Ngôn ngữ trong dân ca quan họ

Dân ca quan họ là loại hình nghệ thuật phong phú, độc đáo của dân tộc ta. Giá

trị của dân ca quan họ cổ truyền được thể hiện không chỉ bằng những bài ca lời

đẹp, hát hay, bằng phong cách lịch sự, trang nhã... mà bằng cả những lề lối, tập

quán đặc sắc kèm theo nó. Liền anh, liền chị trong quan họ luôn giao du, đi hát với

nhau, nhưng không bị sa vào rượu chè, vào những quan hệ buông thả. Khi đi hát

thì rất vui vẻ, say sưa, nhưng tránh nhất là thái độ lả lơi sàm sỡ.

Về cách xưng hô, quan họ lịch sự, nhún nhường, thường tự xưng là em, dù đó

là nam hay nữ, già hay trẻ: ví như: 'Thưa chị hai, chị ba, biết thì ca trước lên để

anh em chúng em tiếp bước theo sau'. Hoặc khi được liền anh mời trầu, liền chị

đáp lại:

Chị em chúng em cả sữa no căng

Ăn trầu đã vậy biết nói năng thế nào

Bên liền anh cũng như bên liền chị đều tôn trọng nhau, cho nên trong câu quan

họ, họ thường gọi nhau là người.

Người ơi ! Người ở đừng về

Người đừng tưởng gió trông mây...

Người về em dặn người rằng

Đâu hơn người ấy, đâu bằng đợi em

Nếu chúng ta thấy chữ ''chàng'' trong câu quan họ thì đó là ca dao mà quan họ

mượn vào:

Chăn chiếu ai trải giường này

Đêm qua chàng ngủ đêm nay chàng nằm

Đến chữ mình người ta cũng thấy suồng sã quá, nên khi hát quan họ đã đổi chữ

mình thành chữ tình.

Đêm qua ghé nón trông đình

Đình bao nhiêu ngói, thương tình bấy nhiêu

Trong giao tiếp, quan họ, ngoài việc xưng hô ý tứ, tôn trọng nhau, lời ăn ý ở

cũng được nghệ nhân răn dạy rất chu đáo, không gặp gì nó nấy, gập gì làm nấy.

Các cụ dặn rằng: Đã là người làng quan họ. Không phải chỉ biết hát mà am hiểu cả

lề lối, tập quán nữa. Lại phải hiểu từng lời ăn ý ở đến những tập tục ăn nói, lúc

đứng ngồi. Quan họ muốn mời nhau về nhà hát phải nói năng ý tứ lắm. 'Mời quan

họ liền anh sang chơi bên nhà chúng em, trước là thăm thầy mẹ chúng em, sau là

cho chúng em học đòi quan họ vài đôi lối...'

Và liền an đáp lời: 'Em đỡ lời chị Hai, chúng em chỉ sợ nắng mưa thì tốt lúa

đồng, chúng em năng đi lại thì thầy mẹ lại coi thường chúng em ra'.

Ngay trong lúc nói 'kháy' nhau, ý muốn nói vốn liếng của các liền anh về quan

họ chưa có là bao, đừng tỏ ra ta đây, thì người quan họ cũng rất lịch sự: 'Dạ thưa

anh Hai, anh Ba... biết thì đi chợ xa, còn chị em chúng em không biết thì đi bảy

mươi ba cái chợ gần đấy ạ'.

Có các nói rurn rẩy (danh từ của 'đường quan họ'): 'Thực là anh Hai cứ đánh

lửa cho đau lòng khói'. Cách nói đưa đẩy: 'Anh Hai, anh Ba nói mà như sấm bên

Đông, chớp động bên Tây, mưa tỉnh Hà Nội mà đây ướt đường đấy ạ'. Hoặc cách

nói khách khí: 'Dạ thưa chị Hai, đã có lòng sang đất nhà chúng em, thì cho anh

em chúng em được thừa tiếp dăm ba lối nữa'.

Khi hát đối đáp, nếu bên liền chị ra một vế đối, bên liền anh đáp đúng thì bên

liền chị lên tiếng: 'Dạ, thưa liền anh, tương hằng rồi đấy ạ'. Nếu bên liền anh ca

sai thì bên liền chị lê tiếng: 'Dạ thưa liền anh, ca bất hợp rồi đấy ạ'.

Khi canh hát đã về khuya, quan họ chủ trương mời mọi người giải lao ăn cơm,

họ nói bằng một giọng văn hoa, lễ phép, khiêm tốn: 'Hôm nay bên liền chị sang

bên đất nhà em, anh em nhà em có mâm cơm, thì đầu mâm đĩa muối, cuối mâm

đĩa gừng, mâm đan bát đàn, để xin mời đương quan họ dựng đũa, lên chén, để anh

em chúng mình được thừa tiếp đấy ạ'.

Trong bữa ăn, các liền anh thấy các liền chị ăn uống nhỏ nhẹ rụt rè thì mời

khéo:

Cơm hẩm ăn với rau dưa

Quan họ làm khách em chưa bằng lòng (đấy ạ)

Liền chị đáp lại:

Liền anh nói vậy chứ:

Cơm trắng ăn với thịt gà

Tuy rằng ăn ít nhưng mà no lâu (đấy ạ)

Tiếng nói của quan họ thật là ý nhị, thật là văn hoa. Ngôn ngữ trong quan họ

mềm mại, khéo léo, tinh tế và đậm đà tình người. Người quan họ không chấp nhận

sự thô kệch, vụng về, mà coi trọng sự lịch thiệp, thanh nhã trong mọi cử chỉ, giao

tiếp. Lề lối, tập quán trong quan họ tuy không ai soạn thành văn, nhưng từ đời này,

qua đời khác mọi người đều tuân thủ. Nếu quan họ nhỡ một lời, làm vụng một

việc thì lòng riêng cứ băn khoăn mãi.

Hình ảnh ngôi chùa Việt Nam qua ca dao

Đạo Phật đã được truyền bá, thâm nhập vào Việt Nam từ trong những thế kỷ

đầu của cuộc dựng nước; đã ăn sâu vào mọi sinh hoạt tình cảm, văn hóa, đạo đức

của dân tộc; và nhất là đã hòa nhập vào con người Việt Nam một cách tự nhiên,

bởi sự thích nghi hoàn hảo, mầu nhiệm của giáo lý Phật Đà với bản chất truyền

thống của dân tộc.

Nhìn vào làng quê Việt Nam, tìm hiểu các phong tục, tập quán; các sinh hoạt

văn hóa - xã hội của dân tộc, chúng ta nhận thấy sự hiện diện của đạo Phật - qua

những ngôi chùa thân yêu - là một điều không ai có thể phủ nhận.

Trong nền văn chương truyền khẩu Việt Nam còn lưu lại khá nhiều ghi nhận về

ngôi chùa, như một biểu tượng không thể thiếu, không thể tách rời khỏi đời sống

chung của cộng đồng:

Đồng đăng có phố Kỳ Lừa.

Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh...

*

Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ,

Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn

Đài nghiêng, Tháp Bút chưa mòn,

Hỏi ai xây dựng nên non nước này?

*

Đông Ba, Gia Hội hai cầu,

Ngó qua Diệu Đế bốn lầu hai chuông.

Tên của những ngôi chùa đã gắn liền với tên của làng quê, sông núi, danh thắng

như là một địa danh đáng ghi nhớ, trân trọng trong lòng mọi người. Bởi vậy, hình

ảnh của ngôi chùa thân yêu luôn có mặt bên cạnh đời sống tình cảm sâu đậm, biết

bao đổi thay vui buồn của kiếp nhân sinh:

Ngó lên chùa Các (1) cao lầu,

Biệt ly em hỡi, để sầu cho anh ...

*

Ngó lên dốc Một chùa Lầu(2)

Cảm thương người bạn buổi đầu thâm ân

*

Bao giờ cạn lạch Đồng Nai

Nát chùa Thiên Mụ mới sai lời nguyền!

Ngôi chùa đã hiện diện bàng bạc, sâu rộng trong sinh hoạt tình cảm riêng tư

của mọi người, nhưng cũng luôn có mặt trong các sinh hoạt chung của làng quê,

của tập thể:

Nhớ ngày mồng Bảy tháng Ba,

Trở về Hội Láng, trở ra Hội Thầy...

*

Nhớ ngày mồng Sáu tháng Ba,

Ăn cơm với cà, đi hội chùa Tây (3).

*

Em đi nhớ lũy tre làng

Nhớ ngôi chùa cổ, nhớ hàng cau xanh

Đêm rằm trẩy hội cùng anh,

Mãi vui quên tỏ cùng anh đôi lời!

Những ngày đại lễ, những ngày lễ vía, đã tự nhiên là ngày hội của làng: Hội

chùa cũng là hội làng. Tất cả đều đã trở thành phong tục, tập quán xa xưa rất đáng

yêu quý, đáng bảo tồn và phát triển của nền văn hóa dân tộc.

Ngoài những tình cảm riêng và chung trong sinh hoạt; hình ảnh của những ngôi

chùa - sự hiện diện thiêng liêng của nó, đã có tầm ảnh hưởng sâu xa, rất quan

trọng trong việc hình thành một nền đạo lý căn bản của con người: những ngôi

chùa luôn gợi nhắc mọi người phải ăn ở hiền lành, tu nhân tích đức, thương yêu

đùm bọc lẫn nhau, sống cao thượng với bốn tâm lớn "Từ, Bi, Kỷ, Xả".

"Người trồng cây hạnh người chơi

Ta trồng cây đức để đời về sau

Đời xưa quả báo còn chầy

Đời nay quả báo thấy ngay nhãn tiền".

Lên chùa thấy Phật muốn tu,

Về nhà nghĩ mẹ công phu chưa đền!

Mình về đường ấy thì xa,

Để anh bắc cầu sông Cái về qua Ninh Bình

Đất Ninh Bình có chùa Non Nước,

Núi Phi Diêu, Hồi Hạc chung quanh...

Em về, em chớ quên anh.

Chiều chiều ra ngõ,

Em ngó hướng Tây...

Thấy chùa mái ngói rêu dày

Thương anh nương rẫy bấy chầy quạnh hiu!

Ngó lên chùa cao thấy ông Bụt đứng

Ngó xuống ruộng thấp,

Nhớ mẹ công lao...

Nhắn ai ăn ở cùng nhau,

Nghĩa tình cho đặng trước sau vẹn toàn...

Ngôi chùa, đôi khi được dùng làm danh từ riêng- xóm Chùa, sông Chùa, cầu

Chùa...

Để tỏ lòng yêu quý, nhớ tưởng; hay là biểu tượng cho sự tinh khiết; hay gợi

nhớ bao kỷ niệm của một thời tuổi trẻ êm đẹp, khó quên của đời người:

Lòng thương con gái Xóm Chùa.

Khéo may đãy gấm, khéo thùa bông dâu!

*

Quê em ở cạnh sông Chùa

Có đò đưa đón sớm trưa hai lần...

*

Em như cây kiểng trên chùa

Anh như con bướm đậu nhờ nên chăng?

*

Thuở xưa theo mẹ lên chùa...

Bây giờ mẹ mất, biết ai đưa đón mình?

Nói đến ngôi chùa mà không đề cập tới tiếng chuông chùa là một thiếu sót lớn,

bởi vì, ngoài sự tác động, ảnh hưởng của hình sắc, tiếng chuông chùa thiêng liêng

nhiệm mầu, cũng đã để lại dấu ấn sâu đậm, vi tế hơn; khó phai nhạt trong đời sống

tâm linh của mỗi người.

Gió đưa cành trúc la đà,

Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương

*

Lắng nghe chuông gọi trên chùa,

Hỡi ai mê ngủ hãy chừa dục tham

*

Chuông rơi từng tiếng gọi về,

Lòng trần từng hạt bụi mê rụng rời!

Trong kho tàng văn chương bình dân Việt Nam - ở mỗi miền, mỗi tỉnh đều còn

lưu lại khá nhiều câu ca, tục ngữ, truyện cổ... biểu tỏ rõ nét sự ảnh hưởng của đạo

Phật, của những ngôi chùa, đối với mọi sinh hoạt trong đời sống...

Sự hiện diện của những ngôi chùa sẽ xoa dịu đi bao nỗi thương đau, mang

nguồn vui sống, an lạc cho tất cả. Bởi vậy hình ảnh ngôi chùa cổ là hình ảnh gần

gũi thân thương nhất của bao tâm hồn, bao cảnh đời - mà thơ ca còn ghi dấu lưu

lại trong kho tàng văn học của dân tộc ....