Đề bài: Phân tích giá trị hiện thực truyện ngắn Vợ chồng A Phủ<br />
<br />
Bài làm<br />
<br />
Tô Hoài là một trong những cây bút lão luyện của làng văn học Việt Nam với sự nghiệp <br />
văn chương đồ sộ bao gồm nhiều thể loại phong phú, độc đáo. Được mệnh danh là “Nhà <br />
văn của thiếu nhi”, giọng văn của Tô Hoài luôn mang phong vị tự nhiên, hồn hậu, ngôn <br />
ngữ trong sáng, dễ hiểu, dễ cảm. Tác phẩm nổi bật nhất của ông sau Cách mạng Tháng 8 <br />
phải kể đến “Vợ chồng A Phủ”, một kiệt tác văn chương được thai nghén và hoàn thiện <br />
trong chuyến đi thực tế lên vùng Tây Bắc của tác giả. Với khả năng xây dựng hình tượng <br />
nhân vật điển hình cùng lối viết chân thực, “Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm mang giá trị <br />
hiện thực sâu sắc, đả kích và lên án sự bất công trong xã hội phân chia giai tầng đã vùi <br />
dập con người đến tận cùng khổ đau, đồng thời bêu riếu bọn cường hào, thống lý tàn ác, <br />
phơi bày những thế lực đen tối tồn tại ở khu vực vùng núi phía Bắc trước Cách mạng.<br />
<br />
Giá trị hiện thực là những điều diễn ra trong cuộc sống, được tác giả khéo léo lồng ghép <br />
vào tác phẩm tạo nên ý nghĩa phản ánh hiện thực của một thời kì, một chế độ trên nhiều <br />
phương diện, góc nhìn khác nhau. Đây là yếu tố cốt lõi của một tác phẩm văn học, nhất là <br />
văn học hiện thực, là bức họa cuộc sống được sàng lọc một cách kỹ lưỡng nhằm nêu bật <br />
lên được những đặc điểm điển hình của một thời kỳ, giai cấp. Phần lớn giá trị hiện thực <br />
của các tác phẩm văn học đều mang tiếng nói chung của đại đa số quần chúng đương <br />
thời, là bản cáo trạng đối với những thói hư tật xấu và là tiếng lòng thổn thức của những <br />
người thấp cổ bé họng, không có tiếng nói trong xã hội.<br />
<br />
Với “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã tự mình thâm nhập vào cuộc sống của những người <br />
lao động Tây Bắc để có thể thấm nhuần được suy nghĩ, cảm nhận xuất phát từ tấm lòng <br />
thiện lương của con người nơi đây. Từ đó, ông thấu hiểu được nỗi đau đớn, tủi cực đang <br />
ngày đêm day dứt, trăn trở, thông qua ngòi bút và vốn hiểu biết, Tô Hoài đã xây dựng một <br />
cốt truyện cùng các tuyến nhân vật Mị, A Phủ,… như một bức tranh sự thật, nói lên cuộc <br />
sống bi kịch của nhân dân lao động cần cù, chăm chỉ, bóc trần bộ mặt hèn ác, xấu xa của <br />
những kẻ có chức quyền trong xã hội.<br />
Đoạn trích kể về số phận nghiệt ngã của nhân vật Mị, một cô gái hiền lành, chăm chỉ <br />
nhưng không may lại mang thân phận “món đồ gạt nợ”, bị gả vào nhà thống lý Pá Tra do <br />
món nợ truyền đời từ cha mẹ để lại. Tại đây, cô phải làm việc quần quật, bị bòn rút hết <br />
tất cả sự sống và sức phản kháng, tưởng chừng như không có con đường giải thoát nào. <br />
Rồi cô gặp được A Phủ, một nạn nhân của cha con thống lý Pá Tra. Chứng kiến số phận <br />
khổ đau giống mình, Mị như được tiếp thêm nguồn sức mạnh, dám đứng lên chống lại số <br />
phận, cùng A Phủ bỏ trốn, tìm đến một cuộc sống, nơi mà họ có thể sống như một con <br />
người thực thụ.<br />
<br />
Giá trị hiện thực của “Vợ chồng A Phủ” được lột tả qua cuộc sống bi kịch của người lao <br />
động vùng Tây Bắc, điển hình là hai hình tượng nhân vật Mị và A Phủ. Giới thiệu nhân <br />
vật Mị, Tô Hoài không chọn cách kể về tên tuổi, quê quán, hay thậm chí một câu tả dáng <br />
hình cũng chẳng được xuất hiện, chỉ vỏn vẹn: “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lý Pá <br />
Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu <br />
ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước <br />
dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Người ta nói: nhà Pá Tra làm <br />
thống lý, ăn của dân nhiều, đồn Tây lại cho muối về bán, giàu lắm, nhà có nhiều nương, <br />
nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng. Thế thì con gái nó còn bao giờ phải xem cái khổ <br />
mà biết khổ, mà buồn. Nhưng rồi hỏi ra mới rõ cô ấy không phải con gái thống lý: cô ấy <br />
là vợ A Sử, con trai thống lý.” Đoạn văn mở đầu để lại cho người đọc một nỗi ám ảnh <br />
về kiếp người mòn, một số phận đau thương dai dẳng không dứt. Nét mặt buồn rười <br />
rượi của Mị chính là lời tố cáo chân thực nhất về tội ác của cha con thống lý Pá Tra đã đè <br />
nặng lên cả một kiếp người, không chỉ khiến độc giả đau xót, mà còn khơi gợi sự căm <br />
tức, phẫn nộ, cảm thông với nhân vật.<br />
<br />
Cuộc sống giữa địa ngục trần gian của Mị được coi là điển hình, khái quát toàn bộ những <br />
khó khăn, khổ đau mà nhân dân lao động khu vực miền núi phía Bắc trước Cách mạng. Tô <br />
Hoài mượn hình ảnh của Mị để nêu bật được lên chất hiện thực về cuộc đời đắng cay, <br />
tủi nhục của những người dân hiền lành, chất phác phải chịu đựng. Bị bắt về làm dâu cho <br />
nhà giàu, cuộc đời của Mị từ một cô gái xinh đẹp, hay lam hay làm thành một “con rùa <br />
nuôi trong xó cửa”, lúc nào cũng cúi mặt, “mặt buồn rười rượi” lầm lũi, không nói năng <br />
gì. Chúng coi cô là công cụ lao động để làm giàu, “mỗi năm một mùa, mỗi tháng lại làm đi <br />
làm lại: Tết xong lên núi hái thuốc phiện; giữa năm thì giặt đay; đến mùa đi nương bẻ <br />
bắp. Và dù đi hái củi, bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước sợi. <br />
Bao giờ cũng thế, suốt năm, suốt đời thế. Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được <br />
đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày”. Số phận của <br />
Mị thậm chí còn không bằng con trâu, con ngựa trong nhà thống lý. Hơn nữa, cô Mị còn bị <br />
bóc lột tinh thần đến mức mất đi sức phản kháng vốn tiềm tàng trong những số phận bất <br />
hạnh. Cô bị trói, bị đánh tưởng đến chết trong đêm Tết ở Hồng Ngài. Từ một cô gái dám <br />
uống rượu để quên đi sầu khổ, dám chuẩn bị đi chơi trong đêm tình mùa xuân, giờ đây chỉ <br />
còn lại là cái xác không hồn, quanh năm làm lụng, không bao giờ dám nghĩ đến việc bỏ <br />
trốn hay tìm cách thoát ra khỏi số phận bi phẫn của mình. Để nói về cuộc đời của Mị, Tô <br />
Hoài viết: “Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn <br />
nghĩ đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử. ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen khổ rồi. Bây giờ <br />
Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi <br />
làm mà thôi.”. Người ta thấy trào lên những cảm thương sâu sắc ở nhân vật, rõ ràng là <br />
một người con gái đang tuổi xuân phơi phới như thế, nhưng lại chỉ quẩn quanh suy nghĩ <br />
mình là con trâu, con ngựa, câm lặng cam chịu làm bạn với cái khổ đau. Còn đâu cô Mị <br />
dám trốn nhà Pá Tra về gặp bố mẹ, còn đâu những tia hy vọng nhen nhóm, ăn lá ngón để <br />
giải thoát cho số phận, và còn đâu những cuộc chơi đêm tình mùa xuân sôi động, náo <br />
nhiệt, những câu hát văng vẳng tìm bạn “tao không có con gái con trai, tao đi tìm người <br />
yêu”. Cuộc sống của Mị gói gọn trong bốn bức tường, chỉ chừa ra cái ô cửa sổ nhỏ bằng <br />
bàn tay. Tưởng như tuổi xuân và cả cuộc đời Mị sẽ mãi mãi ở ngoài bốn bức tường ấy, <br />
chẳng khác nào bị giam lỏng cả một đời người ở chốn ngục tù trần gian.<br />
<br />
Một trong những chi tiết độc đáo nhất tác phẩm mang tính hiện thực sâu sắc là cảnh cô <br />
Mị bị trói cả đêm ở cột nhà khi A Sử nhìn thấy Mị đang chuẩn bị đi chơi. Đặt vào bối <br />
cảnh thực tế, Mị là một cô gái trẻ trung, dồi dào sức sống. Niềm khao khát được đi tìm <br />
bạn bè, đi chơi trong đêm tình mùa xuân là lẽ hiển nhiên, nhưng, tất cả những tia hy vọng <br />
đó của Mị đã lập tức bị dập tắt khi cô bị chính người chồng của mình trói đứng vào cột <br />
nhà bằng sợi mây một cách tàn bạo. Cái đau khổ lên đến tột cùng, ngay đến những ước <br />
muốn nhỏ nhoi và đơn giản nhất, Mị cũng không thể thực hiện được. “Mị không nói. A <br />
Sử cũng không hỏi thêm. A Sử bước lại, nắm Mỵ, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách <br />
cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mỵ xõa xuống. A Sử quấn luôn tóc <br />
lên cột, Mỵ không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong, A Sử thắt cái thắt lưng <br />
xanh ra ngoài áo rồi phẩy tay tắt đèn, đi ra khép cửa buồng lại.”, “Cả đêm Mỵ phải trói <br />
đứng như thế. Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức”, “Cổ tay, đầu, bắp chân bị <br />
dây trói siết lại, đau đứt từng mảnh thịt.”. Cái đau thể xác có thể diễn tả, nhưng nỗi đau <br />
tinh thần như từng vết roi hằn lên tâm hồn Mị. Cô gái tội nghiệp đến đáng thương ấy, chỉ <br />
vì muốn đi chơi như bao người khác mà bị hành hạ dã man, bị trói đứng trong đêm tối cô <br />
quạnh. Người đọc bỗng đặt ra câu hỏi rằng, liệu còn biết bao nhiêu mảnh đời bất hạnh <br />
như thế nữa vẫn còn đang tồn tại, biết bao cô con gái sa chân vào làm dâu nhà quan to, <br />
tưởng được sống hạnh phúc, đủ đầy, cuối cùng lại trở thành kiếp trâu ngựa tủi hờn, nhục <br />
nhã. Tô Hoài không trực tiếp lên án xã hội cổ hủ lạc hậu, bất nhân, coi người như cỏ rác, <br />
nhưng thông qua hình ảnh của Mị, mọi đường nét thực tại đều được khắc họa một cách <br />
chân thực, rõ ràng. Hiện thực về cuộc sống lao động khổ đau, hiện thực về thân phận <br />
mòn mỏi, hiện thực về cái ác đang ngày ngày hiện hữu, tất cả đều được tác giả khai thác <br />
và phơi bày trước ánh sáng.<br />
<br />
Xây dựng hình tượng nhân vật A Phủ, tác giả muốn phản ánh hiện thực về cuộc sống <br />
của người dân lao động tuy xuất thân thấp kém, cuộc đời lam lũ vất vả nhưng lại chịu <br />
thương chịu khó, sức khỏe dồi dào, không may số phận lại rơi vào tay cha con nhà thống <br />
lý độc ác. Cái khổ đau của A Phủ được thể hiện qua những trắc trở trên đường đời, “Bố <br />
mẹ đẻ A Phủ ở Hắng Bìa. Năm xưa, làng Hắng Bìa phải một trận bệnh đậu mùa, nhiều <br />
trẻ con, cả người lớn chết, có nơi chết cả nhà. Còn sót lại một mình A Phủ. Có người <br />
làng đói bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng. A Phủ <br />
mới mười một tuổi, nhưng A Phủ gan bướng, không chịu ở cánh đồng thấp. A Phủ trốn <br />
lên núi, lưu lạc đến Hồng Ngài. Đi làm cho nhà người, lần nữa mùa này sang mùa khác.”, <br />
khi anh bị trói mang về nhà Pá Tra, bị đánh đập tàn bạo bởi bọn trai làng. Bọn chúng bắt <br />
sống anh về như bắt một con vật, đánh đập anh tàn bạo đến nỗi “môi và đuôi mắt dập <br />
chảy máu”. Đỉnh điểm là khi anh làm mất một con bò, Pá Tra trói đứng anh vào cột, chờ <br />
đến khi có người mang hổ về mới tha cho anh. Bị trói đứng mấy ngày trời, không ăn, <br />
không uống, chịu rét, A Phủ kiệt sức tưởng như chết đi đến nơi. Từ hình ảnh một chàng <br />
trai khỏe mạnh, tràn đầy niềm lạc quan, yêu đời, A Phủ trở thành con trâu cày không công <br />
cho nhà thống lý. Sống trong xã hội thối nát, mục ruỗng ấy, con người không còn có <br />
quyền sống như một con người, tất cả đều bị phụ thuộc vào kẻ có quyền, có tiền. Sự <br />
thật về số phận của những người dân lao động khu vực Tây Bắc trước Cách mạng Tháng <br />
tám là chuỗi những ngày tháng đau thương, nơi con người bị vắt kiệt sức lao động, nơi cái <br />
ác ngự trị và tính mạng người dân chỉ giống như con vật nuôi trong nhà.<br />
<br />
Mị và A Phủ là hiện thân của kiếp đời nô lệ dưới chế độ phong kiến, được Tô Hoài xây <br />
dựng từ những chất liệu hiện thực gần gũi nhất, thẳng thắn nhất. Qua hai nhân vật, tác <br />
giả gián tiếp khắc họa cuộc sống và số phận của người dân lao động trước Cách mạng, <br />
là tiếng nói mang tính tố cáo, lên án những kẻ lợi dụng chức quyền đã vùi dập con người, <br />
đứng trên lập trường của nhân dân, bảo vệ người dân lao động, tố cáo tội ác của quân thù <br />
và bọn bất lương.<br />
<br />
Giá trị hiện thực còn được tác giá khai thác sắc bén nhằm phơi bày những kẻ lợi dụng <br />
chức quyền, những thế lực đen tối ở miền núi phía Bắc trước Cách mạng nhằm vùi dập, <br />
chà đạp con người. Hình tượng cha con nhà thống lý Pá Tra, bọn xéo phải, thống quán <br />
chính là hiện thân của tội ác áp bức, bóc lột, coi số phận con người rẻ mạt như trâu ngựa, <br />
mặc sức bóc lột, hành hạ. Đặt trong hoàn cảnh đặc trưng của khu vực miền núi xa xôi, <br />
hẻo lánh, dân trí thấp, tư tưởng cổ hủ, lạc hậu và những hủ tục truyền đời, thực dân Pháp <br />
đã sử dụng bọn quan lại như tay sai nhằm kìm kẹp nhân dân lao động dưới ách thống trị, <br />
bóc lột. Chúng tiếp tay cho chính dân ta hãm hại lẫn nhau vì miếng ăn, vì quyền lực, kẻ <br />
có quyền được mặc sức nhũng nhiễu, thu bạc thu vàng, lại được cho muối, cho thuốc <br />
phiện về bán nhằm tư lợi cá nhân. Chính điều này đã làm cho mâu thuẫn giữa các giai cấp <br />
trong xã hội ta ngày một rõ ràng, nhóm lên lòng căm thù đối với bọn quan liêu đốn mạt, bê <br />
tha. Một trong những đoạn văn miêu tả chân thực nhất của tác phẩm phải kể đến cảnh A <br />
Phủ bị trói, bị đánh phạt vạ. Bị chịu đòn từ các trai làng, anh chỉ biết đứng im, không dám <br />
nhúc nhích hay chống trả vì mang tội đánh con trai thống lý. Cái tàn ác thể hiện ở chỗ, tên <br />
A Sử gây sự đánh nhau, nhưng khi bị đánh lại được bênh vực, được cha đi tìm kẻ đã đánh <br />
con trai mình về hành hạ, trong khi A Phủ, vì không có cha mẹ, vì thân phận hèn kém lại <br />
phải chịu đòn, chịu phạt. “A Phủ quỳ chịu tội ở xó nhà, không được dự tiệc hút ấy.”, “A <br />
Phủ ra quỳ giữa nhà. Lập tức, bọn trai làng xô đến, trước nhất, chắp tay lạy lia lịa lên <br />
thống lý rồi quay lại đánh A Phủ. A Phủ quỳ chịu đòn, chỉ im như cái tượng đá... Cứ mỗi <br />
đợt bọn chức việc hút thuốc phiện xong, A Phủ lại phải ra quỳ giữa nhà, lại bị người xô <br />
đến đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. Người đánh, người quỳ <br />
lạy, kể lể, chửi bới. Xong một lượt đánh, kể, chửi, lại hút. Khói thuốc phiện ngào ngạt <br />
tuôn qua các lỗ cửa sổ. Rồi Pá Tra lại ngóc cổ lên, vuốt tóc, gọi A Phủ... Cứ như thế, suốt <br />
chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút.”, “A Phủ lê hai cái <br />
đầu gối sưng bạnh lên như mặt hổ phù. A Phủ cúi sờ lên đồng bạc trên tráp, trong khi Pá <br />
Tra đốt hương, lầm rầm khấn gọi ma về nhận mặt người vay nợ. Pá Tra khấn xong, A <br />
Phủ cũng nhặt xong bạc, nhưng chỉ nhặt làm phép lên như thế rồi lại để ngay xuống mặt <br />
tráp. Rồi Pá Tra lại trút cả bạc vào trong tráp.”. Tất cả những chi tiết ấy thể hiện sự tàn <br />
bạo, coi người như rơm rác của bọn quan lại, dã man xuống tay đánh đập trong khi bọn <br />
chúng thảnh thơi hút thuốc, chửi bới, thóa mạ. Thật không thể tưởng tượng được lại tồn <br />
tại một xã hội thối rữa, nơi nhân phẩm con người không bằng một con vật, kẻ phạm tội <br />
lại là quan tòa, người vô tội lại trở thành con nợ mạt kiếp, bị đánh đập tàn ác. Phải chăng, <br />
đây chính là những góc khuất đã được thế lực đen tối dung túng để bọn quan liêu mặc sức <br />
tung hoành, nhũng nhiễu, bóc lột dân chúng, bợ đỡ bọn Tây nhằm trục lợi, vơ vét của cải.<br />
<br />
Tội ác của cha con thống lý Pá Tra thật không kể xiết, chúng không thương xót một ai, <br />
không chừa cả những số phận yếu đuối, không có khả năng chống cự. Thân phận gạt nợ <br />
của Mị cũng bắt nguồn từ món nợ giữa bố của thống lý Pá Tra và bố mẹ Mị “Ngày xưa <br />
bố Mị lấy mẹ Mị không đủ tiền cưới, phải đến vay nhà thống lý, bố của thống lý Pá Tra <br />
bây giờ. Mỗi năm đem nộp lãi cho chủ nợ một nương ngô. Đến tận khi hai vợ chồng về <br />
già mà cũng chưa xong nợ. Người vợ chết, cũng chưa trả hết nợ.” món nợ truyền đời từ <br />
bố mẹ sang con cháu đã cho thấy sự bóc lột của kẻ nắm quyền, không một sự thương xót <br />
với người già, trẻ nhỏ hay cả những gia đình bần hàn, cơ cực. Cái duy nhất bọn chúng <br />
quan tâm là lợi ích, tiền của. Dường như, tình người không hề tồn tại với cha con thống <br />
lý Pá Tra. Cuộc đời Mị từ lúc bị lừa bắt về làm dâu, sống lặng lẽ “như một con rùa nuôi <br />
trong xó cửa”, làm việc quần quật “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì <br />
nhặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp…”, đến khi bị hành hạ cực khổ, bị trói, bị <br />
đánh,… giống như một bản án buộc tội thế lực quan lại độc ác, vô nhân tính, là bản cáo <br />
trạng chân thực nhất về tội ác của cha con thống lý Pá Tra đã đè nặng lên cả một kiếp <br />
người, không chỉ khiến độc giả đau xót, mà còn khơi gợi sự căm tức, phẫn nộ, cảm thông <br />
với nhân vật.<br />
<br />
Tô Hoài không phê phán một cách trực tiếp, nhưng chính từ những hành động của thống <br />
lý Pá Tra đối với A Phủ và Mị, bị đẩy vào số phận con sâu cái kiến, người đọc đã nhận ra <br />
được bộ mặt bóc lột, lên án gay gắt chế độ quan lại trong xã hội thực dân nửa phong kiến <br />
khu vực miền núi Tây Bắc đã khiến biết bao con người khỏe mạnh, chịu thương chịu khó <br />
trở thành tay sai cho chế độ bóc lột bạo tàn. Giá trị hiện thực của tác phẩm là phơi bày <br />
được bộ mặt xấu xa của chế độ phong kiến lỗi thời, đốn mạt, nơi những kẻ ác nghiệt <br />
nắm mọi quyền sinh quyền sát trong tay, nơi kiếp người bị rẻ rúng, không bằng con trâu, <br />
con ngựa.<br />
<br />
Tô Hoài đã xuất sắc trong việc tái hiện lại bức tranh hiện thực về số phận những con <br />
người khốn khổ nơi vùng núi cao, đồng thời lên án, vạch mặt những thế lực đen tối đã <br />
vùi dập, chà đạp con người. Bằng nghệ thuật miêu tả đặc sắc, xây dựng tâm lý nhân vật <br />
qua hành động, cử chỉ và sự tiến bộ trong suy nghĩ của nhân vật, tác giả không chỉ khiến <br />
cho người đọc hình dung một cách rõ ràng về những góc khuất trong xã hội xưa mà còn <br />
thể hiện sự thương cảm, xót xa với những người dân lao động vô tội. Xét cho cùng, văn <br />
học chính là hiện thực được phản ánh một cách chắt lọc, mục đích của văn học là khơi <br />
gợi sự đồng cảm nơi độc giả. Trên phương diện ấy, Tô Hoài đã hoàn thành một cách trọn <br />
vẹn với tư cách một người quan sát, một nhà truyền đạt, là sợi dây kết nối giữa bạn đọc <br />
và những con người họ chưa từng một lần gặp gỡ.<br />
<br />
Giá trị hiện thực của “Vợ chồng A Phủ” là hiện thực cuộc sống của những người dân <br />
Tây Bắc, cần cù, chăm chỉ, chân phương nhưng bất hạnh, khổ cực. Qua hai hình tượng <br />
nhân vật điển hình, tác giả đã khái quát toàn bộ không gian xã hội thực dân nửa phong <br />
kiến nơi vùng cao, đồng thời lên án mạnh mẽ, phơi bày bộ mặt tàn bạo và các thế lực đen <br />
tối đã tồn tại và chèn ép con người đến bước đường cùng. Qua tác phẩm, Tô Hoài cũng <br />
gửi gắm sự nâng niu, trân trọng đến nhân vật của mình hay chính là những người dân <br />
vùng núi phía Bắc, tìm kiếm sự lay động trong lòng độc giả khi chứng kiến những khó <br />
khăn, gian khổ mà nhân vật phải trải qua.<br />
<br />
<br />