intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Quan niệm Ủng lưu phản tào

Chia sẻ: Trương Thị Hồng Dịu | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:26

230
lượt xem
21
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mời các bạn cùng tham khảo nội dung tài liệu "Quan niệm Ủng lưu phản tào" dưới đây để nắm bắt những nội dung đôi nét về tác giả La Quán Trung và tác phẩm Tam quốc diễn nghĩa, quan niệm ủng lưu phản tào, biểu hiện của tư tưởng ủng lưu phản tào trong Tam quốc diễn nghĩa,... Hy vọng đây là tài liệu tham khảo hữu ích cho các bạn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Quan niệm Ủng lưu phản tào

  1. MỤC LỤC: 1. ĐÔI   NÉT   VỀ   TÁC   GIẢ   LA   QUÁN   TRUNG   VÀ   TÁC   PHẨM  “TAM  QUỐC   DIỄN   NGHĨA”  ..................................................................................3 Tác 1.1.   giả   La   Quán   Trung   ……………………………………………………..3 Tác   phẩm   “Tam   1.2. quốc   diễn   nghĩa”   ………………………………………….3 Nguồn 1.2.1.   gốc…... ………………………………………………………………4 Nội   1.2.2. dung……………………………………………………………………..5 2. QUAN NIỆM “ỦNG LƯU PHẢN TÀO”…………………………………… 6 Tóm   lược   bối   cảnh   thời   kỳ   Tam   quốc…. 2.1. …………………………………….6 2.2.Khái   niệm   “Ủng   Lưu   phản   Tào”……………………………………………6 1
  2. 2.3. Nguồn gốc của tư  tưởng “Ủng Lưu phản Tào” trong “Tam quốc   diễn   nghĩa”.............................................................................................................7 3. BIỂU HIỆN CỦA TƯ TƯỞNG “ỦNG LƯU PHẢN TÀO” TRONG “TAM  QUỐC   DIỄN   NGHĨA”……………………………………………………… 8 Lư u 3.1.   Bị   và   Tào   Tháo   ………………………………………………………....9 3.2. Biểu   hiện   của   “Ủng   Lưu   phản   Tào”  trong   “Tam   quốc   diễn   nghĩa”………11 Tào Tháo ­ kẻ  gian hùng đi ngược với tư  tưởng chính thống …….. 3.3. ……….17 4. NGHỆ  THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG  “TAM QUỐC DIỄN   NGHĨA” …………………………………………………………………...19 5.   PHÂN BIỆT  GIỮA  HÌNH TƯỢNG VĂN HỌC VÀ LỊCH SỬ  ĐÊ CÓ  CÁI   NHÌN   KHÔNG   PHIẾN   DIỆN   VỀ   TƯ   TƯỞNG,   NHÂN   VẬT  TRONG  “TAM   QUỐC   DIỄN   NGHĨA”  …………………………………………..…21 6. KẾT LUẬN……………………………………………………………...…23 2
  3. 1.    ĐÔI NÉT VỀ  TÁC GIẢ  LA QUÁN TRUNG VÀ TÁC PHẨM  “TAM       QUỐC DIỄN NGHĨA” 1.1.   Tác giả La Quán Trung  La Quán Trung tên là Bản, tên chữ  là Quán Trung, lại có biệt hiệu là "Hồ  Hải   tản nhân" có thể là người Thái Nguyên. Ông sinh vào cuối đời Nguyên, mất vào  đầu đời Minh,  ước chừng vào khoảng năm 1300 đến năm 1400 giữa thời thống  trị  của nhà Nguyên Thuận Đế  (Thỏa Hoàng Thiếp Mộc Nhĩ) và Minh Thái Tổ  (Chu Nguyên Chương ), có thuyết còn nói rõ rằng ông sinh năm 1328 và mất  năm 1398. La Quán Trung xuất thân từ  một gia đình quý tộc, tuổi thanh niên ông nuôi chí  phò vua giúp nước; song lúc đó, triều đình nhà Nguyên đang suy tàn, ông bỏ  đi  phiêu lãng nên có biệt hiệu là Hồ Hải tản nhân. Ông là một trong những người  "có chí mưu đồ sự nghiệp bá vương", tiếc rằng tình hình tường tận thế nào nay   không thể biết rõ được. La   Quán   Trung   tương   truyền   từng   tham   gia   cuộc  khởi   nghĩa   chống   nhà  Nguyên của Trương Sĩ  Thành. Sau khi Trương Sĩ  Thành  thất bại, Minh Thái  Tổ Chu Nguyên Chương lên ngôi, thống nhất Trung Hoa, ông lui về quy ẩn, sưu   tầm và biên soạn tiểu thuyết dã sử. Ông rất có tài văn chương, rất giỏi về từ khúc, câu đối, lại viết cả các loại kịch,  nhưng   nổi   tiếng   nhất   là   về tiểu   thuyết.   Ông   là   tác   giả   của   cuốn   tiểu  thuyết “Tam quốc diễn nghĩa” và còn có thuyết cho rằng: La Quán Trung cũng là  một người tham gia soạn và chỉnh biên tác phẩm “Thủy Hử”, đó là hai cuốn tiểu  thuyết trong “Tứ đại danh tác” – bốn tác phẩm nổi tiếng nhất trong  văn học cổ  điển Trung Hoa. Nhiều sử gia văn học không chắc chắn rằng hai người này là  một hay là tên Thi Nại Am được dùng làm bút danh của “Thủy Hử” vì tác giả  không muốn bị dính líu vào việc chống chính phủ như trong tác phẩm này. Ông  cũng là người đóng góp xuất sắc cho trường phái tiểu thuyết lịch sử đời Minh­ Thanh. 1.2.  Tác phẩm  “Tam qu   ốc diễn nghĩa”  “Tam quốc diễn nghĩa” nguyên tên là “Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa”, là  một tiểu thuyết lịch sử Trung Quốc được La Quán Trung  viết vào thế kỷ 14  kể  về  thời  kỳ  hỗn loạn Tam  Quốc (190­280) với khoảng 120 chương  hồi, theo   phương pháp “bảy thực ba hư”  (bảy phần thực ba phần hư  cấu). Tiểu thuyết   3
  4. này được xem là một trong bốn tác phẩm cổ  điển hay nhất của văn học Trung  Quốc. 1.2.1.  Nguồn gốc “Tam quốc diễn nghĩa” về  phương diện biên soạn chủ  yếu là công lao của La  Quán Trung, nhưng thực ra bộ  tiểu thuyết  này trước sau đã trải qua một quá  trình tập thể sáng tác lâu dài của rất nhiều người. Trước La Quán Trung, từ  lâu chuyện “Tam quốc” đã lưu hành rộng rãi  trong dân gian truyền miệng, các nghệ  nhân kể  chuyện, các nhà văn học  nghệ thuật viết kịch, diễn kịch, đều không ngừng sáng tạo, làm cho những  tình tiết câu chuyện và hình tượng các nhân vật phong phú thêm. Cuối đời Nguyên đầu đời Minh, nhà tiểu thuyết La Quan Trung đã viết  bộ “Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa” chính là đã dựa trên cơ  sở  sáng  tác tập thể  rất hùng hậu đó của nhân dân quần chúng. Dĩ nhiên trong khi   viết ông có tham khảo những bản ghi chép của các nhà viết sử và các nhà   văn khác (“Tam quốc chí” của nhà viết sử Trần Thọ, “Tam quốc chí chú”  của Bùi Tùng Chi), nhưng quan trọng hơn là phần thể nghiệm cuộc sống  phong phú của bản thân ông và tài năng văn học kiệt xuất của ông. Một trong những bản “Tam quốc diễn nghĩa” ra đời sớm nhất hiện nay  còn giữ  được là bản in năm Giáp Dần niên hiệu Hoằng Trị  đời Minh  (1494), năm Nhâm Ngọ  Gia Tĩnh (1522) gồm có 24 cuốn 240 tiết. Từ  đó  về   sau  (gần 300  năm)   nhiều bản “Tam quốc” đã lưu  hành, nhưng  nội  dung đều không có gì khác nhau lắm. Truyện “Tam quốc diễn nghĩa” của La Quán Trung so với bản truyện kể  của   đời nhà Nguyên, đại khái có mấy đặc điểm như sau: Tước bớt một số  phần mê tín, nhân quả  báo ứng và những tình tiết "quá  ư hoang đường". Viết thêm, làm nội dung cuốn truyện phong phú thêm rất nhiều, tô vẽ tính  cách và hình tượng nhân vật cho sâu sắc, đậm nét hơn. Nâng cao ngôn ngữ  đến mức nghệ  thuật, tăng cường thêm sức hấp dẫn  của nghệ thuật. Làm nổi bật lên một cách rõ ràng và mãnh liệt nhân dân tính và xu hướng   tính văn học là yêu Lưu Bị, ghét Tào Tháo, hướng về nước Thục chống  lại nước Ngụy trong toàn cuốn sách. 4
  5. Nói tóm lại, La Quán Trung đã đem những phần phong phú trong truyện “Tam  quốc” mà nhân dân quần chúng và những nghệ  nhân kể  chuyện đã sáng tác ra,  nâng cao lên thành một tác phẩm văn học lớn lao nổi tiếng. Đầu   đời   Thanh,   hai   cha   con Mao   Luận, Mao   Tôn   Cương (người Tràng  Châu, tỉnh Giang Tô) lại bắt đầu tu đính truyện “Tam quốc diễn nghĩa”. Công  việc tu đính này hoàn thành vào khoảng năm Khang Hy thứ 18 (1679). Mao Tôn Cương đã gia công, thêm bớt, nhuận sắc những chi tiết nhỏ, sắp xếp   lại các hồi mục, câu đối, sửa chữa lại câu, lời trùng hoặc những chỗ chưa thỏa   đáng. Ông đã tước bỏ  rất nhiều những chương tấu, những bài bình luận, tán  rộng trong phần chú thích, thay đổi một số câu thơ lẫn lộn văn kể với văn vần,   v.v... và thêm vào đó những lời bàn, dồn 240 tiết thành 120 hồi, lại đặt cho  bộ “Tam quốc diễn nghĩa” cái tên là "cuốn sách đệ nhất tài tử". Làm cho truyện  càng hoàn chỉnh, văn kể  trong sáng, gọt giũa, trên một mức độ  nào đó cũng đã  làm tiện lợi cho mọi quần chúng độc giả. Từ đó, bản của  Mao Tôn Cương thay  bản của La Quán Trung, tiếp tục được lưu truyền rộng rãi. Năm 1958, Nhân dân Văn học Xuất bản xã Bắc Kinh đã chỉnh lý lại nhiều, bằng   cách dựa vào bản của Mao Tôn Cương hiệu đính rất kỹ  từng câu, từng chữ,  từng tên riêng có đối chiếu với bản của La Quán Trung rồi sửa chữa lại những  chỗ  mà bản của Mao Tôn Cương đã sửa hỏng, sửa sai với nguyên bản của La  Quán Trung, nhưng nói chung vẫn giữ nguyên bộ mặt của bản Mao Tôn Cương.   Còn những tên lịch sử đặc biệt như tên người, tên đất, tên chế  độ... nếu cả hai  bản trên đều sai, thì hiệu đính lại theo sử sách. Nên các lần in sau hầu hết đều   lấy theo bản in này. 1.2.2. Nội dung  Một trong những thành công lớn nhất của “Tam quốc diễn nghĩa” là tính chất  quy mô, hoành tráng của cốt truyện và nhân vật. Bộ tiểu thuyết này có thể chia   thành rất nhiều  "truyện nhỏ"  mà đa phần trong số  đó có thể  hoàn toàn dựng   được thành những bộ phim truyện theo đúng nghĩa. Do vậy mà phần sau đây chỉ  cố  gắng tóm tắt hết sức sơ  lược toàn bộ  truyện theo những nét chính yếu mà  không đi vào chi tiết nhân vật và sự kiện. “Tam quốc diễn nghĩa” tái hiện lại một thế kỷ loạn lạc điên đảo do tham vọng  tranh giành quyền lực và lãnh thổ  của các đế  vương Trung Hoa gây ra.Tuy về  chi tiết có chỗ  tác giả  sáng tạo lại, hư cấu thêm, nhưng khuynh hướng cơ  bản   cũng như các sự kiện quan trọng thì căn bản phù hợp với sự thực lịch sử. Đó là  bộ  mặt thật của xã hội thời Tam Quốc, cũng là bộ  mặt quen thuộc của xã hội   Trung Hoa. Phân rồi hợp – hợp rồi phân, vốn là tình huống lặp đi lặp lại hầu   5
  6. như đã thành quy luật. Tham vọng bành trướng thế  lực và lãnh thổ  của vương  hầu khanh tướng Trung Quốc đã gây ra cục diện chiến tranh liên miên, đất nước  điêu linh, nhân dân khốn khổ. “Tam quốc diễn nghĩa” một tác phẩm được tiếp sức từ dã sử và truyền thuyết   dân gian để lại cho hậu thế một điển hình có một không hai về  giai cấp thống  trị Trung Quốc. 2.  QUAN NIỆM  “   ỦNG LƯU PHẢN TÀO”    2.1.  Tóm lược bối cảnh thời kỳ Tam quốc  Trung Quốc thời kỳ từ  năm 190 đến năm 220  được đánh dấu bởi sự  hỗn loạn  của các cuộc giao tranh giữa các phe phái trong rất nhiều khu vực trên lãnh thổ  Trung Quốc. Phần giữa của giai đoạn này, từ năm 220 đến năm 263, được đánh  dấu bằng sự  giao tranh quân sự  và ngoại giao của ba quốc gia thù địch còn lại  là  Ngụy, Thục và Ngô. Phần cuối cùng của thời kỳ  này được đánh dấu bằng  việc Ngụy tiêu diệt Thục (năm263), nhà Tây Tấn thay thế  Ngụy (năm265) và  Tấn tiêu diệt Ngô (280). Thời kỳ Tam quốc này cũng là một trong những thời kỳ đẫm máu nhất trong lịch   sử   Trung   Quốc.   Điều   tra   dân   số   cuối   thời   kỳ nhà   Đông   Hán cho   con   số   là  khoảng 56 triệu người, trong khi  đó  điều tra dân số  trong thời  kỳ   đầu  nhà  Tây Tấn (sau khi Tấn thống nhất Trung Quốc) chỉ còn khoảng 16 triệu người.  Cho dù con số  thống kê có thể  có sai số  lớn nhưng hoàn toàn đủ  cơ  sở  để  nói  rằng phần lớn dân số  đã chết trong thời kỳ  này vì các cuộc chiến tranh liên  miên. 2.2.   Ủng Lưu phản Tào”     Khái  niệm  “ Khi xét đến tư  tưởng  “Ủng Lưu phản Tào”  trong “Tam quốc diễn nghĩa”  nói  riêng và trong truyền thuyết dân gian nói chung, nghĩa là chúng ta đang xét đến  hai thế  lực hoàn toàn đối lập nhau trong thời Tam quốc đó là Tào Tháo và Lưu   Bị, là tập đoàn Tào Ngụy và tập đoàn Lưu Thục (riêng Đông Ngô chỉ được xem  là lực lượng trung gian giữ vai trò là đối tượng tranh thủ của cả hai phía). Trong   tư  tưởng  “Ủng Lưu phản Tào”  thì Tào Ngụy được cho là tập đoàn phi nghĩa,  còn Lưu Thục lại được xếp vào tập đoàn chính nghĩa vì đấu tranh để khôi phục   6
  7. lại vương quyền nhà Hán. “Ủng Lưu” là theo về  Lưu Bị, đứng trên lập trường  đối đầu với phe Tào Tháo. Tuy nhiên cần thấy rằng, trong “Tam quốc diễn nghĩa”,  việc đề  cao Lưu Bị  không đơn thuần chỉ  vì Lưu Bị  là dòng dõi nhà Hán mà còn vì Lưu Bị  gần gũi  với nhân dân, có những chính sách đường lối đáp  ứng được nguyện vọng của   người dân. Khuynh hướng đề  cao Lưu Bị  và mạt sát Tào Tháo đã có từ  rất lâu  trong dã sử  và truyền thuyết dân gian. Nó thể  hiện nguyện vọng của nhân dân  về  một ông vua tốt, một triều đại mà vai trò của người dân được đặt lên hàng  đầu. La Quán Trung đã tiếp thu khuynh hướng đó trong tình cảnh nhân dân đang   bị  quân Mông Cổ  thống trị, đời sống nhân dân đói khổ. Vì thế  khuyng hướng   “Ủng Lưu phản Tào” còn bao hàm ý thức dân tộc và tinh thần yêu nước. Lưu Bị  không còn là một ông vua cụ thể của thời Tam quốc nữa mà trở thành một hình   tượng tượng trưng cho một vì minh chúa. Triều đình Lưu Thục cũng không còn  là một chính quyền cụ thể nữa mà thành hình ảnh tượng trưng cho giang sơn xã   tắc. Nói tóm lại, “Ủng Lưu phản Tào” là một tư tưởng không chỉ  của riêng La  Quán Trung mà là một tư  tưởng thể  hiện niềm tin,  ước mơ, sự   ủng hộ  hết mực của nhân dân dành cho Lưu Bị nói riêng và Lưu Thục – tập đoàn   chính nghĩa đã thể  hiện được quan điểm chính thống và quan điểm sung  bái đạo nghĩa, nhân đức để  chống lại Tào Ngụy – tập đoàn phi nghĩa đã  làm những việc trái lại đạo lý chính thống mà Tào Tháo là đại diện lớn  nhất. 2.3.   Ủng Lưu phản Tào”  trong  Nguồn gốc của tư tưởng  “     “Tam qu   ốc diễn    nghĩa” Qua sách sử Trung Hoa, đời Bắc Tống đã có người ghi lại một đoạn bút ký nói  rằng: “Những trẻ em trong xóm ngõ, thường xúm lại nghe kể truyện Tam Quốc,   thấy nói đến Lưu Bị thua thì cau mày không vui, có em khóc. Thấy kể Tào Tháo   bại thì khoái chí reo mừng". Đọan bút ký đã cho ta biết ngay cả  trước khi tập   “Tam Quốc diễn nghĩa” của La Quán Trung ra đời, dân chúng đã có một nhận  xét riêng của họ: Yêu mến Lưu Bị và ghét sợ Tào Tháo. 7
  8. Tâm lý yêu mến Lưu Bị và ghét sợ Tào Tháo gây ra bởi hai nguyên nhân: Quan niệm chính trị  của người Đông Phương căn bản là sùng bái nhân  nghĩa đạo đức, triệt để bài bác quyền thuật cơ mưu. Chịu ảnh hưởng của bọn học phiệt có tư tưởng chính thống và đạo thống. Như vậy thì bộ  “Tam quốc diễn nghĩa” tuy phương diện biên soạn chủ yếu là  công lao của La Quán Trung, nhưng sự  thực bộ  tiểu thuyết này đã có một quá   trình sáng tác của nhiều người.  Ở  “Tam quốc diễn nghĩa” ta còn thấy nhà văn  La Quán Trung sử dụng đến mức tuyệt diệu nghệ thuật văn học để làm nổi bật   hai bộ  mặt thiện, ác tương phản của Tào và Lưu, cùng khơi sâu tâm lý yêu Bị  ghét Tháo vẫn sẵn có từ trước. Về vấn đề  tại sao La Quán Trung lại tiếp thu quan điểm “Ủng Lưu phản Tào”  để viết “Tam quốc diễn nghĩa”, xây dựng nên nhân vật Lưu Bị và Tào Tháo có   sự  khác biệt với lịch sử  thì có thể  tham khảo nhận định sau. Ban biên tập của  nhà xuất bản Trung Quốc viết:   “Tam quốc chí diễn nghĩa”  khác hẳn với  những sách viết về khoa học xã hội. Nhiệm vụ của nó không phải là trình  bày bình luận hoặc phân tích một cách khách quan trên một số  vấn đề  lý  trí, mà là dùng nghệ thuật sáng tạo để làm cảm động người đọc, trực tiếp   đánh vào tình cảm người đọc". Đối với La Quán Trung thì tiểu thuyết viết Tào Tháo không phải là tạo ra nhân  vật lịch sử Tào Tháo nguyên hình như cũ, mà là mượn nhân vật lịch sử để sáng   tạo ra hình tượng nhân vật và tính cách điển hình rất phong phú phức tạp. Nói   một cách khác, trong truyện viết Tào Tháo không phải chỉ là viết Tào Tháo thực  trong lịch sử  mà là viết ra rất nhiều Tào Tháo trong lịch sử. Chủ  yếu của tiểu   thuyết là sáng tạo ra một nhân vật điển hình để  vạch rõ thói hung tàn nham  hiểm của bọn thống trị  phong kiến, để  cho nhân dân quần chúng nhận thức   được một cách cụ thể. Tức là đem tất cả những hình tượng tàn ác, bản chất xấu   xa bỉ ổi của thống trị phong kiến tập trung lại, khái quát lên, sáng tạo ra cái nhân   vật phản diện Tào Tháo. Phản  ảnh như  vậy so với cách trực tiếp bộc lộ  càng  sâu sắc hơn, so sánh với trực tiếp tố cáo, tư tưởng tính càng mạnh mẽ hơn, đó là   một sự thống nhất hoàn chỉnh giữa tư tưởng và nghệ thuật tính rất cao vậy. 8
  9. 3.     ỦNG   LƯU   PHẢN   TÀO”   TRONG  BIỂU   HIỆN   CỦA   TƯ   TƯỞNG   “      “TAM QUỐC DIỄN NGHĨA” Trước khi xem xét các biểu hiện của tư tưởng trên thì nhóm chúng tôi xin lưu ý  là đang bàn đến những biểu hiện cụ  thể  của tư  tưởng   “Ủng Lưu phản Tào”   trong tác phẩm “Tam quốc diễn nghĩa” chứ không đi sâu vào bàn luận mặt đúng  sai, chấp nhận hay không chấp nhận con người Tào Tháo hay Lưu Bị. Và  thiết  nghĩ cần tìm hiểu về thân thế, tính cách, quan điểm nhân sinh , quan điểm chính  trị của hai vị chủ tướng Tào Tháo và Lưu Bị để từ đó nắm được phần nào lý do  của sự “Ủng Lưu” và “ Phản Tào”. 3.1.  Lưu Bị và Tào Tháo  3.1.1. Lưu Bị Tư tưởng xuyên suốt trong “Tam quốc diễn nghĩa” của La Quán Trung là “Ủng   Lưu phản Tào” trên cơ sở đó mà khẳng định chính quyền Thục Hán. Hình ảnh  Lưu Bị là ông vua anh minh biết yêu thương trăm họ, là nhân vật gửi gắm nhiều   ước vọng của tác giả.  Xuất thân: Gia đình xuất thân là dòng dõi vua quan nhưng đến đời Lưu Bị  thì gia đình đã phá sản, ông làm nghề đóng dép, dệt chiếu kiếm ăn. Lưu Bị  mồ côi cha từ sớm.  Ngoại hình:   Được tác giả  miêu tả  là người có dáng dấp ánh hùng hứa   hẹn làm nên việc lớn. Con người đó “mình cao tám thước, hai tai chảy   xuống gần vai, hai tay buông khỏi đầu gối, mặt đẹp như  ngọc, môi đỏ   như  son”. Ấn tượng về  Lưu Bị  là người anh hùng không thích đọc sách,   tính ôn hoà, ít cười nói, mừng giận không hề  lộ  ra mặt, có trí lớn, thích   kết giao với những tay hào kiệt trong thiên hạ. Bởi thế  Lưu Bị  tuy mới   xuất hiện trên vũ đài chính trị chưa làm nên công trạng gì nhưng được Tào   Tháo quả  quyết:  “Anh hùng trong thiên hạ  chỉ  có Sứ  quân (Lưu Bị) và   Tháo mà thôi”.  9
  10. Quan điểm chính trị và nhân sinh: Phương châm quán triệt mọi hành động   của Lưu Bị là “dĩ nhân vi bản” (lấy nhân làm gốc). Bởi Lưu Bị từng nói  “thà ta chết, chứ không làm điều phụ  nghĩa” đối lập hẳn với quan điểm  sống của Tào Tháo. Lưu Bị  nhờ  có lòng nhân từ  rộng lượng, thương dân  yêu lính cho nên từ hai bàn tay trắng ông làm đến Hán Trung Vương, lên  ngôi Hoàng đế  và chia ba thiên hạ. Nhân tố  chủ  yếu để  Lưu Bị  giành  thắng lợi chính là đạo “nhân hoà”. Hình tượng nhân vật Lưu Bị trong tác  phẩm đã vượt qua con người Lưu Bị  trong lịch sử  thể  hiện lý tưởng,   nguyện vọng của nhân dân về một ông vua chân chính, về một người anh   em bằng hữu hết lòng vì bạn bè.  Bí quyết thành công của Huyền Đức nằm trong hai chữ  “Nhân Hòa”.  Trong  đoạn trường gây dựng sự nghiệp, có thể có nhiều điều Lưu Bị phải nhờ Khổng   Minh chỉ cho. Song, hai chữ “Nhân Hòa” thì Lưu Bị không phải đợi đến Khổng  Minh, mà điều đó đã là máu thịt của Lưu Bị  vậy. Lưu Bị là  “Nhân Hòa”, “Phi   Nhân Hòa bất thành Lưu Bị”. Vì thế, khi nghe Khổng Minh nói: "Tào Tháo ở  phía Bắc có Thiên Thời, Tôn Quyền  ở  phía Đông có Địa Lợi, chúa công  ở giữa   nên lấy Nhân Hòa.” Lưu Bị  đã thấy ngay mình gặp được Khổng Minh như  cá  gặp nước.  Hạn chế:  Nhân vật Lưu Bị  được La Quán Trung xây dựng vượt xa bộ  mặt thật của lịch sử và đặc điểm thời đại cho nên có phần mơ hồ và tính  chân thực bị  giảm sút. Cũng chính Lỗ  Tấn nhận định  “muốn Lưu Bị  là   người có nhân có đức mà hình như giả dối” . Thêm nữa Lưu Bị dù làm vua  nhưng tình cảm riêng tư còn nhiều bởi vậy mà muốn báo thù cho em vứt  bỏ  chủ  trương “liên Ngô kháng Tào” dẫn đến việc 40 doanh trại tại Hào  Đình phút chốc ra tro, cơ nghiệp Thục Hán sụp đổ từ đó. Tác giả La Quán  Trung bị chi phối bởi điều kiện lịch sử xã hội lúc bấy giờ cho nên không  thể xây dựng được một ông vua nhân từ đức độ trong xã hội đen tối. Trái   lại ông lại có thể  xây dựng hàng trăm nghìn nhân vật điển hình như  Tào  Tháo, vì hiện thực xã hội lúc bấy giờ cho phép ông khái quát hết sức chân   thực bộ mặt tàn ác giả dối của tập đoàn phong kiến thống trị.  10
  11. 3.1.2. Tào Tháo Xuất thân: Tào Tháo (155 – 220) tự là Mạnh Đức, là nhà chính trị, quân sự  kiệt xuất cuối thời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người đặt  cơ sở cho thế  lực quân sự cát cứ ở  miền Bắc Trung Quốc, lập nên chính  quyền Tào Ngụy thời Tam Quốc. Ông được con trai truy tôn là Thái tổ Vũ  Hoàng Đế. Tào Tháo là người đã có công lớn trong việc dẹp loạn “Khăn  vàng” và Đổng Trác. Tuy nhiên, hình ảnh về ông không được các nhà nho  học  ưa thích và thường được mang ra làm biểu tượng cho sự  dối trá, vô  liêm sỉ. Ông còn là một nhà thơ xuất sắc. Ông và hai con trai Tào Phi, Tào  Thực được đời sau gọi là Tam Tào, cùng với nhóm Kiến An thất tử và nữ  sĩ Thái Diễm hình thành nên trào lưu mới trong văn học thời Hán mạt, gọi  chung là Kiến An phong cốt. Tài   năng:  Trong  tiểu   thuyết “Tam  quốc   diễn   nghĩa”,  nhà  văn La   Quán  Trung ca ngợi Lưu Bị  và xem Tào Tháo là vai phản diện. Tào Tháo được  mô tả có hình dáng "cao 7 thước", "mắt nhỏ râu dài” và có những cá tính  khá nổi bật: gian xảo, đa nghi, tàn bạo nhưng cũng rất thông minh, nhiều   mưu mẹo quyền biến. Dù không  ủng hộ  Tào Tháo, coi ông là "giặc nhà   Hán"  nhưng La   Quán   Trung ­   qua   nhận   xét   của   những   nhân   vật   trong  truyện ­ không phủ  nhận vai trò của ông đối với giai đoạn lịch sử  loạn   lạc, thậm chí thừa nhận ông được nhân dân coi là ứng với "thiên mệnh": Hứa Thiệu ­ một người giỏi tướng số nhận định Tào Tháo:  “Thời   trị, ông là bầy tôi giỏi; Thời loạn, ông là kẻ gian hùng.” Tào Hồng liều mạng hộ  vệ  cho Tào Tháo rút lui khi bị  thua Đổng  Trác, trong lúc nguy cấp nói với ông: "Thiên hạ có thể không có tôi   nhưng không thể không có ông!" Quan điểm cá nhân:  Tào Tháo có quan  điểm:  “Thà ta phụ  người chứ   không để  người phụ  ta”. Quan điểm này biểu hiện tính cách ích kỷ  hại  nhân không chỉ của Tào Tháo mà còn là của tập đoàn thống trị phong kiến   mà Tào Tháo lại đại diện nổi bật. Quan điểm này hoàn toàn trái ngược   với chủ  trương của Lưu Bị: "thà chết chứ  không làm điều bất nghĩa",  chính vì vậy Tào Tháo luôn e dè và xem Lưu Bị là kẻ thù nguy hiểm nhất  của mình. Với quan niệm này, sau khi giết nhầm người nhà Lã Bá Sa vì   11
  12. thấy họ  mài dao giết lợn thì tưởng họ  định giết mình, ông đã nhẫn tâm   giết nốt Bá Sa vì sợ Bá Sa đi tố cáo. Quyền thuật về  chính trị  Tào Tháo thật sự  là một nhà quân sự  tài năng và cơ  mưu. Ông đã từng dùng rất nhiều cách xử trí tình hình quân biến. Mà được biết   đến nhiều nhất là các sự  kiện sau:  Dùng tóc thay thủ  cấp, mượn thủ  cấp để   mua lòng quân, không điều tra sự phản bội của thủ hạ, lấy lòng tướng… 3.2.   Ủng Lưu phản Tào”  trong “  Biểu hiện của  “    Tam qu   ốc diễn nghĩa”  Như đã  nói tư tưởng “Ủng Lưu phản Tào” thể hiện trong tác phẩm chủ yếu về  bề nổi, về phương diện tư tưởng của hai tập đoàn Ngụy – Thục mà đứng đầu  là Tào Tháo – Lưu Bị. “Ủng Lưu” là  ủng hộ  tôn thất nhà Hán,  ủng hộ  và yêu  mến những con người, những việc làm thể hiện “nhân đức – tài trí” mà Lưu Bị  và những quân thần bên mình đã được La Quán Trung xây dựng để  thể  hiện  điều đó. “Phản Tào” nghĩa là không chấp nhận, căm giận, và chống lại những  con người và việc làm đi ngược lại với quan điểm chính thống và quan điểm  sung bái nhân nghĩa, đạo lý của Tào Tháo và tập đoàn của ông. 3.2.1. Nhân dân ủng hộ Lưu Bị: Như đã nói ở  trên, Lưu Bị là một chủ  tướng luôn dùng chữ  “Nhân” để đối với  quân dân, cũng chính vì vậy mà trong “Tam quốc diễn nghĩa”  luôn vang vọng  tiếng nhân đức của Lưu Bị. Lưu Bị đi đến đâu, thì lo phủ dụ dân chúng, củng cố  nông lương, trị an đến đó. Từ đó, ông rất được lòng nhân dân các chốn, thậm chí   dân chấp nhận bỏ nhà cửa, đất đai tổ tiên mà đi với ông. Có thể dẫn ra đây vài  chi tiết tiêu biểu cho sự cộng hưởng giữa Lưu Bị và nhân dân. Ở hồi thứ bốn mươi mốt “Lưu Huyền Đức dắt dân qua sông…”: “Huyền Đức cho Tôn Càng và Giản Ung rao truyền với dân trong Phàn Thành   rằng, muốn đi qua Tương Dương thì bá tính trong thành đồng thanh hô lớn: ­   Bọn   tôi   dù   có   chết   cũng   quyết   lột   lòng   theo   Sứ   quân   mà   thôi. Rồi, kẻ cõng con người dắt vợ, cùng nhau xuống thuyền. Huyền Ðức khóc mà rằng: 12
  13. ­  Chỉ vì ta bất tài mà nhân dân phải chịu tai nạn…” Rồi khi từ Tương Dương di chuyển qua Giang Lăng, Huyền Ðức đưa bá tánh đi,  ông già bà cả con nít chậm chạp, mỗi ngày được chỉ mười dặm đường.  “Chư tướng có người khuyên:  ­  Tào Tháo thừa thế chiếm Phàn Thành nên quân nó đang hăng, đuổi thật gấp,   xin Chúa Công lưu bá tánh lại mà mang quân tới Giang Lăng cho kịp.  Huyền Ðức khảng khái nói  ­  Ta thà chết chứ không thể bỏ bá tính giữa đường để đi một mình cho đành.” 3.2.2. Các thuộc tướng vào sinh ra tử với Lưu Bị Đối với minh chủ Lưu Bị của mình, các tướng và quân sư đều rất trung thành và  cúc cung tận tụy, thậm chí không tiếc mạng mình vì Lưu Bị  và sự  nghiệp của   tập đoàn Thục Hán. 3.2.2.1.  Ngũ hổ tướng Sử sách không xác nhận khái niệm "ngũ hổ tướng" dưới quyền Lưu Bị thời Tam  Quốc. Các sử  gia khẳng định Triệu Vân không được đứng ngang hàng với 4 vị  tướng kia: Khi Lưu Bị xưng Hán Trung vương đã phong 4 chức vụ quân sự cao   nhất   cho   4   người: Quan   Vũ là   Tiền   tướng   quân, Trương   Phi là   Hữu   tướng  quân, Mã Siêu là Tả  tướng quân và Hoàng Trung là Hậu tướng quân, còn Triệu  Vân chỉ  là Dực quân tướng quân đứng dưới 4 người đó và chỉ  ngang hàng với  Giản Ung, My Trúc, Tôn Càn – những người có công lao kém Triệu Vân rất   nhiều. Dưới quyền Lưu Bị đương thời không có “ngũ hổ tướng”, khái niệm này  do nhà   văn La   Quán   Trung theo   dân   gian   truyền   lại   mà   đặt   (dẫn   từ   trang  Wikipedia). Về  Quan Vân Trường và Trương Dực  Đức:  Đây là anh em kết nghĩa  nhưng trên cả mức ruột thịt của Lưu Bị nên ngoài sự  tin tưởng còn có cả  tình cảm huynh đệ keo sơn. Ngay từ đầu cũng vì mến tấm chân tình và chí  13
  14. lớn của Lưu Bị mà hai người đã nguyện dấn thân đồng cam cộng khổ, lập  biết bao chiến công hiển hách. Quan Vũ: Xuất hiện từ hồi một “kết nghĩa vườn đào” đến hồi 77 ­ “Bỏ   mạng  ở  Mạch Thành”, suốt 77 hồi, tác giả  đã thêu dệt nhiều chiến công  lẫy lừng của vị  anh hùng chiến trận này. Chém đầu Hoa Hùng, quay trở  doanh trại về  khi chén rượu còn nóng (hồi 5); chém Nhan Lương, giết  Văn Sú ­ hai viên tướng của Viên Thiệu; dùng Thuỷ Chiến đánh bại Bàng  Đức kiêu hùng… Bên cạnh lòng dũng cảm La Quán Trung còn muốn tô  đậm cái nghĩa khí của Quan Vũ. Trung nghĩa ở đây được xét theo quan hệ  trên dưới. Tác giả  lặp đi lặp lại một số  sự  kiện nhằm nhấn mạnh lòng  trung nghĩa dũng cảm vô bờ của Quan Công: “Gương trung vằng vặc soi   trời bể ­ Nghĩa khí âm thầm nổi gió mưa…” trước sau đều trung thành với  nhà Thục Hán, đó là tình nghĩa của Quan Công. Khi thất thế  về  với Tào   Nguỵ, dù được đối đãi hậu hĩnh Quan Vân Trường vẫn hướng về Lưu Bị,   “thân  ở  doanh trại Tào mà tâm vẫn  ở  bên Lưu Bị”, cho đến khi sa cơ lỡ  vận bọn Đông Ngô dụ hàng, Quan Công vẫn một lòng một dạ “Ngọc khả  toái nhi bất khả cải kì bạch, trúc khả phần nhi bất khả huỷ kì tiết”  (Ngọc  tuy đập vụn được nhưng không sao đổi được sắc trắng, trúc đốt cháy  được nhưng không huỷ  được gióng thẳng). Kết nghĩa vườn đào, không  thay lòng đổi dạ, sống chết có nhau là tín nghĩa của Quan Vũ. Quan Vũ  trung thành với Lưu Bị, trung thành với lời thề kết nghĩa vườn đào nhưng   lại quy thuận Tào Tháo trong những điều kiện nhất định. Quan Vũ giải   cứu Tào Tháo tại Bạch Mã, chém hai tướng của Viên Thiệu, suýt nữa làm  Lưu Bị bỏ mạng tại doanh trại họ Viên; nhưng Quan Vũ lại hết lòng với   chị dâu, “quá ngũ quan chém lục tướng”.  Với   Trương   Phi:   Lòng   cương   trực   quyết   định   lối   sống   cương   trực.  Trương Phi sống ngay thẳng, đường hoàng, không dung hoà nhân nhượng,  không quanh co giấu giếm, thẳng như làn tên bắn, trong sáng như  gương  soi. Trương Phi cướp trên 150 con ngựa tốt của Lã Bố  vơí lý do hết sức   giản đơn:  “Sao tao cướp ngựa của mày thì mày biết tức, mày cướp Từ   Châu của anh tao sao mày không nói”. Cũng là những người anh em kết   nghĩa vườn đào nhưng quan niệm về  “nghĩa”  của Trương Phi rành rọt  14
  15. hơn Quan Vũ, dứt khoát hơn Lưu Bị. Quan Vũ hàng Hán chứ  không hàng  Tào, phân biệt Hán ­ Tào đã rõ nhưng Trương Phi còn phân bịêt rõ hơn,  ông quan niệm đã là kẻ trung thần thà chết không chịu nhục. Nếu Trương   Phi bị  khốn tại Thổ  Sơn thì chắc hẳn Trương Phi chịu chết chứ  không   chịu nương tựa Tào ­ hình ảnh Trương Phi là hình ảnh tuyệt đẹp của con   người thượng võ, người anh hùng biết kết hợp giữa mưu mô và sức lực.  Với các tướng còn lại trong “ngũ hổ tướng” như Hàn Trung, Mã Siêu thì  là do được cảm hóa từ chính cái nhân nghĩa, lòng kính trọng các bậc kiện  tướng trong thiên hạ  của Lưu Bị, chứ  không hẳn vì tình thế  phải quy   thuận, cũng đã hết sức hết lòng chiến đấu dưới trướng của Lưu Bị. Việc   Lưu Bị  phong cho những tướng vốn trước đối đầu với mình vào hạng   “ngũ hổ  tướng” thân cận đã chứng tỏ rõ nhất sự độ lượng và kính trọng   người tài của Lưu Bị. Với riêng Triệu Vân, một tướng mà ngay từ lần đầu mới gặp nhau, cả hai  người đã như  gắn bó từ  lâu. Về  sau Triệu Vân hết lòng trung thành với   Lưu Bị. Mà nổi bật nhất chính là chi tiết Triệu Vân một mình phá vòng   vây của Tào Tháo, hai lần đoạt con về cho Lưu Bị là A Đẩu (hồi thứ 41 và   61). Lưu Bị cũng chính trong lần đầu tiên ở hồi 41, sau khi Triệu Vân giữa   trận chiến Đương Dương Trường Bản, anh dũng giết chết 54 tướng, một  mình phò  ấu chúa vượt vòng vây quân Tào để  mang  ấu chúa về, thì Lưu  Bị  đã từng ném A đẩu xuống đất mà nói: “Vì đứa trẻ  này mà suýt làm ta  mất một đại tướng”.  Dù có ý kiến cho rằng đây chỉ  là  “chiêu trò”  của  Lưu Bị  hòng làm Triệu Vân cảm mến, nhưng suy cho cùng thì đấy cũng  xuất phát từ sự xem trọng đối với Tử Long. 3.2.2.2. Quân sư Về  Gia Cát Lượng, chỉ  cần diễn biến sự việc “Lưu Bị  ba lần đến lều cỏ” để  mời Gia Cát Lượng về  làm quân sư  cũng đủ  để  nói lên sự  kính trọng của Lưu   Bị. Chưa kể, trong suốt sự nghiệp binh đao của mình, Lưu Bị  luôn kính nể  Gia   Cát Lượng, gần như trong tất cả mọi phương kế (duy có lần Lưu Bị nhất quyết  15
  16. đánh Đông Ngô trả  thù cho Quan Vũ mà không nghe theo kế  sách của Gia Cát  Lượng). Sau này khi gần mất, Lưu Bị còn dặn con là Lưu Thiện phải kính trọng  Quân sư  như  cha đẻ  và giao công việc dang dở  cho Gia Cát Lượng đảm trách.  Gia Cát Lượng thì từ ngày rời lều tranh đã cống hiến hết tài sức phò tá Lưu Bị  và sau này khi cả minh chủ mất ông vẫn hết lòng lo cho an nguy của nước Thục   Hán. Trước và sau khi có Gia Cát Lượng thì Lưu Bị lần lượt có hai quân sư  đều rất   tài giỏi, là Từ Thứ và Bàng Thống. Với tất cả, Lưu Bị đều đối đãi bằng tất cả  lòng kính nể và trân trọng. Từ Thứ vì gian kế mà phải bỏ Lưu về Tào nhưng đã  từng thề “suốt đời không thi hành một kế nào cho Tào Tháo”. Lưu Bị chia tay và  gặp lại Từ Thứ đều rơi nước mắt trân trọng, lưu luyến. Bàng Thống cũng hết   sức giúp đỡ Lưu Bị, nhất là trong trận Xích Bích. Sau vì ganh hiềm với Khổng  Minh mà phải tử  trận. Nghe tin Bàng quân sư  mất, Lưu Bị  đã òa lên mà khóc  thương (hồi 63). 3.2.2.3.  Các tướng lĩnh các phe đối địch Không chỉ với các quân, tướng của mình mà với quân tướng các phe đối đầu, khi  chịu quy hàng hoặc bị  bắt, Lưu Bị  một là chịu hàng hai là tha cho đi rất nhiều.  Rồi đến các mưu sĩ phe khác cũng rất nhiều người tự quy về phe Lưu Bị vì mến   cái tâm đức của ông. Có thể dẫn ra đầy vài mưu sĩ đã quy hướng về Lưu Bị: Ở hồi 39, Khổng Dung đã từng thốt lên câu sau, khi nghe Tào Tháo muốn  kéo binh đánh Lưu Bị: “Ôi, kẻ  bất nhân lại đi đánh người nhân đức thì   tránh sao khỏi thảm bại?” Ở hồi 63, khi Lưu Bị thả Lãnh Bào:  “Ngụy Diên nói: Nếu chú công thả hắn ra, thế nào hắn cũng đi luôn không bao   giờ trở lại đâu.  Huyền Đức nói: ­ Ta lấy nghĩa đãi người, ắt người không phụ ta.” Ở hồi 58, Khi Lỗ Túc nghe với Bàng Thống tính sang Tào Tháo: 16
  17. “Lỗ Túc thất kinh vội can:   ­     Tiên sinh làm thế  chẳng khác nào ngọc tốt vứt vào xó rác. Vậy Túc này   khuyên tiên sinh nên qua Kinh Châu đầu Lưu Hoàng thúc, ắt tiên sinh được trọng   dụng   ngay.    Bàng Thống mỉm cười nói: ­       Nói đùa một câu  ấy chơi, chứ  ý ta cũng định sang Kinh Châu theo Huyền   Đức.” Ở   hồi   60,   ba   mưu   sĩ   Trương   Tùng,   Pháp   Chính,   Minh   Đạt   vốn   dưới   trướng của Lưu Chương, cũng đã tự nói lên những nhận định về Tào Tháo  và Lưu Bị như sau: Trương Tùng:  “Mình muốn  đem các châu huyện Tây Xương mà   dâng cho Tào Tháo, ai ngờ  hắn khinh người như  thế…”; “ Huyền   Đức khoan nhân đại độ  thế  này, ta nỡ  nào bỏ  cho đành..”; “ Tào   Tháo là đứa khinh hiền mạn sĩ, chỉ  có thể  cùng lo trong hoạn nạn,   không thể cùng hưởng trong thành công, vì thế tôi đã bỏ hắn…” Pháp Chính:  “Tôi biết Lưu Chương là kẻ  vô dụng, nên muốn tìm   đến Lưu Huyền đã lâu…” Minh Đạt: “Phi Lưu Huyền Đức thì không xong.” Hay  ở  hồi 65, khi Lý Khôi vốn trước dưới trướng Lưu Chương, nhưng   nay tự mình tìm đến Lưu Bị xin đi thuyết khách Mã Siêu. “Lưu Bị: ­    Nghe nói trước đây ông đã hết lời can gián Lưu Chương, sao hôm nay lại   theo ta? Lý Khôi nói: 17
  18. ­   Trước đây tôi can ngăn Lưu Chương là hết lòng vì chúa, trọn đạo làm tôi. Tôi   thấy sứ  quân nhân đức rải khắp đất Thục, sớm muộn gì việc lớn cũng thành,   nên tôi tìm đến quy hàng.” Ở hồi 39, Khổng Dung đã từng thốt lên câu sau, khi nghe Tào Tháo muốn  kéo binh đánh Lưu Bị: “Ôi, kẻ  bất nhân lại đi đánh người nhân đức thì   tránh sao khỏi thảm bại?” Và còn nhiều tướng quân, mưu sĩ khác nữa, cũng bỏ chủ cũ mà theo về Lưu Bị  vì cái nhân đức của Bị và cả tập đoàn “trí – dũng – đức” của phe Lưu Bị. Như  Hoàng Trung, Mã Siêu, Ngụy Diên, Nghiêm Nhan, Khương Duy… 3.3.  Tào Tháo ­  kẻ gian hùng trong  “Tam qu   ốc diễn nghĩa”  “Gian hùng mà không phải gian thần” (bản dịch của Phan Kế  Bính ­ Bùi Kỷ).  Đó mới là lối miêu tả qua tướng mạo nhìn người của chính tác giả với nhân vật  trung tâm của mình. Tuy thế, phải đến lúc mô tả  lối hành xử  khi đã cầm quân  của họ Tào, ngòi bút của La Quán Trung mới thể hiện được một cách xuất sắc  điều ông muốn nói. Nhưng cuối cùng với những việc làm tàn ác mà tác giả viết về Tào Tháo thì Tào   Tháo vẫn mang dáng vẻ  một kẻ  gian thần ác độc, một mẫu nhân vật có thể  khiến người đời phải khiếp đảm khi nghĩ đến ông ta. Tác giả  La Quán Trung  viết “Tam quốc diễn nghĩa” với quan điểm "chính thống" phò Hán Lưu mà tư  tưởng chủ  yếu được hình thành do  ảnh hưởng của học thuyết Khổng giáo kết  hợp với vài yếu tố của Phật giáo và Đạo giáo. Với ông, họ Tào không phải dòng  dõi họ  Lưu (Hán) nên được xem là đối nghịch với Lưu Bị  và người dòng dõi  Trung Sơn Tĩnh Vương. Đứng trên quan điểm tiến bộ, La Quán Trung nói lên   nguyện vọng của nhân dân được sống trong hòa bình và dưới triều của một ông  vua anh minh. Vì thế, đương nhiên kẻ đối nghịch là Tào Tháo phải được mô tả  như một tên gian thần. Có thể nói tư tưởng “Ủng Lưu phản Tào” đã được biểu  hiện ngầm ngay từ chính tư tưởng của La Quán Trung khi viết  “Tam quốc diễn   nghĩa” (chính xác là tiếp nhận và đồng tình với tư tưởng của nhân dân đã có từ  trước).  18
  19. Các giai thoại về Tào Tháo với châm ngôn "chết người": "Thà ta phụ người còn   hơn  để  người  phụ  ta".  Chẳng hạn, Tháo giết cả  nhà Lã Bá Sa, mượn  đầu  Vương Hậu để  yên bụng quân, giả  vờ  ngủ  say để  rồi giết cả  lính hầu, uống  rượu say rồi giết Lưu Phúc, đổ  tội rồi giết quan trông lương, giết cả  vạn bá  tính, giết Đổng Phi... hay tiêu biểu nhất là việc Tào Tháo vây đánh nhiều ngày  không sao phá được Lưu Bị và Đào Khiêm, bèn trút tức giận lên dân thường để  trả  thù cho cha. Ông ra lệnh tàn sát hơn 10 vạn người  ở  5 thành Thủ  Lự, Tuy  Lăng, Hạ Khâu, Bành Thành, Phó Dương cùng các hương trấn sở thuộc. Không  chỉ  bản dân 5 thành mà nhiều người dân  ở Thiểm Tây vì tránh nạn Lý Thôi,  Quách Dĩ kéo về đó cũng bị hại.  Tào Tháo cùng cái lực lượng võ trang của mình có tính chất phá hoại rất ghê  gớm khiến nhân dân khiếp sợ  và căm ghét. Ngay từ  lúc đầu, khi trấn áp quân  Hắc Sơn, quân Khăn Vàng đã thẳng tay tàn sát không biết ghê tay, về  sau khi   đánh Từ  Châu, tính chất cực kì tàn khốc lại được biểu lộ  rõ: “giết chết đến   mấy chục vạn gái trai ở Tứ Thủy làm cho nước không chảy. Các huyện Thủ Lự,   Huy lăng, Hạ  Khâu…đều bị  làm cỏ, chó gà cũng hết, ngoài đường không còn   người đi.”  Trong cái "bảy thực ba hư" của “Tam quốc diễn nghĩa”, tác giả mượn Tào Tháo  để  mô tả  một cách khái quát và sống động tính gian hùng, đa nghi, tàn ác, xảo  quyệt của giai cấp thống trị đương thời và của nhiều thời đại. Những việc làm của Tào Tháo như: chèn ép vua Hán đế, giết thái y Cát Bình,   treo cổ Đổng Quý Phi đang mang thai… đều làm cho người đọc có ác cảm với  Tào Tháo và thường hiểu rằng  đó là để  củng cố  quyền lực của mình bằng sự  tàn ác. Tất cả vì mưu đồ nghiệp lớn của kẻ hùng tài đại lược. Người đời Tấn là  Lục Cơ có nói: "Tuy công lao của Tào Tháo đầy khắp cả cõi Trung Hoa, nhưng   ông ta lại tàn ác vô cùng, dân chúng ai ai cũng oán ghét". Tào Tháo kỳ  thị  người hiểu rõ gan ruột mình mà Dương Tu, Tuân Úc sau này   đều là các nạn nhân. La Quán Trung đã dành trọn ác cảm với họ Tào qua bài hịch  hùng hồn do Trần Lâm soạn khi Viên Thiệu chuẩn bị khởi binh đánh Tào Tháo...   Phải chăng với tư tưởng chủ đạo của “Tam quốc diễn nghĩa”, ở Tào Tháo chữ  “nhân” ­ yếu tố đầu tiên của Ngũ thường, được xem là thiếu hụt hơn hết so với   19
  20. các mặt khác. Điều này không khó giải thích khi chứng kiến ác cảm với ông ta  của nhiều thế hệ người đọc. Chính vì La Quán Trung đã dùng cách tập trung hóa và điển hình hóa những mặt  gian ác của Tào Tháo nên từ đó tạo cho người đọc nghiêng về chiều hướng căm   giận, kinh sợ  về  nhân cách Tào Tháo. Biến Tào Tháo tiêu biểu cho tính cách  phản diện, là sự  phát triển cao hơn, sâu hơn cái tàn bạo của Đổng Trác và cái  tráo trở của Lữ  Bố. Cũng vì tính chất tàn bạo của Tào Tháo cùng tập đoàn ông  đại diện mà lòng nhân dân và nhiều bậc mưu sĩ mới ngã về  hướng Lưu Bị  với  tập đoàn lý tưởng của Lưu Bị, chống lại phe Tào Tháo. Ở hồi 39, Khổng Dung đã từng thốt lên câu sau, khi nghe Tào Tháo muốn  kéo binh đánh Lưu Bị: “Ôi, kẻ  bất nhân lại đi đánh người nhân đức thì   tránh sao khỏi thảm bại?”  Năm 208, khi Tào Tháo tấn công Kinh Châu, mấy chục vạn nhân dân Kinh   Châu, đồ đạc có đến hàng nghìn cỗ xe, thà rời bỏ quê hương theo Lưu Bị   chạy về Nam. Trận Xích Bích, thế của Tào vốn mạnh vì lòng quân, dân Kinh Châu đều   hướng về cả Lưu Bị chống lại Tào Tháo, đó là nguyên nhân then chốt.   Khi Quan Vũ đánh Phàn, Tương, nhiều nơi phía nma Hứa Xương khởi   binh chống lại Tào Tháo, hưởng  ứng Quan Vũ, không phải là không có   quan hệ với nguyên nhân với việc “ ủng Lưu phản Tào. Tào Tháo cưỡng bức nhân dân Hán Trung di chuyển xa, nhân dân rất oán   hận, đến khi Lưu Bị, Gia Cát Lượng lấy được Hán Trung, nhân dân so   sánh đôi bên và cuối cùng lòng vẫn mãi nhớ về Thục Hán. …… 4.  NGHỆ   THUẬT   XÂY   DỰNG   NHÂN   VẬT   TRONG   “TAM     QUỐC    DIỄN NGHĨA”  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2