VĂN MẪU LỚP 11
PHÂN TÍCH CHÍ LÀM TRAI TRONG BÀI THƠ LƯU BIỆT KHI
XUẤT DƯƠNG CỦA PHAN BỘI CHAU
BÀI MẪU SỐ 1:
Lưu biệt khi xuất dương” khẳng định chí làm trai và quyết tâm xuất dương, làm
nên sự nghiệp lớn cứu nước cứu dân. Đó là sự quyết tâm cao độ và những ý tưởng mới
mẻ của nhân vật trữ tình buổi đầu ra nước ngoài tìm đường cứu nước.
Cái chí làm trai mà nhà thơ nói đến trong bài thơ trước hết là “phải lạ ở trên đời”.
Đó là một lí tưởng sống, một khát vọng lớn lao. Đấng nam nhi phải làm được những việc
lớn lao, phi thường, phải chủ động xoay chuyển trời đất, không để cho trời đất tự chuyển
vần. Nhà thơ chuyển chữ ta thành chứ tớ . Tớ phản ánh được cái hăm hở, lạc quan, trẻ
trung. Hai câu thơ trên dường như có chút ngông nghênh tự phụ nhưng thực ra là sự bộc
lộ sâu sắc về cái tôi cá nhân tich cực. Cái tôi này chẳng những khảng đinh trách nhiệm
đối với hiện tại, với vận mệnh hôm nay của đất nước mà còn khảng đingh nghĩa vụ với
lịch sử. Đó là tư thế của người có chí khí lớn, muốn vươn tới những đỉnh cao của lịch sử.
Cái chí làm trai mà cụ Phan nói trong bài thơ chắc chắn khiến chúng ta thấy cảm
phục về những con người sống ý thức được vai trò, trách nhiệm của mình đối với lịch sử.
Mỗi con người sống là phải gắn liền với đất nước, dân tộc, biết sống chết cùng dân
tộc. Rõ ràng nhân vật trữ tình tuy đang nói về mình nhưng thực chất là tiếng nói đại diện
cho cả một tầng lớp, một thế hệ và cao hơn là cả dân tộc. Cách nhìn nhận, suy nghĩ của
tác giả là hướng về tương lai phía trước chứ không phải là lối sống hoài niệm. Đây cũng
chính là một điểm rất tiến bộ mà thông qua bài thơ chúng ta không chỉ cảm nhận được ý
nghĩa của chúng mà còn học tập được vào thực tế cuộc sống của mình.
Lời thơ kết của bài thơ với hai câu tuyệt đẹp, đầy cảm hứng lãng mạn. Con đại
bàng đã tung cánh bay ra biển khơi, bay vào thời đại “Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi”.
Bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, bằng chữ Hán, với giọng thơ trang
nghiêm hào hùng mạnh mẽ, lôi cuốn đã toát lên một chí lớn phi thường không cam tâm
làm nô lệ, quyết đi tìm đường cứu nước. Đó không còn là lời nói mà đã biến thành hành
động vượt bể Đông của ông. Bài thơ là một khúc anh hùng ca kêu gọi lên đường cứu
nước mang giá trị khích lệ động viên, tuyên truyền cách mạng không chỉ đối với thế hệ
thanh niên ở giai đoạn đó mà còn là lời nhắn nhủ chung đối với thanh niên các thế hệ sau.
Phan Bội Châu (1867 – 1940) là lãnh tụ kiệt xuất của các phong trào Duy Tân,
Đông *** Việt Nam quang phục hội đầu thế kiX. Ông là “bậc anh hùng, vị thiên sứ, được
25 triệu đồng bào tôn kính” (Nguyễn Ái Quốc). Cụ Huỳnh Thúc Kháng cũng hết lời ca
ngoại Phan Bội Châu: “Miệng giọng cuốc vạch trời kêu giật một – giữa tầng không mù
cuốn mây tan – tay ngòi lông vỗ án múa chầu ba – đầy mặt giấy mưa tuôn sấm nổ.”
Năm 1905, mở đầu phong trào Đông *** Phan Bội Châu xuất dương sang Trung
Quốc, Nhật Bản tìm đường cứu nước. Trong không khí chia tay với các đồng chí trong
Hội Duy Tân, Phan Bội Châu sáng tác bài “Xuất dương lưu biệt” (Lời để lại khi chia tay
để ra nước ngoài) bằng chữ Hán.
Mở đầu bài thơ, tác giả nêu lên quan niệm về chí nam nhi: “Sinh vi nam tử yếu vi
kì, Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di”. Tôn Quang Phiệt dịch là:
“Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời”
Phan Bội Châu nêu lên quan niệm về chí làm trai mà các nhà nho trứ danh đều
đồng tình. Nguyễn Công Trứ, trong bài thơ “Chí nam nhi” cũng từng nói: “Thông minh
nhất nam tử, Yếu vi thiên hạ kì”. Làm đấng nam nhi trên đời này phải làm điều kì lạ, kì
tích để giúp đời, giúp dân, giúp nước. Làm trai là phải tung hoành ngang dọc, dời non lấp
bể:
“Há để càn khôn tự chuyển dời”
Phải là bậc hào kiệt trên đời này thì mới phát ngôn nhu vậy. Nội lực mạnh mẽ phi
thường. Con người muốn tham gia vào sự vận động của vũ trụ. “Há để còn khôn tự
chuyển dời” là câu hỏi tu từ vừa khẳng định vừa muốn đối thoại với hết thảy các đấng
mày râu trên đời này. Nhận thức về mối quan hệ giữa con người và vũ trụ về sự tác động
của con người đối với vũ trụ như vậy thật là tích cực, thật là cách mạng. Câu thơ làm thức
dậy nội lực của mỗi con người để họ tham gia cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội.
Sau khi tỏ bày quan niệm về chí nam nhi, về mối quan hệ giữa con người và vũ
trụ, tác giả nói về trách nhiệm của chính mình với thời đại của mình: “Ư bách niên trung
tu hữu ngã, Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy”. Hai câu thơ đó được Tôn Quang Phiệt dịch
là:
“Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai?”
Trong một nền văn học phi ngã (tôi) mà hiện lên một chữ “ngã” sừng sững, phải
nói là “kì” (lạ)!
“Ư bách niên trung tu hữu ngã”
Nhận thức về sự hiện hữu của cái “tôi”, trách nhiệm của cái “tôi” đối với thời đại
như vậy chẳng khác nào một ngọn lửa giữa đêm đông, một cây tùng giữa băng tuyết.
Không phải là cái “tôi” hưởng lạc mà là cái “tôi” hành động, cái “tôi” tham gia vào sự
“chuyển dời” của “càn khôn”. “Giữa cuộc sống tối tăm của đất nước lúc đó, có được một
ý thức về cái “tôi” như thể, quả là cứng cỏi, là đẹp vô cùng, cũng như có được một ý thức
lưu danh thiên cổ bằng sự cứu nước quả là cần thiết, là cao cả vô cùng” (Nguyễn Đình
Chú).
Còn mối quan hệ giữa con người với muôn thuở thì tác giả lại đặt ra câu hỏi “Khởi
thiên tài hậu cánh vô thùy?” (Sau này muôn thuở há không ai?) Hỏi nhưng thật ra là để
khẳng định. Tác giả có niềm tin vào chính mình, lại càng có niềm tin vào cộng đồng, vào
dân tộc. Thơ Phan Bội Châu xói vào tâm can người ta, kích thích vào ý thức trách nhiệm
của mỗi con người, giục giã con người hành động, chuyển dời tự nhiên, chuyển dời xã
hội. Đấy chính là thơ của một nhà cách mạng.
Sang hai câu luận, tác giả càng riết róng hơn về mối quan hệ giữa con người với
non sông đất nước, giữa cuộc sống thực tại với sách vở của thánh hiền:
“Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si”
(Non sông đã chết sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài.)
Tác giả sử dụng thủ pháp nhân hóa “non sông đã chết” khiến ta cảm thấy “giang
sơn” (non sông) như một sinh mệnh, thật đau lòng.
“Non sông đã chết sống thêm nhục”
Nhiều nhà Nho thức thời cũng đã nói lên nỗi nhục mất nước, nhưng chưa có nhà
Nho nào nói một cách triệt để, thống thiết như vậy. Đem sự sống chết của cá nhân mà gắn
liền với sự vinh nhục của non sông đất nước thì không còn nghi ngờ gì nữa, Phan Bội
Châu là nhà ái quốc vĩ đại.
Sách vở của thánh hiền cũng chẳng rửa được vết nhơ nô lệ:
“Hiền thánh còn đâu học cũng hoài”
Câu thơ nguyên tác trực cảm mãnh liệt hơn “Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si”,
(Hiền thánh đã vắng thì có đọc sách cũng ngu thôi). Viết như vậy thì đúng như cụ Huỳnh
Thúc Kháng nói “đầy mặt giấy mưa tuôn sấm nổ”. Không nên hiểu là cụ Phan phủ định
sách của thánh hiền, mà nên hiểu cụ Phan đã hành cái đạo của thánh hiền một cách sáng
suốt, cái sáng suốt của một nhà cách mạng. Mà có ông Khổng, ông Mạnh, ông Lão nào
dạy các đệ tử ngồi “tụng” sách của quý vị trong khi nước mất dân nô lệ đâu? Tóm lại, từ
quan niệm sống “ư bách niên trung tu hữu ngã”, trong hai câu luận, tác giả tự dồn mình
vào cái thế phải xuất dương cứu nước.
Hai câu kết, tác giả thể hiện trọn vẹn chủ đề “xuất dương lưu biệt”
“Nguyện trục trường phong Đông hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi”,
(Muốn vượt biển Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi).
Hình ảnh đẹp, lãng mạn. “Muốn vượt biển Đông theo cánh gió”, không gian rộng
lớn của biển Đông sánh với chí lớn của nhà cách mạng. Câu thơ dịch hay, xứng với tinh
thần của nguyên tác. Nhưng câu kết “Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi” thì được cái tình
của non nước đối với người ra đi, chứ không sát với nguyên tác.
“Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi”
(Ngàn đợt sóng bạc cùng bay lên)
Hình tượng thơ làm hiển hiện trước mắt ta hàng ngàn đợt sóng sôi réo trắng xóa, lạ
là không vỗ vào bở mà “nhất tề phi” (cũng bay lên). Hình tượng vừa kì vĩ vừa thơ mộng
thể hiện được tinh thần phơi phới, nhiệt huyết, thăn hoa của nhà thơ mà cũng là nhà cách
mạng.
Muốn hiểu được nhà ái quốc vĩ đại Phan Bội Châu mà chưa đọc được hàng ngàn
trang trước tác của cụ thì tốt hơn hết là đọc bài thơ “Xuất dương lưu biệt”. Một bài thơ
nhỏ cũng cho ta thấy được chí nam nhi của người anh hùng, thấy được chí lớn muốn dời
non lấp bể, thấy được ý thức trách nhiệm của cái “tôi” đối với lịch sử, với dân tộc, thấy
được quan niệm sống chết, vinh nhục, thấy được hoài bão lớn lao của một nhà chi sĩ
muốn cứu dân cứu nước.
BÀI MẪU SỐ 2:
“Mượn Đông du thăm hỏi bạn đồng tâm, Hương Cảng, Hoành Tân, lỏi len đường
mới.
Ba tấc lưỡi mà gươm mà súng, nhà cầm quyền trông gió cũng gai ghê.
Một ngòi lông vừa trống vừa chiêng, cửa dân chủ khêu đèn thêm sáng chói.”
Đấy là mấy dòng Phan Bội Châu viết về Phan Châu Trinh, nhưng ta thấy hình ảnh
của cả hai cụ Phan, hai tâm hồn yêu nước lừng danh trong lịch sử đấu tranh của dân tộc,
giai đoạn đầu của thế kỉ này.
Hoàn cảnh ra đời của bài thơ này là những năm đầu thế kỷ XX, đất nước ta đã mất
chủ quyền, hoàn toàn lọt vào tay thực dân Pháp. Tiếng trống, tiếng mõ Cần Vương đã tắt,
báo hiệu sự bế tắc của con đường cứu nước theo tư tưởng phong kiến do các sĩ phu lãnh
đạo. Phan Bội Châu lúc này mới ba mươi tám tuổi, là hình ảnh tiêu biểu của một thế hệ
cách mạng mới, quyết tâm vượt mình, bỏ qua mớ giáo lý đã quá lỗi thời của đạo Khổng
để đón nhận tư tưởng tiên phong trong giai đoạn, mong tìm ra bước đi mới cho dân tộc,
nhằm tự giải phóng mình. Phong trào Đông du được nhóm lên cùng với bao nhiêu hy
vọng…
Bài thơ đã thể hiện rất sinh động tư thế, ý nghĩ của Phan Bội Châu trong buổi xuất
dương tìm đường cứu nước. Hai câu đề nói rõ nhận thức của nhà thơ về chí làm trai –
một nhận thức làm cơ sở cho mọi hành động:
Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời.
Thực ra chí làm trai chẳng phải đến bây giờ mới được Phan Bội Châu khẳng định.
Trước đó, trong thơ trung đại, ta vẫn thấy Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Công Trứ nhắc đến (ở
các bài Thuật hoài, Chí nam nhi). Nhưng điều đó không có nghĩa là ở bài thơ của Phan
Bội Châu, lý tưởng nhân sinh kia đã mất đi sự mới lạ, thôi thúc. Nó chính là điều nung
nấu bao năm của tác giả bây giờ được nói ra, trước hết như lời tự vấn, tự nhủ, tự mình
nâng cao tinh thần mình: đã làm trai là phải làm nên chuyện lạ, đó là trời đất không để
“tự chuyển dời”. Đây là một tư tưởng táo bạo, cách mạng đối với người xuất thân từ cửa
Khổng sân Trình trong thời điểm ấy. Với hai câu thực, nhà thơ tiếp tục khẳng định tư thế
của kẻ làm trai giữa vũ trụ và trong cuộc đời:
Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở, há không ai ?
Ý thức về cái “tôi” đã hiện lên rõ ràng, không rụt rè, dè dặt. Đó là nhân vật trữ tình
đang tự đứng giữa cuộc đời một cách can đảm, do ý thức được sứ mệnh của mình trong
lịch sử và cũng do sự thôi thúc của khát vọng lập công danh. Hai câu luận nói về sự thực
nhức nhối:
Non sông đã chết sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài.
Đến hai câu này, ta cũng thấy nổi lên ý chí làm trai với khát vọng lưu danh theo
một nội dung mới, đó là ý thức về non sông đã mất chủ quyền, “hiền thánh” thần tượng
một thuở giờ còn đâu nữa. Hai câu thơ nhận định thực trạng lịch sử bằng một cái nhìn dứt
khoát. “Hiền thánh còn đâu học cũng hoài” – đây quả là một câu thơ thể hiện khí thế sục
sôi của Phan Bội Châu, cho thấy cái nhìn tỉnh táo của ông về thời cuộc.
Hai câu kết của bài thơ có cái khí thế gân guốc và ý thức được sự ra đi một cách
sôi trào, đầy dũng khí:
Muốn vượt biển Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
“Vượt biển Đông” là cách nói có vẻ khoa trương nhưng đó là hành động sắp diễn
ra. Người ra đi trong niềm hứng khởi vô biên “muôn trùng sóng bạc” tiễn chân như một
yếu tố kích thích. Đó chính là bạn đồng hành trong cuộc ra đi hùng tráng này.
Xuất dương lưu biệt là một khúc hát lên đường. Đề tài có tính chất truyền thống,
nhưng tư tưởng lại rất mới mẻ. Bài thơ mang âm hưởng lạc quan nên đã khiến cho cảm
xúc thể hiện trong bài thơ có chiều sâu, có sức gợi cảm mạnh mẽ. Đây là tráng ca của một
vị anh hùng mà suốt đời không hề biết mệt mỏi trong hành động cứu nước thương dân
BÀI MẪU SỐ 3:
Chí làm trai của Phan Bội Châu được khẳng định
Trên mấy cơ sở sau đây:
+Sức vươn lên mạnh mẽ của tuổi trẻ, của cái tôi. làm trai phải xoay trời chuyển
đất, xuống đông đông tĩnh , lên đoài đoài yên
+Vai trò của tuổi trẻ với sự tồn vong của dân tộc, thanh niên là lực lượng cứu nước
chính. Cứu nước phải tìm đường, phải học hỏi. không thể theo lối mòn cũ!
+Nét mới: sự nhạy cảm của Phan Bội Châu trước đòi hỏi của lịch sử, dứt khoát từ
bỏ kiểu học vấn cũ. Chí làm trai gắn liền với sự tồn vong của dân tộc, chuyện lưu danh
muôn thuở không phải là mục đích chính!
1.Hoàn cảnh sáng tác bài thơ
Năm 1905 Phan Bội Châu lên đường sang Nhật Bản>Khi chia tay bạn bè, đồng
chí, Phan ứng khẩu đọc bài thơ này. Bối cảnh lịch sử, xã hội Virtj Nam lúc đó có những
điểm đáng chú ý sau:
– Đất nước ta đang trong một hoàn cảnh chính trị rất đen tối, các cuộc đấu tranh
vũ trang chống Pháp đã hầu như tan rã, thực dân Pháp đã làm chủ tình thế,ách đô hộ đã
mặc nhiên quàng lên đầu lên cổ nhân dân. Nói như Phan Châu Trinh:
Vạn dân nô lệ cương quyền hạ,
Bát cổ văn chương túy mộng trung.
(Muôn dân nô lệ một đàn,
Văn chương bát cổ nồng nàn giấc say.)
– Trong một bộ phận những người trí thức dân tộc, ý chí cứu nước không hề bị
thui chột, nhưng vấn đề đặt ra cấp thiết là cứu nước bằng con đường nào? Và một ánh
sáng mới đã bắt đầu loé lên. Người ta đón nhận những tư tưởng mới từ bên trời Âu truyền
sang, người ta say sưa trước những thành tích duy tân của nước Nhật Bản, Trung Hoa.
“Kì diều thay là sức quyến rũ của lí tưởng …thực tế càng ủ dột bao nhiêu thì cái viễn
cảnh của tưởng tượng lại càng đẹp đẽ, thấm thía bấy nhiêu. Luồng máu nóng trong quả
tim trai trẻ bị kích thíc đã bùng lên đến tột độ”(Đặng Thai Mai). Phan Bội Châu ra đi
trong niềm say mê lí tưởng đó với một sứ mạng lịch sử đè nặng đôi vai: khôi phục lại đất
nước, tái tạo giang sơn.
2. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng lãng mạn hào hùng sôi trào
nhiệt huyết và cháy bỏng khát vọng ước mơ.
– Chí làm trai:
Chí làm trai là một lí tưởng nhân sinh trong chế độ phong kiến, thể hiện tư tưởng
nhập thế tích cực của đạo Nho. Chí làm trai đó thường gắn với cái mộng công danh:
Công danh nam tử còn vương nợ (Phạm Ngũ Lão)
Không công danh thời nát với cỏ cây (Nguyễn Công Trứ)
hoặc để thoả cái chí tang bồng hồ thỉ:
Chí làm trai nam, bắc, tây. đông,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể (Nguyễn Công Trứ)
Và trong thực tế, không ít người đã lập nên công tích ở đời như Phạm Ngũ Lão
từng “Múa giáo non sông trải mấy thu”, đánh đuổi giặc xâm lăng, giữ gìn đất nước; như
Nguyễn Công Trứ từng khơi sông lấp biển, mang cuộc sống ấm no lại cho nhân
dân…Phan Bội Châu cũng nói đến chí làm trai và cũng mong làm nên chuyện lạ ở đời:
Làm trai phải lạ ở trên đời,
Nhưng ở một nhà nho tân học, một nhà cách mạng nhiệt thành đang say mê hướng
tới ánh sáng lí tưởng mới như Phan Bội Châu thì chuyện lạ đâu có phải là chuyện công
danh, cũng đâu phải chỉ là phỉ sức vẫy vùng! Giữa lúc non sông chìm đắm, chí của Phan
là chí xoay trời chuyển đất, lấp bể, vá trời chứ đâu chịu ngồi yên mà nhìn đất nước an bài
theo ý muốn của bọn thực dân:
Há để càn khôn tự chuyển dời
Đó là lí tưởng sống mà vì nó Phan sẵn sàng hiến trọn cuộc đời mình, lí tưởng mà
trước đó không lâu Phan đã nói rõ trong bài hát nói Chơi xuân:
Phùng xuân hội, may ra, ừ cũng dễ,
Nắm địa cầu vừa một tí con con.
Đạp toang hai cánh càn khôn
Đenm xuân vẽ lại trong nnon nước nhà.
Với một lẽ sống như thế, tư thế con người trong vũ trụ là tư thế của một con người
khổng lồ, con người làm chủ hoàn cảnh. Trong cảnh cá chậu chim ***g, giữa những
tiếng tở dài bất lực ‘thời cơ đã lỡ rồi” của văn thơ Cần Vương cuói thế kỉ XIX, cái lẽ
sống hào hùng, cái tư thế mạnh mẽ chủ động ấy có sức thu hút biết bao đối với cả một thế
hệ thanh niên đương thời!
– Ý thức tự khẳng định mình giữa cuộc đời:
Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở há không ai?
Sự tự khẳng định này cũng là sụăt khẳng định của cái Tôi nhưng là một cái Tôi
khác hẳn với cái Tôi cá nhân tư sản chỉ biết đòi hưởng thụ mà trốn tránh trách nhiệm với
đời. Đây là một thái độ sống tích cực không buông trôi theo dòng đời mà cũng không thụ
động chờ đợi . Cái Tôi ở đây là một cái Tôi trách nhiệm chủ động ghé vai gánh vác trọng
trách ở đời. Lẽ sống anh hùng ấy gắn gắn liền với một nhân sinh quan thật cao cả, đẹp đẽ,
nó vượt ra ngoài cái danh lợi tầm thường, tuy vẫn có ước vọng thật chính đáng là để lại
tiếng thơm muôn đời.
– Quan niệm về vinh nhục:
Trong những tác phẩm văn học khác, có lúc Phan Bội Châu đã nói: “Bôi mặt thờ
kẻ thù sẽ là một vật bẩn thỉu trong vũ trụ” (Việt Nam quốc sử khảo), “Sao bằng ngẩng
đầu lên làm người lỗi lạc của Tổ quốc” (Hoà lệ cống ngôn). Đó là quan niệm về nỗi nhục
và vinh trong trong câu thơ này:
Non sông đã chết sống thêm nhục
Ở thời đại của Phan, không ít người thấm thía cái nỗi đau, nỗi nhục mất nước này,
nhưng cách nói của Phan có cái gì đặc biệt, kích động tâm can con người. Một sự khẳng
định thật dứt khoát, hàm chứa nỗi tức tối khôn nguôi “Giang sơn tử hĩ”(Non sông đã
chết). Một sự phủ định cũng thật dứt khoát nhưng lại hàm chứa sự nóng bỏng sôi sục của
con người không cam chịu cúi đầu; phủ định cuộc sống nhục nhã để tìm đến một lẽ sống
vinh quang chứ không phải để chìm đắm trong đau buồn, thất vọng. Con người Phan là
thế, lúc nào cũng sôi trào bầu nhiệt huyết.
– Thái độ với những thần tượng cũ:
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài
Phan Bội Châu là một nhà nho, đã từng qua cửa Khổng, sân Trình, sách vở thánh
hiền đã từng thấm sâu vào tim óc. Nhưng cùng với cả một thế hệ nhà nho tâm huyết lúc
này, Phan đã được tận mắt thấy sự sụp đổcủa những thần tượng cũ trước làn sóng xâm
lăng của thực dân, thấy sự bất lực của những tín điều xưa trước những vấn đề có liên
quan đến sự mất còn của đất nước. Hơn thế nữa, ở thời đại “gió Âu, mưa Mĩ” này, một
chân trời mới mẻ đã hé rạng trước mắt các nhà nho tiên tiến như Phan Bội Châu. Cái vốn
sống, vốn tri thức ấy cộng với bầu nhiệt huyết sôi trào của một con người đang hăm hở
tìm đường cứu nước đã giúp Phan Bội Châu có được một ý tưởng táo bạo và dứt khoát
như thế với những cái gì đã cũ kĩ, lỗi thời, không đảm đương được trách nhiệm lịch sử
đối với dân tộc nữa.
– Khát vọng và tư thế trong buổi lên đường:
Từ đầu bài thơ là những lời bộc bạch đầy hào khí, đến hai câu kết này, tác giả
mượn một hình ảnh thơ thật đẹp, thật hùng tráng để bày tỏ lòng mình:
Muốn đuổi theo ngọn gió dài để đi ra biển Đông,
Ngàn đợt sóng bạc cùng bay lên.
Phan Bội Châu ra đi lần này là để đi “tìm hình của nước”, để tiếp cận cái chân trời
mơ ước đã mở ra từ những trang sách “tân thư”. Cho nên trong hành trang Phan Bội Châu
mang theo không phải chỉ có cái chí “Đem xuân vẽ lại trong non nước nhà” của bản thân,
mà còn cả biêt bao kì vọng của bạn bè, đồng chí, của nhân dân. Trách nhiệm đè nặng đôi
vai, nhưng tâm hồn thì như đã rứt tung xièng xích, thả sức cho khát vọng ước mơ. Những
ngọn gió dài (trường phong) và muôn trùng sóng bạc cùng một lúc bay lên (Thiên trùng
bạch lãng nhất tề phi) đã chắp cánh cho những khát vọng, ước mơ đó. Ta có cảm giác
chính nhà cách mạng, nhà thơ này đã hoá thân thành những cánh chim bằng bay vút lên
giữa sóng gió biển khơi, giữa cao rộng đất trời…Hình ảnh mang tính chất anh hùng ca
này là kết tinh toàn bộ cái cảm hứng lãng mạn, hào hùng, cái tư thế khoẻ khoắn, hăm hở
đầy nhiệt huyết, cái quyết tâm phi thường của nhân vật trữ tình là chính tác giả trong suốt
bài lưu biệt này.
Cùng với sự ra đi này của Phan Bội Châu, bài thơ Xuất dương lưu biệt có thể xem
như mở đầu cho một loạt anh hùng ca của thời đại mới.