SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

RÈN LUYỆN KĨ NĂNG HỌC VÀ

KHAI THÁC KIẾN THỨC ĐỊA LÍ

TRÊN BẢN ĐỒ Ở TRUNG TÂM GDTX

ĐẶT VẤN ĐỀ

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN.

Địa lý là ngành khoa học có phạm trù rộng lớn và mang tính ứng

dụng. Học tập và giảng dạy và nghiên cứu Địa lí đòi hỏi có những kĩ năng

nhất định. Trong số các kĩ năng Địa lí, có những kĩ năng cơ bản được vận

dụng phổ biến trong học tập và nghiên cứu Địa lí. Những kĩ năng này được

trang bị và rèn luyện ngay trong quá trình học tập Địa lí ở nhà Trường phổ

thông nhằm giúp người học dễ dàng tiếp thu kiến thức, hiểu biết sâu sắc,

nâng cao trình độ tư duy, khả năng thực hành Địa lí và phục vụ cho các kỳ

thi, đặc biệt là kỳ thi đối với những lớp cuối cấp.

Tuy nhiên việc rèn luyện kĩ năng Địa lí trong quá trình giảng dạy

trong nhà trường không phải là sự tóm tắt nội dung tri thức của khoa học Địa

lí. Ngoài những tri thức Địa lí mà môn học này còn bao gồm nhiều trí thức

khác giúp việc học tập, nâng cao hiểu biết thêm về những kiến thức tự nhiên,

KT - XH và những kĩ năng về bản đồ mà không một môn học nào đề cập tới.

Rèn luyện kĩ năng học và khai thác bản đồ không những giúp cho học

sinh lĩnh hội được kiến thức Địa lí một cách nhẹ nhàng, nhanh chóng và ghi

nhớ lâu bền mà còn là một phương tiện đặc biệt quan trọng để phát triển

năng lực tư duy nói chung và năng lực tư duy Địa lí nói riêng. Trong khi tập

sử dụng bản đồ, học sinh phải luôn luôn quan sát, tưởng tượng, phân tích,

đối chiếu, so sánh, tổng hợp, khái quát hoá, xác lập các mối liên hệ Địa lí tư

duy của các em luôn luôn hoạt động và phát triển.

Vậy rèn luyện kĩ năng học và khai thác bản đồ cho học sinh không

phải ngày một, ngày hai mà cả một quá trình lâu dài, phức tạp, liên tục từ

lớp này qua lớp khác, đòi hỏi nhiều công sức và sự phố hợp chặt chẽ giữa

các lớp nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng là biết sử dụng bản đồ như là một

nguồn cung cấp kiến thức mới ở Trường phổ thông.

Cương vị là một giáo viên giảng dạy ở TT GDTX bản thân tôi cũng

rất băn khoăn về việc rèn luyện kĩ năng bản đồ cho học sinh đặc biệt phù

hợp với đối tượng học sinh cũng như phù hợp với phát triển về KT - XH thế

giới bùng nổ về công nghệ thông tin. Thực vậy, với khuôn khổ đề tài này tôi

không có tham vọng đề cập tới tất cả các kĩ năng bản đồ của tất cả các loại

bản đồ trong dạy học Địa lí ở TT GDTX.

Bản thân là giáo dạy bộ môn Địa lí tôi đã mạnh dạn nêu một số kinh

nghiệm về kĩ năng bản đồ trong giảng dạy bộ môn Địa lí ở TT GDTX Tỉnh

Vĩnh Phúc để nhằm giúp học sinh khai thác kiến thức Địa lí có hiệu quả với

đề tài:

Rèn luyện kĩ năng học và khai thác kiến thức Địa lí trên bản đồ ở

Trung tâm GDTX.

II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.

1. Thực trạng.

Trong quá trình giảng dạy bộ môn Địa lí trong nhà trường, tôi nhận

thấy rằng việc khai thác kiến thức từ bản đồ, kĩ năng đọc, mô tả các đối

tượng Địa lí trên bản đồ của học sinh còn rất nhiều hạn chế số lượng học

sinh có kĩ năng khai thác kiến thức từ bản đồ không nhiều. Đa số học sinh

còn xem nhẹ việc học Địa lí từ bản đồ và việc khai thác kiến thức từ bản đồ

là không cần thiết, các em chỉ cần nhớ máy móc những kiến thức thầy cô

giảng bằng kênh chữ và cứ như thế các em sẽ nhớ kiến thức không sâu, một

thời gian không lâu sẽ quên ngay. Đây là một thực tế không thể phủ nhận

được.

Từ thực tế như hiện nay tôi đã cố gắng tìm ra phương pháp giảng dạy

học sinh phù hợp để học sinh có thể nắm kiến thức ghi nhớ lâu hơn và việc

khai thác kiến thức từ bản đồ trở thành kĩ năng, kĩ xảo trong mỗi học sinh.

2. Kết quả của thực trạng trên.

Là một giáo viên giảng dạy bộ môn Địa lí tôi đã cố gắng sưu tầm các

tài liệu, các loại bản đồ nhằm mục đích soạn thảo giáo án điện tử, sử dụng

bản đồ treo tường lập át lát Địa lí để bài học thêm sinh động, học sinh có thể

khắc sâu kiến thức hơn. Tuy nhiên tôi đã không ngừng học hỏi từ các đồng

nghiệp và áp dụng một số biện pháp nhằm cải thiện và khắc phục phương

pháp dạy học truyền thống từ trước nhằm nâng cao chất lượng học tập, đồng

thời đó cũng là cách đổi mới phương pháp trong việc dạy và học môn này.

Qua thực tế tôi nhận thấy kết quả thu được tương đối khả quan kể cả

giáo viên và học sinh đều nhận thấy rằng việc rèn luyện kĩ năng học và khai

thác kiến thức từ bản đồ cho học sinh là rất cần thiết. Từ đó học sinh có thể

nhận biết, đọc và mô tả khai thác tri thức từ bản đồ một cách dễ dàng. Từ

thực tế như vậy tôi xin được rút ra một vài kinh nghiệm nhỏ.

Do điều kiện, thời gian, nhiệm vụ chuyên môn và khuôn khổ đề tài tôi

áp dụng, tổng hợp thành kinh nghiệm trên cơ sở giảng dạy bộ môn Địa lí ở

TT GDTX Tỉnh Vĩnh Phúc. Để từ đó rèn luyện cho các em những kĩ năng

học và khai thác kiến thức trên bản đồ để học sinh chủ động hơn trong việc

lĩnh hội tri thức.

3. Phương pháp tiến hành.

Quá trình giảng dạy các bước như sau:

Bước 1: Phát hiện những hạn chế của học sinh khi học bộ môn Địa lí.

Bước 2: Áp dụng biện pháp cụ thể và sử dụng những hình ảnh minh

họa để kích thích những học sinh nhằm khắc phục những hạn chế của học

sinh.

Bước 3: Tổng hợp, đúc rút thành kinh nghiệm, biện pháp cụ thể.

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

I. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN.

Việc rèn luyện kĩ năng học và khai thác kiến thức Địa lí trên bản đồ

giúp cho học sinh lĩnh hội được kiến thức Địa lí một cách nhẹ nhàng, nhanh

chóng và ghi nhớ lâu bền. Chẳng hạn khi học về vị trí Địa lí của một châu

lục, nếu chỉ nghe một cách thụ động mà giáo viên mô tả thì khó mà lĩnh hội

và ghi nhớ được, nhưng nếu tự mình được xác định trên bản đồ các điểm cực

Bắc, cực Nam, cực Đông, cực Tây, tìm xem có những đại dương, những

biển những vịnh nào bao quanh, những châu lục nào tiếp cận…thì học sinh

sẽ hiểu được ngay và nhớ được lâu hơn vì đã qua một quá trình suy nghĩ, tìm

tòi, đối chiếu phân tích, so sánh. Cách học tập tích cực chủ động như vậy,

năm nay qua năm khác ở nhà Trường phổ thông, chẳng những phương pháp

học tập nghiên cứu Địa lí. Những kiến thức về Địa lí đại cương lĩnh hội gắn

với bản đồ dần dần sẽ hình thành nên trong kí ức của các em một cái “nền”

vững chắc trên đó sẽ được bồi bổ thêm những kiến thức mới mà các em tiếp

thu được trong học tập và trong cả đời sống.

Rèn luyện kĩ năng bản đồ phải qua nhiều bước, từ đơn giản đến phức

tạp, từ thấp lên cao. Cụ thể là qua 5 bước sau đay:

- Rèn luyện kĩ năng nhận biết, chỉ và đọc trên các đối tượng, Địa lí

trên bản đồ.

- Rèn luyện kĩ năng xác định vị trí Địa lí, mô tả từng yếu tố thành

phần của tự nhiện, KT – XH, chính trị được biểu hiện trên bản đồ.

- Rèn luyện kĩ năng xác định phương hướng, đo đạc bản đồ.

- Rèn luyện kĩ năng xác định các mối liên hệ Địa lí trên bản đồ

- Rèn luyện kĩ năng mô tả tổng hợp Địa lí một khu vực.

II. BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN.

Tuỳ theo đặc thù từng bài học, từng phần trong bài học cụ thể mà giáo

viên có thể chọn bản đồ phù hợp với nội dung bài học để nhằm khai thác sử

dụng đúng mục đích đạt hiệu quả cao. Ngoài ra giáo viên cần phải có kiến

thức về lĩnh vực tin học một cách thành thạo để thao tác soạn giáo án điện tử

một cách dễ dàng hơn và sử dụng tối đa các bản đồ đã có trong nhà trường

nhằm nâng cao kĩ năng bản đồ cho học sinh.

Sau đây tôi xin mạnh dạn đưa ra một số kĩ năng bản đồ trong dạy học

địa lí ở trung tâm GDTX Tỉnh Vĩnh Phúc:

1. Rèn luyện kĩ năng nhận biết chỉ đọc các đối tượng Địa lí trên

bản đồ.

Các đối tượng Địa lí được biểu hiện trên bàn đồ thuộc nhiều loại: tự

nhiên, KT-XH có những đối tượng biến đổi rất chậm không đáng kể (các đối

tượng Địa lí tự nhiên) bên cạnh đó có các đối tượng Địa lí biến động rõ ràng,

nhanh chóng (đối tượng Địa lí KT - XH) chính vì thế mà rèn luyện cho học

sinh kĩ năng, xác định trên cái “nên tự nhiên đó các đối tượng Địa lí thộc

những loại khác nhau”.

Kĩ năng nhận biết và đọc các đối tượng Địa lí trên bản đồ đơn giản,

nhưng rất cơ bản. Chính trên cơ sở nắm chắc kĩ năng này mà học sinh sẽ rèn

luyện các kĩ năng khác một cách thuận lợi hơn.

Vậy cách thức tiến hành mà trước hết giáo viên cần phải phát âm rõ

ràng, rành mạch địa danh vừa chỉ trên bản đồ, học sinh theo dõi trên bản đồ

treo tường, đối chiếu với lược đồ và SGK hoặc bản đồ trong át lát để tìm ra

đối tượng, sau đó giáo viên tiếp tục viết rõ ràng và bằng chữ to địa danh lên

bảng vào một góc riêng rồi phát âm lại một cách thong thả và chỉ định một

vài nhắc lại, sau đó học sinh ghi vào vở Địa lí. Qua đó học sinh vừa nghe,

vừa nhận, vừa phát âm, vừa viết, các giác quan đều hoạt động nên địa danh

dễ được ghi vào trí nhớ. Như vậy chúng ta mới chỉ đạt yêu cầu là làm cho

hoặc sinh đọc đúng và ghi nhớ địa danh.

Bước tiếp theo và cũng rất khó khăn là học sinh chỉ xem bản đồ và

làm thế nào để nhận biết và tìm ra đối tượng địa lí cần phải chỉ. Để giúp cho

học sinh nhận biết và tìm ra được dễ dàng các đối tượng địa lý trên bản đồ

thì giáo viên cho học sinh nắm được điểm hình thù hoặc kích thước của đối

tượng vằ đặt câu hỏi:

Giống cái ghì? Chẳng hạn, bán đảo Xcăngđinavi có hình thù như một

con hổ, bán đảo Apenin cùng với đảo XiXin giống như một chiếc ủng, bán

đảo Camsatka như chiếc đuôi của con cáo, Grơnlen là đảo lớn nhất thế giới

và có băng quanh năm, Việt Nam có hình chữ S. Liên Bang Nga là lãnh thổ

lớn nhất thế giới…

Tuy nhiên không phải là tất cả các đối tượng địa lí đều có những đặc

điểm dễ nhận thấy như vậy. Vì thế biện pháp trên cũng rất hạn chế.

Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy khi tách riêng một đối tượng địa lí và

vẽ lên bảng hoặc trên giấy, chẳng hạn một con sông, một hòn đảo, một cái

hồ, thì học sinh rất khó nhận ra. Sở dĩ như vậy là vì khi tri giác một đối

tượng địa lí trên bản đồ, người ta luôn luôn gắn nó với các đối tượng khác ở

xung quanh, nó luôn được tri giác trong mối quan hệ với các đối tượng khác,

trong “môi trường riêng” của nó. Tách nó ra và biểu hiện nó một cách riêng

lẻ thì nó sẽ trở nên khó nhận ra.

Ví dụ: Khi quan sát sông Vônga trên bản đồ, hình ảnh của nó luôn

luôn gắn với toàn bộ hệ thống các sông nhánh của nó, với đồng bằng Nga

nơi nó chảy qua, với biển Catxpi nơi của sông v.v. Nếu tách riêng sông

Vônga ra và vẽ lên bảng hoặc trên giấy chắc chắn nhiều người sẽ không

nhận ra.

Từ thực tiễn trên đây, có thể đi đến kết luận là để có thể dễ dàng nhận

biết và tìm ra một đối tượng địa lí trên bản đồ thi học sinh không phải chỉ

biết dựa vào đặc điểm hình thù, kích thước của nó mà còn phải dựa vào toàn

bộ khung cảnh xung quanh, nhận rõ vị trí của nó trong khung cảnh đó.

Chẳng hạn, muốn nhận biết dải Pirênê trên bản đồ Châu Âu. Học sinh phải

gắn nó với lãnh thổ nước Pháp và bán đảo Ibêrich, với Đại Tây Dương (vịnh

Gatxconhơ) và Địa Trung Hải, phải xác định vị trí của nó là nằm ở ranh giới

giữa bán đảo Ibêrich và lãnh thổ nước Pháp, trải qua từ bờ vịnh Gatxcônhơ

tới ven Địa Trung Hải. Hoặc giả, muốn nhận ra bán đảo Xcăngđinavi, học

sinh không chỉ lưu ý đến đặc điểm hình thù (trông tựa một con hổ), mà cả vị

trí của nó ở bắc châu Âu, giữa các biển Na Uy, Bắc Hải, Bantich và Baren.

Nói tóm lại, khi chỉ và đọc một đối tượng địa lý trên bản đồ, nếu học

sinh biết nhận xét đặc điểm hình thù, kích thước cũng khác ở xung quanh thì

không những các em sẽ ghi nhớ nó trên bản đồ, khắc sâu nó vào trí óc, mà

con nhớ được những đối tượng địa lí khác có liên quan, tự làm giàu thêm

vốn hiểu biết bản đồ của mình.

Điều này hết sức quan trọng, vì rằng càng ghi nhớ được nhiều đối

tượng địa lý trên bản đồ thì học sinh càng có nhiều điểm tựa để nhanh chóng

tìm ra được những đối tượng mà các em cần, nhưng chưa biết. Thật vậy, mỗi

khi phải tìm chỉ một đối tượng địa lí trên bản đồ thì bao giờ học sinh cũng

phải dựa vào những đối tượng mà các em đã biết. Chẳng hạn, khi đọc trong

SGK, học sinh được biết eo Gibranta trên bản đồ, các em phải dựa vào

những cái đã biết tức là bản dồ châu Âu đại tây dương, địa trung hải, các em

sẽ tìm xem địa trung hải thông với đại tây dương ở điểm nào, và như vậy là

các em sẽ tìm ra ngay eo Gibranta. Trong trường hợp các em chưa biết đại

tây dương và địa trung hải nằm ở đâu thì cac em chỉ còn một chỗ dựa ít ỏi,

đó là bản đồ châu âu. Trước hết phải xác định xem địa trung hải và đại tay

dương năm ở đâu đã rồi đó mới tiếp tục tìm ra eo Gibranta. Đương nhiên là

trong trường hợp này các em mất nhiều thời gian hơn.

Như vây, có thể nói càng tích luỹ được nhiều điểm tựa thị học sinh

càng dễ tìm ra đối tượng cần tìm trên bản đồ, tức là càng đọc bản đồ thành

thạo hơn. Việc hướng dẫn học sinh cách nhận biết, tìm ra và ghi nhớ các đối

tượng địa lí trên bản đồ như trình bày ở trên giúp các em luuon luôn củng cố

được cái cũ, nắm vững cái mới và không ngừng mở rộng vốn hiểu biết bản

đồ của minh.

Từ những điều đã nói trên đây có thể rút ra quy trình rèn luyện kĩ năng

nhận biết, chỉ và đọc các đối tượng địa lí trên như sau:

- Giáo viên đọc rõ ràng, rành mạch, chính sác địa danh và chỉ đối

tượng trên bản đồ treo tường.

- Cho học sinh đối chiếu tìm trên bản đồ trông SGK hoặc atlat.

- Giáo viên viết thật rõ ràng địa danh lên bảng đen ở một góc riêng.

- Yêu cầu một số học sinh phát âm lại rõ ràng, to tát địa danh, và khi

cần, cho phát âm tập thể.

- Yêu cầu học sinh ghi chép chính xác địa danh vào sổ tay địa lí.

- Hướng dẫn học sinh ghi chép đặc điểm hình thù hoặc kích thước của

đối tượng địa lí được biểu hiện trên bản đồ.

- Hướng dẫn học sinh nhận xét mối quan hệ vị trí của đối tượng với

những vật khác ở xung quanh (dùng làm điểm tựa) để sau này dễ nhận ra và

tìm được đối tượng trên bản đồ.

- Hướng dẫn cách chỉ đối tượng địa lí trên bản đồ

Ví dụ : Xác định một số quốc gia trên bản đồ Châu Âu

2. Rèn luyện kĩ năng mô tả các đối tượng địa lí trên bản đồ

a. Rèn luyện kĩ năng mô tả địa hình trên bản đồ

Như chúng ta đã biết địa hình là một tác nhân phi địa đới nó có thể

hạn chế, cản trở, vô hiệu hoá thậm trí phá huỷ quy luật địa đới, tạo ra một

kiểu khí hậu riêng, khí hậu địa phương. Những sơn nguyên giữa núi như ơ

Tây Nam Á(Sơn nguyên YRan, Sơn nguyên Anatôli…) Trên hệ coocđie

(sơn nguyên cô oôrađô, côlômbia, bồn địa lớn) hoặc trên hệ anđet đều là

những thảo nguyên khô hoặc hoang mạc, nửa hoang mạc dù chúng ở những

vĩ độ khác nhau; dải Himalaya đồ sộ cũng là một bức trường thành tạo ra hai

kiểu khí hậu khác hẳn nhau ở hai bên sườn phía nam (ẩm ướt) và phía bắc

(khô hạn); thậm trí, địa hìng còn tạo ra quy luật địa đới riêng cho mình; tính

địa đới theo chiều cao; chẳng hạn, vùng núi anđet ở địa phận pêru nằm ở

nhiệt đới, nhưng lại có đủ các đới tự nhiên như khi ta đi từ xích đạo đến địa

cực: Từ rừng nhịêt đới đến rừng lá kim, đông cỏ khô, đồng cỏ ôn đới và cuối

cùng là đới băng tuyết vĩnh viễn. Những ví dụ trên đây cho ta thấy rõ ý nghĩ

của kĩ năng mô tả địa hình trên bản đồ, nó giúp cho việc nghiên cứu và cắt

nghĩa các đặc điểm khí hậu, tự nhiên của mỗi địa phương, mỗi vùng.

Dựa trên bản đồ địa lí tự nhiên, học sinh tập phận tích xem có những

dạng địa hình nào phân bố ra sao chiếm ưu thế, chỗ cao nhất và chỗ thấp

nhất là bao nhiêu mét.

Khi mô tả một vùng núi, học sinh phải xem xét vùng núi đó thuộc loại

trẻ hay già, cao hay thấp hoặc trung bình, nằm ở phần nào của lãnh thổ, tiếp

cận với những dạng địa hình nào, với những vịnh, biển, đại dương nào,bao

gồm những mạch nào chính, chạy theo hướng nào, chiều dài và chiều rộng là

bao nhiêu km, độ cao trung bình và đỉnh cao nhất là bao nhiêu mét, dốc về

hướng nào và thoai thoải về hướng nào, bị cắt sẻ nhiều hay ít bởi các thung

lủng sông, gây trở ngại lớn hay nhỏ đối với giao thông vận tải, có ảnh hưởng

gì đến khí hậu của địa phương.

Ví dụ:

Mô tả một bình nguyên hay cao nguyên, học sinh cần phân tích xem

bình nguyên hay cao nguyên đó nằm ở phần nào của lãnh thổ, hình dạng,

kích thước, tiếp cận với nhũng dạng địa hình nào, nằm sâu trong đất liền hay

ở ven biển, ở độ cao trung bình bao nhiêu, chỗ thấp nhất và chỗ cao nhất,

dốc theo hướng nào, độ dốc lớn hay nhỏ, bị sông ngòi cắt xẽ nhiều hay ít, có

nhuãng hệ thống hoặc sông nào lớn chảy qua.

Việc rèn luyện kĩ năng có thể theo các bước như sau:

- Giáo viên mô tả mẫu địa hình của một châu lục, vừa mô tả, vừa

hướng dẫn học sinh cách thức, trình tự mô tả.

- Cho học sinh ghi dàn ý mô tả vào sổ tay địa lý, khuyến khích học

sinh học thuộc dàn ý đó.

- Cho học sinh tập mô tả địa hình châu lục, bắt đầu bằng một châu lục

có địa hình đơn giản.

- Cho học sinh tập mô tả từng dạng địa hình theo dàn ý đã ghi trong sổ

tay địa lý.

- Cho học sinh tập mô tả địa hình của một nước nào đó.

b. Rèn luyện kĩ năng mô tả khí hậu trên bản đồ

Khí hậu là một yếu tố hình thành hết sức quan trọng của tự nhiên, nó

chi phối những nét đặc trưng của tự nhiên ở từng nơi. Chế độ nước của sông

ngòi, đặc điểm thổ nhưỡng, thực vật, động vật đều phụ thuộc vào khí hậu.

Sinh hoạt và các hoạt động sản xuất của con người cũng chịu ảnh hưởng rõ

rệt của khí hậu.

Kĩ năng mô tả khí hậu trên bản đồ cho phép phân tích, phát hiện được

đặc điểm khí hậu của mỗi địa phương và từ đấy tìm ra những nét chung về

tự nhiên của nơi đó.

Để mô tả khí hậu của bất kỳ một lãnh thổ nào (một châu lục, một khu

vực của một nước), đều phải đề cập đến 3 yếu tố: nhiệt độ trung bình tháng 7

(tức là tháng nóng nhất ở bán cầu bắc, và tháng lạnh nhất ở bán cầu Nam),

chữ số màu đen chỉ nhiệt độ trung bình tháng 1 (tháng lạnh nhất ở bán cầu

Bắc, tháng nóng nhất ở bán cầu nam). Những nơi có cùng nhiệt độ được nối

với nhau bằng những đường cong gọi là đường thẳng nhiệt. Thường người ta

dùng các đường đẳng nhiệt trung bình tháng 7, màu đỏ và các đường đẳng

nhiệt trung bình tháng 1, màu đen, đôi khi cũng dùng đường đẳng nhiệt

trung bình năm. Để biểu hiện lượng mưa và phân bố mưa trên bản đồ, người

ta dùng màu sắc khác nhau để khoanh vùng, chẳng hạn vùng tô màu vàng

nhạt có lượng mưa trung bình năm dưới 300mm, vùng tô màu vàng thẫm có

lượng mưa trung bình năm từ 300 – 500mm…Các gió thịnh hành trong năm

được biểu hiện trên bản đồ bằng những mũi tên, thường mũi tên màu đỏ chỉ

gió thịnh hành tháng 7 (tức là vào mùa hạ ở bán cầu Bắc, mùa hạ ở bán cầu

Nam) bản đồ khí hậu thường có bản đồ kèm theo chỉ diễn biến củae nhiệt độ

và lượng mưa qua các tháng trong năm ở một số địa điểm tiêu biểu, dựa vào

đấy có thể phân tích cụ thể hơn đặc điểm và sự phân hoá khí hậu trên lãnh

thổ.

Sau khi cung cấp cho học sinh những hiểu biết trên đây, giáo viên giới

thiệu cho các em một giàn ý dựa vào đấy, hướng dẫn các em tập mô tả khí

hậu trên bản đồ bắt đầu bằng một châu lục, chẳng hạn như bản đồ khí hậu

châu Âu.

Châu Âu nằm giữa những vĩ độ nào (360 B và trên 710B).

Thuộc vành đai khí hậu(gần hòn toàn ở ôn đới). đặc điểm của khí hậu

ôn đới là gì?(không nóng quá không lạnh quá).

Mùa hạ, có những đường đẳng nhiệt nào chạy qua lãnh thổ châu âu?

Đường đẳng nhiệt cao nhất chạy qua những đâu(miền cực nam và miền đông

nam). Vì sao?(do ảnh hưởng của vĩ độ và lục địa).

Mùa đông có những đường đẳng nhiệt nào chạy qua lãnh thổ châu âu?(+100C, +50C, +00C, -50C, -100C, -150C). Các đường đẳng nhiệt thấp nhất chạy qua những vùng nào? (Đường đẳng nhiệt -150C chạy từ Bắc

xuống Nam ở phía cực Đông, đường đẳng nhiệt -100C chạy trên bán đảo

Xcăngđinavi, vòng thẳng xuống vùng Đông Nam rồi chuyển xuống hướng

Đông).

Sự phân bố như trên của các đường đẳng nhiệt mùa hạ và mùa Đông

trên lãnh thổ châu Âu cho ta thấy khí hậu châu Âu có đặc điểm chung

(Không nóng lắm về mùa hạ và không quá lạnh về mùa Đông). Vùng nào có

mùa Đông ẩm nhất, vì sao (vùng Nam Âu, vì ở vĩ độ thấp nhất) những vùng

nào có mùa Đông lạnh nhất (vùng Đông và Đông Nam, vì chịu ảnh hưởng

nhiều của lục địa).

Căn cứ vào nhiệt độ ghi bằng chữ số ở các địa điểm Luân Đôn,

VácXaVa, Matxcơva, ta có nhận xét gì? (Biên độ nhiệt trong năm tăng dần

từ Tây sang Đông và Đông Nam) Vì sao? Vì các ở phía Đông và Đông Nam,

ảnh hưởng của biển và của dòng biển Bắc Đại Tây Dương càng yếu đi và

ảnh hưởng của lục địa càng mạnh lên).

Gió thịnh hành trong năm là loại gió nào, có ảnh hưởng gì đến khí

hậu? (Gió tây ôn đới thổi hầu như quanh năm, cả mùa hạ và mùa đông, đem

hơi ẩm vào sâu trong đất liền và gây mưa).

Đại bộ phận lãnh thổ châu Âu có lượng mưa là bao nhiêu (500 –

1000mm) do gió tây mang lại, những vùng nào có mưa nhiều, vì sao (Vùng

bờ biển phía tây của bán đảo Xcăngđinavi, mặt phía Tây của quần đảo Anh –

Ailen có lượng mưa lớn do phía Tây mang đầy hơi ẩm chút xuống nhất là

trên sườn tây của dãy núi Xcăngđinavi. Vùng Núi Anpơ cũng có lượng mưa

khá lớn do các sườn phía Tây hứng gió Tây từ biển vào). Những vùng nào

có mưa ít nhất, vì sao? (vùng Đông Nam châu Âu ven biển Cátxbi chỉ có

lượng mưa tới 300mm vì gió Tây mùa hạ khi đến được đây đã chút hết gần

hơi nước ở dọc đường và lại gặp không khí nóng nên không gây mưa được).

Tóm lại, khí hậu nói chung là ôn hoà, càng đi về phía đông và phía

nam, càng xa đại tây dương và dòng biển nóng bắc đại tây dương tính chất

lục địa càng tăng.

Giàn ý mô tả khí hậu trên đây cũng có thể áp dụng để mô tả khí hậu

của một khu vực hay một quốc gia. Chẳng hạn đối với Việt Nam học sinh

dưới sự hướng dẫn của giáo viên sẽ nêu được những nét chính như sau:

Ví dụ:

Qua bản đồ khí hậu VN hướng dẫn cho học sinh nhận xét - Việt Nam nằm giữa các vĩ độ 23022’B và 8030’B, có nghĩa là nằm

hoàn toàn trong vành đai nhiệt đới.

- Tính chất nhiệt đới cũng thể hiện ở các đường đẳng nhiệt trung bình

năm chạy qua lãnh thổ Việt Nam: +200C, +230C, +260C.

Sự phân bố của các đường đẳng nhiệt cho thấy nhiệt độ tăng theo

hướng từ Bắc vào Nam theo quy luật địa đới. Điều này cũng được thể hiện qua các chỉ số ghi nhiệt độ chung bình ở các địa điểm Lạng Sơn 21,30C, Hà Nội 23,40C, Vinh 23,90C, Huế 25,20C, Nha Trang 26,30C, TP HCM 26,90C.

- Nhìn vào biến trình của nhiệt độ trong năm thể hiện ở các biểu đồ, chúng ta thấy ở Lạng Sơn nhiệt độ tháng lạnh nhất xuống tới dưới 140C, ở Hà Nội khoảng 140C, ở Vinh khoảng 180C, Huế 190C, Nha Trang 230C, TP HCM 250C. Như vậy ở miền Bắc, có một mùa Đông lạnh, càng đi về phía

Nam càng đỡ lạnh, ở Miền Nam không có màu đông lạnh.

- Nhìn vào các vùng khí hậu được thể hiện bằng màu sắc trên bản đồ,

átlát, chúng ta cũng thấy rõ sự phân hoá khí hậu trên đây: Từ Bắc vào Nam

từ khí hậu nhiệt đới có mùa đông lạnh sang khi hậu nhiệt đới có mùa đông

lạnh vừa, rồi sang khí hậu nhiệt đới có mùa khô ẩm, cuối cùng là khí hậu

nhiệt đới nóng quanh năm.

- Về các loại gió thịnh hành trên lãnh thổ Việt Nam, ta thấy về mùa

đông có gió mùa đông bắc mang không khí lạnh từ phương bắc tới miền bắc,

điều đó cắt nghĩa vì sao ở miền bắc có mùa đông lạnh, ranh giới Frông lạnh

được biểu hiện trên bản đồ cho thấy ranh giới lãnh thổ có gió mùa đông bắc

cùng là ranh giới lãnh thổ của mùa đông lạnh, ngoài ra còn có gió đông bắc

thổi vào lãnh thổ miền nam, nhưng đây là tín phong thổi thường xuyên trong

khu vực nội chí tuyến, một thứ gió nhẹ, không mạnh như gió mùa đông bắc.

Về mùa hạ, có gió mùa tây nam thổi tới miền nam và gió mùa đông nam thổi

vào miền bắc, đem mưa tới. Ngoài ra, còn gió tây nam thổi qua lãnh thổ lào

chút hết hơi nước ở đây rồi vượt qua các đèo của giải Trường Sơn và núi tây

bắc bắc bộ trở thành gió khô, nóng. Đặc biệt là trên bản đồ còn biểu hiện

đường đi chuyển thông thường cuả các bão nhiệt đới qua các tháng trong

năm. Việc phân tích về các loại gió thịnh hành trong năm cho phép chúng ta

bổ sung vào tính chất nhiệt đới của khí hậu Việt Nam một đặc tính thứ 2 hết

sức quan trọng, đó là gió mùa. Như vậy khí hậu nước ta không phải chỉ là

khí hậu nhiệt đới đơn thuần mà là khí hậu nhiệt đới gió mùa.

- Phân tích các biểu đồ chỉ nhiệt độ trung bình tháng và lượng mưa

trung bình tháng, ta thấy lượng mưa trung bình năm ở lạng sơn là 1400mm,

ở hà nội1683mm, ở Vinh là 1869mm, ở Huế 2990mm, ở Đà Lạt 1820mm,

TP HCM 1917mm, như vậy Việt Nam có lượng mưa khá lớn trên toàn lãnh

thổ, trừ những nơi kín gió. Các cột mưa tháng trong trên các biểu đồ năm

trên các biểu đồ cho thấy mưa tập trung vào mùa hạ, từ tháng 5 đến tháng

10, do gió mùa Tây nam và đông nam mang đến. Riêng miền bắc trung bộ,

mưa tập trung vào mùa Đông do gió mùa đông bắc qua vịnh bắc bộ lấy hơi

ẩm đem đến. Ngoài ra, bão cùng góp phần làm cho mưa nhiều vào mùa

Đông.

- Tóm lại, Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa, có mùa đông lạnh

trên nửa phần phía bắc của đất nước, lượng mưa hàng năm tương đối lớn,

trải ra khắp lãnh thổ.

Qua những ví dụ trên đây, có thể rút ra quy trình rèn luyện kĩ năng mô

tả khí hậu trên bản đồ như sau:

- Làm cho học sinh hiểu rõ mô tả khí hậu có nghĩa là mô tả những yếu

tố thành phần của nó tức là nhiệt độ, mưa, gió và phát hiện mối liên hệ giữa

chúng với nhau cũng như với những yếu tố tự nhiên khác.

- Giới thiệu cho các em các yếu tố trên bản đồ khí hậu.

- Cung cấp cho học sinh dàn ý mô tả khí hậu trên bản đồ.

- Hướng dẫn các em dựa vào dàn ý cho sẵn để mô tả khí hậu trên bản

đồ bắt đầu từ châu lục rồi chuyển sang một khu vực, một quốc gia.

c. Rèn luyện kĩ năng mô tả sông ngòi trên bản đồ

Nhìn mạng lưới sông ngòi bản đồ một khu vực có thể thấy ngay trên

bản đồ một khu vực có thể thấy ngay trên những nét lớn đặc điểm khí hậu,

địa hình, thực vật, động vật và phân bố dân cư ở khu vực đó. Như vậy việc

mô tả sông ngòi của chúng ta thấy rõ không những đặc điểm về thuỷ văn của

mỗi khu vực mà cả mặt khác về tự nhiên, kinh tế, xã hội.

Tất cả những kĩ năng đã được học như mô tả địa hình, xác định

phương hướng giúp cho học sinh mô tả được dể dàng sông ngòi trên bản đồ.

Chỉ cần cung cấp cho các em một dàn ý và dựa vào đấy cho các em miêu tả.

Dàn ý mô tả có thể như sau:

Nêu lên những nét chung của sông ngòi:

- Sông chảy theo những hướng nào hoặc đỗ vào biển, đại dương nào,

vì sao?

- Nguồn cung cấp nước cho sông(mưa, tuyết, băng hà,hay nước ngầm)

và chế độ nước.

Các hệ thống sông chính:

Ví dụ:

Sông chính lớn hay nhỏ, chảy theo hướng nào, đỗ vào đâu, sông dai

hay ngắn có nhiều hay ít các sông nhánh, các sông chảy từ đâu đến, nguồn

tiếp nước của sông chính và các sông phụ, chế độ nước của các sông, ý

nghĩa kinh tế. Lấy ví dụ về sông ngòi việt nam. Học sinh dễ dàng nhận thấy

mạng lưới sông ngòi nước ta khá dày đặc phân bố khắp trên lãnh thổ. Đại bộ

phận là những sông nhỏ, chỉ có hai sông tương đối lớn là sông hồng và sông

cửu long.

Trên bản đồ khí hậu các em thấy từ bắc tới nam, lượng mưa trung

bình năm đều khá lớn:

Lạng sơn 1400mm, Hà nội1683mm, Vinh1869mm, Huế 2890mm, Đà

lạt 1820mm , TPHCM 1917mm, Cà mau 2241mm, Điều đó cắt nghĩa vì sao

mạng lưới sông dày đặc và phân bố đều trên khắp lãnh thổ. Nhìn trên bản đồ

tự nhiên, học sinh thấy rõ việt nam có hình dạng chữ s. Kéo dài theo hướng

kinh tuýên, hẹp chiều ngang, phía đông giáp biển phía tây phần lớn là núi,

nơi bắt nguồn từ nhiều sông. Riêng bắc bộ và nam bộ có chiều ngang mở

rộng hơn cả nên có một số sông rất lớn.

Nhìn vào biểu đồ chỉ nhiệt độ và lượng mưa trung bình trong năm và

do lượng mưa khá lớn nên tổng lượng nước của các sông cũng lớn. ở bắc bộ

và nam bộ mưa tập trung vào các tháng 5,6,7,8,9 nên các sông có lũ và nước

lên to về mùa hạ, cạn về mùa đông, Riêng ở trung bộ mưa tập trung vào các

tháng 9-12 nên sông ngòi có nước lũ và nước lũ lên to vào mùa đông.

Dựa vào bản đồ địa lý việt nam học sinh rể nhận thấy rằng sông hồng

bắt nguồn từ cao nguyên vân quý, trung quốc, một phần trung lưu và toàn bộ

hạ lưu trải trên lãnh thổ nước ta theo hướng núi tây bắc - đông nam và đổ

vào vịnh bắc bộ. Căn cứ vào màu sắc trên bản đồ, các em có thể thấy đoạn

trung lưu của sông chảy ở miền núi thấp, độ dốc nhỏ, khi chảy vào miền

đồng bằng, sông chỉ còn ở độ cao 50m, độ dốc yếu nên sông uốn khúc nhiều

và cùng với hệ thống sông Thái bình tạo lập một tam giác châu mà đỉnh là

Việt Trì.

Chảy tới Việt trì sông hồng nhận được 2 phụ lưu chính: Sông đà ở bên

phải và sông lô ở bên trái, sông đà là phụ lưu lớn nhất. Bắt nguồn từ trung

quốc, chảy ở vùng núi đá vôi, có nhiều ghềnh như ghềnh Bờ, trước khi đổ

vào sông chính sông đà cũng nhận đựơc một số sông nhánh, lớn nhất là sông

nậm na. Sông lô cũng bắt nguồn trên lãnh thổ trung quốc, chảy về gần đến

thị xã tuyên quang thì nhận được phụ lưu sông gâm, về tới đoan hùng nhận

được phụ lưu sông chảy. Sông chảy cũng là sông có nhiều ghềnh, như ghềnh

bà.

Hệ thống sông Hồng có ý nghĩa lớn về kinh tế, trước hết về mặt thuỷ

lợi. Nó cung cấp nước cho mạng lưới kênh máng, cho phép giữ chủ động

trong canh tác, tăng vụ, nâng cao sản lượng nông nghiệp. Giá trị về mặt thủy

điện cũng rất quan trọng, trữ lượng khá lớn nhưng chưa khai thác được bao

nhiêu, ngoài trung tâm thủy điện hoà bình trên sông đà, trung tâm thủy điện

thác bà trên sông chảy. Hệ thống sông hồng nối liền với hệ thống sông thái

bình tạo thành một mạng lưới giao thông đường thông hết sức quan trọng

trải ra các hướng trên lãnh thổ bắc bộ.

Việc rèn luyện kĩ năng mô tả sông ngòi trên bản đồ có thể theo quy

trình như sau:

- Hướng dẫn học sinh mô tả một con sông dựa trên dàn ý cho sẵn.

- Khi học sinh đã năm được cách mô tả một con sông, chuyển sang

hướng dẫn các em mô tả một hệ thống sông.

- Cuối cùng hướng dẫn các em tập mô tả sông ngòi của một nước.

II - KẾT QỦA.

Qua một thời gian giảng dạy tại TT GDTX Tỉnh Vĩnh Phúc với đối

tượng học sinh đầu vào thấp thì tôi thấy học sinh rất hứng thú với những tiết

học sử dụng bản đồ. Mục tiêu tới đây là giáo viên nên cố gắng đưa tất cả

chương trình đều sử dụng các phương tiện đặc biệt là bản đồ nâng cao chất

lượng dạy và học của giáo viên và học sinh.

Trên đây là một số ví dụ dẫn chứng cụ thể, trong phạm vi khuôn khổ

đề tài không cho phép nên tôi chỉ dừng lại ở đây trong quá trình giảng dạy

giáo viên có thể linh động hơn.

KẾT LUẬN

I - KẾ HOẠCH CỤ THỂ.

Trong quá trình giảng dạy bộ môn địa lý đối với việc sử dụng các

phương tiện và thiết bị dạy học hiện đại đặc biệt là các kĩ năng rèn luyện bản

đồ chưa thêt thực hiện toàn bộ chương trình nhưng giáo viên có thể sử dung

tối đa cá phương tiện và thiết bị dạy học hiện đại trong toàn bộ chương trình

để nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Địa lí.

II - ĐỀ XUẤT.

Trong phạm vi bài viết này tôi chỉ xin đựơc đóng góp ý kiến của mình

về kĩ năng bản đồ trong dạy học Địa lí. Để dạy học đạt hiệu quả cao thì giáo

viên cần soạn giáo án điện tử, sử dụng bản đồ treo tường, Atlát địa lý và khai

thác kênh hình trong phần mềm vi tính. Với đề xuất của cá nhân tôi và giáo

viên trong trung tâm đề nghị Bộ GD&ĐT cho nhiều phần mềm có hình ảnh

để bài dạy trở nên sinh động.

Mong các đồng chí đóng góp cho đề tài này được đầy đủ hơn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Vĩnh Yên, tháng 4 năm 2013

Người thực hiện:

Nguyễn Thị Thanh Hải/TT GDTX Tỉnh