NGUYÊN NHÂN GÂY LŨ LỤT

LỚN Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG

CỬU LONG

Những năm gần đây đã có những trận lũ lụt lớn chưa từng thấy xảy ra tại

vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Đặc biệt là cơn lũ lụt từ

tháng 9 đến tháng 11 năm 2000 được gọi cơn lũ thế kỷ. Cơn lũ này đã

làm gần 1000 người thiệt mạng và tổn thất về tài sản và mùa màng được

ước lượng đến 500 triệu Mỷ Kim. Hiện nay mực nước sông Cửu Long

đang ở trong tình trạng báo động.

Lũ lụt là một hiện tượng thiên nhiên xảy ra hàng năm tại vùng ĐBSCL.

Các cơn lũ bắt đầu khi nước sông Cửu Long dâng cao làm ngập vùng

Savannakhet và Pakse ở miền Nam Lào rồi đến vùng Kratie ở miền

Đông Kampuchea. Nước lũ từ thượng lưu theo sông Tiền và sông Hậu

chảy vào nước ta rồi thoát ra biển Đông. Mùa lũ thường kéo dài từ cuối

tháng 6 cho đến cuối tháng 12 và được chia ra ba giai đoạn. Trong giai

đoạn 1, từ tháng 7 đến tháng 8, nước lũ chảy vào các kinh và các mương

rạch thiên nhiên vùng Đồng tháp Mười và Tứ Giác Long Xuyên. Cao

điểm lũ lụt xảy ra trong giai đoạn 2 khi mực nước sông Tiền ở Tân Châu

cao hơn 4,2 m, và mực nước sông Hậu ở Châu Đốc cao hơn 3,5 m. Đây

là những tiêu chuẩn của Ủy ban Quốc tế Sông Mekong (Mekong River

Commission) dùng để định nghỉa mổi khi ĐBSCL bị lụt. Giai đoạn 3 bắt

đầu từ tháng 10 khi mực nước hạ thấp dần cho đến cuối tháng 12.

Như trên đã trình bày lũ lụt ở ĐBSCL bắt đầu do nước lũ ở thượng lưu

sông Cửu Long. Nước lũ vùng thượng lưu do đâu mà có? Hàng năm

những trận bão biển và gió mùa Tây Nam đã gây nên những trận mưa

lớn làm mực nước sông Cửu Long dâng cao. Đặc biệt vào năm 2000, gió

mùa bắt đầu sớm hơn đến 6-8 tuần. Những trận mưa lớn vào tháng 7 ở

phía Bắc Lào và vùng Tây Nam Trung Hoa đã nâng cao mực nước sông

Cửu Long ở Vạn Tượng. Mực nước cứ dâng cao trong vòng hai tháng

tới. Đến cuối tháng 8, sông chính và các sông phụ ở Nam Lào đả tràn

bờ. Cộng thêm những cơn bão biển Đông đã liên tiếp mang đến những

trận mưa lớn ở miền Trung nuớc ta, những tỉnh thành miền Đông nước

Kampuchea, và vùng ĐBSCL. Đến đầu tháng 10 đã có một vùng biển

nội địa sâu đến 2 m, phá hoại các đê đập và cô lập hoá nhiều làng mạc ở

các tỉnh An Giang, Đồng Tháp và Tiền Giang. Cơn lũ năm 2000 đã gây

nên những tổn thất nặng nề nhất từ trước đến nay ở miền Nam. Trong số

gần 1000 người bị thiệt mạng, 80% là trẻ em, và hơn 500,000 gia đình

đã phải xin cứu trợ.

Ngoài nguyên nhân chính là các trận mưa bão ở miền thượng lưu, còn có

nhiều lý do thường được nhắc đến như (1) các đập thủy điện ở thượng

nguồn Trung Hoa, (2) sự di dân đến những vùng lũ lụt, (3) nạn phá rừng

và (4) hệ thống kinh thủy nông và đê đập ngăn mặn.

Trong các lý do nêu trên, hai lý do đầu tiên có thể trả lời một cách dể

dàng nhất. Các đập ở Vân Nam, Trung Hoa chỉ ảnh hưởng tối đa 2% lưu

lượng sông Cửu Long; hơn 50% lưu lượng này do các sông phụ ở Lào

chảy vào. Các đập thủy điện có thể không ảnh hưởng gì mấy đến lũ lụt,

nhưng có nhiều ảnh hưởng tai hại đến môi sinh, nông nghiệp và ngư

nghiệp của ĐBSCL.

Sự di dân đến những vùng như Đồng Tháp có thể gây thêm nhiều thiệt

hại hơn, vì các di dân mới này thường đến từ những vùng ít lũ lụt cho

nên họ không quen với các biện pháp đề phòng lũ lụt. Họ sống trong

những căn nhà đơn sơ, nỗi trên mặt nước nên dể bị hư hại. Đa số nạn

nhân chết đuối vì lũ lụt là trẻ em, vì hàng ngày các trẻ em thường ở nhà

một mình, không được các người lớn trông coi.

Ảnh hưởng của nạn phá rừng đối với lũ lụt đã và đang đuợc tranh luận

trên khắp thế giới. Theo Cơ quan Lương Nông của Liên Hiêp Quốc

(FAO), mức độ phá rừng cao nhất xảy ra ở Á Châu, từ 9.5% trong thập

niên 1960 đến 11% trong thập niên 1980. Dựa theo nghiên cứu của

FAO, diện tích rừng được ước tính khoảng 37% trong hạ lưu vực sông

Cửu Long. Rừng vẫn chiếm hơn phân nửa diện tích của Lào và

Kampuchea, nơi cung cấp 60-75% lưu lượng lũ của sông Cửu Long tại

Kratie, Kampuchea. Dữ kiện thủy học đo được tại Kratie từ năm 1924

đến 1986 cho thấy chu kỳ tái diển, lưu lượng lũ cao nhất, và khối lượng

lũ cao nhất của các trận lụt lớn trong khoảng thời gian này đã không

vượt qua các con số của các những trận lụt lớn xảy ra trong thập niên

1930. Các cuộc nghiên cứu và điều tra ở Hoa Kỳ cũng như nhiều nơi

khác trên thế giới đã chứng minh rằng nguyên nhân hàng đầu của lũ lụt

là có quá nhiều mưa xảy ra trong một số điều kiện thuận lợi, và việc phá

rừng có thể ảnh hưởng quan trọng đối với những trận lũ lụt nhỏ trong

các lưu vực hạn hẹp.

Từ giữa thập niên 1980, các kinh hiện có đã được nới rộng. Một số lớn

kinh chính và một mạng lưới kinh phụ đã được đào xuyên qua vùng

Đồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên và các vùng khác trên khắp

ĐBSCL với mục đích chính là thủy nông. Hệ thống kinh này đã trở

thành những lòng lạch thuận lợi cho nước lũ từ Kampuchea chảy vào

Việt Nam sớm hơn, nhiều hơn và nhanh hơn. Đồng thời, một hệ thống

đê đập ngăn mặn đã được xây dựng ở cuối đường thoát lũ ở hạ lưu cùng

với một hệ thống đường giao thông được nâng cao. Vì không đủ khả

năng thoát lũ, hệ thống đê đập ngăn mặn và đường giao thông này đã

làm cản trở nước lũ trong vùng ĐBSCL thoát ra biển Đông và vịnh Thái

Lan. Hậu quả là mực nước ngập trong vùng ĐBSCL ngày càng sâu hơn

và thời gian ngập ngày càng dài hơn.

Nói tóm lại nguyên nhân chính của lũ lụt ở ĐBSCL là những trận mưa

lớn ở thượng lưu và ĐBSCL. Các nguyên nhân khác như nạn phá rừng,

di dân và đê đập chỉ có thể làm lũ lụt trầm trọng hơn mà thôi. Những

trận mưa lớn do các cơn bão biển Đông và gió mùa Tây Nam gây nên.