Ghi chú bài giảng

QUẢN LÝ NỀN KINH TẾ MỞ

(Mô hình Corden/Australian)

Mô hình Corden1/Australian hay còn gọi là mô hình EB-IB2, là một mô hình kinh tế vĩ

mô được sử

dụng rất phổ biến nhằm giải thích và giúp đưa ra các chính sách kinh tế giải quyết các

trục trặc

thường xảy ra ở các nước đang phát triển - các nước được xem là có đặc điểm của một

nền kinh tế

nhỏ và mở cửa. Nguồn gốc của mô hình này trước đây xuất hiện cùng với căn bệnh có tên

gọi là

căn bệnh Hà lan (Dutch Disease). Trong chương học này, chúng ta sẽ nghiên cứu về việc

xây dựng

mô hình; tiếp theo là việc vận dụng các chính sách điều chỉnh hay ổn định hoá nền kinh

tế và sau

cùng là ứng dụng mô hình nhằm giải thích về trục trặc của căn bênh Hà lan. Trước tiên,

chúng ta

hãy nghiên cứu về mặt kỹ thuật hay việc xây dựng mô hình này như thế nào.

I. Xây dựng Mô hình:

1. Hai loại hàng hoá:

Giả sử tất cả các loại hàng hoá và dịch vụ của nền kinh tế được chia thành hai loại: Hàng

có thể

ngoại thương hay hàng ngoại thương (Tradeable goods, ký hiệu là T) và hàng không thể

ngoại

thương hay hàng phi ngoại thương (Non-tradeable goods, ký hiệu là N). Hàng ngoại

thương là hàng

hoá và dịch vụ mà chúng có thể được mua bán trao đổi giữa các quốc gia và giá cả của

chúng được

xác định bởi cung và cầu của thị trường thế giới. Hàng phi ngoại thương là những hàng

hoá và dịch

vụ chỉ có thể tiêu thụ được trong nội bộ nền kinh tế, chúng không thể xuất khẩu hoặc

nhập khẩu

được và giá của loại hàng này được xác định bởi giá cả trong nước.

Trong thực tế rất khó phân biệt một cách chính xác hàng hoá và dịch vụ nào thuộc hàng

ngoại

thương hay hàng phi ngoại thương. Do vậy, cách phân loại này nên được hiểu về tính

chính xác một

cách tương đối. Theo cách phân loại phổ biến nhất và được sử dụng ở hầu hết các nước là

cách

phân loại theo tiêu chuẩn công nghiệp của Liên Hiệp Quốc (SIC – The Standard

Industrial

Classification). Theo SIC, hàng hoá và dịch vụ được chia thành chín nhóm ngành chủ yếu

sau:

1. Nông nghiệp, săn bắn, lâm nghiệp và đánh cá

2. Khai thác mỏ và khai thác đá

3. Sản xuất chế biến

4. Điện, nước và khí đốt

5. Xây dựng

6. Mua bán sỉ và lẻ, nhà hàng và khách sạn

7. Giao thông, kho bãi và thông tin

8. Tài chính, bảo hiểm, nhà đất và các dịch vụ kinh doanh

9. Các dịch vụ cá nhân, cộng đồng và xã hội 1 Corden là tên của tác giả người Uc viết ra mô hình này.

2 EB là chữ viết tắt của External Balance hay cân bằng bên ngoài và IB là chữ viết tắt của

Internal balance

hay cân bằng bên trong.

Một cách tổng quát, ba nhóm đầu có thể được xem là hàng ngoại thương, sáu nhóm còn

lại có thể

xem là hàng phi ngoại thương. Tuy nhiên, vẫn có những trường hợp ngoại lệ. Theo

nguyên tắc, có

hai nhân tố quyết định tính ngoại thương hay phi ngoại thương của hàng hoá. Thứ nhất là

chi phí

vận chuyển. Loại hàng nào có chi phí vận chuyển càng thấp trong toàn bộ chi phí sản

xuất thì càng

dễ dàng trao đổi ngoại thương. Thứ hai là hàng rào bảo hộ mậu dịch như là thuế nhập

khẩu hay hạn

ngạch. Hàng rào bảo hộ mậu dịch càng cao thì tính ngoại thương của hàng hoá càng thấp.

Ngày

nay, khi tiến bộ khoa học kỹ thuật ngày càng được áp dụng rộng khắp và nhanh chóng

hơn cũng

như tiến trình hoà nhập và toàn cầu hoá mạnh mẽ hơn thì giao dịch ngoại thương trên

phạm vi toàn

thế giới càng được thúc đẩy nhiều hơn.

2. Cân bằng bên trong và Cân bằng bên ngoài:

Hình 1:

N

PPF

N1 (1)

CIC

PT/PN

T1 Y1=A1 T

Hình 1 cho thấy giao điểm của hai đường giới hạn khả năng sản xuất PPF (Production

Possibility

Frontier) và đường đẳng ích của cộng đồng CIC (Community Indifference Curve) là điểm

cân bằng

của mô hình. Tại đây nền kinh tế sản xuất và tiêu thụ T1 hàng có thể ngoại thương được

và N1 hàng

không thể ngoại thương được. Nói một cách khác, đây là điểm mà mức tiêu dùng (phiá

cầu) và sản

xuất (phiá cung) bằng nhau đối với cả hai loại hàng. Điểm này còn được gọi là điểm cân

bằng bên

trong và cân bằng bên ngoài3. Cân bằng bên trong được hiểu là cân bằng của cầu hàng

phi ngoại

thương và cung hàng phi ngoại thương (DN = SN) và cân bằng bên ngoài là trạng thái

cung hàng

ngoại thương bằng cầu hàng ngoại thương (ST = DT). Hay ta có cán cân thương mại còn

gọi là cán

cân ngoại thương (Trade balance, TB) bằng không (TB = 0 ).

Cán cân ngoại thương (TB) được định nghĩa là chênh lệch của xuất khẩu (X) và nhập

khẩu (M). Ta

có :

3 Cân bằng bên trong còn được định nghiã theo Kinh tế học vĩ mô là tình trạng nền kinh

tế đạt mức sản lượng

tiềm năng và tỷ lệ thất nghiệp ở mức thất nghiệp tự nhiên (xem thêm khái niệm về

NAIRU của lạm phát).

Căn bằng bên ngoài là cân bằng của cả cán cân vãng lai và cán cân vốn.

TB = X – M

Trong đó, xuất khẩu X được định nghĩa là thặng dư cung so với cầu hàng ngoại thương

và nhập

khẩu M là số dư của cầu so với cung của hàng ngoại thương. Như vậy:

TB = (Giá trị cung X – Giá trị cầu X) – (Giá trị cầu M – Giá trị cung M)

TB = (Giá trị cung X + Giá trị cung M) – (Giá trị cầu X + Giá trị cầu M)

TB = (Giá trị cung hàng có thể ngoại thương) – (Giá trị cầu hàng có thể ngoại thương)

Khi nền kinh tế ở trạng thái cân bằng, mức sản xuất bằng với mức tiệu thụ hàng ngoại

thương hay

TB = 0. Lúc này, ta cũng có tổng sản phẩm của nền kinh tế (Y) (trong trường hợp này có

thể sử

dụng chỉ tiêu GDP) bằng với tổng chi tiêu hay tổng hấp thu của nền kinh tế (A).

Y = C + I + G + X – M

Với A = C + I + G

C và I là tiêu dùng và đầu tư của khu vực tư nhân, G là tiêu dùng và đầu tư của khu vực

chính phủ.

Suy ra:

A = Y + (M – X)

Nền kinh tế cân bằng khi:

Y = A

Giá tương đối của hai loại hàng hoá PT/PN thực chất là số đo của tỷ giá hối đoái thực4

(RER = NER

* P*/P) bởi vì giá của hàng ngoại thương PT tính theo nội tệ dựa trên giá hàng hoá này

trên thế giới

P* nhân với tỷ giá danh nghiã NER, giá trong nước P cũng chính là giá của hàng hoá phi

ngoại

thương PN. Nếu PT/PN tăng, tức đường biểu diễn của PT/PN trở nên dốc hơn, hàng

ngoại thương trở

nên mắc hơn một cách tương đối so với hàng phi ngoại thương. Khi đó sản xuất sẽ có xu

hướng di

chuyển dọc theo đường PPF về phía hàng ngoại thương. Và tiêu dùng thì ngược lại, về

phía hàng

phi ngoại thương.

Tóm lại khi nghiên cứu mô hình này, chúng ta cần làm rõ các vấn đề căn bản và quan

trọng sau:

• Thứ nhất, cân bằng kinh tế vĩ mô của mô hình được hiểu là cân bằng giữa cung và cầu

đồng

thời của cả hai thị trường, cân bằng thị trường hàng ngoại thương hay còn gọi là cân bằng

bên

ngoài và cân bằng thị trường hàng phi ngoại thương hay cân bằng bên trong.

• Thứ hai, để đạt được trạng thái cân bằng thứ nhất thì Y phải bằng với A và cả hai thị

trường đều

đạt trạng thái cân bằng ở mức tỷ giá hối đoái thực hay mức PT/PN.

4 Tỷ giá hối đoái thực cân bằng là giá trị tương ứng với cân bằng bên trong và cân bằng

bên ngoài trong trung

hạn.

• Cuối cùng là các chính sách có thể được sử dụng để giải thích và điều chỉnh nhằm đưa

mô hình

về trạng thái cân bằng đó là chính sách tỷ giá hối đoái (điều chỉnh tỷ giá hoái đoái danh

nghĩa

nhằm thay đổi PT/PN) và chính sách làm thay đổi hấp thu như chính sách thu chi ngân

sách và

chính sách tiền tệ.

3. Phân tích cân bằng:

Điểm cân bằng trong hình vẽ 1 có thể được phát triển thành cân bằng trong từng thị

trường hàng

ngoại thương và hàng phi ngoại thương. Đối với thị trường hàng ngoại thương ta đặt trục

hoành là

hàng ngoại thương (T) và trục tung là tỷ giá hối đoái thực hay giá tương đối của hai loại

hàng hoá

(PT/PN). Tương tự cho thị trường hàng phi ngoại thương, trục hoành là hàng phi ngoại

thương và trục

tung là PT/PN (xem hình 2)

Ở thị trường hàng ngoại thương, đường cung ST có độ dốc đi lên và đường cầu DT có độ

dốc đi

xuống trong toạ độ (T, PT/PN) là hoàn toàn phù hợp với mối quan hệ cung cầu. Khi giá

tương đối

của hai loại hàng hoá PT/PN tăng lên, lượng cung hàng ngoại thương có xu hướng tăng

và lượng cầu

hàng ngoại thương giảm đi và ngược lại. Đối với thị trường hàng phi ngoại thương, một

cách bình

thường ta nên đặt trục tung là PN/PT thì đường cung và cầu sẽ có hình dáng của độ dốc

đúng theo

các hình vẽ cung cầu bình thường. Tuy nhiên, do mục đích kết hợp cả hai thị trường lại

với nhau,

nên ở thị trường này trục tung bị đảo lại thành PT/PN, do vậy đường cung và cầu có hình

dạng

nghịch lại.

Hình 2:

PT/PN ST PT/PN DN

(1) (1)

PT/PN

DT SN

T1 T N1 N

Chính sách phá giá và cân bằng của mô hình:

Hình 3a:

N

PPF

N1 (1)

CIC

PT/PN

T1 Y1=A1 T

Hình 3b:

PT/PN ST PT/PN DN

Phá giá

Nâng giá

DT SN

T1 T N1 N

Một chính sách phá giá sẽ làm NER tăng lên về số đo, nếu hai mức giá P* và P là cho

trước thì tỷ

giá hối đoái thực RER sẽ tăng, hay PT/PN tăng lên. Trên đồ thị của đường giới hạn khả

năng sản

xuất, đường PT/PN trở nên dốc đứng hơn. Điểm sản xuất tiến dần về phiá hàng T và điểm

tiêu dùng

thì lại trượt về phiá hàng N. Thể hiện trên hình vẽ là sự gia tăng lên của PT/PN . Kết quả

là, ở thị

trường hàng ngoại thương giá tương đối của hàng ngoại thương tăng lên khuyến khích

lượng cung

tăng và lượng cầu giảm (ST>DT), nền kinh tế có nhiều hàng trao đổi ngoại thương hơn,

TB sẽ được

cải thiện hay thặng dư. Ở thị trường hàng phi ngoại thương, khi mức giá tương đối tăng

lên có nghiã

Phá giá sẽ làm

đường giá trở nên

dốc hơn

là hàng phi ngoại thương rẻ hơn một cách tương đối so với hàng ngoại thương nên lượng

cung có xu

hướng giảm và lượng cầu tăng dẫn đến giá của hàng phi ngoại thương gia tăng và kéo

theo lạm

phát. Hơn nữa, nguồn lực của nền kinh tế là có hạn, việc di chuyển nguồn lực sản xuất

sang khu

vực hàng ngoại thương do kết quả của phá giá một phần đã lấy bớt nguồn để sản xuất

hàng phi

ngoại thương.

Ngược lại, nếu một chính sách nâng giá được áp dụng, có nghiã là làm giảm số đo của

NER hay

PT/PN giảm. Độ dốc của PT/PN thoải hơn, điểm sản xuất tiến dần về phiá hàng N do giá

hàng này

cao hơn một cách tương đối so với hàng T và điểm tiêu dùng thì lại đi về phiá hàng T do

hàng này

có giá ngày càng rẻ hơn một cách tương đối so với hàng N. Trên đồ thị của từng thị

trường ta có

thâm hụt trong thị trường hàng T (ST

khẩu đồng

thời phải tăng nhập khẩu) và tăng tình trạng thất nghiệp trong thị trường hàng N (SN>

DN: sản xuất

vượt quá nhu cầu kéo theo hiện tượng dư thừa, sản xuất chậm lại và tình trạng sử dụng

lao động

giảm theo)

Các chính sách thay đổi chi tiêu hay thay đổi hấp thụ trong nước:

Chính sách thay đổi chi tiêu hay thay đổi hấp thu theo quan điểm của Nhà kinh tế J. M.

Keynes

nhằm tác động vào phiá cung còn được gọi là các chính sách quản lý tổng cầu (Demand

Management Policies) bao gồm hai loại chủ yếu: chính sách tiền tệ (Monetary Policy) và

chính

sách thu chi ngân sách (Fiscal Policy). Chính sách tiền tệ liên quan đến biến số cung tiền

M và lãi

suất i, chính sách thu chi ngân sách liên quan đến hai biến số thu và chi của ngân sách

chính phủ (T

và G).

Hình 4:

PT/PN ST PT/PN DN

DT SN

T1 T N1 N

Khi các chính sách trên được áp dụng, phiá cầu của nền kinh tế thay đổi. Như chúng ta đã

đề cập

đến ở phần đầu chương học này, cầu hàng hoá của nền kinh tế bao gồm hai loại hàng

ngoại thương

và hàng phi ngoại thương. Như vậy, các chính sách này sẽ làm đường cầu trong từng thị

trường dịch

chuyển hay làm thay đổi phiá cầu của từng thị trường hàng T và hàng N. Trước tiên, giả

sử nền

kinh tế thực hiện chính sách mở rộng tiền tệ hay chính sách mở rộng thu chi ngân sách,

cầu hàng T

và N tăng lên thể hiện ở sự dịch chuyển của hai đường DT và DN sang phải. Cầu hàng T

tăng kéo

theo PT/PN có chiều hướng tăng . Cầu hàng N tăng lại có chiều hướng ngược lại PT/PN

giảm hay

PN/PT tăng (xem hình 4)

Nếu chúng ta theo dõi sự thay đổi về mặt hình học của đồ thị diễn ra ở hai thị trường

hàng T và N

thì ta sẽ thấy có sự hình thành từng cặp khu vực ở mỗi thị trường khi thực hiện chính sách

quản lý

tổng cầu mở rộng hay thu hẹp, có nghiã là ta lần lượt cho đường DT và DN dịch chuyển

sang phải,

sang trái. Trên thị trường hàng T, lấy đường ST làm chuẩn, khu vực thặng dư sẽ hẹp dần

và thâm

hụt lớn lên nếu ta áp dụng chính sách mở rộng. Ngược lại, khu vực thặng dư sẽ lớn dần,

khu vự

thâm hụt nhỏ lại nếu ta áp dụng chính sách thu hẹp. Đối với thị trường hàng N, xuất hiện

khu vực

lạm phát và thất nghiệp. Tương tự như ở thị trường hàng T, trong thị trường hàng N khi

ta áp dụng

các chính sách mở rộng hay thu hẹp tổng cầu, các khu vực lạm phát và thất nghiệp sẽ dần

dần hiện

ra hai bên của đường cung SN (hình 5)

Hình 5:

PT/PN ST PT/PN DN

Thặng dư Lạm phát

Thâm hụt Thất nghiệp

DT SN

T1 T N1 N

Hai đường ST và SN giờ đây đã trở thành hai tập hơp của những điểm cân bằng. Đường

ST là tập hợp

của những điểm cân bằng trong thị trường hàng ngoại thương hay còn gọi là đường cân

bằng bên

ngoài (External Balance-EB hay Tradeable Equilibrium). Đường SN là tập hợp của

những điểm cân

bằng trong thị trường hàng phi ngoại thương hay cân bằng bên trong (Internal Balance-IB

hay

Nontradeable Equilibrium). Kết hợp hai thị trường này lại với nhau ta được các vùng mất

cân bằng

của nền kinh tế (xem hình 6). Trục tung vẫn là trục của tỷ giá hối đoái thực PT/PN và

trục hành do

kết hợp hai thị trường nên trở thành trục A (tổng chi tiêu trong nước hay tổng hấp thu).

Nền kinh tế

chỉ đạt trạng thái cân bằng ở điểm 1 (tương đương điểm 1 trong hình 1 ở đầu chương

học), giao

điểm của hai đường EB và IB. Nền kinh tế thực có thể rơi vào một trong bốn vùng mất

cân bằng:

vùng I – Thặng dư + Lạm phát, vùng II – Thâm hụt + Lạm phát, vùng III – Thâm hụt +

Thất nghiệp,

vùng IV – Thặng dư + Thất nghiệp.

Hình 6

PT/PN I EB

Thặng dư +

Lạm phát

IV II

Thặng dư + Thâm hụt +

Thất nghiệp Lạm phát

III

Thâm hụt +

Thất nghiệp

IB

A

II. Chính sách ổn định hoá và sự kết hợp các chính sách :

Điểm cân bằng lý tưởng của nền kinh tế hay còn gọi là điểm hạnh phúc (Bliss Point) là

điểm gặp

nhau giữa hai đường EB và IB, tại đây nền kinh tế vừa đạt trạng thái cân bằng bên ngoài

vừa đạt

trạng thái cân bằng bên trong. Bất kỳ điểm nào nằm ngoài điểm cân bằng này đều rơi vào

trạng

thái mất cân bằng hay chỉ thoả cân bằng ở một thị trường (ví dụ các điểm chấm tròn trên

hình 7)

Hình 7:

PT/PN EB

IB

A

Để đưa các điểm này về trạng thái cân bằng lý tưởng cần thực hiện một hoặc kết hợp cả

hai chính

sách thay đổi A và hoặc hay thay đổi NER (nhằm thay đổi PT/PN). Các lực kéo kết hợp

này sẽ đưa

nền kinh tế tiến về điểm cân bằng. Trên thực tế không phải lúc nào nền kinh tế cũng chọn

việc kết

hợp cả hai chính sách mà có thể chọn một trong hai chính sách tuỳ theo mục tiêu của tăng

trưởng

và phát triển cũng như các mục tiêu kinh tế chính trị xã hội của quốc gia. Vào những năm

1970 đã

xảy ra cuộc khủng hoảng giá dầu hoả, Hàn quốc và Đài loan đã đối mặt với mất cân bằng

của nền

kinh tế cụ thể là rơi vào trạng thái thâm hụt TB cao, nhưng Hàn quốc đã chọn con đường

phá giá

mà không cắt giảm chi tiêu nhằm mục đích bảo vệ tốc độ tăng trưởng và thúc đẩy xuất

khẩu. Đài

loan lại chọn con đường cắt giảm chi tiêu mà không phá giá vì muốn duy trì quan hệ mậu

dịch vốn

dĩ đã thặng dư so với Mỹ. Cả hai quốc gia này đã đạt phục hồi nhanh chóng do xuất khẩu

tăng

nhanh và tăng trưởng kinh tế mạnh hai năm sau đó.

III. Ap dụng mô hình cho việc giải thích Căn bệnh Hà lan:

Hiện có nhiều tài liệu và giáo trình giải thích về căn bệnh Hà Lan. Như vậy câu hỏi đặt ra

là căn

bệnh Hà lan là gì? Vì sao một quốc gia bị rơi vào căn bệnh này? Triệu chứng của căn

bệnh thể hiện

như thế nào? Và liệu có cách nào thoát khỏi căn bệnh hay tránh được căn bệnh này

không?

Căn bệnh Hà lan (Dutch Disease) là một khái niệm khá quen thuộc hiện nay khi mà

ngày càng có

nhiều nước thể hiện các triệu chứng gần như trùng lắp nhau. Có nhiều khái niệm nói về

căn bệnh

này, ở đây chúng ta đi vào bản chất của vấn đề. Ba nguồn lực căn bản tưởng chừng như

chỉ mang

lại cho quốc gia nguồn lợi trù phú như là: (1) Việc khám phá ra quặng mỏ quý, (2) Tăng

giá xuất

khẩu của một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực, (3) Dòng vốn đầu tư đi vào trong nước dồi

dào; đã

mang lại cho nền kinh tế khoản thu nhập cao bất ngờ mà người ta có thể gọi nôm na là

“Của từ trên

trời rơi xuống”.Nếu như nền kinh tế không kèm theo các chính sách điều hành hữu hiệu

và sử dụng

các nguồn lực này một cách có hiệu quả thì dễ dàng bị cuốn vào hai tác động:

(1) Tác động chi tiêu, và

(2) Tác động lôi kéo nguồn lực

Thu nhập cao bất ngờ kéo theo chi tiêu gia tăng (Chi tiêu A = C + I + G), điều này cũng

đồng nghiã

cầu hàng T (hàng ngoại thương, Tradables) và hàng N (hàng phi ngoại thương, Non-

Tradables)

tăng. Như ta đã biết hàng T là loại hàng ngoại thương do vậy nó có thể được bù đắp dễ

dàng thông

qua xuất nhập khẩu (PT được xác định bởi giá thế giới PT*). Hàng N thì chỉ được quyết

định từ quan

hệ sản xuất và trao đổi trong phạm vi nền kinh tế nên khi cầu tăng kéo theo giá cả trong

nước sẽ có

xu hướng tăng theo (PN tăng). Kết quả là làm giá tương đối giữa hai loại hàng N và T

(PN/PT) tăng

lên. Điều này cũng đồng nghiã với giá trị của PT/PN giảm xuống. Mặt khác, dòng ngoại

tệ vào càng

nhiều sẽ làm cho đồng tiền trong nước có xu hướng tăng giá . Biến đổi này làm cho cơ

cấu sản xuất

và tiêu dùng thay đổi và diễn ra quá trình tái phân bổ các nguồn lực lại theo thời gian. Ví

dụ như

khi giá tương đối giữa hai hàng T và N thay đổi (giảm xuống) sẽ làm một số ngành sản

xuất xuất

khẩu truyền thống giảm khả năng cạnh tranh và có thể bị hất ra khỏi cuộc chơi; giá hàng

N cao hơn

một cách tương đối so với hàng T sẽ làm nguồn lực sản xuất bị lôi kéo về phiá hàng N.

Sự thay đổi này sẽ càng trầm trọng hơn và có thể trở thành căn bệnh khi mà các nguồn

lực được

xem là “Của từ trên trời rơi xuống” không còn nữa (quặng mỏ quý cạn dần, giá một số

mặt hàng

xuất trở lại bình thường, dòng vốn đến hạn phải trả hay đi ra khỏi đất nước ngày càng

lớn…). Nền

kinh tế rơi vào tình trạng thiếu hụt ngoại tệ, lạm phát cao, đình đốn, cơ cấu sản xuất xấu

đi…Đây

chính là triệu chứng của căn bệnh Hà lan.

b./

Hình 85:

T

Thị hiếu chi tiêu của xã hội

Y=A

(a)

N

Để đơn giản, trước tiên ta giả sử nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng lý tưởng (a). Tại đây

điểm sản

xuất trùng điểm tiêu dùng và cán cân mậu dịch cân bằng hay nền kinh tế nói chung đang

ở trạng

thái cân bằng lý tưởng (cân bằng bên trong và cân bằng bên ngoài)

Sau khi có “Của từ trên trời rơi xuống”6, thể hiện ở sự dịch chuyển của đường PPF ra

ngoài và lệch

mạnh về phiá hàng T. Lúc này điểm sản xuất ở (b) và điểm tiêu dùng ở (c). Sự tách rời

giữa sản

xuất và tiêu dùng lại tiếp tục quá trình điều chỉnh cơ cấu sản xuất và tiêu dùng một lần

nữa: (cid:6) Do cầu hàng N tăng kéo theo giá hàng N tăng, trong khi giá hàng T chủ yếu phụ thuộc

vào giá

thế giới nên giá tương đối PN/PT tăng lên, điểm sản xuất dịch chuyển trên đường PPF từ

(b) về

phiá hàng N. (cid:6) PN/PT tăng cũng có tác động lôi kéo điểm tiêu dùng theo giá tương đối mới từ (c) về

(d) và vẫn

thuộc đường thị hiếu tiêu dùng của xã hội theo tỷ lệ cho trước giữa hai loại hàng T và N.

5 Từ hình 8, chúng ta sẽ đổi vị trí trục biễu diển hàng T và hàng N. Kết quả sẽ làm thay

đổi giá tương đối

thành PN/PT thay vì PT/PN

6 Mỗi trường hợp sẽ có hình vẽ và ý nghiã kinh tế riêng. Để đơn giản ta giả sử cả ba

trường hợp có thể được

thể hiện trên hình vẽ tương tự nhau (trường hợp một nước thu lợi từ việc khám phá và

khai thác mỏ dầu với

trữ lượng lớn chẳng hạn)

PN/PT

T

(b)

(c)

(d)

(a)

N

Cân bằng lý tưởng tiếp theo của nền kinh tế là điểm (d) trên hình vẽ. Đến đây ta vẫn chưa

thấy rõ

triệu chứng của căn bệnh vì điểm (d) cho thấy nền kinh tế có mức phúc lợi cao hơn điểm

(a) ban

đầu. Câu chuyện về căn bệnh Hà lan sẽ xuất hiện rõ hơn khi “các nguồn từ trên trời rơi

xuống”

không còn nữa. Kết quả là đường PPF’ sụp trở lại vị trí cũ (cũng có khả năng sụp thấp

hơn vị trí ban

đầu nếu như cú sốc quá lớn). Câu hỏi đặt ra bây giờ là điểm sản xuất có vị trí như cũ (a)

không?

Câu trả lời rỏ ràng là không. Điểm sản xuất mới tiếp theo giờ đây có thể là điểm (e) trên

đường

PPF lệch về phiá hàng N hoặc là điểm (f) nằm bên trong đường PPF vì:

Thứ nhất, nền kinh tế đã mất đi một số ngành T chưa hồi phục kịp do tỷ giá thực bị đánh

giá quá cao.

Thứ hai, do tỷ giá tương đối giữa hai hàng N và T tăng lên nên sản xuất có xu hướng sản

xuất nhiều hàng N hơn

Như vậy, sau khi các nguồn từ trên trời rơi xuống mất đi thì điểm sản xuất của nền kinh

tế tại (e)

trong khi điểm tiêu dùng lại ở (d) để lại hậu quả thâm hụt cán cân mậu dịch, PN/PT cao

hơn tại (e)

so với (a) chứng tỏ tỷ giá hối đoái thực e bị đánh giá quá cao.

Chính sách kết hợp:

Hình 10:

T

(d)

(a)

(e)

(f)

N

Nhằm tái lập trạng thái cân bằng và giải quyết căn bệnh phát sinh cần phải kết hợp các

chính sách

một cách đồng bộ nhằm vào các mục tiêu:

1. Hồi phục cán cân mậu dịch

2. Cắt giảm mức chi tiêu đang quá cao

Để đạt đồng thời hai mục tiêu này cần thực hiên kết hợp các chính sách theo lý thuyết: (cid:6) Phá giá để tăng và hồi phục ngành hàng T (cid:6) Cắt giảm chi tiêu bằng cách kết hợp cả hai hoặc áp dụng từng chính sách: chính sách

thu

chi ngân sách (G, T) và chính sách tiền tệ (MS, i)

Cuối cùng đưa (e) trở về (a) ban đầu.

Giải pháp này về mặt hình học xem ra có vẻ rất khả quan, nhưng cú sốc trong thực tế

không phải

dễ dàng giải quyết như vậy vì độ trễ của các chính sách, ngành hàng khôi phục cần có

thời gian,

phá giá phải theo những điều kiện của nền kinh tế, quán tính chi tiêu cao không thể thay

đổi nhanh

được.

Hàng có thể ngoại thương: Tradable Goods (T)

Hàng phi ngoại thương: Nontradable Goods (N)

Cân bằng bên trong: Internal Balance (IB)

Cân bằng bên ngoài: External Balance (EB)

Chi tiêu trong nước: Domestic Absorption (A)

Tỷ giá hối đoái thực: Real Exchange Rate (RER, PT/PN)

Của từ trên trời rơi xuống: “Wind Falls”

Căn bệnh Hà lan: Ducth Disease

Câu hỏi và bài tập:

1. Hãy phân biệt hai loại hàng hoá của mô hình?

2. Thế nào là cân bằng bên ngoài và cân bằng bên trong?

3. Các chính sách thường được sử dụng trong mô hình là gì? Giải thích cơ chế của từng

chính

sách?

4. Hãy kể tên bốn vùng chính sách của mô hình?

5. Căn bệnh Hà lan là gì?

6. Bạn hãy minh hoạ căn bệnh Hà lan bằng đồ thị và nêu các chính sách ứng dụng nhằm

góp phần

giải quyết căn bệnh này?

7. Hãy thu thập số liệu về tình hình kinh tế Việt Nam có liên quan đến mô hình như: lạm

phát, tỷ

lệ thất nghiệp, tình trạng cán cân thương mại… và định vị tình trạng nền kinh tế tại một

điểm

tương ứng trên đồ thị thuộc bốn vùng chính sách ở một năm nào đó.

a/. Các chính sách về mặt lý thuyết nào có thể áp dụng nhằm kéo nền kinh tế về trạng thái

cân

bằng lý tưởng? Giải thích tại sao?

b/. Chính sách cần được áp dụng theo quan điểm của bạn?

Tài liệu tham khảo:

M. Gillis, D. H. Perkins et al. , Kinh tế học Phát triển, xuất bản lần 4, Chương 20: Quản

nền Kinh tế Mở, 1996.

Sachs và Larrain, Kinh tế học Vĩ mô cho Nền kinh tế Toàn cầu, Chương 21: Hàng

Ngoại thương và Hàng phi ngoại thương, 1993