CHUYÊN ĐỀ 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIẢNG DẠY THEO HƯỚNG
TÍCH CỰC HOÁ NGƯỜI HỌC
1.1. Phương pháp giảng dạy tích cực - lấy người học làm trung tâm
Đổi mới phương pháp giảng dạy trong giáo dục, đào tạo ở Việt Nam trong những
năm qua thực chất là bước chuyển đổi từ chương trình đào tạo tiếp cận nội dung sang
tiếp cận năng lực của người học. Để thực hiện theo cách tiếp cận đó, người dạy chuyển
từ phương pháp dạy học theo lối "truyền thụ một chiều" sang dạy cách học, cách vận
dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Cho đến ày, tồn
tại hai quan niệm về phương pháp giảng dạy với nhiều nét khác biệt rõ rệt.
Quan niệm thứ nhất: giảng dạy theo lối “truyền thụ một chiều”- người thầy đóng
vai trò trung tâm. Hoạt động chính của giảng dạy là thầy giảng, trò ghi, thầy nói, trò
nghe. Người giảng dạy thì truyền đạt chủ yếu bằng độc thoại những kiến thức đóng
khung trong khuôn khổ định sẵn và áp đặt, người thầy làm mẫu và người học làm theo,
người giảng dạy độc quyền đánh giá người học và cho điểm. Điều này dễ dẫn tới việc
nhồi nhét kiến thức, làm cho người học bị “nghẹn”, thậm chí khó có thể tiếp thu.
Quan niệm thứ hai: giảng dạy là hoạt động của thầy và trò, được thực hiện theo
một chiến lược, chương trình đã được thiết kế, tác động đến người học nhằm hướng tới
mục tiêu hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực của người học. Đây là hoạt động
tương tác, có tính đặc thù, thầy trò cùng nhau - gọi là “Giảng dạy có sự cùng tham gia”.
Ở đó, người thầy không áp đặt, không giáo điều cứng nhắc, mà chỉ dẫn cho trò biết cách
học và suy nghĩ do chính mình. Người thầy khuyến khích chứ không ngăn chặn những
đáp ứng thông minh và có tính cách phê phán của trò. Với mô hình này, đóng vai trò
trung tâm trong hoạt động giảng dạy không phải là thầy, mà là trò. Chính vì thế, mô
hình giảng dạy này có tên gọi khác là giảng dạy “Lấy người học làm trung tâm”, hay
còn gọi là “Giảng dạy tích cực” vì phát huy được tính tích cực, chủ động của nhân vật
trung tâm - người học.
Thực tế cho thấy, cách thức giảng dạy truyền thụ một chiều, “lấy người thầy làm
trung tâm” vẫn tồn tại trong giáo dục. Ở đó, vai trò của người thầy được đặt quá cao,
thầy quyết định mọi điều trên lớp. Thầy giảng, trò nghe, người học tiếp thu vô điều kiện.
Với phương pháp giảng dạy này, người học có thể nắm vững lí thuyết một cách rất hệ
thống nhưng khả năng “tiêu hóa” thấp và kĩ năng thực hành khó được hình thành. Do
3
vậy, khó có thể nói đến sự linh hoạt trong tư duy giải quyết các tình huống trong thực
tiễn, đồng thời dễ gây nhàm chán, mệt mỏi, dẫn tới tâm lý “sợ học”.
Phương pháp giảng dạy tích cực - lấy người học làm trung tâm có nhiều điểm
khác biệt với phương pháp giảng “lấy người thầy làm trung tâm”. Mô hình giảng dạy
này đòi hỏi phải xây dựng lại các hình thức tổ chức và các phương pháp giảng dạy phù
hợp. Ở đây, người học không thể chỉ đến lớp nghe, ghi chép một cách thụ động, mà phải
tham gia vào mọi hoạt động một cách tích cực, từ chia sẻ ý kiến, kinh nghiệm, đến thực
hành; từ giải quyết các tình huống đến các hoạt động vận động, thực hiện các yêu cầu
phục vụ cho bài học dưới sự điều khiển, hướng dẫn của người thầy. Họ được phát huy
những hiểu biết, kinh nghiệm, vốn sống của mình, được khám phá tiềm năng của bản
thân. Họ cảm thấy hứng thú, vui vẻ, hạnh phúc khi được học, được sáng tạo, được thể
hiện và được làm. Họ sẽ hiểu sâu, nhớ lâu, tăng khả năng áp dụng kiến thức vào vào
thực tiễn. Họ có được sự tự tin, có trách nhiệm với bản thân và chia sẻ với cộng đồng.
Lấy người học làm trung tâm không có nghĩa là hạ thấp vai trò của người thầy,
đưa người thầy xuống vị trí người “quan sát”, “chứng kiến” hoạt động của người
học. Mà ngược lại, vì “lấy người học làm trung tâm” nên càng yêu cầu cao hơn đối với
năng lực của người thầy. Bởi khi đó, người thầy phải là người có khả năng tổ chức, điều
khiển hoạt động của người học, giúp người học học tập tốt nhất. Ở bất kì thời đại nào,
và với bất cứ phương pháp giảng dạy nào, vai trò của người thầy luôn luôn được đề cao,
thầy giỏi mới có thể giúp trò giỏi, và ngược lại, trò giỏi cần phải có thầy giỏi. Mối quan
hệ giữa dạy và học là mối quan hệ biện chứng, là quy luật cơ bản để tạo nên chất lượng
và hiệu quả của quá trình dạy học.
Để giảng dạy hiệu quả, người học phải thực sự “là trung tâm”, và người thầy phải
là chủ đạo trong tiến trình dạy học. Vì thế, người thầy hơn bao giờ hết, phải tự mình
phải trau dồi kiến thức chuyên môn, cập nhật thông tin, để có thể đáp ứng với yêu cầu
ngày càng cao của người học, để đủ khả năng hỗ trợ, giúp đỡ người học khai thác tiềm
năng trí tuệ của chính họ.
Có thể khẳng định rằng: Giảng dạy tích cực giúp cho người học trở nên chủ động,
tự tin, biết cách học, biết cách làm, biết cách giao tiếp xã hội, biết cách khẳng định chân
lí, tạo nên con người rất thực tế, thích hoạt động, dẫn đến sự năng động và sáng tạo trong
tư duy, trong hoạt động cuộc sống. Và để thực hiện hiệu quả mô hình giảng dạy này,
cần phải chuẩn bị các điều kiện cơ bản (giảng viên, thời gian, cơ sở vật chất, phương
4
tiện, phương pháp kiểm tra đánh giá) một cách tương thích, đồng bộ, đủ khả năng đáp
ứng cho việc triển khai.
1.2. Đặc điểm học viên là người trưởng thành
1.2.1. Người trưởng thành học như thế nào?
Học viên ở các khoá đào tạo, bồi dưỡng của Agribank là những người đã trưởng
thành, có chuyên môn và có vị trí việc làm nhất định. Họ là những cán bộ, công chức,
viên chức, được xếp vào một ngạch bậc, hạng chức danh nghề nghiệp nhất định trong
hệ thống Agribank, có trách nhiệm và thẩm quyền rõ ràng. Học viên là người trưởng
thành thường có mặt bằng tri thức không giống nhau, phần lớn đã tốt nghiệp đại học và
sau đại học với các chuyên ngành phù hợp với vị trí việc làm. Sự đa dạng về lứa tuổi,
thời gian công tác khác nhau nên kinh nghiệm sống và kinh nghiệm công việc cũng rất
khác nhau. Hơn nữa, xuất phát từ vị thế, vai trò của mình, người trưởng thành đi học có
tính mục đích rõ ràng, cụ thể và có tính thực dụng cao. Họ muốn học tập những nội dung
kiến thức có thể vận dụng ngay được vào thực tế cuộc sống, lao động sản xuất và kinh
doanh. Học viên là người trưởng thành chỉ học khi có nhu cầu, học thông qua làm việc,
qua giải quyết các vấn đề thực tế. Hơn nữa, việc học của người trưởng thành chịu tác
động khá nhiều bởi kinh nghiệm của chính họ. Vì thế, người trưởng thành sẽ học tốt hơn
trong môi trường học tập không chính thức, họ muốn sự hướng dẫn chứ không phải
điểm số, và đáp ứng tốt với sự đa dạng của các phương pháp giảng dạy.
Nhìn chung, người trưởng thành đi học là những người đã trưởng thành về mặt
sinh học (thể lực và tâm lý), là người tự nhận thức, tự điều khiển bản thân, tự chịu trách
nhiệm. Đồng thời họ cũng trưởng thành về mặt xã hội - đủ tư cách của một người làm
việc, đã có vị thế xã hội, có nhiều kinh nghiệm sống được tích lũy tùy theo lĩnh vực mà
họ hoạt động.
Ưu điểm của học viên người trưởng thành:
- Có nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống và công tác, đây là một lợi thế cần được
khai thác trong giảng dạy.
- Có kinh nghiệm thực tế cả trong quan hệ xã hội và công việc chuyên môn,
những kinh nghiệm ấy nếu có cơ hội cho họ trao đổi, tranh luận trong nhóm sẽ làm cho
chất lượng bài giảng tốt hơn.
- Có khả năng liên hệ logic, hệ thống giữa lý luận và thực tế. Đối với học viên là
người trưởng thành luôn mong muốn được tiếp cận vấn đề cụ thể để vận dụng vào thực
5
tế, họ không muốn lý luận hình thức, giáo điều. Ngược lại, những kinh nghiệm thực tế
của họ sẽ kiểm nghiệm tính khoa học của lý luận, tính khả thi của các chính sách, các
văn bản.
- Mạnh dạn nêu vấn đề và trao đổi, thảo luận các vấn đề. Người trưởng thành đi
học luôn muốn bộc lộ chính kiến của bản thân, họ không e ngại, thích tranh luận, thích
trao đổi tìm ra cái đúng, sai nên thuận lợi khi thảo luận nhóm.
- Có nhu cầu được học, được cung cấp thông tin.
- Có nhu cầu cần cái cụ thể để vận dụng vào công việc.
- Có khả năng lưu giữ thông tin lâu.
- Có lòng tự trọng và tự giác cao.
- Có quan hệ, ứng xử đúng mực thân thiện.
Hạn chế của học viên người trưởng thành:
- Chịu nhiều áp lực từ công việc cơ quan, vì trước khi đi học họ đang đảm
nhận những công việc cụ thể, là một trong những mắt xích quan trọng trong dây chuyền
hoạt động của cơ quan. Mặc dầu đi học, song những công việc cần giải quyết luôn là áp
lực không nhỏ, đã tác động và ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập.
- Chịu nhiều áp lực từ công việc gia đình vì người học hầu hết là những người
lao động chính, là chủ gia đình, nhiều khi ngồi học trên lớp nhưng tâm trí lại nghĩ về
công việc gia đình mà không thực tập trung cho học tập.
- Các giác quan suy giảm, khi tuổi càng cao thì hệ thần kinh càng ỳ, các giác quan
như tai, mắt có biểu hiện suy giảm dần, không còn thính và tinh như khi ít tuổi. Quá
trình này diễn ra theo quy luật, vì vậy trong giảng dạy, người thầy phải hiểu được sự
thay đổi trên ở người trưởng thành để tìm những phương pháp bù đắp lại những hạn chế
đó.
- Tiếp nhận thông tin chậm, không nhanh nhạy như khi còn ít tuổi, vì vậy khi
giảng cần trình bày rõ, mạnh lạc, cụ thể để người học vừa có khả năng nghe, vừa ghi
chép những kiến thức cơ bản.
- Ít sáng tạo trong tư duy, ngại khám phá, thường dễ bằng lòng, thỏa mãn với
những gì đã có, kết hợp với những áp lực công việc chuyên môn, công việc gia đình và
sức ỳ của thần kinh nên lười tư duy, ngại khám phá cái mới.
- Tính năng động của người lớn tuổi cũng giảm, nên trong tư duy ít sáng tạo so
với người nhỏ tuổi.
6
Thực tiễn cho thấy, học viên là người trưởng thành vừa có kiến thức, vừa có kinh
nghiệm làm việc, họ là những người cọ sát thực tiễn quản lý hành chính từng ngày, từng
giờ, phải xử lý các khó khăn, các tình huống xảy ra, thậm chí các xung đột phát sinh
trong thực thi nhiệm vụ.
Trước khi đến lớp học, học viên đã có sự am hiểu, ham khám phá cái mới, văn
minh tiến bộ. Chính vì thế, trong quá trình giảng dạy, nếu giảng viên chỉ sử dụng phương
pháp thuyết trình thì vô hình chung đã truyền tải thông tin một chiều mà triệt tiêu mối
quan hệ trao đổi qua lại giữa thầy và trò, triệt tiêu đi những kiến thức, kinh nghiệm và
những ý tưởng độc đáo từ phía người học. Điều này sẽ giảm hiệu quả trong mỗi giờ lên
lớp, đồng thời hạn chế mục tiêu đào tạo bồi dưỡng về rèn luyện kỹ năng cho người học.
Hiện nay, cán bộ, công chức, viên chức đi học không chỉ với mục đích hoàn thành
khóa học để được cấp chứng chỉ, bằng tốt nghiệp mà bên cạnh đó, họ còn thoả mãn nhu
cầu nâng cao kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, nhu cầu tự khẳng định mình trước cơ
quan, tổ chức. Do vậy, chỉ thực sự tham gia tích cực vào bài giảng khi những vấn đề đưa
ra đúng với nhu cầu và sát với thực tiễn công vụ nơi mà họ đang công tác.
Hơn nữa, trình độ nhận thức và học thức của người học ngày càng được nâng
cao. Nếu giảng viên không thường xuyên tự mình, đồng thời được bồi dưỡng cập nhật
những tư liệu, kiến thức mới thì bài giảng sẽ bị lạc hậu. Một trong những nhiệm vụ của
giảng viên là tìm hiểu trình độ, kiến thức và hiểu biết của học viên; thường xuyên cập
nhật thông tin để xử lý, bổ sung, hoàn chỉnh, cải tiến nội dung, kế hoạch, phương pháp
giảng dạy và cơ sở dữ liệu phục vụ cho giảng dạy.
1.2.2. Phong cách học tập của người trưởng thành
Từ đặc điểm việc học tập của người lớn như trên, người giảng dạy có thể xác
định được phong cách học tập của người lớn để từ đó đưa ra các yêu cầu đối với họ,
nhằm đảm bảo cho việc học tập hiệu quả.
Các cá nhân khác nhau về kinh nghiệm sống, kinh nghiệm làm việc, có các sở
thích, phong cách học tập khác nhau. Mỗi người có một cách học ưa thích riêng của
mình, nhưng phong cách nào cũng đều có tác động khá lớn đến kết quả học tập của họ.
Trong quá trình học tập, các học viên người lớn có những bộc lộ khá khác nhau:
thẳng thắn, trầm tĩnh, nhanh nhẹn, hăng hái, tự giác, chủ động, lệ thuộc… Những biểu
hiện phong phú này trực tiếp tạo nên (hay ảnh hưởng tới) những phong cách học tập đa
dạng của họ.
7
Các nhà nghiên cứu, đặc biệt là Peter Honey, đã chỉ ra bốn phong cách học
tập chủ yếu:
(i) Phong cách học tập tích cực. Những người học tập theo phong cách này rất háo
hức tìm tòi và dung nạp những điều mới. Họ nghiêm túc và coi trọng những điều mới
mẻ được học. Đây là những người có đầu óc phóng khoáng, không hoài nghi, nên họ
luôn hồ hởi nhiệt tình với bất kỳ điều gì mới mẻ. Họ thường hành động trước và xem
xét hậu quả sau. Họ luôn bận rộn tìm kiếm cái mới, thậm chí phấn khích trước những
thử thách mới.
Người có phong cách học tập tích cực có ưu điểm là linh động và phóng khoáng,
cởi mở. Họ sẵn sàng làm quen với hoàn cảnh mới, luôn lạc quan với những điều mới
học và không ngại thay đổi. Nhưng người tích cực cũng có nhược điểm là hay hành
động ngay tức thì, không suy nghĩ, không có sự chuẩn bị đầy đủ. Vì thế họ có thể gặp
phải những rủi ro không đáng có. Đồng thời họ cũng có xu hướng tập trung quá nhiều
vào bản thân, lấn át người khác.
Người có phong cách học tập tích cực, khi đến một khoá học mới, thường hay
đặt ra các câu hỏi:
Tôi có học được điều gì mới không?
Có nhiều hoạt động không?
Có thời gian nghỉ ngơi, vui đùa không?
Có khó khăn, thách thức nào không?
Có những người giống tôi không?
Bởi thế, người tích cực sẽ học tập tốt nhất khi họ được tham gia vào các hoạt
động mới, những nhiệm vụ khó khăn, mang tính cạnh tranh, những bài tập đóng vai. Họ
đặc biệt học tốt khi được người khác chú ý và đánh giá cao đóng góp của mình.
(ii) Phong cách phản ánh: Đây là phong cách học tập của những người luôn
dành thời gian để phân tích, suy nghĩ về những gì mình học được. Những người học tập
theo phong cách phản ánh thường thích đứng sau quan sát và suy nghĩ về những thứ đã
qua từ nhiều khía cạnh khác nhau. Họ thu thập tư liệu trực tiếp hay từ những người khác,
từ những sự kiện đã xảy ra và suy nghĩ kỹ về chúng trước khi đi đến kết luận. Những
người học tập kiểu này có xu hướng trì hoãn việc ra quyết định càng lâu càng tốt. Tức
là họ thận trọng, suy nghĩ, xem xét sự việc trên mọi khía cạnh trước khi hành động. Họ
8
thích nhường những người khác phát biểu ý kiến. Họ lắng nghe, quan sát kỹ người khác
trước khi đưa ra quan điểm của mình.
Với phong cách này, ưu điểm của người phản ánh là thận trọng, tỉ mỉ và có
phương pháp, thâm trầm, sâu sắc, biết lắng nghe người khác và thu nhập thông tin, hiếm
khi đi đến kết luận vội vã.
Vì thế, người có phong cách phản ánh thường hay đặt ra những câu hỏi sau đây:
Có đủ thời gian cho tôi cân nhắc, suy xét và chuẩn bị không?
Có cơ hội để kết nối các thông tin thích hợp khôn?
Tôi có cơ hội để lắng nghe quan điểm của những người khác không?
Tôi có phải hành động ngay không?
Người có phong cách phản ánh sẽ học tập tốt nhất khi họ được khuyến khích xem
xét, suy nghĩ, lật đi lật lại các vấn đề, được phép suy nghĩ trước khi hành động, được
suy xét kỹ trước khi bình luận. Nếu có cơ hội để xem xét lại điều gì đã xảy ra, đã học
được gì, được đưa ra quyết định mà không bị áp lực và bó buộc về thời gian, người phản
ánh sẽ thu được kết quả học tập tốt hơn.
Bởi vậy, nhược điểm của người học tập theo phong cách phản ánh chính là họ có
thể bỏ qua, đánh mất nhiều cơ hội, do luôn dành nhiều thời gian để suy xét, dẫn đến
lưỡng lự, do dự quá lâu.
(iii) Phong cách lý thuyết: Những người học tập theo phong cách này thường
trăn trở tìm tòi về mối liên quan giữa những gì đã học được. Người lý thuyết là những
người luôn xem xét vấn đề từng bước, từng bước một theo trình tự logic. Họ có xu
hướng hoàn thiện, không chấp nhận những ý tưởng mới cho đến khi họ có thể nhìn thấy
những ý tưởng đó hoàn toàn hợp lý, logic. Họ thích phân tích và tổng hợp, thích những
giả thuyết, mô hình. Đối với người lý thuyết, sự hợp lý và logic có giá trị cao. Người Lý
thuyết tuy bị hạn chế về khả năng tư duy sáng tạo, không thích những vấn đề chủ quan,
trực giác thì không chắc chắn, mơ hồ, không trật tự. Họ quá nguyên tắc. Nhưng những
người này lại có ưu điểm nổi bật là suy nghĩ logic, lý trí và khách quan.
Với việc tham gia học tập, người lý thuyết thường hỏi:
Tôi có nhiều cơ hội để tìm hiểu không?
Mục tiêu có rõ ràng, trình tự có logic không?
Tôi có bị căng thẳng và đối mặt với các ý tưởng và khái niệm phức tạp không?
Phương pháp tiếp cận và các khái niệm có đúng đắn không?
9
Tôi có được học với những người giống mình không?
Như vậy, người lý thuyết sẽ học tập tốt nhất khi được tham gia các hoạt động mà
họ có thời gian để khám phá, liên hệ các ý tưởng, sự kiện và tình huống. Các hoạt động
này phải được trù định trước và có mục đích rõ ràng. Họ sẽ học tốt khi có cơ hội để nghi
vấn, xem xét các phương pháp luận cơ bản, các giả định hay logic đằng sau một sự việc.
Họ sẽ học tốt nếu không quá căng thẳng về trí tuệ.
(iv) Phong cách thực dụng: Những người học tập theo phong cách thực dụng là
người luôn luôn đặt câu hỏi về việc vận dụng những gì đã học vào thực tiễn như thế nào.
Họ thích thử áp dụng những ý tưởng lý thuyết và kỹ thuật vào thực tế công việc, người
thực dụng tự tin và luôn luôn tìm cơ hội áp dụng những ý tưởng mới vào thực tế. Họ
thường không kiên nhẫn với những thảo luận đòi hỏi sự suy xét kỹ lưỡng hay tư duy
mở. Họ là người thực tế, cơ hội hay vấn đề đều là sự thử thách. Người thực dụng có ưu
điểm là luôn thử nghiệm những ý tưởng vào thực tế. Họ không viển vông, mà đi thẳng
vào vấn đề, và có đầu óc tổ chức. Nhưng người thực dụng lại có xu hướng phản đối bất
cứ những gì không có khả năng áp dụng thực tế rõ rang. Bởi họ không quan tâm đến lý
thuyết hoặc những nguyên tắc cơ bản. Họ có xu hướng sử dụng những giải pháp thực
dụng nhất đối với một vấn đề.
Người thực dụng thường đặt những câu hỏi như:
Có cơ hội để thực hành, thử nghiệm không?
Có gợi ý và có kỹ thuật để thực hiện không?
Có xử lý các vấn đề thực tế và đưa đến một kế hoạch hành động để giải quyết
một số vấn đề đang mắc không?
Có được tiếp xúc với các chuyên gia giỏi thực tế không?
Có thể dễ dàng nhận thấy, người thực dụng sẽ học tập tốt trong môi trường học
từ những tình huống thực tế tại nơi làm việc. Họ sẽ hứng thú hơn với việc học tập khi
có cơ hội thực hành, làm thử dưới sự hướng dẫn của chuyên gia đáng tin cậy.
Các nhà nghiên cứu căn cứ vào bốn phong cách học tập nêu trên của người trưởng
thành để xây dựng nên các mô hình học tập hiệu quả cho người học. Bốn phong cách
học tập trên gắn với các bước trong quá trình học tập theo kinh nghiệm, thể hiện qua
bốn giai đoạn, bao gồm: (1) Mô hình học tập Kinh nghiệm cụ thể; (2) Mô hình học tập
Nhận xét phản ánh; (3) Mô hình học tập Lý thuyết hoá trừu tượng; (4) Mô hình học tập
Thực nghiệm tích cực.
10
Các nhà sư phạm (người dạy/giáo viên/giảng viên) thì căn cứ vào các mô hình
học tập này để xác định, xây dựng các mô hình, nguyên tắc, phương pháp giảng dạy cho
phù hợp, nhằm phát huy tối đa năng lực của người học, để đạt hiệu quả cao trong giảng
dạy.
1.3. Vai trò và tác phong của người dạy
1.3.1. Vai trò của người dạy
Trong hoạt động giảng dạy theo hướng tích cực hoá người học, lấy học viên làm
trung tâm, vai trò của người dạy không đơn thuần là người trình bày, người truyền đạt
kiến thức, để hoàn toàn áp đặt lên học viên cả nội dung và phương pháp học tập. Người
dạy trở thành người tạo điều kiện, cố vấn, điều phối, người hướng dẫn, định hướng, lập
kế hoạch, người đánh giá, người thiết kế chương trình đào tạo, thúc đẩy quá trình đào
tạo, bồi dưỡng. Cụ thể hơn, người dạy tổ chức việc học cho đối tượng giảng dạy (người
học) một cách chủ động, tích cực; hỗ trợ họ, giải đáp các thắc mắc, các yêu cầu mà
người học đặt ra khi cần thiết. Người dạy là người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các hoạt
động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để người học tự chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ
động đạt các mục tiêu kiến thức, kỹ năng, thái độ theo yêu cầu của chương trình. Trên
lớp, người học hoạt động là chính, người dạy chỉ là người hướng dẫn. Nhưng trước khi
lên lớp, người dạy phải đầu tư nhiều thời gian để thiết kế bài giảng sao cho đạt được các
tiêu chí của một giờ giảng tích cực; chọn lọc phương pháp giảng dạy và phương pháp
đánh giá phù hợp với mục tiêu và nội dung bài giảng. Trong quá trình giảng dạy, ngoài
giờ lên lớp, người dạy còn phải theo dõi các hoạt động tự học của học viên, giúp đỡ họ
khi cần thiết, trao đổi, thảo luận và góp ý để người học đi đúng hướng. Trong giảng dạy
“lấy người học làm trung tâm”, việc đánh giá người học không phải “độc quyền” của
người thầy. Người thầy phải hướng dẫn người học phát triển kỹ năng tự đánh giá để tự
điều chỉnh cách học của mình. Liên quan với điều này, người thầy cần tạo điều kiện
thuận lợi để người học được tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh
hoạt động kịp thời là năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà người học
cần được trang bị. Có thể khái quát vị trí của giảng viên trong mô hình giảng dạy lấy
người học làm trung tâm ở một số vai trò sau đây:
Một là, người dạy là người trình bày - giới thiệu: Dù cách tiếp cận thay đổi như
thế nào thì vai trò của người dạy vẫn vô cùng quan trọng. Người dạy luôn được mong
đợi với vai trò đầu tiên là người giảng dạy, trình bày, truyền đạt, kỹ năng sử dụng kỹ
11
thuật, phương tiện giảng dạy hiệu quả thông qua kỹ năng, kỹ xảo. Người học cũng luôn
mặc định ở người thầy sự hiểu biết sâu sắc về môn học, sự chuẩn bị bài giảng kỹ lưỡng,
giao tiếp tốt, có khả năng xác định và đề xuất giải pháp cho các vấn đề của người học
một cách thích hợp và hiệu quả.
Hai là, người dạy là người định hướng: Đây là vai trò rất quan trọng không thể
thiếu, cần khẳng định uy tín, trình độ tri thức, kinh nghiệm người thầy. Trên con đường
chiếm lĩnh tri thức, người học rất cần sự định hướng, chỉ dẫn của người thầy về mục
tiêu, nội dung, phương pháp học tập. Trên cơ sở định hướng của người dạy, người học
sẽ xác định được trọng tâm, giải quyết được những nội dung cơ bản của môn học và đạt
được mục tiêu của môn học qua từng bài học. Việc định hướng của người thầy liên quan
đến các nội dung học nhóm, thảo luận, chuẩn bị bài và trao đổi giữa những người học.
Thầy định hướng cách khai thác nội dung, định hướng kiến thức của bài học cũng như
định hướng tư duy cho từng vấn đề. Định hướng là yếu tố thúc đẩy khả năng tự học,
giúp người học đi đúng “đường ray” tri thức.
Ba là, người dạy là người gợi mở tri thức: Chúng ta đừng bao giờ quên, sự gợi
mở của thầy là động lực thúc đẩy tính tích cực và tính say mê tìm tòi của người học.
Nghiên cứu một nội dung mới, vấn đề mới, bài học mới, sự gợi mở của người thầy giống
như chất xúc tác đẩy mạnh tính chủ động nghiên cứu của người học. Việc gợi mở đó
chẳng khác nào tìm lối thoát để người học tự mình đi trên con đường tìm kiếm tri thức.
Việc gợi mở chấm dứt sự chây lười, tính ì, sự trì trệ của người học trước những nội dung
kiến thức mới. Sự gợi mở của thầy giúp người học tìm hiểu kiến thức đúng định hướng,
đúng bản chất của nội dung cần học trong một môn học hoặc một bài học.
Bốn là, người dạy là người tạo điều kiện: Có lẽ đây là một vai trò đặc biệt quan
trọng trong mô hình giảng dạy tích cực, mô hình giảng dạy “có sự cùng tham gia”. Thầy
và trò cùng nhau trong quá trình trò khám phá, lĩnh hội tri thức. Người thầy chính là
người tạo điều kiện và là người cùng tham gia học tập với trò, tạo một môi trường học
tập thuận lợi để người học đạt được những kết quả học tập cụ thể theo cách hiệu quả
nhất và có ích nhất. Người thầy sẽ áp dụng những nguyên tắc học tập phù hợp đối với
từng đối tượng, sử dụng các phương pháp giảng dạy, nguồn lực học tập phù hợp với
từng điều kiện và từng đối tượng. Bên cạnh sự định hướng giúp người học, ủng hộ,
khuyến khích họ, để tạo điều kiện tốt nhất cho người học phát huy việc học của họ. Ben
12
cạnh đó, người thầy còn là người phải hiểu rõ về khả năng của mỗi học trò của mình,
hiểu rõ khả năng, phong cách học tập, động cơ học tập của học viên.
Năm là, người dạy là người hỗ trợ: Ở vai trò này người dạy đi bên cạnh người
học của mình, nhưng không làm thay họ. Với sự hỗ trợ của giảng viên, nội dung của
môn học, bài học sẽ được làm sáng tỏ hơn, hấp dẫn hơn trong quá trình người học nghiên
cứu, tìm tòi tài liệu, chinh phục kiến thức. Việc hỗ trợ kịp thời của người dạy là giải
pháp tối ưu và hiệu quả nhất mỗi khi người học thất bại hoặc không tìm ra đáp án trong
bài học, trong các bài tập cụ thể, tình huống cụ thể. Người giảng dạy có thể hỗ trợ trò
của mình đọc tài liệu, hỗ trợ tìm tài liệu, hỗ trợ đưa ra phương án tối ưu, hỗ trợ cả về
tinh thần trách nhiệm để người học đam mê trong học tập, nghiên cứu.
Sáu là, người dạy là người cố vấn: Trong giảng dạy, nhiều trường hợp giảng viên
phải đưa ra những lời khuyên cho người học của mình. Ví dụ: người học có thể đề nghị
tư vấn cá nhân về việc xác định mục đích học tập, phát triển các kế hoạch đào tạo cá
nhân, những phương pháp thích hợp để nghiên cứu, học tập, và các vấn đề tương tự.
Người thầy khi đó trong vai trò cố vấn hiệu quả để phát triển, xây dựng được mối quan
hệ hợp lý, phù hợp với trò.
Bảy là, người dạy là người hướng dẫn: Người thầy hướng dẫn trò khai thác bài
học, hướng dẫn đọc tài liệu, hướng dẫn làm bài tập, hướng dẫn tư duy từng vấn đề cụ
thể. Bên cạnh đó, người dạy còn hướng dẫn người học làm bài tình huống và thực hành
kỹ năng trong thực tiễn. Vai trò này sẽ giúp cho người học biến quá trình đào tạo thành
tự đào tạo, biến tri thức nhân loại thành tri thức của mình. Người học có thể cần thảo
luận cả những vấn đề và những mối quan tâm của họ với người dạy, trong trường hợp
này, người thầy cần phải có những phản hồi trung thực và xây dựng đối với trò.
Tám là, người dạy là người điều phối: Với mô hình giảng dạy lấy người học làm
trung tâm, việc tự quản lý học tập (tự học) được nhấn mạnh cũng có nghĩa là trách nhiệm
của người thầy trong quản lý, điều phối quá trình đào tạo rất quan trọng. Người dạy
chính là người điều phối, người chỉ huy, điều phối, trợ giúp một cách chủ động đối với
người học trong quá trình giảng dạy; điều phối một cách chủ động đối với sự tham gia
của các thành viên khác, những người giám sát và chuyên gia. Sự điều phối có thể trong
phạm vi hoạt động của lớp học, có thể trên các phương diện công việc mở rộng, hỗ trợ
đào tạo như chọn địa điểm đào tạo, sắp xếp nhân sự, kiểm tra thiết bị, phương tiện và
đảm bảo chương trình được diễn ra trôi chảy.
13
Chín là, người dạy là người đánh giá và kiểm tra kết quả học tập: Mục tiêu môn
học và mục tiêu bài học chỉ được định lượng thông qua việc đánh giá và kiểm tra của
người giảng dạy. Người dạy phải có khả năng kiểm tra, đánh giá người học, xác nhận
những thành tích học tập của họ. Với vai trò này người dạy sẽ kịp thời phát hiện những
người học yếu kém, thiếu tự giác, học tập sai phương pháp, học tập miễn cưỡng, lười
biếng hoặc học đối phó. Cũng từ vai trò kiểm tra đánh giá mà người thầy nhận diện được
tư duy của mỗi người học trong quá trình chủ động khai thác môn học, bài học ở mức
độ tích cực nhất định.
Mười là, người dạy là người lập kế hoạch, thiết kế chương trình đào tạo, bồi
dưỡng: Thông thường, trong các nhà trường, cơ sở đào tạo, chương trình đào tạo có sẵn,
giảng viên, giáo viên không cần lập kế hoạch, chuẩn bị, thiết kế chương trình đào tạo.
Chúng ta chỉ thiết kế-soạn bài giảng cho các buổi đào tạo của mình. Tuy nhiên, trong
nhiều trường hợp, giảng viên cũng là người tham gia vào quá trình phân tích các nhu
cầu đào tạo và xác định các yêu cầu đào tạo, tham gia thiết kế chương trình đào tạo, bồi
dưỡng. Trong đó bao gồm cả việc xác định kết quả học tập - mục tiêu, lựa chọn và sắp
xếp nội dung, lựa chọn phương pháp giảng dạy phù hợp, chuẩn bị tài liệu học tập và lựa
chọn phương pháp đánh giá.
Mười một, người dạy là người thúc đẩy quá trình đào tạo: Giảng viên có thể
cung cấp những thông tin đào tạo, bồi dưỡng cập nhật khi được yêu cầu. Cũng có thể
truyền bá những thông tin đào tạo, bồi dưỡng qua những ấn phẩm, những diễn đàn, hội
nghị đào tạo, bồi dưỡng. Khuyến khích, thúc đẩy quá trình đào tạo, bồi dưỡng của tổ
chức mình là một phần vai trò của người giảng dạy chúng ta.
1.3.2. Tác phong người dạy
Tác phong của người dạy trên lớp được hiểu là phong cách văn hoá của mọi hành
vi, ứng xử, cử chỉ, nét mặt cùng trang phục của người thầy trong quá trình giảng dạy.
Đó là sự phối hợp hợp lý, khoa học giữa những thao tác tay, chân, nét mặt, điệu bộ, cử
chỉ… và mọi ứng xử của người thầy trong quá trình lên lớp. Các chuyên gia nghiên cứu
giáo dục khẳng định rằng: giá trị của người thầy được khẳng định và in dấu, có khi suốt
đời trong lòng người học. Đó chính là nét văn hoá thể hiện qua tác phong của người
thầy.
Từ xưa đến nay, tác phong của thầy luôn ảnh hưởng trực tiếp đến không khí lớp
học và ảnh hưởng đến ứng xử của người học. Nếu người thầy có tác phong đúng mực,
14
mô phạm, cởi mở, thân thiện, sẽ tạo cho lớp học một bầu không khí dễ chịu, thoải mái,
vui vẻ, hào hứng. Việc học tập sẽ trở nên dễ dàng, hứng thú hơn, kết quả học tập tốt
hơn, và ngược lại. Tác phong người thầy cũng ảnh hưởng trực tiếp đến thái độ ứng xử
của người học: ảnh hưởng đến ứng xử của người học với nhau và ứng xử của người học
với giảng viên, giáo viên. Người học sẽ vui vẻ, hào hứng, hợp tác, cởi mở, hay họ trở
nên e dè, ngại ngùng, thu mình, lạnh lùng với nhau; người học tự giác, hợp tác, hay họ
đối phó, khó chịu với giảng viên, một phần lớn chịu ảnh hưởng từ cách ứng xử, hành vi,
biểu hiện ra ngoài của người giảng dạy.
Một câu hỏi rất quan trọng mà tất cả các giảng viên cần phải trả lời được để chú
ý rèn luyện, hoàn thiện, thực hiện suốt đời làm nghề giảng dạy, đó là: tác phong giảng
viên thể hiện ở đâu và cần phải như thế nào?
Tác phong của giảng viên là tất cả những biểu hiện bộc lộ ở hình thức bên ngoài
và trong cách ứng xử với người học. Vì thế, để chỉ ra đầy đủ những gì thuộc về tác
phong quả là rất khó. Tuy nhiên, có thể liệt kê một số biểu hiện tác phong đúng mực
(tác phong tốt) rõ nhất của giảng viên trong hoạt động giảng dạy như sau:
Những biểu hiện ở hình thức bên ngoài:
- Trang phục: lịch sự, gọn gàng
- Nét mặt: tươi tắn, vui vẻ
- Thái độ: ôn tồn, hoà nhã
- Cử chỉ: ân cần
- Ánh mắt: thân thiện, bao quát
- Tư thế: đường hoàng, đĩnh đạc
- Di chuyển: khoan thai, hợp lý
- Vị trí: phù hợp, linh hoạt, không che khuất tầm nhìn của người học
- Giọng nói: truyền cảm, uyển chuyển, âm lượng vừa đủ, tốc độ vừa phải
- Ngôn từ: chính xác, rõ rang, chuẩn mực
- Biểu hiện cảm xúc: chừng mực, phù hợp, không thái quá
- Cử động tay và cơ thể: linh hoạt, hợp lý, vừa phải, không làm rối hoặc gây ức
chế
- Khoảng cách với người học: hợp lý, không quá xa (xa cách), không quá gần
(suồng sã)
15
Những biểu hiện ở giao tiếp ứng xử với người học:
- Tôn trọng người học, tôn trọng ý kiến, quan điểm của họ, không áp đặt
- Tin tưởng, đánh giá cao (ghi nhận, khích lệ) khả năng, năng lực của người
học
- Lắng nghe, ghi nhận
- Kiên nhẫn và ân cần
- Luôn tạo cơ hội cho người học thể hiện mình
- Quan tâm, giúp đỡ, vì người học
- Tự tin nhưng khiêm tốn
- Bao quát lớp
- Tập trung, không làm việc riêng
- Thúc đẩy sự gắn kết các thành viên trong lớp
- Hiểu, đồng cảm, chia sẻ với người học
- Chuẩn bị kỹ bài giảng
- Truyền đạt thông tin chính xác, mô phạm, đáng tin cậy
- Đúng giờ …
Tác phong là biểu hiện của văn hoá, phẩm chất và cả năng lực của người thầy.
Người thầy hãy luôn chú ý rèn luyện để có tác phong tốt, để trở nên chuyên nghiệp, tạo
được thiện cảm, sự tin tưởng và cảm xúc tích cực của người học, giúp họ học tập hiệu
quả hơn. Theo sự phát triển của xã hội, tác phong của người thầy có thể thay đổi linh
hoạt. Nhưng dù thay đổi thế nào thì những tiêu chí cơ bản này vẫn luôn tồn tại như một
yêu cầu đối với giảng viên.
Đáng nói là hiện nay, không ít giảng viên, khi lên lớp hoặc là tỏ ra khá xuề xoà,
hoặc quá cầu kỳ, đôi khi có hành vi thiếu chuẩn mực, hoặc quá phóng khoáng, suồng
sã, cẩu thả, thạm chí vi phạm cả quy định về tác phong cán bộ công chức. Chúng ta đừng
quên, sự thiếu vắng (dù chỉ một chút) chuẩn mực của người giảng dạy sẽ làm mất đi sự
tôn trọng từ phía người học, làm giảm sự tập trung, hứng thú, thoải mái của giờ lên lớp,
làm cho hiệu quả học tập giảm sút.
1.4. Nguyên tắc giảng dạy tích cực
Trong giảng dạy, bất cứ giảng viên nào cũng đều trăn trở trước khi triển khai hoạt
động giảng dạy. Triển khai bài giảng như thế nào để người học vừa có được tri thức,
vừa có được trạng thái tinh thần vui vẻ, thoải mái, học tập một cách chủ động, say mê,
16
được thực sự là “trung tâm” trong hoạt động giảng dạy…luôn là những câu hỏi tồn tại
trong tư duy người thầy trước khi đảm nhiệm giảng dạy một nội dung nào đó.
Trong thực tế, mỗi giảng viên đảm nhiệm những chuyên đề, môn học, nội dung khác
nhau. Ở mỗi nội dung giảng dạy ấy, do mục đích, tính chất, phạm vi, yêu cầu không
giống nhau nên cần được triển khai bằng những cách thức khác nhau. Tuy nhiên, có thể
chỉ ra những điều mà bất cứ giảng viên, nào nếu thực hiện tốt trong quá trình triển khai
bài giảng trên lớp, chắc chắn sẽ tạo nên một giờ giảng vui vẻ, thoải mái, hiệu quả, dù đó
là giảng dạy môn học gì, tính chất nội dung thế nào, yêu cầu ra sao, đối tượng người học
là ai. Đó chính là những nguyên tắc giảng dạy tích cực mà giảng viên cần thực hiện
trong suốt quá trình giảng dạy của mình.
1.4.1. Nguyên tắc Liên hệ với thực tế
Goethe đã đúc kết từ trải nghiệm qua câu nói kinh điển: “Lý thuyết chỉ là màu xám,
còn cây đời là mãi mãi xanh tươi”. Trong giảng dạy, nếu chúng ta chỉ nói lý thuyết,
người học khó lòng tiếp thu được vấn đề. Người học sẽ dễ dàng hiểu (thậm chí chỉ hiểu)
thấu đáo lý thuyết khi những lý thuyết đó được phân tích, chứng minh bằng ví dụ thực
tế. Và chính những luận điểm, vấn đề được làm rõ bằng thực tế ấy mới có khả năng nằm
lại trong tâm trí người học. Họ sẽ hiểu sâu và nhớ lâu.
Mục đích của đào tạo, bồi dưỡng chủ yếu là giúp cho người học có được năng lực tư
duy và năng lực hành động, trên cơ sở đó họ có khả năng giải quyết được các bài toán
thực tế đặt ra trong toàn bộ cuộc sống của họ. Cái đích cuối cùng là những gì người học
học được phải vận dụng vào thực tiễn, phục vụ cuộc sống. Vì thế, những gì được giảng
dạy trên lớp phải luôn luôn gắn với cuộc sống bên ngoài, trong quá khứ, hiện tại, hoặc
tương lai của người học. Người học liên tưởng, đặt mình vào đó, tiếp nhận, cảm nhận,
thực hiện, giải quyết, như một lợi ích sát sườn của mình. Thực tế bao giờ cũng có sức
hấp dẫn đặc biệt với người học. Họ thấy quan tâm hơn, hứng thú hơn. Nhất là với đối
tượng người học là người lớn, nếu nội dung học không liên quan đến công việc đang
làm, đến nghề nghiệp họ đang theo đuổi, họ sẽ không muốn học.
Nguyên tắc liên hệ với thực tế cần được thực hiện trong suốt quá trình triển khai bài
giảng, từ khi bắt đầu bài giảng (mở đầu bài giảng), trong quá trình khai triển nội dung
bài giảng, tới khi kết thúc bài giảng.
17
1.4.2. Nguyên tắc Tạo bầu không khí tích cực trong giờ giảng
Trong giảng dạy, chúng ta cần phải chú trọng cả hai phương diện: truyền tải nội dung
và duy trì không khí tích cực cuả lớp học. Khi người học có được nội dung tri thức ích
lợi với mình từ bài học, họ sẽ tập trung, hào hứng, chủ động. Điều này góp phần tạo nên
không khí thoải mái, vui vẻ. Bầu không khí tích cực - tức là bầu không khí thoải mái,
dễ chịu, sẽ là một yếu tố vô cùng quan trọng giúp người học tiếp thu bài tốt hơn.
Ở trong một bầu không khí nghiêm khắc, căng thẳng, người học sẽ cảm thấy bị ức
chế, khó chịu. Họ có thể phải gồng lên để tự điều tiết cảm xúc, có thể hướng suy nghĩ
của mình về những gì liên quan đến thái độ của người thầy, đến trạng thái của lớp học,
đến thứ khác xung quanh, mà không tập trung vào bài học. Họ rất khó để tập trung suy
nghĩ, tìm tòi, khám phá nội dung bài học, mà chỉ cố gắng thực hiện những yêu cầu của
người thầy, để mong đáp ứng tình trạng khó chịu trên. Họ có thể có những phản ứng đối
phó tiêu cực với giảng viên, giáo viên của mình. Họ học không hiệu quả. Tương tự,
trong một bầu không khí trầm lắng, đơn điệu, người học sẽ cảm thấy buồn tẻ, nhàm
chán, mất động lực. Họ dễ có xu hướng xao nhãng với vấn đề mà giảng viên đang triển
khai. Họ trở nên thụ động và mệt mỏi, học không hiệu quả.
Việc tạo ra bầu không khí tích cực trong giờ giảng trở thành một nguyên tắc vô cùng
quan trọng mà giảng viên phải cố gắng thực hiện để người học được học tập một cách
hiệu quả. Điều quan trọng là, người dạy làm thế nào để người học cảm thấy thoải mái,
dễ chịu nhất, họ không phải phân tán tư tưởng vào những điều không thuộc về bài giảng,
chỉ dành toàn bộ tâm trí vào mục tiêu, nội dung bài học cùng người thầy. Nói cách khác,
khi được động viên, khuyến khích, ủng hộ, quan tâm, người học sẽ có cơ hội phát huy
tối đa tiềm năng của mình. Ngược lại, mọi hình thức kiểm soát bằng đe doạ, trừng phạt,
gây sợ hãi, xấu hổ chỉ khiến người học cảm thấy không phù hợp, tổn thương, ngượng
ngùng và bất an.
Để tạo được bầu không khí tích cực, giảng viên chúng ta nên sử dụng các kỹ thuật
như:
- Thiết lập các quy ước hợp tác, làm việc trong quá trình cùng hoạt động (các
dấu hiệu thông báo)
- Thể hiện lắng nghe tích cực, tạo sự tin cậy, tôn trọng ở người học
- Khơi dậy cảm giác an toàn, bình yên cho người học (âm nhạc nhẹ nhàng,
giọng nói nhẹ nhàng, sâu lắng)
18
- Giải quyết mẫu thuẫn một cách nhân văn, cho người học có cảm giác được
tôn trọng, thấu hiểu, an toàn.
Mọi yếu tố tạo nên bầu không khí tích cực trong giờ giảng đều cần được giảng viên
cân nhắc, chọn lựa, sắp xếp một cách hợp lý, với từng nội dung bài giảng, từng thời
điểm thích hợp, từng đặc điểm người học và tình hình lớp học.
1.4.3. Nguyên tắc Trực quan hoá bài giảng
Trong văn hóa dân gian có câu: “trăm nghe không bằng một thấy”. Trên phương
diện nghiên cứu, các nhà nghiên cứu giáo dục khẳng định: “Nếu người học chỉ nghe thì
lĩnh hội được 20 phần trăm lượng thông tin, nếu chỉ nhìn thì lĩnh hội được 30 phần trăm.
Nếu phối hợp cả nghe, nhìn, hành động thì lượng thông tin tiếp thu được là 80”. Nói
cách khác, nếu các nhà sư phạm chỉ giảng dạy bằng thuyết trình, thì lượng kiến thức bị
thất thoát là 80 phần trăm. Và do đó, giảng dạy bằng trực quan vô cùng quan trọng hơn
bao giờ hết.
Phương pháp trực quan là cầu nối giữa lý thuyết và thực hành, là sự phản ánh khách
quan, chân thực nhất về những kiến thức lý thuyết, phát huy tính tích cực, chủ động học
tập của người học. Trực quan hoá bài giảng giúp người học hiểu rõ các khái niệm, đặc
điểm, quy trình, thủ tục và thao tác trong từng môn học cụ thể, thông qua đó, họ hứng
thú học tập hơn, tiếp nhận tri thức mới dễ dàng hơn, tạo sự tò mò, say mê nghiên cứu
hơn.
Trực quan hoá bài giảng có tác dụng rất lớn trong giảng dạy:
- Thời gian trình bày ít, hiệu quả cao
- Tạo sự thoải mái trong giờ học
- Dễ dàng sử dụng kết hợp với các phương pháp khác, đặc biệt là phương pháp thuyết
trình
- Các ý kiến đã đóng góp không bị mất đi (trường hợp thu thập thông tin, ý kiến
người học, viết trên giấy khổ lớn, trên bảng)
- Kích thích trí tưởng tượng của người học
- Khuyến khích tính chủ động, tích cực tham gia học tập của người học
Giúp giờ học đạt được mục tiêu đề ra.
Người giảng dạy có thể sử dụng các hình thức trực quan sau đây:
- Tranh ảnh, hình vẽ chuyển tải chủ đề nội dung giảng dạy
- Video clip, đoạn phim tư liệuđể minh hoạ nội dung bài giảng
19
- Đồ vật, mẫu vật, sản phẩm chứa đựng nội dung, chủ đề trình bày
- Sơ đồ, bảng biểu để cấu trúc hoá thông tin, nội dung bài giảng
- Các vật liệu để thí nghiệm, thực hành
- Bản thân người thầy với những biểu hiện cảm xúc, hỗ trợ ngôn từ…
Nhưng không phải cứ đưa thật hiều công cụ trực quan vào bài giảng là tốt. Phải
thừa nhận rằng, trực quan có tác dụng đáng kể đối với việc học tập. “Một bức tranh hơn
cả ngàn lời nói” quả là không sai. Để giúp cho giờ giảng luôn hiệu quả, giảng viên đừng
bao giờ bỏ qua phương tiện chuyển tải nội dung tuyệt vời này.
1.4.4. Nguyên tắc Khuyến khích người học tự làm
Trong phần trình bày Nguyên tắc thứ ba (Trực quan hoá bài giảng), đã có nhắc đến
câu châm ngôn dân gian “trăm nghe không bằng một thấy”. Nhưng nửa thứ hai của câu
nói này lại là một khẳng định về một phương diện giảng dạy còn mang sức mạnh to lớn
hơn: “trăm thấy không bằng một làm”. Với bất cứ một trường hợp truyền đạt nội dung
hay rèn kỹ năng nào, nếu người học được tự mình thực hiện, thể hiện (làm), họ sẽ thực
sự hiểu và nhớ lâu. Vì thế, trong giảng dạy, giảng viên cần khuyến khích người học “tự
làm” để họ học tập hiệu quả. Khuyến khích người học tự làm nghĩa là làm cho họ trở
nên chủ động, tích cực trong mọi hoạt động học tập. Trong giảng dạy tích cực, điều cốt
yếu là giảng viên cần tạo điều kiện để người học tự xây dựng kiến thức cho mình, phát
triển tính độc lập, tháo vát, sôi nổi.
Chúng ta có thể khuyến khích người học tự làm bằng nhiều cách khác nhau:
- Tạo cơ hội cho người học tự làm
- Đặt câu hỏi, giao bài tập, giao nhiệm vụ thực hành cho người học
- Giao cho người học truyền đạt một nội dung vừa học cho người khác
Trong thực tế, rất nhiều giảng viên còn giữ thói quen tự thuyết giảng, truyền đạt mọi
thông tin, nội dung cho người học, với tâm lý “sợ người học không biết”. Thói quen làm
thay này của thầy cô càng khiến họ trở nên thụ động và ỉ lại. Để người học tự làm sẽ là
đòn bẩy, tạo động lực cho người học “bật” khỏi vị trí thụ động ấy. Người học lúc này
được tham gia vào bài giảng một cách chủ động, với tư cách là nhân vật “trung tâm”.
Họ học tập hiệu quả hơn.
1.4.5. Nguyên tắc Chốt nội dung giờ giảng
Chốt nội dung giờ giảng là nhân tố quan trọng để chúng ta giúp người học của mình
đúc kết lại kiến thức để từ đó vận dụng được kiến thức vào thực tiễn. Một nhà sư phạm
20
nổi tiếng từng khẳng định: Nếu giảng viên không chốt lại nội dung bài giảng, sau 3 ngày,
người học chỉ nhớ được 30 % thông tin. Nếu người thầy chốt nội dung trước khi ra về,
3 ngày sau, người học có thể nhớ được 80%. Sau đây là một số cách phổ biến để chốt
nội dung giờ giảng:
Giảng viên thực hiện chốt nội dung bài giảng:
- Tóm tắt nội dung chính bài giảng
- Nhấn mạnh các nội dung quan trọng
- Giao nhiệm vụ cho người học
- Đặt ra các yêu cầu, nhiệm vụ tiếp theo cho người học
Học viên thực hiện chốt nội dung bài giảng:
- Trả lời câu hỏi kiểm tra của thầy
- Làm bài tập
- Thực hành
- Liên hệ thực tế
- Giảng lại từng phần theo yêu cầu của người thầy
- Đóng vai (thể hiện lại nội dung bài học)
- Bầu chọn nội dung quan trọng nhất với mình
- Đặt câu hỏi làm rõ thêm nội dung
- Giải câu đố (do thầy đưa ra, hoặc người học tự đố tự giải với nhau)…
Dù chốt nội dung giờ giảng bằng cách nào thì đó cũng chính là phần kết thúc bài
giảng, buổi giảng, nên giảng viên hãy cố gắng neo chốt thật hiệu quả và ấn tượng. Đừng
chốt nội dung một cách qua loa, nhạt nhẽo. Người học sẽ ghi nhớ bài giảng tốt hơn khi
được kết thúc bài học trong lắng đọng, sâu sắc và vui vẻ.
Trên đây là 5 nguyên tắc cơ bản của giảng dạy theo hướng tích cực hoá người học-
giảng dạy “lấy người học làm trung tâm”. Để người học thực sự là “trung tâm”, được
học tập tích cực, khi triển khai bài giảng, giảng viên hãy thực hiện tốt những nguyên tắc
này, và có thể quan tâm đến các nguyên tắc khác nữa, đảm bảo các tiêu chí, mục đích,
yêu cầu giảng dạy của mình.
21
CHUYÊN ĐỀ 2: CÁC PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY TÍCH CỰC
2.1. Phương pháp Thuyết trình hiệu quả
Phương pháp Thuyết trình xưa nay vẫn được coi là phương pháp giảng dạy
“truyền thống”, và là một trong những phương pháp lâu đời nhất, quen thuộc nhất đối
với mọi giảng viên, giáo viên. Phương pháp Thuyết trình vốn là một phương pháp được
ví bằng hình ảnh “rót nước vào bình”, trong đó, người dạy là người rót, còn người học
là những chiếc bình. Hình ảnh này cũng cho thấy giảng dạy ở đây là hoạt động một chiều
và người học hoàn toàn thụ động trong quá trình đó. Tuy nhiên, Thuyết trình là một
phương pháp mà cho phép người giảng dạy chúng ta có thể chuyển tải một lượng thông
tin lớn trong một khoảng thời gian ngắn, cùng một lúc tới nhiều người.
Mặt khác, Thuyết trình cũng là một phương pháp rất cần thiết để giới thiệu một
chủ đề, hoạt động, hoặc nhiệm vụ mới; để giải thích và làm sáng tỏ các thuật ngữ, khái
niệm, nguyên tắc, hoặc cơ chế; để cập nhật thêm các thông tin hoặc các kinh nghiệm
thực tế không có trong tài liệu; để ôn lại bài cũ trước khi vào bài mối hoặc tóm tắt bài ở
cuối buổi học. Với rất nhiều ưu điểm và thế mạnh đó, Thuyết trình là một phương pháp
cơ bản, quan trọng để tryền tải kiến thức, cung cấp thông tin cho người học, là một
phương pháp thường được đa số các giảng viên ưu tiên áp dụng trong giảng dạy.
Với phương pháp Thuyết trình, nếu giảng viên biết cách sử dụng đúng và biết
phối hợp với các phương pháp khác nhất là sử dụng thêm một số công cụ nghe nhìn hỗ
trợ để minh hoạ, hoặc cải tiến để tăng cường sự tham gia của người học, thì vẫn đem lại
hiệu quả. Những người giảng dạy cần phải làm cho phương pháp Thuyết trình trở nên
tích cực, bằng cách kết hợp sử dụng Thuyết trình với các phương pháp khác như phương
pháp Hỏi đáp, Đóng vai, Nêu ý kiến ghi lên bảng, Nghiên cứu tình huống, Làm việc
nhóm, Trực quan…
Khi Thuyết trình được kết hợp với các phương pháp khác để minh họa, chứng
minh, trao đổi, thể hiện…tức là khi đó người học đựơc học tập một cách chủ động, tích
cực, được là trung tâm trong hoạt động giảng dạy. Thuyết trình không còn là phương
pháp truyền thụ một chiều, thụ động nữa. Nó trở thành một phương pháp giảng dạy tích
22
cực, với các tên gọi: Thuyết trình có minh họa; Thuyết trình hiệu quả; Thuyết trình kết
hợp với các phương pháp khác.
2.1.1. Chuẩn bị thuyết trình
Để có thể tận dụng tối đa những ưu điểm, thế mạnh của Thuyết trình, người giảng
viên cần chuẩn bị rất công phu, bắt đầu từ việc xác định đối tượng người học, mục tiêu
bài giảng, nội dung bài giảng, đến chuẩn bị các phương tiện và lập kế hoạch bài giảng.
* Xác định đối tượng người học:
Không có bài giảng chung chung cho mọi đối tượng, mà mỗi bài giảng phải
hướng tới đối tượng cụ thể. Giảng viên cần phải nghiên cứu kỹ đối tượng người học
trước khi tiến hành những công việc chuẩn bị cho bài giảng. Giảng viên cần xem xét,
tìm hiểu thật kỹ về người học, những gì liên quan, ảnh hưởng tới quá trình tiếp nhận bài
giảng: tỷ lệ nam - nữ; độ tuổi; trình độ học vấn; trình độ chuyên môn; nghề nghiệp; kinh
nghiệm làm việc; kinh nghiệm cuộc sống; người học trong lớp đa dạng hay đồng nhất
về độ tuổi, lĩnh vực công tác, nơi làm việc, địa vị xã hội, hiểu biết về môn học, bài học.
Người giảng dạy cần xác định nhu cầu, mong đợi của người học đối với chủ đề
giảng dạy. Những điều này giúp chúng ta xác định mục tiêu giảng dạy phù hợp, đáp ứng
được nhu cầu, mong đợi của người học. Để tìm hiểu kỹ về người học, giúp cho việc xác
định nội dung, phương pháp giảng dạy, giảng viên có thể tự đặt những câu hỏi sau:
- Người học mong đợi gì ở bài giảng?
- Người học đã biết những gì về nội dung liên quan đến bài học?
- Số lượng? Tuổi trung bình? Tỷ lệ nam- nữ?
- Trình độ văn hoá, nghề nghiệp, vị trí xã hội?
- Người học đã được biết về chủ đề bài giảng của mình chưa?
- Người học tự nguyện hay bắt buộc phải tham dự?
- Những điểm chung của người học trong lớp là gì?
- Người học có tâm trạng nào, có định kiến với chủ đề bài giảng này không?
- Bao nhiêu phần trăm người học đã quen biết với mình?...
* Xác định mục tiêu bài giảng:
Việc xác định rõ mục tiêu bài giảng sẽ giúp người giảng dạy có phương hướng
chuẩn bị bài giảng và giúp người học xác định được những điểm cần tập trung trong bài
giảng, thúc đẩy mối quan tâm của họ. Tuỳ theo chủ đề giảng dạy, đối tượng người học
mà chúng ta có thể xác định những mục tiêu giảng dạy khác nhau.
23
Mục tiêu bài giảng chính là kết quả của bài giảng, là những gì người học sẽ đạt
được sau bài học. Mục tiêu phải rõ ràng, cụ thể, xác định, mà từ đó người giảng dạy mới
xác định nội dung bài giảng.
Thông thường, một bài giảng hướng tới 3 mục tiêu: mục tiêu kiến thức, mục tiêu
kỹ năng, mục tiêu thái độ của người học. Bài giảng bằng phương pháp Thuyết trình cũng
đặt ra 3 mục tiêu đó. Tuy nhiên, mục tiêu về kỹ năng thường là những kỹ năng thuộc tư
duy, ở mức độ đầu tiên mà người học “có khả năng” đạt được, chưa phải là mức độ
“hoàn thành” như kết quả của một số phương pháp khác.
* Xác định nội dung bài giảng
Nội dung bài giảng phải được xác định căn cứ vào Mục tiêu bài giảng. Bám sát
vào những gì người học cần đạt được đã xác định từ Mục tiêu, người giảng dạy sẽ chọn
lựa những nội dung cần thiết và phù hợp với đối tượng người học, xây dựng cấu trúc
nội dung bài giảng nhằm đáp ứng những mong đợi của họ đối với giờ giảng của mình,
về nội dung kiến thức và cả cách thức, trạng thái tinh thần trong học tập.
Sau khi đã xác định được mục tiêu và lựa chọn nội dung, người giảng dạy cần
sắp xếp - cấu trúc nội dung sao cho phù hợp với thời gian cho phép, tránh trường hợp
thừa hoặc thiếu thời gian. Cấu trúc bài giảng là một yếu tố quan trọng quyết định sự
thành công của bài giảng.
Cấu trúc bài giảng Thuyết trình cần phải rõ ràng và logic, bao gồm 3 phần: mở
đầu, khai triển và kết thúc. Nếu bài Thuyết trình gồm nhiều chủ đề nhỏ thì chúng ta có
thể phân ra thành những đoạn nhỏ. Mỗi đoạn như vậy cũng được triển khai theo 3 phần
tương tự.
* Chuẩn bị phương tiện giảng dạy
Phương tiện là công cụ hỗ trợ cho phương pháp giảng dạy. Thuyết trình hiệu quả
là Thuyết trình có minh hoạ, sử dụng các phương pháp khác để hỗ trợ, nên tất yếu kéo
theo các phương tiện hỗ trợ cho các phương pháp trong Thuyết trình.
Để Thuyết trình hiệu quả, giảng viên cần xác định những gì cần thiết để hỗ trợ
cho phương pháp chỉ dung lời nói, làm cho người học được học tập một cách sinh động,
hấp dẫn và chủ động hơn. Kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học đã chứng minh
được rằng: con người ghi nhớ được thông tin qua Nghe ít hơn rất nhiều khi họ được
Nhìn và Làm. Một bài thuyết trình chỉ có “thầy nói - trò nghe” sẽ khiến cho người học
khó khăn trong việc tập trung và ghi nhớ thông tin, học tập sẽ không hiệu quả. Vì thế,
24
người giảng viên, giáo viên cần chuẩn bị thêm các phương tiện để hỗ trợ, làm cho người
học được tiếp thu bài giảng trong trạng thái phong phú, đa dạng hơn.
Cần dựa vào các yếu tố mục tiêu, nội dung, phương pháp, đối tượng và điều kiện
lớp học để chuẩn bị phương tiện giảng dạy. Đồng thời phải tính toán cụ thể, chi tiết trên
số lượng người học, kich thước phòng học, cách sắp xếp, bố trí phòng học, khả năng
tiếp cận của người học với các phương tiện, khả năng tiếp cận giữa người học và ngừơi
giảng dạy, để quyết định và chuẩn bị những phương tiện phù hợp. Bên cạnh đó, việc
chọn lựa phương tiện hỗ trợ cũng cần phải tính đến mức độ quen thuộc công cụ hỗ trợ
của giảng viên hay điều kiện sẵn có của lớp học, hoặc sự thuận tiện hay bất tiện về địa
điểm lớp học đối với việc lắp đặt và sử dụng công cụ hỗ trợ.
Những phương tiện có thể hỗ trợ cho thuyết trình hiện nay là: bảng viết, bảng lật,
bảng ghim; máy chiếu; các loại giấy, phiếu, thẻ màu, video; … và các dụng cụ đi kèm
các phương tiện đó. Nhưng bạn cũng đừng quên, những phương tiện này phải được (và
chỉ được) sử dụng phù hợp với mục tiêu, nội dung, phương pháp giảng dạy để đạt được
mục tiêu giảng dạy, không phải để trình diễn, trang trí.
* Lập kế hoạch bài giảng
Một trong những phần việc chuẩn bị quan trọng nhất của người giảng viên là Lập
kế hoạch bài giảng. Việc lập kế hoạch bài giảng giúp cho ngừơi giảng viên dự kiến được
những gì mình sẽ làm trên lớp để triển khai nội dung và mọi hoạt động với người học
nhằm đạt mục tiêu giảng dạy. Kế hoạch bài giảng không phải dành cho người học, mà
dành cho người thầy sử dụng cả ở trước, trong và sau giờ giảng. Chúng ta cần phải xây
dựng kế hoạch chi tiết cho tất cả những gì sẽ thực hiện trong bài Thuyết trình của mình,
từ thời gian, nội dung, đến phương pháp, phương tiện, và cả những điểm cần lưu ý khi
thực hiện.
2.1.2. Thực hiện thuyết trình
* Phần mở đầu
Giống các phương pháp khác, Mở đầu bài giảng Thuyết trình, giảng viên cần thu
hút sự chú ý của người học, chuẩn bị cho người học một tâm lý tốt để bước vào buổi
học. Đồng thời tạo ra sự khái quát cao và làm rõ chủ đề của bài giảng.
- Mở đầu trực tiếp: giới thiệu trực tiếp chủ đề và nội dung bài giảng.
- Mở đầu gián tiếp: có thể sử dụng một số lập luận, dẫn dắt người học đến với
chủ đề của bài giảng.
25
Giảng viên cần phải dựa vào đặc điểm người học và điều kiện hoàn cảnh lớp học và
cả phong cách của mình để chọn cho mình cách mở đầu phù hợp nhất.
* Phần khai triển
Đây là phần chính của bài giảng. Giảng viên lần lượt triển khai các ý chính của
bài. Trong đó cung cấp các sự kiện và con số thống kê để mô tả; trình bày các định
nghĩa, khái niệm và những trích dẫn để hỗ trợ.
- Triển khai nội dung:
Với Thuyết trình, có thể triển khai các nội dung bài giảng theo một số logic phổ
biến: quy nạp hoặc diễn dịch.
(i) Theo logic quy nạp, có thể áp dụng 3 cách trình bày khác nhau tuỳ đặc điểm
của nội dung:
+ Quy nạp phân tích từng phần: Nếu các phần nội dung tương đối độc lập với
nhau, thì có thể giải quyết dứt điểm từng nội dung, rồi sơ bộ kết luận về nội dung đó.
Giải quyết xong nội dung thứ nhất rồi chuyển sang nội dung thứ 2, ...
+ Quy nạp phát triển: Các nội dung cụ thể được giải quyết theo lối “móc xích”.
Đáp số của nội dung trước là tiền đề giải quyết nội dung sau.
+ Quy nạp so sánh (hay song song- đối chiếu): Nếu nội dung kiến thức chứa
đựng những mặt tương phản, đối lập thì chúng ta có thể so sánh những thuộc tính của
chúng với các đối tượng tương phản, để rút ra kết luận cho từng điểm so sánh.
(ii) Theo logic diễn dịch, người giảng dạy đưa ra kết luận sơ bộ, khái quát. Sau đó
tiến hành triển khai nội dung theo 3 cách nêu trên (phân tích từng phần, phát triển, so
sánh - đối chiếu), minh hoạ cho kết luận sơ bộ nói trên.
Trong phần khai triển nội dung, giảng viên có thể sử dụng kỹ thuật hỏi đáp, nêu
ra những câu hỏi cụ thể, chỉ ra trọng điểm cần trao đổi, nhằm tạo nhu cầu, kích thích trí
tò mò cũng như tính chủ động, sáng tạo của người học đối với bài giảng, tạo điều kiện
cho họ tham gia vào bài giảng. Người giảng dạy cần làm phong phú, sâu sắc bài giảng
bằng việc đưa ra những dẫn chứng minh hoạ phù hợp (hình ảnh, đồ thị, bảng số liệu
thống kê...). Kết nối và củng cố là những việc rất quan trọng mà giảng viên phải làm
trong phương pháp Thuyết trình. Có thể đưa ra những câu hỏi, bài tập, dành thời gian
cho người học suy nghĩ và trả lời, hoặc tóm tắt lại nội dung vừa học. Việc chuyển ý giữa
các nội dung cũng là một việc cần phải thực hiện hết sức tự nhiên, khéo léo và uyển
26
chuyển, để tạo ra sự liền mạch, mối liên kết giữa các nội dung, đảm bảo tính hệ thống
của bài giảng.
- Ngôn ngữ và ngôn ngữ cơ thể:
Trong phần khai triển, ngoài cách thức triển khai các nội dung, thì sự diễn đạt
của người giảng dạy bằng ngôn ngữ và ngôn ngữ cơ thể là một phần tất yếu và vô cùng
quan trọng. Trong phương pháp Thuyết trình, ngoài kiến thức sâu rộng, người giảng cần
phải thể hiện sự nhiệt tình, lòng đam mê với chủ đề, nội dung mà mình giảng dạy.
Khi thể hiện ngôn ngữ, giảng viên cần chú ý:
+ Nói ngắn gọn, rõ ràng, trực tiếp. Không nên nói dài dòng và mơ hồ.
+ Diễn đạt sinh động, giàu hình ảnh, kết hợp với những ví dụ thực tế, hoặc các
công cụ trực quan.
+ Hạn chế nhìn vào phần bài chuẩn bị
+ Âm lượng, tốc độ nói vừa phải, đủ cho người học nghe rõ. Tránh nói quá to,
quá nhỏ, quá nhanh, quá chậm.
+ Thay đổi ngữ điệu tuỳ theo nội dung, tuỳ việc nhấn mạnh những điểm quan
trọng trong nội dung bài giảng.
Ngôn ngữ cơ thể cũng là một phương tiện quan trọng để truyền tải thông điệp
của giảng dạy tới người học và có tác động lớn đến họ. Trong phương pháp Thuyết trình,
giảng viên càng phải đặc biệt chú ý:
+ Trang phục phải lịch sự, mô phạm và phù hợp
+ Chú trọng giao tiếp bằng mắt với người học
+ Chú ý đến vị trí hay sự di chuyển của giảng viên: hãy đi đến gần người học
(nhưng không quá gần), đến khắp các vị trí trong lớp học, để quan tâm đến tất cả mọi
thành viên trong lớp
+ Giảng viên cần ý thức về những biểu hiện của ngôn ngữ cơ thể, để đảm bảo
truyền đi những thông điệp tích cực tới người học, giúp họ cảm thấy thoải mái và tập
trung vào bài giảng.
*Phần kết thúc
Phần kết thúc phương pháp Thuyết trình nhằm tổng kết và neo chốt nội dung
chính, nhấn mạnh sự đạt được mục tiêu ban đầu đề ra, gợi hướng suy nghĩ tiếp theo của
người học, và để người học ghi nhớ và thấy rõ hơn ý nghĩa của những gì họ nhận được
qua bài giảng.
27
Có thể kết thúc bài thuyết trình bằng một số cách sau đây:
+ Tóm tắt lại những điểm chính bằng sự hỗ trợ của các phương pháp khác.
+ Nhấn mạnh vào điểm cốt lõi hoặc đưa ra một thông điệp quan trọng liên quan
tới bài thuyết trình.
+ Đặt câu hỏi, đưa ra một nhận xét tích cực.
2.1.3. Một số kỹ năng cần có của người giảng viên để thuyết trình hiệu quả
Để có thể thực hiện thành công phương pháp Thuyết trình, cần rất nhiều sự cố
gắng của của giảng viên, đặc biệt là đòi hỏi họ phải có các kỹ năng quan trọng để thực
hiện giảng dạy.
- Kỹ năng nói: Kỹ năng nói là kỹ năng cơ bản mà người giảng viên cần rèn luyện.
Kỹ năng này không chỉ cần khi chúng ta sử dụng phương pháp thuyết trình hiệu quả,
mà là một kỹ năng quan trọng trong việc áp dụng tất cả các phương pháp khác trong
hoạt động giảng dạy.
- Kỹ năng sử dụng ngôn ngữ ngoại hình: Trong giảng dạy, nhất là trong Thuyết
trình, ngôn ngữ ngoại hình (ngôn ngữ cơ thể) là một phương tiện đặc biệt, thậm chí có
vai trò quyết định góp phần tạo nên sự thành công. Ngôn ngữ ngoại hình phải hỗ trợ tốt
nhất cho ngôn ngữ nói. Mọi biểu hiện của ngôn ngữ ngoại hình của giảng viên như ánh
mắt, nụ cười, nét mặt, sự tiếp xúc, tư thế đứng, chuyển động tay, di chuyển, khoảng
cách, trang phục, vị trí... đều phải có tác dụng hỗ trợ cho việc biểu đạt ý nghĩa lời nói,
giúp cho lời nói được rõ ràng, sinh động hơn và bộc lộ rõ thái độ, cảm xúc của mình.
- Nét mặt: Trong thuyết trình, người giảng viên hãy dùng nét mặt để thể hiện sự quan
tâm, lòng nhiệt tình, sự thấu cảm và sự hiểu biết của mình trước người học. Những biểu
hiện thích hợp của nét mặt sẽ giúp người giảng dạy trở nên đáng tin cậy hơn đối với
người học. Người giảng dạy cần phải giữ nét mặt thân thiện, cởi mở. Đừng quá nghiêm
nghị hay cứng nhắc trong suốt quá trình giảng dạy, mà hãy tươi cười một cách chân
thành và tự nhiên.
- Điệu bộ, cử chỉ: Điệu bộ, cử chỉ là biểu hiện của tác phong. Hãy giữ những điệu
bộ, cử chỉ của người thầy một cách tự nhiên, linh hoạt, đừng quá máy móc, và tránh
những cử chỉ lặp lại.
Điệu bộ: Người giảng viên nên dùng tay để nhấn mạnh những điểm chính, thu
hút sự chú ý của người học. Dáng điệu và sự di chuyển tốt cũng góp phần chuyển tải sự
tự tin, chuyên nghiệp và đáng tin cậy. Giảng viên cần đi đứng khoan thai, tốc độ vừa
28
phải, phù hợp với tính chất nội dung đang thể hiện. Không nên di chuyển quá nhanh
hoặc quá chậm gây phản cảm cho người nghe.
Cử chỉ: Cử chỉ được sử dụng để biểu thị cho lời nói. Tuy nhiên, chúng chỉ thực
sự sinh động khi phù hợp với văn hóa trong cách mà nó được sử dụng cũng như ý nghĩa
mà chúng biểu thị cho. Giảng viên cũng cần ý thức được điều này và biết cách sử dụng
những cử chỉ lịch sự, thân thiện, tạo hiệu quả cho giảng dạy và Thuyết trình.
- Tư thế: Trong giảng dạy, nhất là trong Thuyết trình, tư thế góp phần quan trọng
vào thể hiện phong thái của giảng viên. Tư thế thường có tính liên kết với tình huống,
tức là một người thay đổi tư thế phụ thuộc vào việc họ ở trong tình huống nào. Tuy
nhiên, ở tình huống nào thì người giảng dạy cũng cần thể hiện một tư thế chững chạc,
tự tin và thoải mái. Giảng viên khi thuyết trình nên đứng thoải mái, tự nhiên, bằng cách
đứng thẳng với tư thế chân rộng bằng vai, đầu gối xuôi một cách tự nhiên khi không đi
lại trong phòng. Tư thế đứng này sẽ giúp chúng ta trông tự tin, thư giãn và có uy lực.
- Khoảng cách: Khoảng không giữa chúng ta và những người đối diện sẽ tạo ra
cho ta cảm nhận đối với họ trong những thời điểm giao tiếp đó. Có thể định danh được
khoảng cách tương ứng với mối quan hệ giao tiếp trong hoàn cảnh đó: khoảng cách thân
mật (từ tiếp xúc tới 45 cm); khoảng cách cá nhân (từ 45 cm tới 1,2m); khoảng cách xã
hội (từ 1,2m đến 3,6m); khoảng cách công cộng (lớn hơn 3,6m). Khoảng cách trong
giảng dạy – trong thuyết trình là khoảng cách xã hội. Nếu chúng ta thường xuyên đứng
quá gần người học, ở cự ly thân mật thì đó không phải là khoảng cách phù hợp, vì khoảng
cách đó sẽ làm cho họ cảm thấy áp lực, ngại ngùng và làm hạn chế sự quan sát của các
thành viên khác trong lớp.
- Trang phục: Trang phục là một trong những phương tiện truyền tải những tín hiệu
phi ngôn ngữ về văn hóa, tâm trạng, mức độ tự tin, về sở thích, tuổi tác, quyền lực, hệ
giá trị, về cá tính, xuất thân… của một cá nhân. Đặc biệt là, trang phục cũng có thể sử
dụng như một tín hiệu phi ngôn ngữ để thu hút sự chú ý của những người khác. Trong
giảng dạy cũng vậy, trang phục cũng mang một thông điệp của chúng ta tới người học.
Vì vậy, giảng viên cần chú ý cách phục trang sao cho tạo ra hiệu ứng tốt trong giảng
dạy. Trang phục của giảng viên nhất định phải chuẩn mực, lịch sự, phù hợp với môi
trường giảng dạy, để thể hiện sự tôn trọng người học và thuận tiện trong hoạt động, đồng
thời tạo ra sự đồng bộ giữa người giảng dạy và người học, giúp người học cảm thấy
thoải mái, dễ chịu, thân thiện, để tập trung vào bài giảng. Một bộ trang phục thoải mái
29
nhưng chỉnh tề và lịch lãm có tác dụng làm cho chúng ta trở nên thân thiện và gần gũi
với người học hơn. Và người giảng viên nên tránh sử dụng những bộ trang phục quá cầu
kỳ, rườm rà, loè loẹt, quá thu hút, gây ra tâm lý xa cách, thiếu thân thiện với người học
và gây mất tập trung, làm xao nhãng việc tiếp thu bài học. Đồng thời, hãy nói không với
những bộ trang phục quá xuề xoà, quá lạc hậu, lỗi mốt, có thể gây cười, lại tạo cho người
học cảm giác không được tôn trọng.
- Kỹ năng hỏi và trả lời câu hỏi
Thuyết trình không có nghĩa là người giảng viên chỉ độc thoại từ đầu đến cuối buổi
giảng. Thuyết trình hiệu quả đòi hỏi người giảng phải lồng ghép vào buổi thuyết trình
một số câu hỏi hoặc trả lời một số câu hỏi của người học. Giảng viên cần trau dồi kỹ
năng đặt câu hỏi và trả lời, xử lý các câu hỏi của người học và áp dụng thành thục kỹ
năng này trong suốt quá trình Thuyết trình.
Trong giảng dạy, giảng viên có thể hỏi người học bất cứ thời điểm nào trong giờ
giảng: bắt đầu buổi học, giữa buổi học, hay kết thúc buổi học, tạo mọi cơ hội cho họ
được trả lời các câu hỏi, để hiểu, để tự mình thu nạp kiến thức và đi đến mục tiêu một
cách chủ động hơn, và luôn luôn đảm bảo vì lợi ích chung của cả lớp học.
- Kỹ năng kết hợp các phương pháp giảng dạy
Thuyết trình cần kết hợp với các phương pháp khác nhằm mang lại thêm nhiều cơ
hội hơn cho người học để họ được học một cách tập trung, được quan tâm đến bài học,
được chủ động, tích cực và được học một cách thoải mái trong bầu không khí vui vẻ, tin
cậy. Đây là cách thức triển khai bài giảng Thuyết trình hiệu quả, khắc phục được những
nhược điểm tồn tại trong thuyết trình một chiều, để người học được học tập tích cực,
được là trung tâm trong quá trình giảng dạy, và xây dựng, duy trì bầu không khí tích cực
cho giờ giảng.
Thuyết trình có thể kết hợp với tất cả các phương pháp giảng dạy khác để tạo nên
những bài giảng sinh động, hiệu quả: phương pháp Nêu ý kiến ghi lên bảng, Hỏi đáp,
Sàng lọc, Làm việc nhóm, Công đoạn, Nghiên cứu tình huống, Trực quan, …Nhưng cần
nhớ: không độc thoại quá 20 phút, để đảm bảo cho người học có khả năng duy trì sự tập
trung trong suốt quá trình học tập và tiếp thu tốt bài giảng.
- Kỹ năng sử dụng phương tiện giảng dạy
Thuyết trình hiệu quả là thuyết trình kết hợp với các phương pháp giảng dạy khác,
nên đương nhiên kéo theo việc sử dụng một số phương tiện giảng dạy phối hợp để tăng
30
tính hấp dẫn và tăng hiệu quả như: các loại bảng viết, bảng lật, bảng ghim; các loại thẻ
giấy màu, bản ghi từ máy tính, power point-máy chiếu, giấy khổ to và giá treo hoặc băng
video clip…
Việc sử dụng các phương tiện giảng dạy trong thuyết trình cần đảm bảo sao cho tất
cả người học đều có thể nhìn rõ và nghe rõ. Ví dụ: cần viết chữ đủ to để dễ nhìn, viết ý
chính, hoặc sử dụng bản đồ tư duy, đánh số thứ tự đế tránh nhầm lẫn. Giảng viên cần có
sự tập luyện để sử dụng thành thạo các phương tiện hoặc công cụ hỗ trợ giảng dạy trước
khi tiến hành buổi thuyết trình.
- Kỹ năng bao quát lớp
Một hoạt động có thể nói là khá quan trọng của người giảng viên trong Thuyết trình,
để lắng nghe người học, theo sát mức độ tiếp thu bài giảng của họ, hoặc là để dõi theo
quá trình học tập của người học, để đảm bảo diễn ra đúng với kế hoạch của mình đề ra,
đó là bao quát lớp. Đây là một công việc mang tính đặc thù của nghề giảng dạy, một kỹ
năng cần được phát triển ở các hoạt động mang lại lợi ích cho người học. Tuy nhiên,
trong thực tế, nhiều khi chúng ta còn lơ là việc bao quát lớp.
Bao quát lớp cần được thực hiện thường xuyên, liên tục. Đặc biệt, chúng ta không
nên bỏ qua bất cứ sự quan sát và lắng nghe nào dành cho từng người học, khi họ nói, họ
làm bài tập thực hành, họ viết và họ tham gia mọi hoạt động trên lớp. Có như vậy, chúng
ta mới có thể giúp người học của mình nhận ra lỗi và sửa lỗi, hoàn thiện bài học, tiếp
thu được kiến thức như kế hoạch giảng dạy đề ra.
- Kỹ năng xử lý tình huống trong giảng dạy
Trong giảng dạy, nhất là trong thuyết trình, người giảng viên chúng ta cần quan sát
người học để phát hiện kịp thời các hiện tượng bất lợi đối với bài giảng. Người giảng
dạy có thể phát hiện tình huống dựa vào các phản ứng của người học, được thể hiện qua
những biểu hiện như: nét mặt căng thẳng, sự lơ đãng khi nghe giảng, hay cựa quậy, buồn
ngủ hoặc quay sang hỏi nhau hoặc nói chuyện riêng... Khi phát hiện tình huống, chúng
ta phải khéo léo xử lý để luôn giữ cho giờ giảng được diễn ra như dự kiến và đảm bảo
mục tiêu bài giảng.
- Kỹ năng quản lý cảm xúc
Giảng viên là những người mà cảm xúc thường xuyên chịu ảnh hưởng bởi yếu
tố tác động từ quá trình học tập của người học, trong đó không ít những tình huống khó
khăn. Trong giảng dạy, nhất là trong những buổi thuyết trình, đòi hỏi về nề nếp, quy
31
định, và rất có thể xảy ra những tình huống ngoài dự kiến của người thầy, nếu có kỹ
năng quản lý cảm xúc với những thái độ tích cực và làm chủ bản thân, giảng viên sẽ có
được sự ứng xử đúng đắn, biết cách giải quyết mọi vấn đề xảy ra một cách bình tĩnh,
đạt hiệu quả cao, hoàn thành tốt vai trò người thầy của mình. Đây là một kỹ năng không
thể thiếu ở người thầy để đem lại hiệu quả giảng dạy.
2.2. Phương pháp Hỏi đáp
2.2.1. Khái niệm phương pháp Hỏi đáp
Phương pháp Hỏi đáp, hay còn gọi là phương pháp Trao đổi trong giờ giảng,
phương pháp vấn đáp, hay phương pháp phát vấn.
Hỏi đáp là quá trình tương tác giữa người giảng dạy và người học, giữa những
ngừơi học với nhau, được thực hiện thông qua hệ thống câu hỏi và câu trả lời tương ứng
về một chủ đề nhất định được giảng viên đặt ra. Qua việc trao đổi dưới sự dẫn dắt của
người thầy, người học thể hiện được suy nghĩ, ý tưởng, quan điểm của mình, từ đó khám
phá và lĩnh hội tri thức.
Sử dụng phương pháp này, giảng viên sẽ khuyến khích, phát huy được tính tích
cực, chủ động, năng động, sáng tạo của người học và huy động các kỹ năng tư duy, phân
tích, trình bày của họ. Về bản chất, người thầy không trực tiếp đưa ra những kiến thức
hoàn chỉnh, mà gợi mở, hướng dẫn người học tư duy từng bước, tự khai phá những tri
thức mới bằng sự tái hiện những tài liệu đã học hoặc từ những kinh nghiệm đã tích luỹ
được trong cuộc sống. Với một câu hỏi chính, giảng viên huy động người học tham gia
vào cuộc tranh luận sôi nổi về chủ đề thuộc nội dung bài giảng. Trong đó, các ý kiến
được đưa ra và bình luận đa chiều theo hướng đào sâu vấn đề.
2.2.2. Quy trình thực hiện
Bước 1. Dẫn nhập vào chủ đề
- Việc dẫn nhập đi tới vấn đề chuẩn bị trao đổi là rất cần thiết, không nên bỏ qua. Bởi
lý do:
+ Tạo sự tập trung, chú ý của người học: Đôi khi, người học còn đang vướng
bận tâm trí vào vấn đề khác, họ chưa tập trung. Chúng ta cần làm gì đó để kéo họ trở
lại, sẵn sàng tiếp nhận câu hỏi và vấn đề mình sắp đưa ra.
+ Định hướng, xác định mục tiêu, giới hạn phạm vi cho người học: với những
vấn đề khó, phạm vi rộng, nếu không có sự định hướng, giới hạn của giảng viên thì
người học có thể đi chệch hướng.
32
- Có nhiều cách để dẫn nhập, giới thiệu chủ đề:
+ Thuyết trình ngắn gọn;
+ Đặt câu hỏi dẫn nhập: câu hỏi dễ, có tính dẫn dắt, hướng vào câu hỏi chính.
Hình thức hỏi đáp thao tác;
+ Trực quan ngắn gọn, với hình ảnh liên quan trực tiếp đến câu hỏi chính…Giảng
viên hãy dẫn dắt người học vào câu hỏi chính một cách tự nhiên và hào hứng nhất.
Bước 2. Nêu câu hỏi
- Nêu câu hỏi và hiển thị trước lớp. Ở phương pháp Hỏi đáp, quá trình trao đổi khám
phá nội dung sẽ tập trung xoay quanh câu hỏi chính. Vì vậy, cần viết câu hỏi lên bảng
hoặc hiển thị trên màn hình chiếu trước lớp sao cho cả lớp đọc được.
- Đặt câu hỏi phù hợp: câu hỏi cần đảm bảo các yêu cầu sau:
+ Câu hỏi phải rõ ràng, dễ hiểu, ngắn gọn, chính xác
+ Câu hỏi phải là câu hỏi mở
+ Câu hỏi gắn với thực tế cuộc sống, hướng tới mục tiêu bài giảng.
+ Câu hỏi phải vừa sức với ngừơi học và tuân thủ các quy tắc logic.
+ Câu hỏi chứa đựng mâu thuẫn; gây ngạc nhiên, tò mò, thách thức tư duy của
người học.
Bước 3. Người học suy nghĩ
Trong giảng dạy, giảng viên đặt câu hỏi cho người học là nhằm trao cho họ cơ
hội được suy nghĩ để tự tìm ra câu trả lời, để hiểu, để chủ động khám phá tri thức – đó
chính là học tập tích cực. Cần có đủ thời gian cho người học kịp suy nghĩ và có câu trả
lời. Tuỳ thuộc vào tính chất, phạm vi và mức độ khó dễ của câu hỏi mà giảng viên dự
kiến thời gian suy nghĩ cho người học. Trong thời gian học viên suy nghĩ, giảng viên
hãy giữ yên lặng để người học được thực sự tập trung suy nghĩ về câu hỏi.
Bước 4. Trao đổi
- Trao đổi là hoạt động trọng tâm của phương pháp Hỏi đáp. Việc hỏi và trả lời, bình
luận ý kiến, tranh luận, để phân tích và khẳng định vấn đề tạo nên cuộc thảo luận đa
chiều sôi nổi, trong đó có: Giảng viên hỏi, học viên trả lời
Học viên hỏi, học viên trả lời
Học viên hỏi, giảng viên trả lời
- Người dạy phải đảm bảo rằng cả lớp cùng “trong cuộc”, mọi người đều được biết,
theo dõi, suy nghĩ và có ý kiến kịp thời vào những phần trao đổi của tất cả các cá nhân
33
trong lớp. Trong quá trình trao đổi, khi người học trả lời, giảng viên cần lắng nghe và
điều khiển cuộc trao đổi đi đúng hướng. Giảng viên phải làm chủ lớp học, là người điều
phối, chỉ huy, là người “thuyền trưởng” có nhiệm vụ lái “con thuyền” lớp học cập bến
tri thức theo đúng mục tiêu đề ra. Trong quá trình trao đổi, giảng viên có thể sử dụng
mọi biện pháp của người điều phối để thúc đẩy người học tích cực tham gia, như: cảm
ơn, động viên, khuyến khích, tạo không khí thoải mái…
Bước 5. Tổng kết
Giảng viên là người tổng hợp vấn đề, chốt lại nội dung quan trọng của bài học sau khi
trao đổi và chuẩn bị sẵn phương án tổng kết. Bởi vì, phương án tổng kết có ảnh hưởng
trực tiếp đến toàn bộ quá trình trao đổi của lớp học. Từ việc dẫn dắt người học đi đến
nội dung phần kết luận đến việc chúng ta sắp xếp, trình bày các phương tiện giảng dạy.
Khi kết thúc cuộc trao đổi, người học phải thấy được thật rõ ràng Chủ đề và Kết luận
của vấn đề trao đổi được trình bày trên bảng hay trên màn chiếu, theo kiểu bố trí ngắn
gọn, dễ hiểu, ấn tượng.
2.3. Phương pháp Làm việc nhóm
Phương pháp làm việc nhóm là cách mà người giảng dạy phân chia lớp học thành
các nhóm nhỏ, cùng nhau nghiên cứu giải quyết các vấn đề mà giảng viên đặt ra, từ đó
giúp người học tiếp thu được một kiến thức nhất định, qua đó, người học được phát triển
kĩ năng giao tiếp, phát triển năng lực nhận thức và tư duy, phát triển nhân cách.
2.3.1. Ưu điểm của phương pháp Làm việc nhóm
- Phương pháp Làm việc nhóm là cơ hội cho người học chia sẻ kiến thức, kinh
nghiệm và phát triển các kỹ năng quan trọng của con người.
- Với phương pháp Làm việc nhóm, người học được chia sẻ các suy nghĩ, băn
khoăn, kinh nghiệm, hiểu biết của bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức, thái độ mới
và học hỏi lẫn nhau.
- Nhờ không khí thảo luận cởi mở nên người học, đặc biệt là những người nhút
nhát, trở nên bạo dạn hơn, them tự tin, hứng thú trong học tập.
- Trong làm việc nhóm, các thành viên được nâng cao tinh thần hợp tác với nhau,
tăng vốn hiểu biết và kinh nghiệm xã hội, phát triển kĩ năng giao tiếp, kĩ năng hợp tác.
- Phương pháp Làm việc nhóm thỏa mãn nhu cầu học tập cá nhân, phù hợp với
phương châm giảng dạy lấy người học làm trung tâm; khuyến khích sự độc lập tự chủ-
người học có thể đưa ra những giải pháp, cách biểu đạt riêng cho vấn đề nào đó...
34
Chính vì có nhiều ưu điểm như vậy nên phương pháp Làm việc nhóm được sử
dụng trong giảng dạy để giúp người học làm việc tập trung, có định hướng; tăng cường
sự liên kết và hợp tác giữa các cá nhân; phát huy tính chủ động, sáng tạo của họ.
2.3.2. Quy trình thực hiện
Bước 1. Giới thiệu chủ đề thảo luận
Trước khi giao nhiệm vụ cho người học thực hiện, giảng viên cần giới thiệu chủ
đề thảo luận. Chủ đề phải được giới thiệu một cách ngắn gọn, rõ ràng, bám sát vào mục
tiêu bài giảng, phù hợp với người học.
Chủ đề là những vấn đề thiết thực mà người học quan tâm liên quan đến cuộc
sống của người học, hoặc tình huống thực tế, mang tính chất mở, có khả năng khơi gợi
nhiều suy nghĩ khác nhau, nhiều ý kiến trái chiều, giải quyết theo nhiều cách thức, đòi
hỏi có sự phối hợp, cộng tác của các cá nhân để có được cái nhìn đa dạng, phong phú,
đầy đủ hơn trong việc giải quyết một vấn đề và để người học hoàn thành nhiệm vụ nhanh
chóng, hiệu quả hơn. Đồng thời, chủ đề thảo luận cần được dẫn dắt ngắn gọn, chuẩn bị
tốt cho tâm lý, tâm thế của học viên.
Bước 2. Giao nhiệm vụ
Nhiệm vụ nhóm phải được hiển thị lên bảng, trong đó đầy đủ, chi tiết những yêu
cầu, chỉ dẫn cho hoạt động nhóm. Bao gồm: nội dung nhiệm vụ cụ thể các nhóm phải
làm; thời gian làm việc nhóm; thời gian trình bày kết quả nhóm; cách thức đánh giá kết
quả hoạt động nhóm, phương tiện để làm việc nhóm, vị trí làm việc nhóm, thậm chí có
thể phân công rõ nhiệm vụ từng thành viên trong nhóm, nếu cần.
Bước 3. Chia nhóm
- Có nhiều cách để tạo nhóm theo các tiêu chí khác nhau, tuỳ thuộc vào mục đích
sử dụng nhóm và các điều kiện giảng dạy (quy mô lớp, nhiệm vụ nhóm, vị trí ngồi, tuổi
tác, giới tính…). (i) Tạo nhóm ngẫu nhiên: đếm số, bốc thăm, phát thẻ, theo hình ghép,
điểm danh, theo màu sắc, tung xúc xắc, theo biểu tượng, vị trí ngồi, tự nguyện, … (ii)
Tạo nhóm theo chủ định: Nếu chúng ta có chủ định về việc giải quyết nhiệm vụ ở người
học khác nhau, điều này sẽ quy định cách chia nhóm. Có thể có các cách chia nhóm theo
giới tính, trình độ người học, vị trí công tác, đơn vị công tác, phạm vi công tác, theo sở
thích, theo vùng địa lý, quy mô lớp, …
- Kích cỡ nhóm: tuỳ thuộc vào số lượng người học trong lớp và thời lượng thực
hiện phương pháp. Nhưng lý tưởng là nhóm 3-7 người.
35
Bước 4. Làm việc nhóm
Các nhóm tiến hành làm việc dưới sự điều hành của các nhóm trưởng. Các nhóm
trưởng quản lý nhóm mình hoạt động đúng trọng tâm nhiệm vụ được giao, đúng tiến độ
thời gian, đảm bảo mọi người cùng tham gia và đạt kết quả tốt. Giảng viên tham gia
quản lý và định hướng làm việc cho các nhóm và hỗ trợ họ khi cần thiết. Giảng viên cần
nhắc nhở thời gian cho các nhóm để họ điều tiết thảo luận cho kịp tiến độ chung. Nhưng
tránh nhác nhiều, làm cho họ mất tập trung, ảnh hưởng đến chất lượng thảo luận.
Bước 5: Trình bày kết quả
Người đại diện của mỗi nhóm trình bày kết quả làm việc của nhóm mình. Các nhóm
khác quan sát, lắng nghe, tham gia bình luận, bổ sung, đóng góp ý kiến. Giảng viên điều
phối lớp bình luận, đánh giá và bổ sung, điều chỉnh, nghiệm thu kết quả.
Có nhiều hình thức trình bày kết quả:
- Trình bày trước lớp
- Trình bày tại chỗ
- Trình bày bằng áp phích trước lớp
- Trình bày bằng phương pháp Nêu ý kiến ghi lên bảng
- Trình bày bằng phương pháp Thị trường
- Trình bày bằng phương pháo triển lãm tranh
- Trình bày bằng phương pháp Bể cá…
Bước 6: Tổng kết
Giảng viên tổng hợp lại toàn bộ những kết quả đạt được của các nhóm, điều chỉnh,
bổ sung cho đầy đủ và kết nối vào nội dung bài giảng hướng tới. Có thể đưa ra những
khuyến nghị, kêu gọi hành động từ những kết quả thu được, khích lệ tinh thần người
học cho những phần tiếp theo. Kiến thức được chốt lại phải chuẩn xác, gọn, rõ để người
học dễ hiểu và nhớ lâu.
2.4. Phương pháp Nghiên cứu tình huống
2.4.1. Phương pháp nghiên cứu tình huống (Case study)
Đây là phương pháp mà người giảng dạy tổ chức cho người học xem xét, phân
tích, nghiên cứu, thảo luận và giải quyết một tình huống có thực hoặc hư cấu, nhằm đạt
mục tiêu giảng dạy. Có rất nhiều lý do để giảng viên lựa chọn áp dụng phương pháp
Nghiên cứu tình huống trong giảng dạy.
36
- Phương pháp Nghiên cứu tình huống cung cấp một môi trường mô phỏng thực
tế, làm tăng tính thực tiễn của môn học, giảm thiểu rủi ro cho người học khi tham gia
thực tiễn cuộc sống, thực tiễn nghề nghiệp;
- Với cách tổ chức cho người học nghiên cứu tình huống, người giảng dạy sẽ giúp
họ có điều kiện bộc lộ những ý tưởng sáng tạo trong việc giải quyết các vấn đề, phát
triển các quan điểm khác nhau và ra quyết định.
- Phương pháp Nghiên cứu tình huống mang lại sự sinh động, sôi nổi cho người
học trong lớp học.
- Phương pháp Nghiên cứu tình huống là phương pháp phức hợp, tích hợp nhiều
phương pháp giảng dạy khác nhau và nhiều hình thức học khác nhau. Vì thế, phương
pháp này cũng tạo cơ hội cho người học phát triển toàn diện các kỹ năng như: kĩ năng
phân tích để xác định vấn đề, kĩ năng xây dựng và viết tình huống, kĩ năng thu thập và
xử lý thông tin, kĩ năng giao tiếp và làm việc theo nhóm, kĩ năng trình bày vấn đề/quan
điểm trước tập thể, kĩ năng tranh luận, đưa ra luận điểm và bảo vệ ý kiến, kĩ năng tư duy
phê phán, phản biện, kĩ năng so sánh, đánh giá các phương án, kĩ năng ra quyết định và
giải quyết vấn đề (của thực tiễn), kĩ năng sáng tạo khi đưa ra các giải pháp cho vấn đề,…
- Với phương pháp Nghiên cứu tình huống, người học có điều kiện vận dụng kiến
thức đã học để giải quyết tình huống, sự việc cụ thể xảy ra trên thực tế, giúp người học
làm quen với cách giải quyết tình huống cụ thể ngay trong quá trình học tập.
- Phương pháp Nghiên cứu tình huống mang lại cho người học cơ hội rèn luyện
khả năng tự lĩnh hội, tự đào tạo chính mình. Phương pháp Nghiên cứu tình huống là một
phương pháp giảng dạy tích cực hấp dẫn và hiệu quả, đặc biệt với mục tiêu giúp người
học áp dụng lý thuyết vào thực tiễn.
2.4.2. Quy trình thực hiện
Bước 1. Đặt vấn đề
- Trước khi giới thiệu tình huống, người giảng dạy vẫn cần làm một “động tác”
quen thuộc như ở mọi phương pháp khác - dẫn nhập, chuẩn bị tâm lý sẵn sàng cho người
học bước vào thực hiện hoạt động chính là nghiên cứu tình huống. Phần dẫn nhập ở
phương pháp này, yêu cầu chúng ta phải làm rõ hai điểm: nêu chủ đề và xác định mục
tiêu bài giảng.
- Giảng viên nêu chủ đề bài giảng và giới thiệu ngắn gọn mục tiêu bài giảng cần
hướng tới, để người học hình dung tổng thể những gì họ sẽ có trong bài học này.
37
- Phần dẫn nhập hướng tới mục tiêu chính là chuẩn bị tâm lý tốt cho người học
tiếp nhận tình huống sẽ được đưa ra sau đó.
Bước 2. Giới thiệu tình huống
- Giảng viên giới thiệu tình huống đến người học, bằng cách cho diễn xuất, hiển
thị tình huống trước lớp, hoặc phát bản in cho người học.
- Người giảng dạy đặt ra những câu hỏi để người học tìm hiểu, khai thác tình
huống.
- Có thể đặt câu hỏi theo hai cách: (i) Câu hỏi mở: Yêu cầu người học tự đề ra
biện pháp để giải quyết vấn đề trong tình huống. (ii) Câu hỏi đóng: Đề ra sẵn một số
biện pháp để người học chọn ra biện pháp đúng, thích hợp nhất sau khi đã nghiên cứu,
suy nghĩ trên các dữ kiện của tình huống đã nêu.
Bước 3. Nghiên cứu tình huống
Thông thường, giảng viên nên dành cho người học khoảng 5 đến 7 phút để nghiên
cứu kỹ tình huống. Trong thời gian này, nếu có câu hỏi nào của người học đề nghị làm
rõ nội dung nào đó trong tình huống hoặc yêu cầu nào trong đó, thì giảng viên cần giải
thích làm rõ, định hướng giúp họ, nhưng không phải là khai thác tình huống giúp họ.
Bước 4. Tìm giải pháp cho tình huống
- Học viên vận dụng những kiến thức, kinh nghiệm đã có để tự mình phân tích,
lập luận, quyết định, qua đó họ khẳng định và chiếm lĩnh tri thức.
- Giảng viên cần định lượng ra một khoảng thời gian vừa đủ (tuỳ thuộc vào hình
thức triển khai công việc, tuỳ thuộc vào khối lượng và độ khó của tình huống) để người
học phân tích, lập luận, tìm ra giải pháp.
- Giảng viên có thể tổ chức cho người học làm việc độc lập hoặc làm việc theo
nhóm để tìm ra giải pháp cho tình huống.
- Dù người học làm việc độc lập hay làm việc theo nhóm, giảng viên vẫn cần
giao nhiệm vụ cho họ thật rõ ràng, để giúp họ định hướng và chủ động thực hiện công
việc.
Bước 5. Trình bày và bảo vệ giải pháp
- Giảng viên là người quyết định, tổ chức cho người học trình bày kết quả theo
hình thức phù hợp với hình thức làm việc, tính chất tình huống, điều kiện phương tiện,
thời gian.
38
- Giảng viên điều khiển cuộc trình bày kết quả nghiên cứu tình huống. Đây chính
là phần mà người học nghiệm thu được kết quả cách đánh giá và quyết định vấn đề,
trong đó bộc lộ những quan điểm, cách thức giải quyết vấn đề khác nhau.
- Giảng viên cũng cần dự đoán, chuẩn bị tinh thần và phương pháp xử lý đối với
một số tình huóng có thể xảy ra.
- Kết quả của phần bảo vệ giải pháp có thể cần ghi chép lại trước lớp để cả lớp
tiện theo dõi và ghi chép.
Bước 6. Tổng kết (theo mục tiêu bài học)
- Giảng viên phân tích ưu điểm, nhược điểm của từng giải pháp mà người học
đưa ra và bổ sung nếu cần.
- Người giảng dạy tổ chức cho cả lớp nhận xét, bình chọn giải pháp nào tốt nhất
hoặc khen ngợi phần làm việc của cá nhân hay nhóm nào hiệu quả nhất.
- Giảng viên cần rút ra bài học hoặc nguyên tắc xử lý tình huống.
2.5. Một số phương pháp khác
2.5.1. Phương pháp Nêu ý kiến ghi lên bảng
Đây là phương pháp áp dụng với một câu hỏi có nhiều phương án trả lời. Mục
đích là thu thập được nhiều ý kiến, nhiều thông tin từ phía người học nhằm kiểm tra kiến
thức của họ, đồng thời có thể định hướng vào bài giảng.
Phương pháp Nêu ý kiến ghi lên bảng rất dễ áp dụng lại không tốn kém, chỉ cần
một chiếc bảng và viên phấn hay cây bút dạ là có thể thực hiện rất hiệu quả. Phương
pháp này phát huy được tính tích cực, tư duy độc lập, sáng tạo của người học qua sự
khuyến khích, động viên của người dạy. Nó sẽ làm thay đổi không khí lớp học khi người
dạy đã trải qua một thời gian thuyết trình khá lâu. Phần lớn các giảng viên đều thích
phương pháp này và họ luôn mong muốn áp dụng trong giảng dạy.
2.5.2. Phương pháp Sàng lọc
Một phương pháp được sử dụng để giảng viên ôn tập bài cũ, đánh giá sự tiếp thu
kiến thức của người học sau một bài, một chương hay một quá trình học tập... Người
giảng dạy cũng có thể sử dụng phương pháp này để chốt lại nội dung mới, giúp người
học có thể vận dụng những kiến thức vừa được học vào việc bình luận, giải thích, chứng
minh để làm rõ và khẳng định được vấn đề nêu ra.
39
2.5.3. Phương pháp Bể cá
Đây là một phương pháp mà người giảng dạy tổ chức cho người học thảo luận
một chủ đề, bằng cách tạo điều kiện cho phần lớn người học quan sát cuộc thảo luận của
một nhóm nhỏ đại diện, nhằm khai thác và lĩnh hội một nội dung bài giảng.
Với phương pháp Bể cá, giảng viên sắp xếp vị trí cho người học tạo thành hai
vòng tròn, vòng tròn nhỏ bên trong là số ít những người đại diện được chọn vào tham
gia trực tiếp cuộc thảo luận dưới sự điều khiển của người giảng dạy, vòng tròn lớn bên
ngoài gồm những người học còn lại (số đông) sẽ gián tiếp tham gia cuộc thảo luận bằng
cách quan sát, theo dõi cuộc thảo luận ở vòng trong- giống như những người ta xem bể
cá cảnh. Khi cuộc thảo luận ở vòng trong kết thúc, giảng viên phân tích và tổng kết để
cả lớp lĩnh hội được nội dung bài học.
2.5.4. Phương pháp Công đoạn
Phương pháp Công đoạn được áp dụng trong các trường hợp giảng viên phải
truyền đạt một khối lượng nội dung lớn. Thực tế giáo dục ở Việt Nam hay xảy ra tình
trạng giảng viên phải đảm bảo một chương trình giảng dạy với khối lượng nội dung lớn
đã được ấn định trước, trong khi thời gian lại eo hẹp. Phương pháp Công đoạn sẽ là lựa
chọn tốt để người giảng dạy tránh được việc thuyết trình quá dài, bởi điều này sẽ gây
nhàm chán và người học khó có thể tiếp thu hết được kiến thức.
2.5.5. Phương pháp Tia chớp
Phương pháp Tia chớp là một phương pháp giảng dạy tích cực, trong đó người
giảng viên huy động nhiều người học lần lượt trả lời ngắn gọn và nhanh chóng (nhanh
như chớp) cho câu hỏi hoặc tình trạng, vấn đề mà người giảng dạy nêu ra, nhằm thu
nhận thông tin phản hồi hoặc thay đổi không khí lớp học.
2.5.6. Phương pháp Tưởng tượng nội suy
Là phương pháp mà người giảng dạy khích lệ người học đưa ra những ý tưởng
riêng thông qua những hoạt động tập trung tưởng tượng và suy ngẫm. Đây là một
phương pháp mà người giảng dạy đưa ra những hoạt động tập thể, hướng người học tập
trung vào một mục đích chung, ở đó họ “giữ sự cam kết trong nhóm bằng cách tạo những
hình ảnh tưởng tượng về tương lai và hình thành những nguyên tắc hành động” (Senge
2000). Những bài tập này chính là hạt giống sy nghĩ ban đầu, giúp người học đạt được
điều họ mong muốn.
40
2.5.7. Phương pháp Khăn trải bàn
Phương pháp Khăn trải bàn là một phương pháp giảng dạy thể hiện quan
điểm/chiến lược học hợp tác, trong đó có kết hợp giữa hoạt động cá nhân và hoạt động
nhóm.
2.5.8. Phương pháp Dự án
Phương pháp dự án, hay còn gọi là phương pháp Dạy học theo dự án, là một hình
thức giảng dạy, trong đó người học dưới sự điều khiển và giúp đỡ của giảng dạy, tự lực
giải quyết một nhiệm vụ học tập mang tính phức hợp không chỉ về mặt lý thuyết mà đặc
biệt về mặt thực hành, thông qua đó tạo ra các sản phẩm học tập.
2.5.9. Phương pháp Đóng vai
Phương pháp Đóng vai là một phương pháp giảng dạy mà giảng viên tổ chức cho
người học thực hành một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định, để giúp
họ có nhận thức sâu sắc, đúng đắn về những vấn đề hoặc những vai trò có thực trong
cuộc sống, nhằm đạt mục tiêu, mục đích giảng dạy. Đây là một phương pháp gây sự chú
ý và thu hút người học tham gia vào bài giảng, cũng là một phương pháp tạo bầu không
khí sôi nổi cho lớp học, từ đó người dạy và người học trở nên thân thiện, gần gũi với
nhau hơn, tác động tích cực để giờ giảng đạt hiệu quả cao.
2.5.10. Phương pháp Trực quan hoá
Trực quan hóa là việc sử dụng tranh, ảnh, hình vẽ, sơ đồ, biểu bảng... để truyền
tải hoặc minh họa cho một chủ đề hay một nội dung của bài giảng. Để người học tiếp
thu kiến thức trên lớp một cách có hiệu quả, giảng viên không chỉ cho họ đọc, nghe,
quan sát mà còn được tự mình tham gia vào bài giảng thông qua các giáo cụ trực quan.
Đây là một trong những phương pháp giảng dạy hấp dẫn, có khả năng thu hút, lôi cuốn
người học, giúp họ đọng lại kiến thức trong bộ nhớ của mình.
2.5.11. Phương pháp Hỏi chuyên gia
Phương pháp Hỏi chuyên gia là một cách triển khai rất có hiệu quả việc trao đổi
giữa giảng viên và học viên trên lớp. Đúng như tên gọi của mình, đặc trưng của phương
pháp này là học viên đặt các câu hỏi về nội dung bài giảng, và trả lời sẽ là người có trình
độ chuyên môn sâu trong lĩnh vực đó giải đáp. Người này có thể là chuyên gia, là giảng
viên, hay một học viên giỏi, am hiểu sâu về lĩnh vực được nói tới.
2.5.12. Phương pháp Làm mẫu
Phuơng pháp này được coi là lựa chọn hàng đầu khi giảng dạy những bài thực
41
hành. Làm mẫu đảm bảo cho nguời học vừa tiếp thu kiến thức, vừa hình thành được kỹ
năng một cách dễ dàng, qua sự quan sát và phân tích mẫu. Phương pháp Làm mẫu được
thực hiện theo trình tự sau:
Bước 1: Làm mẫu
Bước 2: Giải thích về mẫu
Bước 3: Thực hành
Bước 4: Áp dụng vào thực tiễn.
42
CHUYÊN ĐỀ 3: THIẾT KẾ BÀI GIẢNG VÀ THỰC HIỆN BÀI GIẢNG
Thiết kế bài giảng (hay còn gọi là Lập kế hoạch bài giảng) và thực hiện bài giảng
là những kỹ năng quan trọng nhất mà giảng viên cần có trong nghiệp vụ giảng dạy của
mình. Quá trình lập kế hoạch, sự liên kết giữa lập kế hoạch bài giảng, chọn lựa phương
pháp và các loại hình hoạt động với các ý tưởng có thể đưa ra khi sử dụng một phương
pháp là tổng hoà các yếu tố tiền đề tạo nên hiệu quả một bài giảng.
3.1. Thiết kế bài giảng
Kế hoạch bài giảng là một hệ các ghi chép những dự kiến của người giảng dạy,
để trình bày theo một trình tự logic những điều mà chúng ta muốn xảy ra trong bài giảng
của mình. Nói cách khác, thiết kế bài giảng chính là việc giảng viên chuẩn bị, xây dựng
Kế hoạch bài giảng và thể hiện ra theo một hình thức nào đó, để xác định rõ họ muốn đi
đến đâu và muốn đạt được điều gì.
3.1.1. Yêu cầu đối với thiết kế bài giảng
Để đảm bảo việc xây dựng kế hoạch bài giảng hiệu quả nhất, giảng viên hãy đặt ra
các câu hỏi: Vì sao phải giảng dạy nội dung này? Những ai là người tiến hành hoạt động
này? Giảng dạy về cái gì? Giảng dạy như thế nào? Giảng dạy ở đâu? Giảng dạy khi nào?
- Vì sao phải giảng dạy nội dung này? Giảng viên cần đưa ra được các kết quả
học tập cụ thể đã được khái quát trong chương trình đào tạo, bồi dưỡng đó. Những kết
quả, các hoạt động học tập và các thể thức đánh giá phải gắn bó thống nhất một cách rõ
ràng.
- Những ai là người tiến hành hoạt động này? Câu trả lời là: người giảng dạy và
người học.
- Giảng dạy về cái gì? Nội dung môn học luôn phải phù hợp và hữu ích đối với
người học. Cho dù thông tin nào được trình bày trong bài giảng này thì chúng ta cũng
phải đo lường được về độ chính xác và hiện thời cũng như sự lý thú, hấp dẫn của nó.
- Giảng dạy như thế nào? Giảng viên hoàn toàn có thể sử dụng các phương pháp
đào tạo, bồi dưỡng và các hoạt động học tập khác nhau. Người học có thể làm việc độc
lập, trong các nhóm tương tác nhỏ hay trong cùng một lớp, và có nhiều cấp độ có thể
mà người giảng dạy và người học giao tiếp, thể hiện cảm giác và thái độ của mình trong
các bài giảng.
- Giảng dạy ở đâu? Không chỉ môi trường truyền thống là lớp học cố định, các
43
địa điểm học có thể bao gồm địa điểm để minh hoạ, nơi làm việc của học viên, hay thậm
chí là các địa điểm bên ngoài. Tuy nhiên, môi truờng học tập tạo nên tại lớp vẫn là điều
thiết yếu để học tập có kết quả.
- Giảng dạy khi nào? Có thể tiến hành giảng dạy vào các thời điểm khác nhau
trong ngày, và độ dài cũng như trình tự các bài giảng, các hoạt động cũng có thể khác
nhau, với từng đối tượng, hoàn cảnh, phương diện khác nhau.
3.1.2. Nội dung cơ bản của Kế hoạch bài giảng
Trong thực tế, có nhiều kiểu dạng Kế hoạch bài giảng khác nhau. Nhưng Kế
hoạch bài giảng nào cũng phải thể hiện được các điểm chính sau đây:
- Những thông tin mà người giảng dạy muốn trình bày cho người học;
- Những hoạt động mà người học sẽ phải thực hiện;
- Những nguồn lực học tập mà họ sẽ sử dụng.
Một kiểu Kế hoạch bài giảng được xem là tiện dụng và đa dụng nhất hiện nay,
bao gồm: Tên bài, Đối tượng, Số lượng, Thời lượng, Mục tiêu, Kế hoạch chi tiết (kịch
bản giảng dạy).
+ Tên bài: Đây là mục đầu tiên trong Kế hoạch bài giảng, cần được hiển thị bằng
cỡ chữ to, cân đối ở giữa đầu trang.
+ Đối tượng: Cần thể hiện rõ đối tượng người học là ai: chức vụ, trình độ; nơi
công tác; kinh nghiệm…
+ Số lượng: ghi rõ số lượng học viên trong lớp.
+ Thời lượng: Mục này thể hiện tổng thời gian mà bài giảng này được phép diễn
ra (theo quy định của chương trình, của cơ quan chủ quản).
+ Mục tiêu: Mục tiêu là “kết quả đầu ra” mang tính định lượng của quá trình giảng
dạy, là cái đích mà cả người giảng dạy và người học phải đạt được sau quá trình giảng
dạy và học tập. Đây là cơ sở chính, là căn cứ để giảng viên chúng ta lập kế hoạch chi
tiết - kịch bản giảng dạy.
+ Kế hoạch chi tiết (kịch bản giảng dạy)
Đây chính là một sản phẩm mà giảng viên cần hoàn thiện trước khi thực hiện
giảng dạy và cũng là “cái gậy” của giảng viên trong suốt quá trình triển khai bài giảng,
ngay cả khi chúng ta đã nắm rõ mọi nội dung bài giảng mình sẽ triển khai. Trong đó
được thể hiện đầy đủ mọi thứ để có thể mường tượng ra giờ giảng như thế nào: từ thời
gian, nội dung, đến phương pháp, phương tiện, thậm chí cả những ghi chú cần thiết.
44
Nhìn vào Kịch bản giảng dạy, giảng viên có thể cân nhắc, tính toán, chỉnh sửa, thay đổi
và hoàn thiện trước, trong, sau khi thực hiện bài giảng.
3.1.3. Lựa chọn phương pháp giảng dạy
- Cơ sở lựa chọn phương pháp giảng dạy: Thành công giảng dạy chỉ có thể đạt
được khi bài giảng được triển khai bằng các phương pháp giảng dạy phù hợp. Lựa chọn
và vận dụng các phương pháp giảng dạy phải căn cứ vào các yếu tố có ảnh hưởng trực
tiếp và có tính quyết định để các phương pháp trở nên phù hợp, phát huy hết công năng
của chúng, góp phần tạo nên thành công của bài giảng.
Những yếu tố được xem là cơ sở hàng đầu để lựa chọn phương pháp giảng dạy,
đó là: nội dung, đối tượng, số lượng, thời lượng, điều kiện giảng dạy...
- Một số cách thức lựa chọn phương pháp giảng dạy: (i)Lựa chọn phương pháp
dựa trên tính chất nội dung (nội dung mang tính lý thuyết hay tính thực hành, hay mang
tính áp dụng lý thuyết vào thực tiễn). (ii)Lựa chọn phương pháp dựa trên bố cục bài
giảng (phần mở đầu, khai triển hay kết thúc). (iii) Lựa chọn phương pháp dựa trên đối
tượng người học (họ là ai, có đặc điểm học tập như thế nào). (iv) Lựa chọn phương pháp
dựa trên quy mô lớp học (lớp nhỏ, vừa hay lớp đông). (v) Lựa chọn phương pháp dựa
trên thời lượng bài giảng.
3.1.4. Kỹ năng xác định mục tiêu và xây dựng kịch bản giảng dạy
- Xác định mục tiêu: Xác định Mục tiêu bài giảng là một trong những công việc
quan trọng đầu tiên khi lập kế hoạch bài giảng. Vì đây sẽ là cơ sở, căn cứ để xây dựng
kịch bản giảng dạy. Mục tiêu bài giảng vừa là cái đích phải đạt được, vừa là thước đo
kết quả, là “chuẩn đầu ra” để đối chiếu nhằm đánh giá, nghiệm thu kết quả sau quá trình
giảng dạy và học tập của cả thầy và trò. Mục tiêu bài giảng, cần được miêu tả trên các
phương diện kiến thức, kỹ năng, thái độ, bằng những động từ ở các mức độ như sau:
+ Mục tiêu kiến thức (người học hiểu biết được gì, tiếp thu được gì)
+ Mục tiêu kỹ năng (làm được gì, làm mức độ nào)
+ Mục tiêu Thái độ (cảm nhận như thế nào, thay đổi ra sao)
- Xây dựng kịch bản giảng dạy: Có nhiều cách thể hiện kịch bản giảng dạy khác
nhau. Tuy nhiên, giảng viên cần lưu ý, một kịch bản giảng dạy được coi là hiệu quả khi
nó thể hiện đầy đủ, rõ ràng những gì sẽ diễn ra trong giờ giảng, được trình bày khoa học,
ngắn gọn, giúp người giảng dạy dễ sử dụng, dễ điều chỉnh. Cách kẻ bảng, chia cột bao
giờ cũng là một hình thức thể hiện kế hoạch chi tiết được thừa nhận là khoa học và tiện
45
dụng nhất.
Mẫu kịch bản giảng dạy hiệu quả như sau:
Thời gian Nội dung Phương pháp Phương tiện Ghi chú
Nhìn vào kịch bản này, người giảng dạy có thể hình dung được toàn bộ quá trình
giảng dạy trên lớp của mình. Với kịch bản này, người giảng viên có thể tính toán, cân
nhắc để sắp xếp, dàn dựng mọi nội dung trong bản kế hoạch sao cho hợp lý nhất. Cũng
nhìn vào kịch bản này, giảng viên có thể dễ dàng điều chỉnh, bổ sung kế hoạch giảng
dạy cho phù hợp với sự biến động, sự thay đổi của điều kiện lớp học.
3.2. Thực hiện bài giảng
Trong giảng dạy, điều mà bất kỳ giảng viên nào cũng trăn trở là làm thế nào để
THỰC HIỆN bài giảng của mình một cách hiệu quả nhất, để người học “được” nhiều
nhất. Để thực hiện bài giảng một cách hiệu quả nhất, giảng viên cần triển khai theo một
bố cục hợp lý, phải phải hiểu rõ, xác định và thống nhất được mối quan hệ giữa phong
cách học tập của người học với phương pháp tiếp cận, phương pháp triển khai và hoạt
động của người thầy. Một bài giảng thông thường có ba phần: phần giới thiệu (mở đầu);
phần khai triển (phần giữa); phần kết luận (kết thúc).
3.2.1. Phần mở đầu
Bất cứ một bài giảng nào, phần mở đầu của bài giảng cần phải hướng tới các mục
đích sau: thu hút sự chú ý, tham gia của người học; gắn kết với những hiểu biết, kinh
nghiệm đã có của người học; giới thiệu mục tiêu của bài giảng; giới thiệu cấu trúc nội
dung của bài giảng; kích thích động cơ học tập.
Trong phần này, bằng cách nào đó, giảng viên phải “phá vỡ tảng băng”, thu hút
sự chú ý tham gia của người học, định hướng vào bài giảng và khuyến khích, thúc đẩy
động cơ học tập của họ.
3.2.2. Phần khai triển
Trong một bài giảng, cái đích hướng tới là người học được lĩnh hội một thông tin
mới hoặc được phát triển một kỹ năng mới. Tức là, bài lý thuyết cung cấp thông tin, bài
thực hành thì tạo kỹ năng. Mỗi loại bài giảng này sẽ có một cấu trúc khác nhau cho phần
khai triển.
46
Với bài giảng kỹ năng: Phần khai triển của bài giảng kỹ năng thông thường tiến
hành bằng việc chứng minh kỹ năng mới và sau đó thực hành. Do đó, phương pháp nên
ưu tiên là phương pháp Làm mẫu.
Với bài giảng lý thuyết: Các bài giảng lý thuyết là các dạng bài giảng về các nội
dung như: thông tin sản phẩm, chỉ dẫn làm việc, các chi tiết kỹ thuật, các yêu cầu về an
toàn, các thủ tục, quy trình, tiêu chuẩn, các chính sách, các quy định, quy tắc, các quy
định và chính sách của nhà nước...
Bài giảng lý thuyết cũng có thể chú trọng vào các kỹ năng, song đó không phải
là kỹ năng bằng tay chân, mà tập trung vào các kỹ năng trí tuệ. Các kỹ năng có được từ
những bài giảng lý thuyết có thể là: kỹ năng thu nhận thông tin, kỹ năng nhớ lại và vận
dụng thông tin, kỹ năng mô tả và phân tích khái niệm, kỹ năng so sánh và phân tích các
ý tưởng khác nhau, kỹ năng khái quát và đánh giá các quan điểm khác nhau...
3.2.3. Phần kết luận (kết thúc bài giảng)
Phần kết thúc bài giảng thường phải có đủ ba phương diện sau: kết quả bài giảng,
ý kiến phản hồi và hướng vào tương lai.
- Về kết quả bài giảng: Xem xét lại một cách cô đọng các kết quả bài giảng và
xác định xem liệu đã đạt được chúng chưa.
- Về ý kiến phản hồi: Đây là một quá trình hai chiều thường bắt đầu bằng việc
người giảng dạy nêu (ý kiến phản hồi với từng người học hay cả lớp, ý kiến phản hồi
cho cả lớp có thể mang tính khuyến khích, động viên, thúc đẩy).
- Về định hướng tương lai (gợi ý cho người học xem việc học tập hôm nay gắn
như thế nào với các bài học sắp tới).
Thiết kế bài giảng và thực hiện bài giảng là những kỹ năng quan trọng nhất mà
giảng viên cần có trong nghiệp vụ giảng dạy của mình. Quá trình lập kế hoạch, sự liên
kết giữa lập kế hoạch bài giảng, chọn lựa phương pháp và các loại hình hoạt động với
các ý tưởng có thể đưa ra khi sử dụng một phương pháp là tổng hoà các yếu tố tiền đề
tạo nên hiệu quả một bài giảng. Thực hiện tốt các hoạt động này đã là thành công bước
đầu của giảng viên để tạo nên giờ giảng thành công. Bước mang tính quyết định sự thành
công của giờ giảng chính là việc thực hiện triển khai bài giảng - hiện thực hoá kế hoạch
bài giảng./.
47
Chú giải:
1. “Người dạy” = Người thầy – giáo viên – giảng viên (tùy từng tình và ngữ
cảnh trong hoạt động giảng dạy và làm phong phú, uyển chuyển cách diễn
đạt)
2. “Người trưởng thành” = Người lớn
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. DSE-NAPA, Phương pháp giảng dạy hiệu quả cho người lớn, Nhà xuất bản
Thống kê, Hà Nội, 2000.
2. Nguyễn Thanh Hương, Nghệ thuật giảng dạy, Saigon books, Nhà xuất bản
Dân Trí, 2021
3. Học viện Hành chính và Tổ chức Inwent, Tập tài liệu các phương pháp giảng
dạy, phiếu phương pháp, 2006.
4. NIPA-DSE, Sổ tay phương pháp sư phạm hành chính, Nhà xuất bản Thống
kê, Hà Nội, 2000.
5. Đinh Văn Tiến, Cẩm nang phương pháp giảng dạy hiệu quả cho người lớn,
Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội, 2006.
6. Ulrich Lipp và Paul Schlueter, Đổi mới phương pháp giảng dạy, Nhà xuất
bản Lao động xã hội, 2005.
48