal Biofilms, Microbiol. Spectr., 2018; 6(4):10.1128 5. Roy R, Tiwari M, Donelli G, Tiwari V (2016), Strategies for combating bacterial biofilms: A focus on anti-biofilm agents and their mechanisms of action, Virulence, 2016; 9(1):522-554 6. Nguyen TK, Peyrusson F, Siala W, et al. Activity of Moxifloxacin Against Biofilms Formed by Clinical Isolates of Staphylococcus aureus Differing by Their Resistant or Persister Character to Fluoroquinolones. Front Microbiol, 2021;12:785573; 7. Nguyen TK,Argudın MA, Deplano A, et al.,Antibiotic Resistance, Biofilm Formation, and Intracellular Survival As Possible Determinants of Persistent or Recurrent Infections by Staphylococcus aureus in a Vietnamese Tertiary Hospital: Focus on Bacterial Response to Moxifloxacin. Microb Drug Resist, 2020; 26(6):537-544 8. Pham HN, Than TDN, Nguyen HA, et al., Antibiotic Resistance, Biofilm Formation, and Persistent Phenotype of Klebsiella pneumoniae in a Vietnamese Tertiary Hospital: A Focus on Amikacin. Microb Drug Resist, 2024; 30(5):203-209 9. Sullivan JT, Woodruff M, Lettieri J, Agarwal V, Krol GJ, Leese PT et al. (1999). Pharmacokinetics of a once-daily oral dose of moxifloxacin (Bay 12-8039), a new enantiomerically pure 8-methoxy quinolone. Antimicrob. Agents Chemother., 1999; 43(11):2793-7. 10. Siala W, Kucharíková S, Braem A, Vleugels J, Tulkens PM, Mingeot-Leclercq MP, et al. The antifungal caspofungin increases fluoroquinolone activity against Staphylococcus aureus biofilms by inhibiting N-acetylglucosamine transferase. Nat. Commun., 2016: 7:13286 8
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2