SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO NGHỆ AN
TRƯỜNG THPT HUỲNH THÚC KHÁNG
======***=====
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN KỸ NĂNG TRANH BIỆN
CHO HỌC SINH THPT QUA HOẠT ĐỘNG NGOÀI GIỜ LÊN LỚP
LĨNH VỰC: HOẠT ĐỘNG NGOÀI GIỜ LÊN LỚP
NGƯỜI THỰC HIỆN: NGUYỄN MINH HỒNG
TỔ BỘ MÔN: VĂN – NGOẠI NGỮ
NĂM THỰC HIỆN: 2020
1
ĐIỆN THOẠI LIÊN HỆ: 0843135468
MỤC LỤC
Trang ĐỀ MỤC
Phần I. Đặt vấn đề 4
Phần II. Nội dung nghiên cứu 6
1. Cơ sở khoa học 6
1.1. Cơ sở lý luận 6
1.1.1. Khái niệm kỹ năng 6
1.1.2. Khái lược về tranh biện 6
1.2. Cơ sở thực tiễn 10
1.2.1. Yêu cầu về dạy học kỹ năng trong chương trình giáo dục phổ 10 thông
10 1.2.2. Thế mạnh rèn luyện kỹ năng của hoạt động ngoài giờ lên lớp
11 1.2.3.Sự phát triển của phong trào tranh biện trong giới trẻ hiện nay
1.2.4. Nhu cầu học tập, bộc lộ của học sinh 12
2. Thực trạng giáo dục kỹ năng tranh biện qua hoạt động ngoài giờ lên 12 lớp ở trường THPT
2.1. Đánh giá thực trạng thông qua số liệu điều tra, khảo sát 13
2.2. Phân tích nguyên nhân của thực trạng 16
3. Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh THPT 18 qua hoạt động ngoài giờ lên lớp
3.1. Một số nguyên tắc đề xuất biện pháp 18
3.2. Một số biện pháp cụ thể nhằm nâng cao kỹ năng tranh biện cho học 19 sinh THPT qua hoạt động ngoài giờ lên lớp
3 2.1. Phối hợp với các tổ chức, đoàn thể nhà trường xây dựng kế 19 hoạch
3.2.2. Phát hiện và bồi dưỡng nhân tố có năng khiếu tranh biện 20
3.2.3. Tổ chức tốt hoạt động của câu lạc bộ tranh biện 25
3.2.4. Phối hợp với các đoàn thể tổ chức hoạt động ngoại khóa 30
2
4. Kết quả thực hiện 44
Phần III. Kết luận 47
Phụ lục 50
3
Tài liệu tham khảo 68
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Hiện nay, đất nước ta đang bước sang một giai đoạn phát triển mới với những yêu cầu mới về phát triển nguồn nhân lực, phát triển con người. Đổi mới giáo dục đã trở thành nhu cầu cấp thiết. Chính trong bối cảnh đó, ngày 4/11/2013, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khoá XI) đã thông qua Nghị quyết số 29-NQ/TW đổi mới căn bản, toàn diện GDĐT đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Quan điểm chỉ đạo đổi mới giáo dục của Nghị quyết là: “Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lí luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.” Tư tưởng này hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển giáo dục trên thế giới hiện nay.
1.2. Từ thực tế của đời sống xã hội, ngành GD&ĐT đặt ra yêu cầu phải đào tạo được thế hệ người toàn diện, năng động, sáng tạo trong công việc đồng thời có ý thức chủ động, tích cực bày tỏ quan điểm, lập trường trước những vấn đề nảy sinh trong đời sống xã hội, hướng tới chân lí của mọi vấn đề. Trong dạy học, tất cả các bộ môn cần rèn luyện cho học sinh biết tranh biện vấn đề, tạo thói quen tốt trong nhìn nhận, đánh giá các vấn đề trong cuộc sống. Yêu cầu mang tính cấp thiết ấy cũng góp phần thực hiện mục tiêu kết hợp dạy “người” với dạy “chữ”, lí thuyết phải gắn với thực hành, giúp học sinh phát huy được tính chủ động, sáng tạo trong học tập, rèn luyện được khả năng làm việc độc lập, làm việc theo nhóm.
1.3. Trong thực tiễn giáo dục hiện nay, vấn đề rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh đang được các nhà giáo dục rất quan tâm. Tuy nhiên, vấn đề này mới dừng lại ở bậc đại học, cao đẳng. Ở bậc THPT, vấn đề chưa được đầu tư thỏa đáng, việc nghiên cứu, vận dụng còn mang tính rời rạc, chưa hệ thống, thiếu hiệu quả. Thực tế cho thấy, kỹ năng tranh biện ở học sinh THPT còn tồn tại dưới dạng tiềm năng, chưa được khai thác. Do còn chú trọng việc cung cấp trên lớp, giáo viên chưa khai thác hết các hình thức giáo dục như trải nghiệm sáng tạo, hoạt động ngoài giờ lên lớp để tạo môi trường thuận lợi cho các em rèn luyện kỹ năng này. Tuy đây không phải là hoạt động chủ đạo nhưng là bộ phận không thể thiếu của quá trình giáo dục trong nhà trường phổ thông, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện đối với thế hệ trẻ.
4
Xu hướng chung của những nền giáo dục tiến bộ trên thế giới là xây dựng một nền giáo dục thực sự dân chủ. Tranh biện của học sinh trong quá trình dạy học là biểu hiện tích cực của một môi trường học tập thân thiện, tích cực. Rèn luyện, phát huy khả năng tranh biện của học sinh là một trong những cách góp phần xây dựng một nền giáo dục dân chủ, tiến bộ. Xuất phát từ những đòi hỏi
của cuộc sống và xã hội về chất lượng nguồn nhân lực, mục tiêu giáo dục và thực tiễn dạy học ở trường THPT, chúng tôi lựa chọn vấn đề: “Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh THPT qua hoạt động ngoài giờ lên lớp” .
2. Tính mới của đề tài
- Góp phần làm sáng tỏ và sâu sắc thêm hệ thống lý luận về vấn đề rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh THPT; xác định những phương pháp, cách thức tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp nhằm rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh.
- Đánh giá khách quan những thành tựu và tồn tại của việc rèn luyện kỹ năng tranh biện trong dạy học hiện nay. Đó là cơ sở thực tiễn để đề xuất các biện pháp rèn luyện kỹ năng này cho học sinh, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.
- Đề xuất những biện pháp cụ thể trong rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh THPT qua hoạt động ngoài giờ lên lớp. Bao gồm: xây dựng kế hoạch phối hợp với các tổ chức, đoàn thể; phát hiện và bồi dưỡng nhân tố có năng khiếu tranh biện; tổ chức tốt hoạt động của câu lạc bộ tranh biện; phối hợp với các đoàn thể tổ chức hoạt động ngoại khóa. Đây là những biện pháp mới đã được thực hiện có hiệu quả tại đơn vị công tác, có khả năng áp dụng đối với các trường THPT.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu như:
- Phương pháp điều tra, khảo sát và xử lý số liệu.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
- Phương pháp phỏng vấn.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp
- Phương pháp so sánh…
4. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phần nội dung đề tài gồm:
- Cơ sở khoa học
- Thực trạng giáo dục kỹ năng tranh biện qua hoạt động ngoài giờ lên lớp
ở trường THPT
- Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh THPT qua
hoạt động ngoài giờ lên lớp
5
- Kết quả thực hiện
PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở khoa học
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm kỹ năng
Kỹ năng là khả năng vận dụng những kiến thức thu nhận được trong lĩnh vực nào đó vào thực tế. Kỹ năng thể hiện khả năng thực hiện có kết quả những hành động trên cơ sở những kiến thức có được đối với việc giải quyết những nhiệm vụ đặt ra phù hợp với mục tiêu và điều kiện cho phép.
Để giải thích nguồn gốc hình thành kỹ năng có lẽ không có cơ sở lý thuyết nào tốt hơn hai lý thuyết về phản xạ có điều kiện (được hình thành trong thực tế cuộc sống của cá nhân) và phản xạ không điều kiện (là những phản xạ mà cá nhân sinh ra đã sẵn có). Trong đó, kỹ năng của cá nhân gần như thuộc về cái gọi là phản xạ có điều kiện, nghĩa là kỹ năng được hình thành từ khi cá nhân tham gia hoạt động thực tế của cuộc sống. Ví dụ: kĩ năng giao tiếp, kỹ năng quản trị chỉ được hình thành trong hoạt động công việc của cá nhân. Đa số kỹ năng mà chúng ta có đều xuất phát từ việc rèn luyện, bồi dưỡng. Như vậy, nền tảng thành công của con người trong cuộc sống là do 90% được đào tạo và tự đào tạo, chỉ có 2% là kỹ năng bẩm sinh.
Có nhiều cách phân loại kỹ năng. Về cơ bản, kỹ năng có hai loại. Loại thứ nhất là kỹ năng cứng. Đây là kỹ năng có tính nền tảng có được do đào tạo từ nhà trường hoặc tự học. Loại thứ hai là kỹ năng mềm có được từ hoạt động thực tế. Kỹ năng mềm gồm nhiều loại kỹ năng phong phú như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng đàm phán, kỹ năng tranh biện… Để thành công, đòi hỏi con người phải trang bị cả kĩ năng cứng và kỹ năng mềm, phải vận dụng linh hoạt hai loại kỹ năng cơ bản này trong học tập và trong cuộc sống. Trong đó, việc vận dụng các kỹ năng mềm có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nhất là trong xã hội hiện đại ngày nay.
1.1.2. Khái lược về tranh biện
Để có một cái nhìn khách quan và chính xác về vấn đề rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh trong dạy học nói chung và hoạt động ngoài giờ lên lớp nói riêng thì trước hết chúng ta phải tìm hiểu những vấn đề lý luận liên quan đến tranh biện và phương pháp tranh biện.
Kỹ năng tranh biện
6
“Tranh biện” là một trong những hoạt động lâu đời nhất của nền văn minh. Tại các quốc gia phát triển như Mỹ, Anh, Pháp, Đức…, việc thực hành tranh biện được thể hiện rõ ràng không chỉ qua các hoạt động giáo dục (educational debate) mà còn qua các phương tiện truyền thông (media) và đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội. Tranh biện là cuộc trình diễn tổng hợp các kỹ năng: tư duy
phản biện, nói trước công chúng, nghiên cứu, tổ chức sắp xếp, làm việc nhóm, nghe, ghi chép…
Vì thế, chúng ta có nhiều quan niệm và định nghĩa khác nhau về tranh biện.
Theo “Từ điển Hán Việt Từ Nguyên” của Bửu Kế đã định nghĩa “Tranh” là “giành”; “biện” là “cãi lẽ”; “tranh biện” là “cãi lẽ để giành lẽ phải về phần mình”; “Tranh biện” đồng nghĩa với “tranh luận”.
Hay nhóm tác giả Hoàng Phê, Hoàng Thị Tuyền Linh, Vũ Xuân Lương, Phạm Thị Thủy, Đào Thị Minh Thu, Đặng Thanh Hòa trong cuốn “Từ điển Tiếng Việt” cũng có quan niệm khác: “Tranh biện” là “tranh luận phải trái”; “Tranh luận” là “bàn cãi để tìm ra lẽ phải”; “tranh biện” đồng nghĩa với “tranh cãi”.
Theo “Từ điển Oxford” định nghĩa “tranh biện là việc tham gia vào cuộc
tranh luận bằng việc nêu ra ý kiến trái ngược”.
Còn hiểu theo tổ chức Vietnam Youth to Debate (Y2D) – tổ chức nghiên cứu và giáo dục về tranh biện cho thanh thiếu niên Việt Nam lại có định nghĩa khác. Hiểu theo nghĩa hẹp, “tranh biện là một trong những loại hình giao tiếp bằng lời”. Tuy nhiên, tranh biện cũng có những đặc điểm khác với những loại hình giao tiếp bằng lời khác. Những đặc điểm của tranh biện trong tương quan với các loại hình khác có thể được thầy Nguyễn Thiên Minh - cán bộ trung tâm Ứng dụng Việt ngữ học, ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn thể hiện thông qua bảng sau:
điểm Ví dụ chủ Đặc nổi bật Biến thể (nếu có) Mục đích chính Phương tiện yếu Loại hình giao tiếp Ứng dụng chủ yếu trong
Giao tiếp Đối thoại Nói chuyện Tự do, không hạn định Trao đổi thông tin Mọi hình của thức lời nói
Giả thuyết Giáo dục
Thảo luận Cuộc họp Thương thuyết Kết luận Hội họp Thống nhất các ý kiến
người Cần dẫn dắt Cần chương định trình trước
Lập luận Giáo dục xác
7
Tranh luận Chính cao độ Các bài tranh Tìm ra cái gì Kết luận Luật Phê
đúng phán pháp
luận trên tạp chí khoa học biệt Phân rạch ròi đúng sai Khoa học
Nghệ thuật
Tư tưởng Lập luận Tranh biện Giáo dục Các bút chiến trên báo Tìm ra ai đúng
Có một giải pháp “tối ưu” hơn các pháp giải khác
Các vấn đề xã hội
Hiểu theo nghĩa rộng, “Tranh biện được hiểu là quá trình tư duy và biểu đạt tư duy từ thu thập, phân tích xử lý thông tin đến xây dựng, hệ thống sắp xếp các lập luận để ra quyết định. Tranh biện có thể sử dụng ngôn ngữ (thông qua nói, viết) hoặc không sử dụng ngôn ngữ (tự tranh biện – trong bản thân từng cá nhân). Tranh biện giúp giải quyết vấn đề, bằng cách chỉ ra những xung đột/ mâu thuẫn giữa các luận điểm do người học sử dụng tư duy phản biện để phản đối trực tiếp trên luận điểm của đối phương”
Tranh biện còn nhằm thuyết phục chính bản thân mình, hoặc người khác rằng lựa chọn nào là tốt hơn, đặt trong những bối cảnh và điều kiện cụ thể. Kết luận của tranh biện mang tính tương đối, không có đúng nhất mà mang tính tạm thời tại thời điểm kết thúc cuộc tranh biện.
Trên cơ sở tham khảo ý kiến từ các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, theo chúng tôi: Tranh biện là quá trình giao lưu ngôn ngữ đòi hỏi những người tham gia phải chứng minh được quan điểm của mình là đúng đắn bằng hệ thống các lập luận logic. Đó là cách ngắn nhất và ôn hòa nhất giúp mọi người cùng đi đến một nhận thức chung.
Tranh biện cũng rất khác với kiến nghị, thảo luận, tranh luận và phản
biện.
Trong đó, “Kiến nghị là đưa ra ý kiến về một vấn đề để mọi người bàn bạc và đưa ra hướng giải quyết”. Trong tranh biện, kiến nghị là vấn đề được đưa ra để làm chủ đề để tranh biện. Đó có thể là một nhận định, một đề xuất, hay một dự báo về một vấn đề nào đó.
8
“Thảo luận là trao đổi ý kiến về một vấn đề, có phân tích lý lẽ”. Thảo luận sẽ là một khâu nằm trong tranh biện bởi nó là quá trình mọi người giao lưu, bàn bạc để nhất trí đường hướng, cùng nhau giải quyết vấn đề mà chúng ta đang cần phải tranh biện với nhau.
Trong cuốn “Từ điển tiếng Việt thông dụng” của Như Ý, NXB Giáo dục định nghĩa “Tranh luận là bàn cãi có phân tích lí lẽ để tìm ra lẽ phải”. Như vậy, mục đích cuộc tranh luận ở đây là tìm xem ai đúng.
Còn Phản biện là việc sử dụng một lý lẽ để chống lại một lý lẽ, chỉ ra điểm yếu, điểm sơ hở của lý lẽ đó dựa trên các luận điểm được đưa ra. Mục tiêu chính là thiết lập sự cân nhắc đối với các lựa chọn được đưa ra và tăng cường sự thuyết phục đối với quan điểm cá nhân bằng cách làm suy yếu quan điểm của đối phương.
Như vậy, chúng ta thấy rằng “tranh biện” là một khái niệm khác hẳn với những khái niệm trên và không thể đồng nhất tất cả các khái niệm đó với nhau. Về bản chất, tranh biện là quá trình giao lưu ngôn ngữ đòi hỏi những người tham gia phải chứng minh được quan điểm của mình là đúng đắn. Đó là cách ngắn nhất và ôn hòa nhất giúp mọi người cùng đi đến một nhận thức chung. Tranh biện được coi là tinh hoa của năng lực sử dụng ngôn ngữ, là cách thức phát triển trí tuệ, là hòn đá mài sắc tư duy. Chính vì vậy, tranh biện là một kỹ năng thiết yếu của con người, nhất là trong thời đại ngày nay.
Phương pháp tranh biện
Tranh biện là xương sống của giáo dục. Trong các môn khoa học tự nhiên, người nghiên cứu có thể chứng minh được sự thật khi dùng những dữ kiện hay thử nghiệm tự nhiên vào việc này. Tuy nhiên, đối với những môn xã hội chẳng hạn thì cách tiếp cận vấn đề hoàn toàn khác. Trong dạy học, tổ chức cho học sinh tranh biện vừa là một hình thức tổ chức dạy học vừa là phương pháp dạy học cần áp dụng phổ biến hiện nay nhằm giúp các em tự chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng…
Vậy “phương pháp tranh biện” trong dạy học được hiểu như thế nào? Phương pháp tranh biện là cách giáo viên đưa ra, gợi mở cho học sinh suy nghĩ, đánh giá về một vấn đề nhất định theo những hướng khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Sau đó dựa trên những tìm hiểu của các em, giáo viên tổ chức cho các em trao đổi, bàn bạc, phản biện về vấn đề. Học sinh sẽ đưa ra và bảo vệ quan điểm của mình, đồng thời thuyết phục đối phương theo ý kiến đó bằng những lập luận, lí lẽ, bằng chứng xác thực nhằm làm rõ những khía cạnh khác nhau của vấn đề và làm giàu sự hiểu biết của cá nhân theo yêu cầu của mục tiêu và nhiệm vụ dạy học.
Trong quá trình dạy học, giáo viên có thể lựa chọn sử dụng tranh biện trong việc kiểm tra bài cũ, tổ chức dạy học và nghiên cứu kiến thức mới; củng cố và kiểm tra, đánh giá. Hiểu một cách đơn giản về phương pháp này là giáo viên đề xướng, tổ chức còn học sinh chủ động trao đổi, bàn luận, tranh biện, linh hoạt, sáng tạo tiếp thu tri thức một cách vững chắc và hiệu quả.
Trong hoạt động ngoài giờ lên lớp, giáo viên có thể bằng nhiều hình thức như tổ chức các diễn đàn tranh luận theo chủ đề, thành lập câu lạc bộ tranh biện, 9
lồng ghép trong các hoạt động theo chủ điểm… Qua đó giáo viên có thể giúp học sinh rèn luyện kỹ năng tranh biện qua những hoạt động phong phú, sinh động và hấp dẫn. Đây là một phương pháp dạy học mới, có khả năng vận dụng hiệu quả trong trường THPT.
1. 2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Yêu cầu về dạy học kỹ năng trong chương trình giáo dục phổ
thông
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung Ương Đảng khoá 8 khẳng định “Giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu”. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 9 nhấn mạnh “Phát triển giáo dục - đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”. Các nghị quyết của Đảng, quan điểm của Nhà nước Việt Nam đã khẳng định vai trò của con người trong sự nghiệp phát triển của đất nước cũng như khẳng định vai trò quan trọng của giáo dục trong sự nghiệp phát triển con người. Đồng thời nhấn mạnh con người phát triển toàn diện không chỉ giỏi về tri thức khoa học mà còn cần có hệ thống năng lực cơ bản để đáp ứng những yêu cầu ngày một cao của xã hội.
Trước yêu cầu đó, chương trình giáo dục THPT hiện nay đang được xây dựng theo hướng tiếp cận năng lực. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo xác định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học”. Khác với cách tiếp cận nội dung, tiếp cận năng lực chú trọng vào việc yêu cầu học sinh phải thể hiện được, làm được, biết vận dụng những kiến thức để giải quyết các tình huống đặt ra trong cuộc sống. Vì thế, việc học tập theo hướng tiếp cận này trở nên gần gũi và thiết thực đối với cá nhân và cộng đồng.
Theo tinh thần đó, các yếu tố của quá trình giáo dục trong nhà trường trung học cần được tiếp cận theo hướng đổi mới. Với đề án đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục – đào tạo, mục tiêu giáo dục đang chuyển hướng từ trang bị kiến thức nặng lý thuyết sang trang bị những năng lực cần thiết và phẩm chất cho người học. Điều đó cũng khẳng định thêm tầm quan trọng và yêu cầu thiết yếu của việc giáo dục, trang bị các kỹ năng cần thiết cho học sinh như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng đàm phán, kỹ năng tranh biện… Yêu cầu này đặt ra đối với tất cả các bộ môn, trong tất cả mọi hoạt động giáo dục của chương trình giáo dục phổ thông.
1.2.2. Thế mạnh rèn luyện kỹ năng tranh biện của hoạt động ngoài giờ
lên lớp
Trong thực tế, việc rèn luyện kỹ năng cho học sinh gặp không ít khó khăn. Khi xây dựng chương trình, nội dung dạy học, giáo viên đều phải xác định các 10
mục tiêu: cung cấp kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành thái độ và định hướng phát triển năng lực. Đây là yêu cầu mang tính nguyên tắc trong dạy học và mỗi giáo viên đều nhận thức sâu sắc yêu cầu này. Tuy nhiên, do phải chuyển tải nhiều nội dung trong dung lượng thời gian hạn chế, giáo viên có khuynh hướng tập trung cung cấp kiến thức mà ít quan tâm rèn luyện kỹ năng cho học sinh, nhất là các kỹ năng mềm.
Chính bởi vậy, rất nhiều học sinh còn thiếu và yếu các kỹ năng cần thiết. Nhiều em tỏ ra thụ động trong học tập và thiếu độc lập, thiếu chính kiến khi nhìn nhận các vấn đề của đời sống. Các em cũng gặp lúng túng khi bày tỏ quan điểm, gặp nhiều khó khăn khi đàm phán hay thuyết phục người khác. Thực tế đó đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới phương pháp, vận dụng linh hoạt các hình thức giáo dục để rèn luyện kỹ năng cho học sinh.
Hoạt động giáo dục có thể lấp được lỗ hổng về kỹ năng hiệu quả nhất mà chúng ta có thể vận dụng chính là hoạt động ngoài giờ lên lớp. Đây là hoạt động được tổ chức ngoài giờ học văn hóa, là con đường gắn lý thuyết với thực tiễn, tạo nên sự thống nhất giữa nhận thức và hành động. Hoạt động ngoài giờ lên lớp tạo điều kiện cho học sinh phát huy vai trò chủ thể, tính tích cực chủ động trong học tập, rèn luyện toàn diện. Với những nội dung phong phú và hình thức hoạt động hấp dẫn, hoạt động ngoài giờ lên lớp đã trở thành nơi cung cấp kiến thức, hiểu biết về xã hội và rèn luyện những kĩ năng cần thiết cho học sinh. Bởi vậy, khai thác hoạt động này một cách có hiệu quả là cơ sở quan trọng cho việc rèn luyện các kỹ năng, trong đó có kỹ năng tranh biện.
1.2.3. Sự phát triển của phong trào tranh biện trong giới trẻ hiện nay
Phát triển mạnh một thời gian dài tại nhiều quốc gia phát triển và mới xuất hiện ở Việt Nam vài năm trở lại đây nhưng tranh biện đang ngày càng thu hút sự quan tâm của giới trẻ Việt. Phong trào tranh biện bắt đầu du nhập vào Việt Nam và nhanh chóng được các bạn trẻ ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh đón nhận. Nhìn chung, phong trào tranh biện đang ngày càng được phát triển, lan rộng ở Việt Nam thông qua các chương trình tranh biện như “Tôi lên tiếng”, “Trường Teen” phát sóng trên kênh VTV7. Nhiều câu lạc bộ tranh biện được thành lập ở các trường đại học như: ĐH Luật Hà Nội, ĐH Kiểm sát, ĐH Kinh tế quốc dân, ĐH FPT, Học viện Ngoại giao, ĐH Mở Thành phố Hồ Chí Minh… Nhiều cuộc thi đấu tranh biện được tổ chức, thu hút sự quan tâm của giới trẻ.
11
Dù xuất hiện muộn hơn nhưng từ 4 năm qua, phong trào tranh biện ở thành phố Vinh đang dần trở thành món ăn tinh thần ưa thích của nhiều bạn trẻ. Nếu năm 2016 mới chỉ có duy nhất câu lạc bộ tranh biện PDC của trường THPT chuyên Phan Bội Châu thì nay đã xuất hiện thêm các câu lạc bộ tranh biện mới như Thunder Debate Club của trường THPT chuyên Đại học Vinh hay H.D.C. Huỳnh Debate Club của trường THPT Huỳnh Thúc Kháng.
Tại các trường THPT ở thành phố Vinh, phong trào này tuy được bảo trợ trực tiếp từ Đoàn trường nhưng chủ yếu các hoạt động đều do các em học sinh tự điều hành từ cách thành lập câu lạc bộ cho đến tổ chức các cuộc tranh biện với nhau. Do đó, dù tranh biện là hoạt động mang lại rất nhiều mặt tích cực cho học sinh song chất lượng và cả tính lâu dài của hoạt động này vẫn còn tùy thuộc rất nhiều vào các thành viên cốt cán của các câu lạc bộ. Đã đến lúc phong trào tranh biện cần được quan tâm nhiều hơn để hướng phát triển theo chiều chất, lượng và bền vững hơn. Từ đó giúp các em có thêm nhiều cơ hội rèn luyện tư duy đa chiều, tư duy phản biện không chỉ trong học tập mà còn trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày.
1. 2.4. Nhu cầu học tập, bộc lộ của học sinh
Đối tượng học tập của trường THPT là những thanh thiếu niên độ tuổi từ 15 – 18, đang ở độ tuổi phát triển, có những thay đổi hết sức lớn lao về tâm sinh lý, có sự trưởng thành vượt bậc về phẩm chất và năng lực. Đây là thời kì mà có em có khả năng tư duy lí luận và tư duy trừu tượng một cách độc lập, sáng tạo về những điều đã học ở nhà trường, ngoài xã hội và cả những điều chưa được học. Tính độc lập tư duy là một phẩm chất rất quý báu mà người thầy cần phải giữ gìn và phát triển. Nếu như người giáo viên không đổi mới phương pháp thì sẽ không đáp ứng được yêu cầu học tập của các em. Phải làm thế nào để phát huy được năng lực nhận thức sáng tạo của học sinh, thôi thúc các em phải tìm tòi, suy nghĩ để tìm ra những lập luận, bằng chứng xác đáng để thuyết phục người khác và chứng minh ý kiến của mình.
Bên cạnh nhu cầu học tập nâng cao kiến thức, các em cũng có nhu cầu bộc lộ bản thân, nhất là trong giai đoạn mà quyền cá nhân con người, tính dân chủ được đề cao như hiện nay. Học sinh THPT có khát vọng, có chính kiến riêng, có quan điểm và phán đoán của mình với những vấn đề chung, chưa hoàn toàn tin tưởng vào uy quyền của cha mẹ, thầy cô, sách vở, thường “tìm ra những cái sai sót” trong lập luận của thầy cô giáo hoặc tài liệu, có xu hướng tranh chấp và phản đối với hình thức rất quyết liệt. Các em mong muốn được thể hiện mình trước thầy cô, bạn bè, muốn khẳng định chính kiến của bản thân, muốn chứng minh sự tiến bộ, trưởng thành của mình. Ngoài ra, ở độ tuổi 15 – 18 các em học sinh thường rất hiếu động, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá. Trong quá trình đó, học sinh cần có người định hướng cho mình cách làm, hướng đi để tránh rơi vào tình trạng ngộ nhận, chủ quan hoặc sai lầm.
Như vậy, nhu cầu học tập và bộc lộ bản thân của học sinh cũng là một cơ
sở để phát huy tiềm năng học tập, rèn luyện kỹ năng tranh biện cho các em.
2. Thực trạng giáo dục kỹ năng tranh biện qua hoạt động ngoài giờ
lên lớp ở trường THPT
12
2.1. Đánh giá thực trạng thông qua các số liệu điều tra, khảo sát
Để có cái nhìn đầy đủ, chính xác về thực trạng giáo dục kỹ năng tranh biện qua hoạt động ngoài giờ lên lớp, chúng tôi tiến hành điều tra, khảo sát. Tháng 9/2019, chúng tôi đã phát phiếu khảo sát với đối tượng là 200 học sinh và 40 giáo viên của 4 trường THPT tại địa bàn thành phố Vinh (THPT Huỳnh Thúc Kháng, THPT chuyên Phan Bội Châu, THPT Hà Huy Tập, THPT Lê Viết Thuật). Mỗi trường lấy ý kiến đại diện của 50 học sinh và 10 giáo viên. Nội dung chủ yếu hỏi về nhận thức của học sinh và giáo viên về tầm quan trọng của kỹ năng tranh biện cũng như thực tế rèn luyện kỹ năng này tại nhà trường THPT hiện nay. Phương pháp nghiên cứu được chúng tôi sử dụng là điều tra qua hệ thống câu hỏi nhanh. Đối tượng khảo sát trả lời hoặc đánh dấu vào phương án lựa chọn.
2.1.1. Khảo sát, đánh giá đối với học sinh
Về phía học sinh, chúng tôi đưa ra một số câu hỏi nhằm tìm hiểu mức độ hiểu biết và hứng thú của các em đối với hoạt động tranh biện và thông tin về thực tế dạy học kỹ năng này qua hoạt động ngoài giờ lên lớp. Kết quả như sau:
Bảng 2.1.1
Câu hỏi Phương án trả lời Tần số Tỷ lệ %
A. Dễ dàng 20 10
B. Khó khăn 120 60
1. Khi thuyết phục người khác em cảm thấy thế nào? C. Bình thường 60 30
A. Chưa 24 12
B. Biết nhưng chưa hiểu rõ 136 68
2. Em đã từng biết đến hoạt động tranh biện chưa? C. Hiểu rõ 40 20
160 80 A. Là hình thức tranh luận văn minh
B. Bản chất là tranh cãi 12 6 3. Theo em, tranh biện là hoạt động như thế nào?
28 14 C. Là hình thức bảo vệ đến cùng quan điểm cá nhân
A. Rất cần thiết 170 85
B. Cần thiết 30 15
4. Theo em, có cần thiết rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh không? C. Không cần thiết 0 0
13
70 35 5. Tại trường em có câu A. Có
lạc bộ tranh biện không? B. Không 130 65
C. Không rõ 10 5
A. Đã tổ chức 0 0
B. Chưa tổ chức 170 85
6. Tại trường em có tổ chức hình thức tranh biện trong HĐNGLL không? C. Không nhớ 10 5
81 162 A. Mới mẻ, có tính tương tác
B. Giữ nguyên như cũ 26 13 7. Theo em, HĐNGLL cần được tổ chức như thế nào?
C. Đơn giản 12 6
Bảng số liệu 2.1.1 cho thấy, đa số học sinh nhận thức được tầm quan trọng của khả năng thuyết phục, đàm phán đối với thành công của mỗi người trong cuộc sống. Tuy nhiên 60% học sinh thấy gặp khó khăn khi thuyết phục người khác đồng tình với ý kiến của mình. Các em cảm thấy lúng túng khi trình bày quan điểm cá nhân, đặc biệt là khi nói trước đám đông. Nhiều em đã biết đến hoạt động tranh biện nhưng chưa hiểu rõ (68%). Nhận thức đó là một hình thức tranh luận văn minh (80%), phần lớn các em khẳng định việc rèn luyện kỹ năng tranh biện là rất cần thiết (85%). Tuy nhiên, khi được hỏi thêm về bản chất của tranh biện, nhiều em còn tỏ ra mơ hồ trong phân biệt kỹ năng thuyết trình và kỹ năng tranh biện. Khi được hỏi “Tranh biện có gì khác với thuyết trình?”, một số em còn nhầm lẫn hoặc đánh đồng hai kỹ năng này.
Ở câu hỏi về Hoạt động ngoài giờ lên lớp, 81% học sinh bày tỏ mong muốn hình thức sinh hoạt cần đa dạng, hấp dẫn, có tính tương tác cao, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Trong các hình thức sinh hoạt, tranh biện vẫn là một hoạt động mới mẻ, chưa được tổ chức ở các trường. Hiện chỉ có 2/4 trường được khảo sát có câu lạc bộ tranh biện (THPT Huỳnh Thúc Kháng, THPT chuyên Phan Bội Châu). Tuy nhiên, hoạt động của các câu lạc bộ này chưa thực sự tạo được dấu ấn nổi bật và có sức lan tỏa rộng rãi. Cá biệt có em được hỏi không biết tại trường mình có câu lạc bộ tranh biện hay không (5%).
2.1.2. Khảo sát, đánh giá đối với giáo viên
14
Về phía giáo viên, chúng tôi đưa ra một số câu hỏi nhằm tìm hiểu nhận thức và những khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh qua hoạt động ngoài giờ lên lớp. Kết quả thu được như sau:
Bảng 2.1.2
Câu hỏi Phương án trả lời Tần số Tỷ lệ %
A. Rất cần thiết 34 85
B. Cần thiết 6 15
1. Theo thầy /cô có cần thiết rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh không? C. Không cần thiết 0 0
A. Thường xuyên 8 20
B. Không thường xuyên 28 70
2. Thầy/cô đã từng hướng dẫn học sinh rèn luyện kỹ năng tranh biện chưa? C. Chưa thực hiện 4 10
A. Đầy đủ 6 15
B. Chưa đầy đủ 30 75
3. Việc rèn luyện kỹ năng qua các tiết học trên lớp đã đáp ứng đầy đủ nhu cầu của học sinh chưa? C. Thiếu hiệu quả 4 10
A. Có thể thực hiện 28 70
B. Khó thực hiện 10 25
C. Không nên thực hiện 5 2 4. Theo thầy/cô,có thể lồng ghép dạy học kỹ năng tranh biện qua hoạt động ngoài giờ lên lớp không?
Bảng 2.1.2. cho thấy 85% giáo viên nhận thấy rất cần thiết phải rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh. Tuy nhiên, chỉ có 20% giáo viên thường xuyên hướng dẫn học sinh rèn luyện kỹ năng này, 70% thực hiện một cách không thường xuyên, cá biệt có 10% chưa thực hiện. Qua thực tế dạy học nhiều giáo viên nhận thấy, các tiết học trên lớp chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu rèn luyện kỹ năng của học sinh (75%). Như vậy cũng có nghĩa là chưa đáp ứng được yêu cầu dạy học toàn diện. Mặc dù thấy được ưu thế của hoạt động ngoài giờ lên lớp trong rèn luyện kỹ năng nhưng không phải ai cũng có đủ khả năng thực hiện.
Chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn thêm một số giáo viên về những khó khăn mà họ gặp phải khi tổ chức cho học sinh rèn luyện kỹ năng qua hoạt động ngoài giờ lên lớp. Các ý kiến nêu lên một số vấn đề như sau: Giáo viên có thế mạnh trong dạy học bộ môn nhưng hạn chế trong năng lực tổ chức hoạt động ngoài giờ. Những gì họ có được phần lớn đều là kinh nghiệm học hỏi qua thực tiễn. Trên thực tế, hoạt động ngoài giờ lên lớp cần đến sự phối hợp của nhiều lực lượng trong nhà trường, cá nhân giáo viên rất khó thực hiện. Bên cạnh đó, đây là hoạt động đòi hỏi có một cơ sở vật chất đầy đủ mới đạt hiệu quả cao.
Chia sẻ thêm về những khó khăn trong lồng ghép giáo dục kỹ năng tranh biện qua hoạt động ngoài giờ lên lớp, nhiều giáo viên cho rằng đây là kỹ năng đòi hỏi một hình thức tổ chức phù hợp. Những hình thức lâu nay các trường 15
THPT thực hiện như giao lưu, hỏi đáp, trò chơi… khó có hiệu quả. Nhiều giáo viên bày tỏ mong muốn có một hình thức tổ chức vừa mới mẻ, vừa sát với mục tiêu rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh.
Như vậy, có thể thấy việc rèn luyện kỹ năng, trong đó có kỹ năng tranh biện qua hoạt động ngoài giờ lên lớp còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ.
2.2. Phân tích nguyên nhân của thực trạng
Số liệu khảo sát, điều tra cho thấy học sinh rất hứng thú với hoạt động tranh biện và có mong muốn được rèn luyện kỹ năng này. Tuy nhiên những hiểu biết và khả năng vận dụng kỹ năng tranh biện vào thực tiễn của các em còn hạn chế. Một số em có năng khiếu tranh biện nhưng tất cả mới chỉ đang ở dạng tiềm năng, chưa được phát huy tối đa. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả học tập cũng như sự thành công trong cuộc sống của các em sau này. Trên thực tế, đa số giáo viên rất mong muốn được tham gia giáo dục kỹ năng tranh biện cho học sinh nhưng còn vướng mắc trong phương pháp, đặc biệt là cách tổ chức dạy học trong lĩnh vực hoạt động ngoài giờ lên lớp. Việc tổ chức hoạt động ngoài giờ ở các trường hiện nay chủ yếu do Đoàn trường và Ban ngoài giờ lên lớp đảm nhiệm, chưa có sự tích cực tham gia của của các giáo viên bộ môn. Điều này dẫn đến chất lượng của hoạt động ngoài giờ còn chưa đạt hiệu quả, năng lực đàm phán, thuyết phục và khả năng tư duy độc lập của học sinh còn hạn chế.
Vậy nguyên nhân nào dẫn đến thực trạng đó? Qua khảo sát và tìm hiểu
thực trạng, chúng nhận thấy có một số nguyên nhân cơ bản như sau:
Thứ nhất, chương trình giáo dục hiện nay còn nặng về kiến thức, chưa có sự đầu tư đúng mức cho dạy kỹ năng, nhất là các kỹ năng mềm. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp với các chủ điểm quen thuộc và những hình thức sinh hoạt lặp đi lặp lại làm giảm hứng thú tham gia của học sinh, không tạo được nhiều sân chơi cho các em rèn luyện các kỹ năng, trong đó có kỹ năng tranh biện. Kế hoạch hoạt động còn hết sức bị động, lúng túng. Việc định hướng nội dung, hình thức về hoạt động ngoài giờ lên lớp ở một số trường chưa có sự sáng tạo. Lãnh đạo một số trường chưa có biện pháp cụ thể. Nội dung hoạt động ngoài giờ lên lớp còn nghèo nàn, bó hẹp trong một số chủ điểm, hình thức còn đơn điệu, chưa thiết thực, chưa gắn với nhu cầu thực tế cuộc sống, chưa đáp ứng được nhu cầu nguyện vọng của học sinh. Chính vì vậy các hoạt động ngoài giờ lên lớp chưa lôi cuốn được học sinh tham gia, chưa mang lại hiệu quả giáo dục, chưa đáp ứng tốt yêu cầu giáo dục hiện nay. Sự phối hợp giữa các tổ nhóm, đoàn thể trong nhà trường trong tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp còn chưa thật nhịp nhàng, hiệu quả, ảnh hưởng lớn đến chất lượng hoạt động.
16
Thứ hai, giáo viên do áp lực chuyên môn quá lớn nên tập trung thời gian, công sức cho công tác chuyên môn, ít có thời gian quan tâm đến các hoạt động sau giờ học của học sinh. Nhiều thầy cô còn xem nhẹ hoạt động này, chỉ tập
trung vào các hoạt động dạy học trên lớp. Một bộ phận giáo viên chưa thực sự nhận thức được vai trò và tác dụng to lớn của hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp đối với việc hình thành và phát triển toàn diện nhân cách học sinh. Các tiết học do chạy theo việc chuyển tải kiến thức nên quỹ thời gian cho rèn luyện kỹ năng hạn chế. Một số giáo viên còn ngại đổi mới phương pháp dạy học. Riêng việc tiếp cận và sử dụng phương pháp tranh biện còn tỏ ra vô cùng xa lạ đối với nhiều giáo viên ở các trường THPT. Trong khi đó, đời sống xã hội ngày nay liên tục phát triển, đòi hỏi nhà trường phải trang bị cho học sinh không chỉ những kiến thức cập nhật mà còn là những kỹ năng mới. Có những kỹ năng nếu giáo viên không quan tâm sẽ khiến học sinh chịu thiệt thòi, nhất là trong cuộc sống sau này.
Bên cạnh đó, Hoạt động ngoài giờ lên lớp là hình thức giáo dục mới được thực hiện trong thời gian gần đây. Giáo viên, nhất là những người trong độ tuổi 35 - 55 chưa được đào tạo nội dung này ở các trường đại học. Những gì họ có chủ yếu qua tập huấn, tự học và học hỏi kinh nghiệm từ thực tiễn. Bởi vậy, nhiều giáo viên ngoài hạn chế về năng lực còn ngại đổi mới, thiếu sáng tạo trong tìm kiếm những hình thức tổ chức hoạt động đáp ứng yêu cầu dạy học kỹ năng cho học sinh.
Thứ ba, nhiều học sinh còn có tâm lý áp lực thi cử nên chú trọng nhiều đến bài vở hơn là rèn luyện kỹ năng. Học sinh của các trường trên địa bàn thành phố Vinh nói chung, trường THPT Huỳnh Thúc Kháng nói riêng còn học thêm ngoài nhà trường quá nhiều, các em không có thời gian để tham gia nhiều các hoạt động tập thể. Nhiều em được gia đình bao bọc, chỉ biết đến việc học, thiếu kỹ năng sống, hạn chế trong khả năng tự lập. Một số em còn thụ động, chưa phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập. Lối học chạy theo điểm số là nguyên nhân khiến nhiều em bỏ lỡ cơ hội để rèn luyện kỹ năng, nhất là các kỹ năng mềm. Nhiều bậc phụ huynh còn có những quan niệm chưa đúng về hoạt động giáo dục ngoài giờ. Họ chưa thấy rằng cùng với hoạt động học tập thì việc tham gia các hoạt động ngoại khóa vừa là một nhiệm vụ vừa là quyền lợi, đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của mỗi học sinh. Chính vì vậy, họ chỉ đầu tư nhiều cho hoạt động học tập, thu nhận các kiến thức văn hóa, khoa học mà chưa khuyến khích tạo điều kiện cho học sinh tham gia vào các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp của trường, lớp.
17
Thứ tư, cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện phục vụ cho các hoạt động giáo dục còn hạn chế. Hoạt động ngoài giờ, nhất là những chương trình ngoại khóa thường được tổ chức với quy mô lớn, có sự tham gia đông đảo của giáo viên và học sinh. Vì thế, đòi hỏi một cơ sở vật chất, trang thiết bị lớn như địa điểm, bàn ghế, loa máy, màn hình… và tốn kém không ít kinh phí. Trong khi đó, nguồn thu tài chính của nhà trường phổ thông không nhiều, cơ sở vật chất được trang bị qua thời gian sử dụng không tránh khỏi lạc hậu hoặc hư hỏng. Tuy đây không phải là yếu tố quyết định đến kết qủa giáo dục nhưng cũng có ảnh hưởng không nhỏ.
Vậy làm thế nào để khắc phục được thực trạng đó? Trong khuôn khổ một sáng kiến kinh nghiệm, chúng tôi mạnh dạn đề xuất một số biện pháp cụ thể đã được áp dụng có hiệu quả tại đơn vị - trường THPT Huỳnh Thúc Kháng.
3. Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh THPT
qua hoạt động ngoài giờ lên lớp
3.1. Nguyên tắc đề xuất biện pháp
- Phải đáp ứng yêu cầu phát triển nhân cách của học sinh.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã nêu rõ: “Con người vừa là thực thể tự nhiên, vừa là thực thể xã hội, nhưng con người có cá tính riêng”. Trong quá trình hoạt động, nhờ các mối quan hệ với thế giới tự nhiên, thế giới đồ vật do các thế hệ trước tạo ra và các quan hệ xã hội mà con người gắn bó bằng các hoạt động đã nói ở trên, nhân cách của con người được hình thành, phát triển. Bởi vậy, trong quá trình lựa chọn các biện pháp giáo dục kỹ năng tranh biện cho học sinh, chúng tôi nhận thấy cần áp dụng các giải pháp phát huy cao nhất các yếu tố hình thành, phát triển nhân cách của học sinh, đảm bảo tính tự nhiên trong phát triển con người và nâng cao năng lực tự chủ của mỗi cá nhân.
- Đảm bảo quan điểm giáo dục theo phương pháp sư phạm tương tác.
Theo phương pháp sư phạm tương tác, trong quá trình học tập ở trường THPT, mỗi học sinh phải tự mình chiếm lĩnh hệ thống tri thức, kỹ năng, phải nắm vững những cơ sở của nghề nghiệp tương lai ở trình độ phổ thông và có tiềm năng vươn lên thích ứng với những yêu cầu do thực tiễn xã hội và cách mạng khoa học, công nghệ đặt ra. Muốn vậy, khi tiến hành hoạt động học tập ở trường THTP, học sinh cần tiến hành hoạt động nhận thức trên cơ sở khả năng tư duy độc lập, có óc phê phán, có thể khẳng định, phủ định, hoài nghi và tự xây dựng cho mình phương pháp học tập thích hợp.
Từ quan điểm giáo dục trên, chúng tôi cũng tiến hành giáo dục kĩ năng tranh biện cho học sinh trên tinh thần phát huy tư duy độc lập sáng tạo và các năng lực, sở trường của học sinh. Giáo dục học sinh phải tạo được sự tương tác, không giáo dục một chiều hay máy móc, rập khuôn.
- Đảm bảo tính thực tiễn của hoạt động giáo dục.
Các biện pháp được đề xuất cho việc tổ chức quá trình học tập được thực thi trong thực tiễn dạy học ở trường THPT Huỳnh Thúc Kháng. Điều đó có nghĩa là các biện pháp phải đáp ứng mục tiêu đào tạo của nhà trường, giúp học sinh nắm kiến thức và kỹ năng thực hành tương ứng, có khả năng phát hiện, giải quyết những vấn đề cơ bản của giáo dục ở trường THPT đặt ra.
18
Các biện pháp phải phù hợp với nội dung, phương pháp dạy học, tức là phải đảm bảo tính hiện đại, cân đối hài hòa của nội dung, phương pháp dạy học,
coi trọng phương pháp tự học, tự nghiên cứu, tạo điều kiện để người học phát huy tính chủ động sáng tạo của mình.
3.2. Một số biện pháp cụ thể nhằm nâng cao kỹ năng tranh biện
cho học sinh THPT qua hoạt động ngoài giờ lên lớp
3.2.1. Phối hợp với các tổ chức, đoàn thể trong nhà trường xây dựng
kế hoạch
3.2.1.1. Mục đích
Hoạt động ngoài giờ lên lớp thường diễn ra với quy mô lớn, với nhiều cách thức tổ chức, có sự tham gia của toàn thể học sinh và giáo viên trong toàn trường. Đây là hoạt động mà không có một cá nhân nào có thể độc lập thực hiện. Vì vậy, giáo viên cần phối hợp với tổ nhóm chuyên môn, các Ban, đoàn thể trong nhà trường. Kinh nghiệm cho thấy sự phối hợp này càng nhịp nhàng thì sự thành công của chương trình càng lớn. Sự phối hợp đó phải được bắt đầu từ quá trình xây dựng kế hoạch.
3.2.1.2. Nội dung
Xây dựng kế hoạch Hoạt động ngoài giờ lên lớp gắn với mục tiêu rèn luyện kỹ năng tranh biện. Trong đó xác định rõ quan điểm phối hợp, nội dung phối hợp với các tổ chức, đoàn thể trong nhà trường để nhằm thực hiện mục tiêu này.
3.2.1.3. Cách thức tiến hành
Phối hợp với tổ nhóm chuyên môn trong xây dựng kế hoạch
Tổ chuyên môn là một bộ phận cấu thành trong bộ máy tổ chức, quản lý của nhà trường phổ thông. Tổ chuyên môn giúp nhà trường điều hành và tổ chức thực hiện các hoạt động sư phạm và nghiệp vụ chuyên môn. Tổ chuyên môn là đầu mối để hiệu trưởng quản lý về nhiều mặt, nhưng chủ yếu vẫn là chuyên môn, tức là hoạt động dạy học trong nhà trường. Bởi vậy, để hoạt động dạy học thành công, trước hết giáo viên cần phải phối hợp với tổ nhóm chuyên môn trong các công việc cụ thể.
Trước hết, chúng tôi tiến hành thảo luận cùng nhóm chuyên môn xây dựng kế hoạch năm học. Với ý tưởng lồng ghép giáo dục kỹ năng tranh biện vào hoạt động sinh hoạt tập thể, chúng tôi thống nhất xây dựng kế hoạch tổ chức ngoại khóa đồng thời quan tâm hướng dẫn các hoạt động ngoài giờ khác của học sinh như sinh hoạt nhóm, câu lạc bộ, các hoạt động văn hóa, văn nghệ… Trong kế hoạch, chúng tôi thảo luận thống nhất biện pháp nhóm chuyên môn phối hợp với các đoàn thể nhà trường như Ban ngoài giờ lên lớp, Đoàn trường, Ban văn nghệ để tổ chức hoạt động ngoại khóa.
19
Phối hợp với các đoàn thể nhà trường trong xây dựng kế hoạch
Ngoài tổ nhóm chuyên môn, các đoàn thể cũng có vai trò rất quan trọng trong việc vận hành bộ máy của nhà trường. Bởi đây là các bộ phận đảm nhiệm những chức năng khác nhau đảm bảo các hoạt động của nhà trường có hiệu quả. Để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng cho học sinh qua hoạt động ngoài giờ lên lớp, chúng tôi phối hợp với Ban ngoài giờ lên lớp, Ban văn nghệ và Đoàn trường để lên lên chương trình hành động và lựa chọn thời gian, địa điểm, thành phần tham gia.
Cụ thể, thống nhất thực hiện theo chủ điểm ngoài giờ lên lớp, hình thức tổ chức là cuộc thi tranh biện. Ngoài ra, để chương trình hấp dẫn, còn cần đến hệ thống câu hỏi theo chủ đề, các tiết mục văn nghệ, tiểu phẩm. Phần thi tranh biện do chúng tôi phụ trách. Các tiết mục văn nghệ và tiểu phẩm do Đoàn trường và Ban văn nghệ đảm nhiệm. Hệ thống câu hỏi do Ban ngoài giờ lên lớp xây dựng. Ngoài ra, việc quản lý học sinh cần đến sự hỗ trợ của Ban nề nếp và các giáo viên chủ nhiệm. Những công việc này được phân công đến từng thành viên chịu trách nhiệm cho đến khi kết thúc hoạt động.
Xin ý kiến phê duyệt của Ban giám hiệu
Trên cơ sở kế hoạch đã xây dựng, chúng tôi đăng ký chuyên đề ngoại khóa. Việc đăng ký phải được thực hiện từ đầu năm học và có sự phê duyệt của ban giám hiệu bởi đây là hoạt động do nhà trường tổ chức và quản lý với sự phối hợp tham gia của các tổ chức, đoàn thể khác trong đơn vị.
3.2.2. Phát hiện và bồi dưỡng nhân tố có năng khiếu tranh biện
3.2.2.1. Mục đích
Xu hướng dạy học hiện nay chú trọng phát huy tốt nhất tiềm năng, sở trường, phù hợp với sở thích, hứng thú của học sinh. Cần phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học, khuyến khích học sinh tham gia vào các hoạt động học tập, tự phát hiện năng lực, nguyện vọng của bản thân. Môi trường giáo dục đó thuận lợi cho việc tìm kiếm và bồi dưỡng các nhân tố có năng khiếu, sở trường trong một lĩnh vực nhất định. Qua hoạt động dạy học, giáo viên chú ý phát hiện từ đó có kế hoạch bồi dưỡng các nhân tố có năng khiếu tranh biện.
3.2.2.2. Nội dung
Đề xuất những biện pháp cụ thể nhằm phát hiện và bồi dưỡng những học sinh có năng khiếu tranh biện, tạo lực lượng nòng cốt cho các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
3.2.2.3. Cách thức tiến hành
Phát hiện học sinh có năng khiếu tranh biện
Trong thực tế dạy học, giáo viên có thể phát hiện các em có năng khiếu
20
tranh biện qua các tiết học và qua các sinh hoạt tập thể.
Qua các tiết học, giáo viên cần tạo tình huống có vấn đề, đem đến những kiến giải khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Bằng các phương pháp dạy học tích cực, giáo viên tạo không khí học tập, kích thích trí tò mò, khả năng khám phá của học sinh. Căn cứ vào phản hồi của các em, giáo viên tập hợp, phân loại thành hai luồng ý kiến khác nhau từ đó khéo léo gợi mở để học sinh có cái nhìn so sánh, nêu ra lí lẽ và dẫn chứng để bảo vệ ý kiến của mình. Có nhiều cách để giúp các em bộc lộ và rèn luyện kỹ năng như: bài tập trình bày một vấn đề, phân tích và đánh giá về một vấn đề, tổ chức hệ thống luận điểm theo trình tự logic, tìm kiếm minh chứng cho lỹ lẽ… Đồng thời giáo viên có thể gợi mở thêm các chủ đề tranh luận để học sinh suy ngẫm, đề xuất ý kiến và triển khai lập luận thành một bài viết hoàn chỉnh. Qua đó phát hiện và bồi dưỡng những học sinh có các tố chất như: có năng lực tư duy phản biện sáng tạo, có kỹ năng phát hiện và giải quyết vấn đề, có khả năng tiếp thu và chọn lọc, có bản lĩnh trước các tình huống khó khăn.
Đặc biệt qua hoạt động sinh hoạt tập thể, giáo viên có thể tìm kiếm và bồi dưỡng những học sinh có năng khiếu tranh biện. Đó là những hoạt động như: sinh hoạt lớp, sinh hoạt Đoàn, sinh hoạt nhóm, câu lạc bộ, các hội thi văn nghệ, thể thao, diễn đàn… Bằng sự quan sát tỉ mỉ và tìm hiểu kỹ lưỡng, chúng tôi phát hiện được những em có khả năng diễn đạt, thuyết trình trước đám đông, biết thể hiện chính kiến và bảo vệ quan điểm của mình. Đó thường là những em biết phát hiện vấn đề và mạnh dạn, tự tin trong phát biểu, bày tỏ ý kiến. Không chỉ biết trình bày một cách lưu loát, khoa học nội dung đã chuẩn bị, các em còn biết giao lưu với bạn bè, thầy cô để tạo sự tương tác, biết khai thác các yếu tố hỗ trợ như giọng nói, ngữ điệu, nét mặt, cử chỉ, tác phong, trang phục… để tạo sự hấp dẫn và sức thuyết phục.
Bồi dưỡng các nhân tố nhân tố có năng khiếu tranh biện
Sau khi phát hiện được các nhân tố có năng khiếu, giáo viên cần có quá trình bồi dưỡng để các em phát huy sở trường của mình bởi năng khiếu có thể là một lợi thế lớn nhưng nếu không được rèn luyện mọi tài năng đều bị lãng phí. Muốn vậy, cần có kế hoạch và kiên trì thực hiện kế hoạch đó trong suốt quá trình giảng dạy.
Trước tiên cần bắt đầu bồi dưỡng từ các lớp học. Bởi để hình thành được kỹ năng đòi hỏi cần có cả quá trình. Muốn vậy, người giáo viên phải thực sự xây dựng được các lớp học tranh biện, tạo không khí đối thoại dân chủ. Một giờ học thật sự hiện đại phải có những đối thoại sôi nổi trong một không khí cởi mở. Khoảng cách thầy - trò được rút ngắn, quan hệ thầy - trò trở nên thân thiện hơn bao giờ hết. Trong một môi trường học tập như thế, học sinh hoàn toàn có đủ tự tin để đưa ra những ý kiến tranh biện (với bạn, với thầy, cô) về một nội dung nào đó. Các em sẽ coi đó như là những hoạt động học tập tích cực, sáng tạo. Không nên dùng những “đòn phủ đầu” đối với những ý kiến chưa phù hợp. Hãy tỏ ra trân trọng và lắng nghe, hãy để cho các em trình bày trọn vẹn ý kiến của 21
mình. Điều đó giúp các em hiểu rằng, mình đang được học trong một giờ học đầy ắp tính dân chủ. Biện pháp này có thể vận dụng với tất cả các đối tượng học sinh. Với những học sinh có sự đam mê thì biện pháp này càng phát huy hiệu quả cao.
Tạo được bầu không khí đối thoại dân chủ là điều kiện để bắt đầu bài học cốt lõi của tranh biện – kỹ năng lập luận. Bởi vì, muốn đạt đến tính tối ưu của vấn đề buộc phải thuyết phục được người khác. Một bài tranh biện có sức thuyết phục đến đâu là phụ thuộc vào độ sắc của những lí lẽ, độ mạnh mẽ hùng hồn của lập luận, độ chắc chắn, đáng tin cậy của minh chứng mà người tranh biện đưa ra. Giáo viên cần khuyến khích học sinh sử dụng các kỹ năng lập luận. Học sinh sẽ học cách nghiên cứu bằng cách đưa ra các lý giải hợp lý cho câu trả lời. Có nhiều cách luyện tập kỹ năng này như: những bài tập trình bày một vấn đề; đánh giá và giải thích đánh giá của mình về một vấn đề; tổ chức hệ thống luận điểm theo các trình tự logic khác nhau; tìm kiếm minh chứng cho luận điểm... Lập luận trong tranh biện phải rõ ràng, logic, đầy đủ bằng chứng, toàn diện và chặt chẽ. Giáo viên có thể gợi mở các chủ đề tranh luận để học sinh suy ngẫm, đề xuất ý kiến và triển khai lập luận thành các bài viết hoàn chỉnh.
Việc rèn luyện kỹ năng lập luận sẽ chuẩn bị tốt cho nội dung của bài tranh biện. Tuy nhiên, để tranh biện thực sự thành công còn phụ thuộc rất nhiều vào khả năng trình bày giàu sức thuyết phục, có tính hùng biện cao. Qua các bài học và sinh hoạt lớp, sinh hoạt Đoàn, giáo viên hướng dẫn học sinh trình bày ý kiến cá nhân trước tập thể. Hình thức đơn giản nhất là các ý kiến xây dựng bài, những câu trả lời ngắn. Tiếp đến là những bài thuyết trình thảo luận nhóm. Các em có thể luân phiên trình bày trước lớp sản phẩm hoạt động của nhóm mình. Điều này sẽ tạo điều kiện cho mỗi em đều có cơ hội rèn luyện kỹ năng nói trước đám đông.
22
Qua các trải nghiệm đó, giáo viên hướng dẫn học sinh những kỹ năng cơ bản để thuyết phục người khác thành công. Thứ nhất, cần có một quan điểm rõ ràng, có sức thuyết phục. Thứ hai, có phong thái tự tin, biết mở đầu một cách ấn tượng, thu hút được sự chú ý của khán giả ngay từ những câu nói đầu tiên. Thứ ba, trình bày một cách khoa học, logic các nội dung đã chuẩn bị. Thứ tư, biết khai thác các yếu tố phi ngôn ngữ như giọng nói, ngữ điệu, cử chỉ, ánh mắt, tác phong, trang phục… Thứ năm, biết giao lưu với khán giả để tạo sự tương tác. Tất cả những yếu tố này không phải được hình thành trong ngày một ngày hai mà đòi hỏi phải trải qua một quá trình rèn luyện, bồi dưỡng lâu dài, tỉ mỉ.
23
Học sinh rèn luyện qua các sinh hoạt tập thể lớp
Trên thực tế, giáo viên có thể thực hiện nhiều hình thức khác nhau để rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh. Từ nội dung dạy học, giáo viên gợi mở vấn đề để học sinh tranh biện. Đặc biệt, giáo viên có thể xây dựng các tiết học mà ở đó, tranh biện trở thành một hoạt động trọng tâm. Tiết học được tổ chức như một cuộc tranh biện thu nhỏ. Tại đó, giáo viên tổ chức cho học sinh tranh biện về một chủ đề. Các đội lần lượt nêu ý kiến đồng thời đối thoại, đặt câu hỏi tranh biện để bảo vệ quan điểm của mình đồng thời phản bác quan điểm của đối phương. Những em có năng khiếu sẽ thể hiện vai trò chủ lực trong các hoạt động. Các học sinh khác cũng tích cực tham gia và tự bồi dưỡng năng lực của mình. Các tiết học như vậy sẽ tạo điều kiện cho các em tập dượt kỹ năng tranh biện trước khi có thể tự tin tham gia vào các hoạt động tranh biện trong sinh hoạt ngoại khóa.
24
Học sinh rèn luyện qua các tiết học được tổ chức theo hình thức tranh biện
Ngoài ra, giáo viên cần tạo điều kiện thuận lợi cho các em tham gia sinh hoạt tập thể như sinh hoạt lớp, sinh hoạt Đoàn, sinh hoạt nhóm, câu lạc bộ, giao lưu văn nghệ, thể thao… Cần giao cho học sinh các nhiệm vụ phù hợp đồng thời có sự hướng dẫn, điều chỉnh cho các em trong quá trình thực hiện. Những em thực sự có đam mê, giáo viên có thể giới thiệu các em tham gia câu lạc bộ tranh biện hoặc tham dự các cuộc thi. Khi đó, học sinh sẽ được rèn luyện kỹ năng tranh biện ở mức độ chuyên sâu.
Là giáo viên dạy môn Ngữ văn, chúng tôi đã ứng dụng biện pháp trên và nhận thấy hiệu quả rõ rệt. Qua sản phẩm học tập của các em, chúng tôi phát hiện được những học sinh có tư duy phản biện, có khả năng lập luận, trình bày tốt. Đây là những em có thể trở thành nòng cốt cho câu lạc bộ tranh biện và các hoạt động ngoài giờ lên lớp khác.
3.2.3. Tổ chức tốt hoạt động của câu lạc bộ tranh biện
3.2.3.1. Mục đích
Câu lạc bộ là hình thức sinh hoạt ngoại khóa của những nhóm học sinh cùng sở thích, nhu cầu, năng khiếu… dưới sự định hướng của những nhà giáo dục nhằm tạo môi trường giao lưu thân thiện, tích cực giữa các học sinh với nhau và giữa học sinh với thầy cô giáo, với những người lớn khác. Hoạt động của câu lạc bộ tạo cơ hội để học sinh được chia sẻ những kiến thức, hiểu biết của mình về các lĩnh vực mà các em quan tâm, qua đó phát triển các kĩ năng của học sinh.
3.2.3.2. Nội dung
Ở các trường THPT, các nhóm, câu lạc bộ do học sinh thành lập và điều hành nhưng để các câu lạc bộ này thực sự hoạt động có hiệu quả, rất cần đến vai trò định hướng, tư vấn của giáo viên.
3.2.3.3. Cách thức tiến hành
Nhiều năm qua, trường THPT Huỳnh Thúc Kháng luôn đẩy mạnh các hoạt động ngoài giờ lên lớp dưới hình thức sinh hoạt câu lạc bộ. Hoạt động của các câu lạc bộ nhà trường đa dạng các loại hình, tạo sự gắn kết giữa học sinh, góp phần xây dựng môi trường học tập lành mạnh, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Trong đó, câu lạc bộ tranh biện được nhà trường quan tâm, thúc đẩy.
Được thành lập vào ngày 8/9/2018, đến nay sau gần hai năm hoạt động, Câu lạc bộ đã có 30 thành viên và tổ chức được nhiều dự án hoạt động phong phú, có sức lan toả. Được tổ chức bài bản, chặt chẽ, hoạt động theo hình thức tự chủ, tự nguyện dưới sự giám sát của Ban chấp hành Đoàn trường, câu lạc bộ tranh biện đã thực sự trở thành môi trường để học sinh Huỳnh Thúc Kháng thể hiện và hoàn thiện bản thân, chia sẻ trách nhiệm cộng đồng.
25
Để có được kết quả đó, chúng tôi đã áp dụng những biện pháp cụ thể sau:
Hướng dẫn học sinh trang bị kiến thức, kỹ năng tranh biện
trang web 2016; các
Với vốn kiến thức, kỹ năng đã có từ có từ các môn học, đặc biệt là môn Ngữ văn, học sinh còn cần trang bị thêm những kiến thức, kỹ năng chuyên sâu cho hoạt động tranh biện. Để làm được điều này, tôi hướng dẫn học sinh tìm các nguồn tài liệu qua sách vở, báo chí, internet. Các em trong câu lạc bộ là những học sinh năng động có nền tảng học vấn, kỹ năng tốt nên tiếp cận rất nhanh với các nguồn tài liệu, trong đó có cả tài liệu từ nước ngoài. Một số em có vốn ngoại ngữ tốt còn có thể đọc và dịch tài liệu từ Tiếng Anh. Một số nguồn tài liệu chúng tôi đã hướng dẫn học sinh tìm hiểu: Vietyouthtodebate, Giáo án khóa học debate, tài liệu lưu hành nội bộ trong khóa học về tranh biện và tư duy phản biện, Hà Nội, http://debatewise.org/; http://en.wikipedia.org/wiki/Debate; http://www.idebate.org/; http://www.ipdadebate.org/...
Bên cạnh đó, để trang bị cho học sinh kinh nghiệm thực tế về tranh biện, chúng tôi hướng dẫn học sinh học tập các khóa học trên internet, mời các chuyên gia. Ngoài ra, học sinh còn có thể giao lưu học hỏi, thi đấu với các câu lạc bộ tranh biện của các trường THPT trong và ngoài tỉnh.
26
Giao lưu với Câu lạc bộ tranh biện THPT chuyên Phan Bội Châu
Tham gia thi đấu với các CLB tranh biện trong thành phố Vinh
Hướng dẫn học sinh tổ chức các hoạt động tranh biện của câu lạc
bộ
Câu lạc bộ phải là nơi các em được rèn luyện kỹ năng tranh biện một cách thường xuyên nhất. Chúng tôi hướng dẫn các em tổ chức các hình thức sinh hoạt đa dạng, phong phú như sau:
- Thảo luận xây dựng các chủ đề tranh biện. Chủ đề lựa chọn thường gần gũi và thiết thực với đời sống học sinh hiện nay. Chẳng hạn: “Giới trẻ ngày nay phụ thuộc quá nhiều vào công nghệ”; “Có nên sử dụng mạng xã hội?”; “Đại học có phải là con đường duy nhất?”; “Học nghề có phải là sự lựa chọn phù hợp với xu thế hiện nay?”; “Có nên theo đuổi con đường du học?”; “Con người hiện đại nên đi theo một lĩnh vực mình yêu thích hay đi theo nhiều lĩnh vực?”... Các chủ đề phải đưa tới những quan điểm và sự lựa chọn khác nhau để học sinh có thể đồng tình hay phản bác.
27
- Mỗi tháng hai lần, câu lạc bộ tổ chức thi đấu tranh biện giữa các thành viên. Dưới sự điều hành của chủ nhiệm câu lạc bộ, các thành viên được thi đấu với nhau. Đây chính là hình thức thực hành hiệu quả giúp học sinh vận dụng những gì đã học được đồng thời đúc rút kinh nghiệm thực tiễn. Các cuộc thi đấu diễn ra càng thường xuyên, kỹ năng tranh biện của các em càng thành thục.
28
Thảo luận chủ đề tranh biện
Thi đấu giữa các thành viên của Câu lạc bộ
- Tổ chức các buổi ngoại khóa với các hoạt động trải nghiệm như đi tới các địa điểm khác nhau để tìm hiểu về đề tài; làm phóng viên bán chuyên nghiệp để gặp gỡ, giao lưu cũng như phỏng vấn, tham khảo ý kiến về đề tài; thử sức làm phim tài liệu để bảo vệ ý kiến ủng hộ hay phản đối; diễn kịch về vấn đề được xã hội quan tâm; tham gia các hoạt động ngoài giờ lên lớp do nhà trường tổ chức… Các hình thức trải nghiệm sáng tạo phong phú không chỉ giúp các em nâng cao hiểu biết xã hội mà còn rèn luyện năng lực phản biện, khả năng hợp tác và gắn kết tình bạn.
29
Trải nghiệm thực tế
Hướng dẫn học sinh sử dụng internet để quảng bá, trao đổi thông
tin cho hoạt động của câu lạc bộ
Để hỗ trợ cho hoạt động của câu lạc bộ, học sinh có thể sử dụng các trang mạng xã hội như Facebook, Zalo. Từ khi mới thành lập, câu lạc bộ tranh biện Huỳnh Thúc Kháng đã lập được trang fan page: https://facebook.com.H.D.C. Huỳnh Debate Club nhằm quảng bá, thông tin cho các hoạt động của câu lạc bộ như: thông báo thành lập, tuyển thành viên, đưa tin sự kiện, tổ chức các diễn đàn theo chủ đề… Với các thông tin cập nhật, hấp dẫn, trang fan page đã được gần 900 lượt like, thu hút sự quan tâm chú ý của cộng đồng mạng.
Biểu tượng của trang fanpage H.D.C. Huỳnh Debate Club
Có thể thấy, việc tổ chức tốt hoạt động của câu lạc bộ là một biện pháp hữu hiệu trong lĩnh vực ngoài giờ lên lớp, giúp xây dựng lực lượng nòng cốt cho hoạt động tranh biện và tạo sức lan tỏa tới học sinh trong toàn trường. Những học sinh thực sự có năng khiếu và đam mê tranh biện sẽ có môi trường để rèn luyện và phát triển. Những thành công của Câu lạc bộ sẽ lôi cuốn các em học sinh khác tham gia. Bằng cách đó có thể phát triển phong trào tranh biện tại trường THPT.
3.2.4. Phối hợp với các đoàn thể tổ chức hoạt động ngoại khóa
3.2.4.1. Mục đích
30
Nếu như hoạt động của các câu lạc bộ hướng đến rèn luyện kỹ năng chuyên sâu cho những em có năng khiếu thì hoạt động ngoại khóa lại hướng đến đối tượng học sinh đại trà, tạo sân chơi hấp dẫn và bổ ích cho học sinh toàn
trường. Tổ chức ngoại khóa sẽ giúp học sinh học hỏi và nâng cao kỹ năng tranh biện.
3.2.4.2. Nội dung
Đề xuất các bước cụ thể trong tổ chức hoạt động ngoại khóa nhằm đạt
mục tiêu rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh.
3.2.4.3. Cách thức tiến hành
Theo kế hoạch đã đăng ký từ đầu năm học, chúng tôi phối hợp với các tổ nhóm chuyên môn, Ban ngoài giờ lên lớp, Ban văn nghệ và Đoàn trường tổ chức hoạt động ngoại khóa. Theo chương trình của Hoạt động ngoài giờ lên lớp, có thể lồng ghép tổ chức hoạt động tranh biện như một hình thức sinh hoạt mới mẻ, hấp dẫn.
Trong bất kì hoạt động học tập hay nghiên cứu nào đều phải tuân thủ nguyên tắc chân lí phải được kiểm nghiệm qua thực tiễn. Chính vì vậy, để khẳng định tính khả thi cũng như sự phù hợp của đề tài, chúng tôi đã tiến thành thực nghiệm sư phạm tại trường THPT Huỳnh Thúc Kháng. Hoạt động này giúp chúng tôi đánh giá được hiệu quả của việc vận dụng các giải pháp nhằm nâng cao kỹ năng tranh biện cho học sinh. Kết quả của thực nghiệm còn giúp chúng tôi rút ra được những bài học kinh nghiệm cũng như nghiên cứu thêm các giải pháp mới nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động dạy học.
Các bước thực hiện như sau:
Bước 1: Thống nhất thời gian, địa điểm, thành phần và hình thức
ngoại khóa
Theo kế hoạch đã được Ban giám hiệu phê duyệt, chúng tôi thống nhất chủ điểm, thời gian, địa điểm, thành phần tham gia ngoại khóa, hình thức tổ chức.
- Thực tế tại đơn vị, trong chương trình ngoại khóa học kỳ I, năm học 2019 – 2020, chúng tôi đã lựa chọn chủ điểm “Thanh niên với tình bạn, tình yêu, gia đình”.
- Thời gian: Ngày 14/10/2019.
- Địa điểm: Sân trường THPT Huỳnh Thúc Kháng.
- Đối tượng: học sinh toàn trường.
- Về hình thức, chúng tôi tổ chức cuộc thi tranh biện. Ngoài ra còn kết
hợp với các hình thức diễn đàn, sân khấu tương tác, đóng vai, hỏi đáp…
Bước 2: Căn cứ vào khung phân phối chương trình của Hoạt động
ngoài giờ lên lớp lựa chọn chủ đề tranh biện phù hợp
Việc lựa chọn chủ đề và hình thức ngoại khóa như thế nào cho phù hợp là điều mà các nhà quản lý và giáo viên phải cân nhắc kỹ lưỡng. Bởi nó ảnh hưởng 31
rất lớn đến kết quả mà học sinh thu nhận được. Muốn vậy, khi lựa chọn chủ đề cần căn cứ vào nội dung chương trình, đối tượng học sinh và tình hình thực tế của nhà trường để lựa chọn chủ đề vừa có ý nghĩa giáo dục vừa đảm bảo hấp dẫn, lôi cuốn sự tham gia tích cực của học sinh.
Hoạt động ngoài giờ lên lớp thường được thực hiện vào tiết sinh hoạt dưới cờ đầu tuần. Đây là sinh hoạt tập thể có sự góp mặt của toàn thể giáo viên và học sinh trong toàn trường. Nội dung sinh hoạt rất phong phú, tập trung vào các vấn đề lớn: lẽ sống của thanh niên trong giai đoạn công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước; tình bạn, tình yêu, hôn nhân và gia đình; nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; truyền thống dân tộc và truyền thống cách mạng, bảo vệ di sản văn hóa; thanh niên với vấn đề lập thân, lập nghiệp; những vấn đề có tính nhân loại như bệnh tật, đói nghèo, dân số, môi trường, giáo dục và phát triển, hòa bình, hợp tác hữu nghị giữa các dân tộc…
Các nội dung trên được cấu trúc theo chủ điểm, giáo viên có thể căn cứ vào đó để lựa chọn chủ đề tranh biện phù hợp. Chủ đề phải là những vấn đề có tính tranh luận và gần gũi, thu hút sự quan tâm chú ý của học sinh. Chẳng hạn với chủ điểm “Thanh niên với vấn đề lập nghiệp”, chúng tôi chọn một trong số các chủ đề: “Chọn nghề theo mong muốn bản thân hay theo định hướng của gia đình?” “Học đại học trong nước hay du học?”… Tương tự như thế, có thể lựa chọn các vấn đề như “Bản sắc văn hóa dân tộc và hội nhập”, “Phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường”, “Truyền thống tôn sư trọng đạo trong xã hội ngày nay”… Đây đều là những vấn đề thiết thực, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi, mang tính định hướng và có ý nghĩa giáo dục cao. Việc lồng ghép chủ đề tranh biện với chủ đề Hoạt động ngoài giờ lên lớp sẽ tạo ra một hình thức sinh hoạt sinh động, vừa đảm bảo chất lượng giáo dục kiến thức, kỹ năng cho học sinh, vừa tiết kiệm thời gian và cơ sở vật chất.
Thực tế tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp tại đơn vị, với chủ điểm “Thanh niên với tình bạn, tình yêu, gia đình”, chúng tôi đã lựa chọn chủ đề: “Có nên yêu ở tuổi học trò?” Chủ đề này sát với chương trình các môn học như Ngữ văn, giáo dục công dân, có ý nghĩa định hướng quan trọng cho các em – đối tượng độ đang tuổi trưởng thành, đứng trước ngưỡng cửa của tình yêu với rất nhiều băn khoăn trong lựa chọn. Đây cũng là vấn đề các em rất quan tâm nhưng không phải em nào cũng có quan điểm đúng đắn.
Bước 3: Xây dựng kịch bản chương trình gắn với mục tiêu rèn luyện
kỹ năng tranh biện
32
Để ngoại khóa diễn ra thành công, chúng tôi phối hợp với nhóm chuyên môn và Ban ngoài giờ lên lớp xây dựng kế hoạch hoạt động. Có nhiều cách thức tổ chức nhưng với tranh biện, phù hợp nhất là dưới hình thức cuộc thi. Đây là hình thức chứa đựng yếu tố căng thẳng, kịch tính, có tính tương tác cao, thu hút sự chú ý của người xem. Trên cơ sở xác định mục tiêu của hoạt động, chúng tôi
tiến hành xây dựng kịch bản chương trình cụ thể, trong đó phần thi tranh biện là nội dung cốt lõi, trọng tâm.
Trong thực tế tại đơn vị, chúng tôi đã xây dựng kịch bản cho chủ điểm
ngoài giờ lên lớp “Thanh niên với tình bạn, tình yêu, gia đình” như sau:
KỊCH BẢN CHƯƠNG TRÌNH
Phần 1: Chào hỏi
- Hai đội thi chào hỏi khán giả và tự giới thiệu. Thời gian dành cho mỗi
đội là 5 phút. Điểm số: 30.
- Ban giám khảo nhận xét, cho điểm.
Phần 2: Hiểu biết
- Hai đội chọn gói câu hỏi, mỗi gói 6 câu hỏi.
- Từng đội thảo luận trả lời. Nếu không trả lời được, đội đối phương trả
lời, nếu đúng lấy điểm; khán giả trả lời, nếu đúng lấy quà. Điểm số: 30
- Ban giám khảo cho điểm.
Phần 3: Phần chơi dành cho khán giả.
Phần chơi có 5 câu hỏi theo chủ đề dành cho học sinh toàn trường. Học
sinh xung phong trả lời câu hỏi và nhận quà từ Ban tổ chức.
Phần 4: Tranh biện
- Nêu tình huống bằng hình thức tiểu phẩm. Từ đó đưa ra chủ đề bằng
cách đặt câu hỏi yêu cầu hai đội trả lời. Chủ đề: “Có nên yêu ở tuổi học trò?”
- Đại diện hai đội trình bày. Đội thứ nhất: đồng tình. Đội thứ hai: phản
đối.
- Tranh biện, đối thoại:
+ Giữa hai đội với nhau (2 câu hỏi).
+ Giữa hai đội với khán giả: khán giả đặt câu hỏi cho hai đội (2 - 3 câu
hỏi).
- Điểm: 40
- Ban giám khảo nhận xét, tư vấn, định hướng.
Phần 5: Tổng kết, trao thưởng
- Ban thư kí thông báo kết quả.
- Trao thưởng cho hai đội thi.
(Giữa các phần có xen các tiết mục văn nghệ phù hợp với chủ đề)
33
Bước 4: Cố vấn, hỗ trợ học sinh thực hiện hoạt động tranh biện
Phần thi tranh biện là nội dung trọng tâm nên việc chuẩn bị nội dung cho bài tranh biện có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Trước hết, cần phát huy tính chủ động, sáng tạo, khả năng hoạt động độc lập, làm việc nhóm và giải quyết vấn đề của các em. Với các kiến thức, kỹ năng đã được trang bị qua các giờ học, qua sinh hoạt câu lạc bộ và tự nghiên cứu, trải nghiệm, mỗi đội có thể tự chuẩn bị được các bài tranh biện.
Tuy nhiên, để có kết quả tốt nhất, cần đến sự cố vấn, hỗ trợ của giáo viên. Bởi bài tranh biện được trình bày trước toàn trường sẽ được học sinh coi như một văn bản để học tập và rút kinh nghiệm cho chính mình. Một bài viết được chuẩn bị chu đáo sẽ có tác dụng giáo dục tốt, tạo được hiệu ứng cao. Trước khi cuộc thi diễn ra, giáo viên duyệt nội dung, hình thức trình bày từ đó bổ sung, tư vấn. Công việc này có thể tiến hành nhiều lần, cho đến khi sản phẩm được hoàn thiện ở mức cao nhất. Khi cuộc thi diễn ra, giáo viên vẫn tiếp tục cố vấn học sinh thực hiện kế hoạch hoạt động, kịp thời hỗ trợ các em khi có tình huống nảy sinh.
Bài tranh biện của hai đội thi theo chủ đề: “Có nên yêu ở tuổi học trò?”
(sau khi bổ sung, hoàn chỉnh)
ĐỘI 1 (ĐỒNG TÌNH)
* Bài tranh biện
Tình yêu tuổi học trò luôn làm người ta thầm ước, là tình yêu trong sáng vui vẻ ẩn chứa sâu bên trong nó là tình bạn, sự đồng cảm sẻ chia với nhau. Tình yêu lứa tuổi học trò có thực sự xấu hay xấu trong cách suy nghĩ, những quan niệm cổ hủ của người lớn thì ngay bây giờ đội chúng tôi xin đưa ra những quan điểm, lợi ích của tình yêu lứa tuổi học trò đến cho các bạn, để cho các bạn thấy rằng tình yêu lứa tuổi học trò là có thể.
- Là cảm xúc đầu đời trong trẻo nhất
Trong cuộc sống, những thứ gì xảy đến lần đầu tiên thì đều mang lại cho con người những cảm xúc chân thành, mạnh mẽ nhất, và tình yêu cũng không ngoại lệ. Tình yêu đầu đời hay tình yêu tuổi học trò tuy ngây thơ, khờ dại nhưng lại luôn rất thuần khiết, tươi mới và chẳng hề biết toan tính thiệt hơn. Ta yêu, ta tin và ta cùng xây những giấc mơ ngọt ngào mang tên “mãi mãi” vì lúc này ta vẫn chưa biết thế nào là khổ đau, bất hạnh và chia xa.
- Tạo động lực giúp nhau học tốt
34
Các bậc phụ huynh thường nghiêm cấm hay thậm chí la mắng, phạt nặng nếu phát hiện ra những cô cậu học sinh “mới tí tuổi đầu đã bày đặt yêu đương nhăng nhít” vì nghĩ rằng sẽ ảnh hưởng không tốt đến việc học nhưng nào biết rằng tình yêu tuổi học trò có thể trở thành một trong những động lực mạnh mẽ nhất giúp bạn học sinh cùng nhau phấn đấu, nỗ lực học tốt hơn để có thể cùng nhau vào được trường đại học mơ ước, được thầy cô và bố mẹ công nhận.
Và hơn hết đó là tình yêu tuổi học trò có thể nuôi dưỡng những cảm xúc của những đứa trẻ đó trưởng thành hơn mỗi ngày. Cấm cản không giết chết được tình yêu mà chỉ làm cho nó bùng lên mạnh mẽ hơn mà thôi vì đơn giản “Càng cấm thì càng làm”. Thiết nghĩ các bậc làm cha mẹ hãy nhẹ nhàng động viên và truyền cảm hứng để con cái mình có thể đi đúng hướng trong cả chuyện học tập lẫn con đường tình cảm.
- Giúp các bạn trẻ ngày càng trưởng thành
Tình yêu thời “gà bông”, tình yêu tuổi học trò ngây thở trong trẻo mà ta đã trải qua thời niên thiếu sẽ là những trải nghiệm, những bài học kinh nghiệm sống cho các bạn trẻ. Và để rồi sau này khi các bạn trưởng thành và lại yêu, khi tình yêu còn chịu sự chi phối của cả lý trí thì với những gì đã xảy ra các bạn sẽ có đủ vốn liếng tích lũy để ta đã biết mình cần gì, muốn gì và có thể cho đi những gì.
- Lưu lại những kỉ niệm tuyệt vời cho cuộc đời.
Mọi người nói rằng tuổi học trò là một trong những giai đoạn đáng nhớ nhất trong cuộc đời. Vì lúc đó ta có đủ tất cả: ông bà, cha mẹ, anh chị em, thầy cô, bè bạn và cả người ta yêu đầu tiên. Ta và bạn ấy đã cùng nhau trải qua biết bao điều tuyệt diệu đầu tiên: cùng nhau đến trường, những buổi học bài trong thư viện đến tối mịt, hay thậm chí cả những lần bất đồng quan điểm về một bài tập hay giận hờn vu vơ vì một chuyện cỏn con nào đó. Sau này tất cả sẽ trở thành những bút tích đẹp nhất trong cuốn sổ thanh xuân của bạn.
Vậy tại sao một thứ tình cảm đẹp đẽ trong sáng như này lại không được ủng hộ, khi mà chính nó sẽ là lí do, là nguyên nhân, động lực để ngày hôm qua, hôm nay và tương lai những cô cậu học sinh dám hướng về tương lai, hướng về những ước mơ đẹp đẽ nơi mà cả bạn cả đối phương sẽ cùng nhau thành công. Với nhưng quan điểm nêu trên thì chúng tôi khẳng định rằng tình yêu tuổi học trò là không có lỗi và trong môi trường học đường các bạn có thể yêu.
* Câu hỏi cho đội bạn:
- Từ cơ sở định nghĩa nào của tình yêu khiến đội các bạn cho rằng cuộc
đời chỉ nên yêu một người đến hết cuộc đời?
- Tại sao các bạn chắc chắn rằng tình yêu tuổi học trò sẽ dễ khiến các bạn
rơi vào trạng thái u buồn để rồi tìm đến những hướng giải quyết tiêu cực?
ĐỘI 2 (PHẢN ĐỐI)
* Bài tranh biện
35
"Tình yêu có thể giúp chúng ta vượt lên những suy nghĩ tầm thường - nhưng cũng đưa chúng ta đến những ý nghĩ bất bình thường." - Một câu nói bông đùa mà chúng ta vẫn thường hay nói với nhau, không biết xuất phát từ đâu nhưng xét về nhiều khía cạnh lại rất đúng với thực trạng hiện nay.
Khi mạng xã hội ngày càng phát triển, giới trẻ được tiếp xúc với thế giới bên ngoài sớm hơn, bao gồm tình yêu và tình dục. Việc này cộng với thói tò mò đã dẫn đến những hệ luỵ vô cùng nghiêm trọng đối với lứa trẻ. Chính vì vậy, hôm nay chúng tôi nêu ra ý kiến rằng " không nên yêu ở lứa tuổi học trò".
- Người ta nói: “sự thật mất lòng”. Tình yêu học trò thời đại này đã chẳng phải là thời "chạm tay nhau một giây thôi là nhớ nhau cả đời" ngại ngùng nữa, cũng chẳng còn hình ảnh chở nhau trên chiếc xe đạp cũ mơ mộng như đội bạn vẽ ra. Đi kèm với sự tiện ích của mạng xã hội mang đến, là những hệ luỵ không đáng có do sự bồng bột và hiếu kì thích trải nghiệm của các bạn trẻ. Nhất là tình yêu - thứ dễ dàng nhấn chìm, ảnh hưởng xấu tới chính bản thân và gia đình cũng như xã hội. Chính vì vậy, chúng tôi đến đây để khuyên các bạn rằng "không nên yêu ở lứa tuổi học trò". Như đội bạn nói nhưng tôi thấy tình yêu tuổi học trò thường mang tính không rõ rệt giữa tình yêu và tình bạn, thường xuất phát từ những rung động cảm tính nhất thời. Tình yêu tuổi học trò đôi khi nó chỉ cao hơn tình bạn. Tuổi học trò sẽ không tránh khỏi rung động, cảm nắng trước một ai đó. Nhưng dừng lại ở cảm giác thích là đủ rồi. Bởi vì một khi đã gọi là yêu nó sẽ gây ra những ảnh hưởng vô cùng tiêu cực. Đầu tiên là ảnh hưởng tới chính bản thân người đó.
- Ảnh hưởng đến chính bản thân
+ Họ mất rất nhiều thời gian cho đối phương. Gần như 24/7 đều nghĩ về người yêu,tối thức khuya nhắn tin, sáng dậy sớm đi học không còn tâm trí cho việc học. Điều này sau một thời gian sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến kết quả học tập và sức khoẻ, tới chính tương lai của các bạn.
+ Nguy hiểm hơn, ở lứa tuổi này tính tò mò muốn tìm hiểu cực kì cao nên dễ dẫn đến những sự việc quá giới hạn. Đây cũng chính là lí do vì sao có hàng trăm hàng nghìn vụ có thai ngoài ý muốn và phá thai.
+ Tình yêu học trò là tình yêu không bền vững. Nếu yêu nhau mà yêu đến đầu bạc, yêu nhau mà có cơm ăn thì thật sự nên yêu. Nhưng nó chỉ được hình thành từ những rung động cảm tính nhất thời. Lại còn được bồi đắp và nuôi dưỡng từ sự bồng bột và nông nổi của cả hai. Hậu quả là chia tay tâm lý bị tổn thương không tập trung được vào công việc học tập, dễ hành động dại dột.
+ Yêu nhau thề nguyền sống chết, sống bố mẹ không đồng ý, cấm đoán, dẫn đến nhiều cặp đôi rủ nhau tự tử hoặc bỏ đi. Có thể nói tình yêu tuổi học trò có quá nhiều hệ lụy nếu không cân nhắc kỹ và có đủ thông minh khi yêu.
- Không chỉ ảnh hưởng đến bản thân của chính bạn học sinh ấy mà còn
ảnh hưởng rất lớn tới gia đình và xã hội.
+ Phụ huynh sẽ là những người phải gánh chịu hậu quả không đáng có
36
như đánh ghen, tìm đến cái chết, v.v...
+ "Gia đình là cái nôi của xã hội". Chính vì vậy, như số liệu phá thai đã đưa ra ở trên Việt Nam trở thành nước đứng đầu ở Đông Nam Á về tỉ lệ phá thai. Đó chính là một hệ lụy điển hình nghiêm trọng tới xã hội.
Chúng tôi tự tin rằng, với tất cả nguyên nhân lý do trên thì các bạn không
nên yêu ở lứa tuổi học trò.
* Câu hỏi cho đội bạn:
- Tình yêu tuổi học trò liệu có tạo động lực cho việc học tập hay chỉ khiến
quãng đời đi học trở thành một đồ thị hình sin ?
- Phải đối mặt thế nào với cú sốc, đau đớn từ tan vỡ chia tay gây ra khi mà
ở lứa tuổi này không phải ai cũng có đủ bản lĩnh?
Một số hình ảnh hoạt động ngoài giờ lên lớp tại trường THPT Huỳnh
Thúc Kháng:
37
Hai đội tham gia thi tranh biện
38
Phần tranh biện giữa hai đội
39
Khán giả đặt câu hỏi cho đội thi
40
Tiểu phẩm
41
Các tiết mục văn nghệ
3.4.4. Nhận xét, tư vấn, định hướng cho học sinh khi kết thúc hoạt
động tranh biện
Sau khi kết thúc hoạt động tranh biện, các đội thi cũng như khán giả là học sinh đang theo dõi chương trình sẽ rất quan tâm đến việc đánh giá, phân định thắng thua. Chắc chắn mỗi em đều có một quan điểm riêng của mình. Tuy nhiên, để quan điểm được thống nhất đồng thời định hướng giáo dục và rèn luyện kỹ năng cho học sinh, giáo viên cần giữ vai trò tư vấn. Qua nhận xét, đánh giá một cách ngắn gọn, giáo viên chỉ ra những ưu điểm cũng như hạn chế về nội dung và cách thức vận dụng kỹ năng tranh biện. Trong đó, cần nhấn mạnh, khẳng định những ý tưởng đúng đắn, độc đáo của học sinh, luôn khuyến khích học sinh sáng tạo, thể hiện cá tính, năng lực của mình trong việc thể hiện và bảo vệ quan điểm liên quan đến nội dung tranh biện. Nhận xét này không chỉ giới hạn trong kết quả đội thi mà còn có ý nghĩa định hướng cho toàn bộ học sinh. Trong khuôn khổ cuộc thi, điểm số chỉ mang tính chất tương đối và có tác dụng động viên, khích lệ. Theo chúng tôi, những ý kiến tổng kết hoạt động của thầy cô giáo là rất cần thiết, giúp các em thấy được ưu, nhược điểm của hoạt động từ đó có thêm kinh nghiệm cho các hoạt động sau. Và quan trọng là những ý kiến đó của thầy cô sẽ có tác động định hướng, cổ vũ rất nhiều đến hoạt động học tập của các em.
42
Giáo viên tư vấn, định hướng
Học sinh chăm chú theo dõi chương trình
43
Ban tổ chức và hai đội thi
4. Kết quả thực hiện
Để rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh, có nhiều hình thức và phương pháp khác nhau, trong đó hoạt động ngoài giờ lên lớp là hình thức hiệu quả, có ý nghĩa thiết thực, được tổ chức sinh động, có sức lan tỏa rộng rãi. Trong quá trình thực hiện, chúng tôi nhận thấy học sinh rất hào hứng, thích thú và tích cực tham gia. Để có căn cứ đánh giá chính xác hiệu quả của các biện pháp, chúng tôi tiến hành khảo sát 100 học sinh và 20 giáo viên trong nhà trường. Kết quả thu được như sau:
Khảo sát đối với học sinh
Câu hỏi Câu trả lời Tần số Tỷ lệ %
65 65 A. Rất hứng thú
30 30 B. Hứng thú
biện qua 5 5 C. Ít hứng thú Em có hứng thú khi được tham gia rèn luyện kỹ năng tranh các HĐNGLL không?
0 0 D. Không hứng thú
Bảng số liệu trên được cụ thể hóa bằng biểu đồ sau:
Tỉ lệ (%)
44
Rất hứng thú Hứng thú Ít hứng thú Không hứng thú
Khảo sát đối với giáo viên
Câu hỏi Câu trả lời Tần số Tỉ lệ %
16 A. Hiệu quả 86
3 B. Hiệu quả vừa phải 15
1 C. Ít hiệu quả 5
Thầy/cô đánh giá như thế nào về tính hiệu quả của việc rèn luyện kỹ năng tranh biện qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp?
0 D. Không hiệu quả 0
Bảng số liệu trên được cụ thể hóa bằng biểu đồ sau:
Tỉ lệ (%)
Hiệu quả Hiệu quả vừa phải Ít hiệu quả Không hiệu quả
45
Đối chiếu số liệu khảo sát trước và sau khi thực hiện, nhất là số liệu khảo sát từ học sinh, chúng tôi nhận thấy tác dụng nổi bật của việc áp dụng các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của việc rèn luyện kỹ năng tranh biện qua hoạt động ngoài giờ lên lớp. Đa số học sinh đều hào hứng bởi đây không chỉ là hình thức sinh hoạt tập thể mới mà còn vì đã thu nhận được nhiều bài học kinh nghiệm cho việc rèn luyện về tư duy cũng như những kỹ năng thiết yếu cho học tập và cuộc sống sau này. Các em trực tiếp tham gia hoạt động tự đánh giá thấy mình tự tin, mạnh dạn hơn trong giao tiếp. Thành tích học tập trên lớp cũng được nâng lên rõ rệt.
Chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn một số em học sinh về cảm nhận sau khi tham gia các hoạt động ngoài giờ lên lớp được tổ chức theo hình thức tranh biện. Sau đây là một số ý kiến tiêu biểu:
Em Nguyễn Thị Phương Thảo, học sinh lớp 11D3 khẳng định: “Chúng em lần đầu tiên được tham gia hoạt động ngoài giờ theo hình thức này. Em cảm thấy rất hứng thú. Qua chương trình, chúng em học hỏi được rất nhiều về kỹ năng tranh biện”.
Em Phạm Nhật Duy, học sinh lớp 11A7 chia sẻ: “Là thành viên của Câu lạc bộ tranh biện, em thấy nếu phối hợp các hoạt động ngoài giờ lên lớp để rèn luyện kỹ năng này chắc chắn sẽ giúp học sinh trang bị được nhiều hành trang cho con đường học tập cũng như trong cuộc sống sau này”.
Hoạt động này cũng được Ban giám hiệu nhà trường và các đồng nghiệp đánh giá cao. Đổi mới các hình thức sinh hoạt đã đem đến một sự mới mẻ, hấp dẫn cho hoạt động ngoài giờ lên lớp, vừa đáp ứng nhu cầu học tập, rèn luyện của học sinh vừa nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường.
Trao đổi về vấn đề này, cô Lê Thị Hồng Lâm, PHT nhà trường nhận xét: “Đây là hình thức sinh hoạt ngoài giờ lên lớp rất hiệu quả, được tổ chức rất mới mẻ, hấp dẫn, cuốn hút học sinh tham gia. Hoạt động giúp học sinh vừa có thêm kiến thức xã hội vừa rèn luyện những kỹ năng mềm cần thiết. Đây là hình thức có thể vận dụng cho các hoạt động ngoài giờ lên lớp của nhà trường phổ thông”.
Cô Nguyễn Thị Sắc, giáo viên môn Ngữ văn cho biết: “Chương trình được tổ chức rất sáng tạo, mang tính giáo dục cao, có hiệu ứng tích cực trong toàn trường. Có thể thấy chương trình đã đáp ứng rất tốt mục tiêu rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh”.
46
Như vậy, có thể khẳng định, sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh THPT qua hoạt động ngoài giờ lên lớp” đã tạo một cách tiếp cận mở, có tác dụng nhiều mặt trong việc rèn luyện tư duy phản biện, sáng tạo, kỹ năng tự học, kỹ năng giao tiếp và ý thức tham gia các hoạt động sinh hoạt tập thể cho học sinh. Đây là một sân chơi bổ ích giúp các em có cơ hội rèn luyện, vận dụng các kiến thức, kỹ năng đã học ở phần chính khóa đồng thời hình thành các kỹ năng mềm quan trọng cho học tập cũng như đáp ứng những đòi hỏi của cuộc sống trong tương lai.
PHẦN III. KẾT LUẬN
1. Quá trình nghiên cứu
Để đạt được kết quả nêu trên, chúng tôi đã tiến hành một quá trình nghiên cứu nghiêm túc, khách quan, khoa học. Đề tài hướng đến mục đích nghiên cứu lý luận, đánh giá thực trạng rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh qua hoạt động ngoài giờ lên lớp tại trường THPT. Từ đó đề xuất các giải pháp rèn luyện kỹ năng này nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng bao gồm: phương pháp nghiên cứu lý luận, phương pháp điều tra khảo sát và xử lý số liệu, phương pháp quan sát sư phạm, phương pháp thực nghiệm sư phạm, phương pháp phỏng vấn… Quá trình nghiên cứu dựa trên nguồn tài liệu có độ tin cậy cao từ sách vở, báo chí, internet, các khảo sát điều tra chính xác từ nhiều đối tượng (học sinh, giáo viên). Trong thực hiện, chúng tôi cũng có sự điều chỉnh kịp thời các biện pháp để phù hợp với tình hình thực tế và đạt hiệu quả cao nhất. Đề tài nhận được sự quan tâm và tham gia tích cực của học sinh, đồng nghiệp và các tổ chức đoàn thể trong nhà trường. Kết quả của đề tài khẳng định sức mạnh của sự phối hợp đồng bộ giữa các lực lượng giáo dục trong hoạt động ngoài giờ lên lớp.
Từ những kết quả nghiên cứu của đề tài, chúng tôi rút ra các kết luận sau:
- Việc rèn luyện kỹ năng nói chung, kỹ năng tranh biện nói riêng cho học sinh THPT là một nhiệm vụ quan trọng trong dạy học hiện nay. Muốn vậy, hoạt động giáo dục ở nhà trường không còn đóng khung trong các giờ dạy văn hóa trên lớp mà còn phải gồm các hoạt động ngoài giờ lên lớp. Tuy nhiên, việc khai thác những ưu thế của hoạt động này trong rèn luyện kỹ năng cho học sinh còn nhiều hạn chế.
- Từ những nghiên cứu về lý luận và phân tích thực trạng trong quá trình rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh THPT qua hoạt động ngoài giờ lên lớp, chúng tôi đã đề xuất 4 biện pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này. Mỗi giải pháp đều dựa trên cơ sở thực tiễn và tình hình thực tế tại đơn vị để đề xuất cách thức thực hiện có hiệu quả. Kết quả đánh giá đều dựa trên quá trình thực nghiệm nghiêm túc tại cơ quan nơi công tác. Phân tích kết quả thực hiện cho phép khẳng định: các biện pháp rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh THPT qua hoạt động ngoài giờ lên lớp được đề xuất là đảm bảo tính khoa học, phù hợp với đối tượng học sinh THPT, thích hợp với điều kiện nhà trường phổ thông hiện nay. Nếu thực hiện đồng bộ các biện pháp này sẽ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của trường THPT, đáp ứng những yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của thời kỳ mới.
47
Tuy nhiên, do hạn chế về thời gian, về cơ sở vật chất, đặc biệt là những tác động không nhỏ của hoàn cảnh dịch bệnh do vi rút covid – 19 tới đời sống và hoạt động giáo dục, thực nghiệm được tiến hành chưa nhiều và trong phạm vi chưa rộng lớn. Kế hoạch dự kiến cho ngoại khóa học kỳ II của năm học 2019 –
2020 chưa có điều kiện thực hiện. Chúng tôi hi vọng vấn đề này sẽ tiếp tục được phát triển trong thời gian tới để đề tài của chúng tôi được hoàn thiện hơn và có thể áp dụng trong phạm vi lớn hơn.
2. Ý nghĩa của đề tài
Xuất phát từ một vấn đề thực tiễn nảy sinh trong hoạt động giáo dục, đề tài đã giúp giải quyết những tồn tại, hạn chế trong việc rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh THPT qua hoạt động ngoài giờ lên lớp. Việc vận dụng kết hợp các giải pháp của đề tài đã đáp ứng lòng ham hiểu biết, hứng thú học tập, khả năng tự nhận thức và đặc biệt là rèn luyện cho các em tư duy độc lập, năng lực hợp tác nhóm và giải quyết vấn đề. Đây là những hành trang cần thiết để các em có thể tự tin hòa nhập với cộng đồng, trở thành những công dân toàn cầu trong tương lai. Những giải pháp của đề tài cũng góp phần đa dạng hóa các hình thức sinh hoạt của hoạt động ngoài giờ lên lớp, có đóng góp không nhỏ vào kết quả giáo dục của nhà trường.
Quá trình nghiên cứu cũng giúp bản thân tôi nâng cao kiến thức về lý luận, vận dụng những phương pháp dạy học mới vào thực tiễn và đúc rút được những bài học kinh nghiệm quý giá. Những kết quả thu được trong quá trình dạy học sẽ là động lực mạnh mẽ thúc đẩy chúng tôi cố gắng nhiều hơn nữa để làm tròn sứ mệnh “trồng người” của người giáo viên.
3. Một số đề xuất
3.1. Phạm vi ứng dụng
Đây là hình thức dạy học mới có khả năng ứng dụng rộng rãi với tất cả các trường THPT. Vì vậy, các trường học tùy vào tình hình cụ thể có thể mạnh dạn ứng dụng để tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp hướng đến mục tiêu rèn luyện các kỹ năng cụ thể, nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường.
3.2. Kiến nghị
Trong quá trình nghiên cứu, thực nghiệm, chúng tôi nhận thấy rằng việc rèn luyện kỹ năng tranh biện qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp là một cách giáo dục mở. Thông qua hoạt động, học sinh được trải nghiệm và từ đó rút ra những bài học thực tế. Nhưng để hoạt động này đạt được hiệu quả cao cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các tổ chức, đoàn thể trong nhà trường, sự ủng hộ, tạo điều kiện từ Ban giám hiệu. Đặc biệt là sự hợp tác tích cực của học sinh và sự nỗ lực, sáng tạo của mỗi giáo viên. Tôi xin mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị sau:
48
- Sở giáo dục – đào tạo có sự quan tâm chỉ đạo cụ thể việc thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện, sự phối hợp đồng bộ giữa các hoạt động dạy chính hóa và hoạt động ngoài giờ lên lớp ở nhà trường phổ thông. Tổ chức các hội thảo chuyên đề nhằm nâng cao năng lực chuyên môn cho giáo viên đáp ứng được những đòi hỏi của Chương trình giáo dục phổ thông mới.
- Các nhà trường THPT cần quan tâm hơn nữa đến các hoạt động ngoài giờ lên lớp của học sinh, đa dạng hóa các hình thức hoạt động, tạo sân chơi bổ ích, lành mạnh, hấp dẫn, giúp các em rèn luyện kỹ năng.
- Tổ chuyên môn cần thống nhất về nội dung, phương pháp dạy học, thường xuyên tổ chức trao đổi kinh nghiệm dạy học, đúc rút và chia sẻ sáng kiến từ thực tiễn. Khi tổ chức hoạt động ngoại khóa cần có sự phối hợp chặt chẽ với tinh thần trách nhiệm cao.
Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh THPT qua hoạt động ngoài giờ lên lớp” được tôi đúc rút được trong quá trình thực hiện tại đơn vị công tác. Rất mong nhận được sự góp ý của đồng nghiệp và hội đồng khoa học các cấp. Tôi xin chân thành cảm ơn!
49
Vinh, tháng 3 năm 2020
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1: Mẫu phiếu khảo sát giáo viên và học sinh
PHIẾU KHẢO SÁT Ý KIẾN GIÁO VIÊN
Họ tên: ……………………………….……………………………….…………
Trường:………………………………. …………………………………………
Mời thầy/cô đọc kỹ câu hỏi và đánh dấu X vào ô lựa chọn.
Câu hỏi Phương án trả lời Lựa chọn
A. Rất cần thiết
B. Cần thiết
1. Theo thầy /cô có cần thiết rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh không? C. Không cần thiết
A. Thường xuyên
B. Không thường xuyên
2. Thầy/cô đã từng hướng dẫn học sinh rèn luyện kỹ năng tranh biện chưa? C. Chưa thực hiện
A. Đầy đủ
B. Chưa đầy đủ
3. Việc rèn luyện kỹ năng qua các tiết học trên lớp đã đáp ứng đầy đủ nhu cầu của học sinh chưa? C. Thiếu hiệu quả
A. Có thể thực hiện
B. Khó thực hiện
4. Theo thầy/cô,có thể lồng ghép dạy học kỹ năng tranh biện qua hoạt động ngoài giờ lên lớp không? C. Không nên thực hiện
50
Xin chân thành cảm ơn thầy/cô!
PHIẾU KHẢO SÁT Ý KIẾN HỌC SINH
Họ tên: …………………………Lớp:…..Trường:……………… ………………
Em hãy đọc kỹ câu hỏi đánh dấu X vào ô lựa chọn.
Câu hỏi Phương án trả lời Lựa chọn
A. Dễ dàng
B. Khó khăn 1. Khi thuyết phục người khác em cảm thấy thế nào?
C. Bình thường
A. Chưa
B. Biết nhưng chưa hiểu rõ 2. Em đã từng biết đến hoạt động tranh biện chưa?
C. Hiểu rõ
A. Là hình thức tranh luận văn minh
B. Bản chất là tranh cãi 3. Theo em, tranh biện là hoạt động như thế nào?
C. Là hình thức bảo vệ đến cùng quan điểm cá nhân
A. Rất cần thiết
B. Cần thiết
4. Theo em, có cần thiết rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh không? C. Không cần thiết
A. Có
B. Không 5. Tại trường em có câu lạc bộ tranh biện không?
C. Không rõ
A. Đã tổ chức
B. Chưa tổ chức
6. Tại trường em có tổ chức hình thức tranh biện trong HĐNGLL không? C. Không nhớ
A. Mới mẻ, có tính tương tác
B. Giữ nguyên như cũ 7. Theo em, HĐNGLL cần được tổ chức như thế nào?
51
C. Đơn giản
PHỤ LỤC 2. SẢN PHẨM HỌC TẬP CỦA HỌC SINH
1. Bài viết trên trang fan page H.D.C Huỳnh Debate Club
CHUYÊN MỤC giả định time : Lựa chọn nghề nghiệp
Vấn đề lớn của nhiều học sinh, sinh viên, thanh thiếu niên ở thời điểm hiện tại là việc làm theo định hướng của bố mẹ hay đi theo đam mê và khát vọng của mình. Cả hai sự lựa chọn đều có nhiều vấn đề cần nói tới và có nhiều sự tranh cãi cũng như là lý lẽ bảo vệ cho quyết định của họ.
Lựa chọn theo định hướng của bố mẹ hay làm theo sự bắt buộc của bố mẹ? Lý lẽ thường thấy nhất ở đây đó là “Bố mẹ là những người đi trước họ có đầy đủ cơ sở để biết nên làm gì”. Đúng, bố mẹ có nhiều kinh nghiệm hơn, họ có thể vẽ ra nhiều bức tranh tương lai về rủi ro và thành công hơn con cái. Không chỉ thế họ có thể đưa ra nhiều lời khuyên tốt về lĩnh vực họ định hướng cho con cái và thậm chí là những sự trợ giúp cả về tinh thần và vật chất.
Tới đây có giả định đặt ra như sau: Thứ nhất, nếu định hướng của bố mẹ dựa vào những kinh nghiệm đã lỗi thời thì sao? Chẳng phải tỉ lệ thất bại sẽ rất cao nếu đưa kinh nghiệm lỗi thời áp dụng cho thời kì mà mọi thứ thay đổi từng ngày. Điều này là sẽ là sự lựa chọn ngu ngốc như cách đám người mắt híp nào đó chê bánh mì baguette cách tân. Thứ hai, vậy khi làm theo định hướng đó và bạn có thể đạt được thành công thì sau đó sẽ như thế nào nữa? Sẽ làm điều gì tiếp theo? Được bao nhiêu người sẽ bắt một chuyến xe, đặt một chiếc vé máy bay để đi tìm hiểu xem mình nên làm gì? Hay là số đông vẫn bắt một chiếc xe nhưng là để bám lấy hi vọng bố mẹ có thể tiếp tục giúp đỡ?
John D. Rockefeller đã nói : “Nếu bạn muốn thành công, bạn nên tìm ra những con đường mới, thay vì đi trên những con đường mòn của sự thành công được chấp nhận”. Cho dù bố mẹ có thành công như thế nào đi nữa thì khi bậc con cái đi theo con đường thành công ấy cũng khó và có thể là chắc chắn không có được thành công chứ huống hồ gì là thành đạt. Cứ cho rằng vẫn có thể níu lại được chút nào đó sự thành công thì sự thành công đó vẫn chỉ là một phiên bản copy của bậc phụ huynh mà thôi.
“Bố mẹ là người sinh ra bạn, họ hiểu bạn tốt ở đâu” nên lời nói của họ luôn đúng, chỉ là đúng đến bao nhiêu và bao nhiêu trong số đó có thể sử dụng thôi. Vì thế nên nghe theo lời khuyên định hướng của bố mẹ như là một sự tham khảo hoặc là một phương án trong hàng trăm phương án nên thử trong cuộc sống của mỗi người.
52
Bộ não của mỗi chúng ta về cơ bản là sự kết hợp của hàng tỉ neurone thần kinh với kết cấu như một vũ trụ thu nhỏ. Nhưng có một điều nực cười là hàng tỷ neurone đó có hoạt động hết mình và suy nghĩ tốt như thế nào đi nữa thì con người vẫn thường có xu hướng tin vào những điều mình muốn tin. Nhất là khi
đang ở lứa tuổi mộng mơ, đầy khát vọng và nhiệt huyết, con người ta thường sẽ có niềm tin cháy bỏng vào quyết định cũng như đam mê của bản thân. Đã có hàng chục nghiên cứu về việc những người có niềm tin vào bản thân và quyết định của mình sẽ càng dễ có được thành công trong cuộc sống.Vậy nên kể cả thất bại thì có sao đâu? Điều gì cũng nên thử để có được kinh nghiệm đi đến thành công.
53
“Định nghĩa của tuổi trẻ về cơ bản là nhiều thời gian, định nghĩa của tuổi già về cơ bản là sự tiếc nuối hãy nên biết dùng định nghĩa tuổi trẻ để xóa đi sự già nua sau này của bản thân” (Phạm Nhật Duy – 11A7, thành viên CLB Tranh biện)
54
2. Một số bài viết của học sinh
55
56
57
58
59
3. Một số sản phẩm hoạt động nhóm của học sinh
Chủ đề: Sử dụng mạng xã hội là hoàn toàn cần thiết
Các bạn có thể thấy rằng ngày nay mạng xã hội được ví như một món ăn tinh thần không thể thiếu trong thời đại công nghệ 4.0. Sự ra đời của các dịch vụ mạng xã hội đã thay đổi hoàn toàn cách thức liên kết giữa con người trên toàn thế giới và mở đầu cho xu thế hội nhập cộng đồng toàn cầu. Với cách thức phong phú đa dạng và nhiều tiện ích, mạng xã hội trở thành cơn sóng toàn cầu có sức tác động mãnh liệt đến toàn bộ đời sống con người. Đặt vấn đề trong hai mối tương quan, liệu chúng ta có nên sử dụng mạng xã hội hay không? Chúng tôi tin rằng mạng xã hội là điều hoàn toàn cần thiết và chúng ta nên sử dụng mạng xã hội.
Tại sao chúng tôi lại khẳng định rằng sử dụng mạng xã hội là hoàn toàn cần thiết? Đội bạn nêu ra quan điểm rằng sử dụng mạng xã hội gây ra nhiều tác hại. Có lẽ các bạn đã quên mất rằng việc chúng ta bàn đến ngày hôm nay chính là nên hay không nên sử dụng mạng xã hội chứ không phải là việc sử dụng chúng như thế nào. Thế nên việc sử dụng mạng xã hội là điều hiển nhiên tồn tại ngay trong quan điểm của các bạn, và phía đội bạn mới chính là đội không có động lực mạnh mẽ để kiểm soát và thay đổi những tác hại do việc sử dụng mạng xã hội gây ra.
Chúng tôi cho rằng, việc sử dụng mạng xã hội là hoàn hoàn toàn đúng đắn và tạo nên nhiều hiệu quả tích cực cho sự phát triển của đời sống cá nhân và cộng đồng.
+ Trước hết, bản chất của mạng xã hội chính là kết nối các mối quan hệ. Dù cho bất cứ ở nơi đâu hay lúc nào, bạn luôn có thể kết nối với người thân thông qua việc chia sẻ hình ảnh, video, statas bày tỏ cảm xúc, trạng thái.. một cách nhanh chóng và hiệu quả. Nếu như trước đây các bạn không có cơ hội gặp gỡ người thân bạn bè vì bận công việc hay học hành, bạn phải liên lạc với họ qua điện thoại với chi phí không nhỏ, thậm chí phải viết thư nếu không có sóng điện thoại hay cáp mạng, thì giờ đây bạn chỉ cần có trong tay chiếc điện thoại thông minh để kết nối một cách thuận lợi.
60
+ Sử dụng mạng xã hội là cơ hội để bạn cập nhật các thông tin hữu ích. Căn cứ vào tính chất cập nhật và lan rộng nhanh của mạng xã hội, hầu hết các cơ quan truyền thông và báo chí thường đăng tải thông tin song song cùng với việc phát hành bào giấy. Hình thức này hỗ trợ cho bạn nhiều hiểu biết về các lĩnh vực trong xã hội và bắt gặp xu thế của thời đại. Ngày nay, với sự phát triển của khao học công nghệ, vai trò của mạng xã hội đang được các cơ quan tổ chức nhà nước sử dụng một cách hiệu quả, giúp thu hẹp khoảng cách giữa người dân và chính phủ. Chính phủ đã lập 2 tài khoản Facebook bao gồm “Thông tin Chính phủ” và “diễn đàn cạnh tranh quốc gia” giúp người dân tiếp cận kịp thời các văn bản pháp luật mới ban hành, các thông tin về dân trí, kinh tế, các hoạt động của
Đảng và Nhà nước. Không chỉ vậy, có thể theo dõi bất cứ một tin tức nào về tại nạn và tệ nạn xã hội để phòng tránh hiểm hoạ. Chúng tôi xin lấy ví dụ về đại dịch do chủng mới của virus Corona gây ra. Trước khi thời sự đề cập đến vấn đề này thì mạng xã hội đã lan truyền rất nhiều tin tức cảnh báo ngay từ ngày 28 Tết và cũng là ngày bùng nổ dịch bệnh.
+ Mạng xã hội tích hợp nhiều ứng dụng tiện ích phục vụ cho các hoạt động giải trí sau những giờ làm việc và học tập căng thẳng. Song song với nó, bạn có thể học tập hiệu quả qua các trang mạng, nâng cao kiến thức về chuyên môn và kiến thức xã hội một cách tối ưu nhất. dẫn chứng là đại dịch Covid-19 gây ảnh hưởng rất nhiều đến mọi lĩnh vực trong đó có cả giáo dục, học sinh không thể đến lớp nghe giảng. Nếu không có mạng xã hội, giáo viên gặp nhiều bất lợi khi thông báo bài giảng, ra bài tập và sáng tạo các bài học trực tuyến. Việc lần lượt thông báo cho học sinh qua điện thoại vừa mất rất nhiều thời gian, vừa làm chậm công tác cập nhật thông tin cho học sinh.
+ Mạng xã hội là môi trường để con người phát huy tiềm năng cá nhân. Mọi khả năng viết lách, am hiểu kĩ năng sống, ca hát, nhảy múa, hùng biện, tranh biện, kinh doanh… đều được đăng tải một cách tích cực. tạo điều kiện để bạn gặp gỡ những người cùng chung lí tưởng, để trao đổi với họ để đúc rút kinh nghiệm quý báu và định hướng nghề nghiệp tương lai một cách đúng đắn và hợp lí. Từ tiềm năng cá nhân đó, giới trẻ bắt đầu khởi nghiệp. Tôi lấy dẫn chứng về ngành kinh doanh. Tất cả cá mặt hàng hiện nay đều được đăng tải lên mạng xã hội hoặc các trang mạng trực tuyến liên kết tương tự mà không mất kinh phí quảng cáo, thậm chí thuận lợi thu hút người dùng và chăm sóc các nhu cầu thiết yếu của họ.
+ Như các bạn đã biết, công việc tình nguyện và tuyên truyền hầu như được tham gia một cách trực tiếp và được tổ chức tuỳ vào quy mô của hoạt động nhưng các bạn cũng có thể trở thành một tình nguyên viên, một tuyên truyền viên đích thực thông qua mạng xã hội. Tôi lấy ví dụ đơn giản: Vào ngày hội Hoa hướng dương vào năm 2018, mỗi một bức tranh vẽ hoa hương dương được đăng tải trên Facebook được quy đổi thành 30000đ tiền mặt để ủng hộ cho trẻ em mắc bệnh ung thư. Năm 2019, hiện tượng cháy rừng ở Australia gây ra nhiều hậu quả đến đời sống của con người và các sinh vật. Người người đều cùng nhau tuyên truyền bằng cách chia sẻ bài viết về thảm kịch xứ Kangaroo kèm hastag “Pray for Australia” để cùng đồng cảm và mong ước nước Úc sẽ sớm vượt qua thảm kịch này.
Sau đây tôi tiếp tục chứng minh điều này chỉ có chúng tôi tạo ra mà các bạn không làm được. Tôi biết các bạn thừa nhận tất cả các tác hại của mạng xã hội nhằm đặt ra phương án giải quyết những hiện tượng này. Nhưng cách giải quyết của chúng tôi khác hoàn toàn với các bạn. Bản chất của mạng xã hội không xấu nên chúng tôi không hoàn toàn vứt bỏ sử dụng mạng xã hội mà sẽ tạo ra một điểm bùng phát để mạng xã hội phát triển mạnh mẽ, phát huy hết mọi lợi 61
ích nhằm thu hút chính phủ và các cơ quan quản lí có thẩm quyền quan tâm đến những tiện ích của mạng xã hội, chú trọng đầu tư phát triển hệ thống và hiểu rõ tâm lí của người dùng. Từ đó người dân sẽ luôn cảm thấy an tâm, tự giác nâng cao ý thức, đồng nghĩa với việc sử dụng mạng xã hội là điều có ích, an toàn tuyệt đối và cũng là điều hoàn toàn nên làm.
Nếu các bạn vẫn tiếp tục cho rằng chúng ta không nên sử dụng mạng xã hội thì các bạn đã đi ngược lại với tiến trình phát triển công nghệ số của thời đại và nền văn minh tri thức của nhân loại. Mạng xã hội là thứ con người sáng tạo ra, nếu không được thừa nhận sử dụng thì khả năng bị đào thải của nó rất cao và mai sau, con người sẽ khó có thể khai sinh việc sáng tạo ra những thành tự mới mẻ hơn, tiên tiến hơn. Nhân loại sẽ tiếp tục lùi thêm một bước, dần dần đình trệ và suy yếu. Vì vậy, chúng tôi ở đây để phản đối với đội bạn và khẳng định rằng sử dụng mạng xã hội là điều nên làm.
Chủ đề: “Không nên dùng mạng xã hội”
Để bảo vệ cho quan điểm “Không nên dùng mạng xã hội”, chúng tôi xin nêu lên một số lí do sau đây và cũng chính là những tác hại do mạng xã hội gây ra:
- Suy giảm các hoạt động sống
Trước hết, việc sử dụng các trang mạng xã hội lâu dài dẫn đến suy giảm các hoạt động sống bình thường của cơ thể như giấc ngủ và ăn uống. Lý do dẫn đến các rối loạn này do việc sử dụng các trang mạng xã hội thường vào những thời điểm nghỉ ngơi như bữa ăn, giờ nghỉ trưa, giờ đi ngủ. Khi sử dụng vào các khung giờ bữa ăn sẽ làm xáo trộn nhịp sinh học của bản thân dẫn đến khó tiêu hóa, khó hấp thu, dễ gây đau dạ dày – đại tràng. Sử dụng các trang mạng xã hội vào khung giờ ngủ dẫn đến hay mệt mỏi, khó ngủ, hay thức khuya, ngủ không sâu giấc, dễ thức giấc…ảnh hưởng tới hiệu quả làm việc ngày hôm sau.
- Chìm đắm trong thế giới ảo, gây nên lối sống vô cảm trong thực tại
Tại sao chúng ta lại phải kết bạn, làm quen với hàng trăm, hàng ngàn người trên facebook, zalo,… khi mà những người thân, bạn bè ngay cạnh chúng ta đây mà chúng ta còn chưa hề quan tâm, hỏi han. Thật không khó để nhìn thấy một bữa cơm gia đình sẽ có một vài thành viên vừa lướt mạng vừa dùng bữa không chuyện trò với người thân, hay buổi tụ họp bạn bè coffee trên tay ai cũng là chiếc smartphone và lướt,… thật đáng buồn khi hiện tượng đó ngày càng nhiều trong giới trẻ hiện nay. Chìm đắm trong thế giới ảo, quên đi thế giới thực là một căn bệnh vô cùng trầm trọng do mạng xã hội gây ra, đó là một hệ luỵ đáng báo động khi sử dụng mạng không hợp lý, sử dụng một cách mù quáng.
- Tốn quá nhiều thời gian
62
Điều này đặc biệt đúng với những ai sử dụng điện thoại thông minh hoặc laptop thường xuyên. Thật khó để kiềm chế việc mở Facebook, Youtube,… mỗi
khi chúng ta có internet trong ngày. Dù bạn cảm thấy mình chỉ dành rất ít thời gian cho mạng xã hội mỗi lần song hãy thử nhớ lại xem mình đã làm những cái “ít thời gian” đó nhiều đến mức nào trong một ngày. Hẳn bạn sẽ nhận ra rằng khoảng thời gian eo hẹp mà mình có mỗi ngày vốn để thư giãn, nghỉ ngơi, giải trí, làm việc giờ đây chỉ dành cho mạng xã hội. Điều này sẽ ảnh hưởng gián tiếp một cách không nhỏ tới tâm tư, tính cách và thậm chí là chất lượng công việc, chất lượng cuộc sống hằng ngày của bạn. Từ lúc nào đó, bạn đã đối mặt với nguy cơ trở thành một người “nghiện” mạng xã hội mà không hề hay biết.
- Nguy cơ tiếp xúc với các thông tin không chính xác, không lành mạnh
Là một kênh để thu nhận thông tin, tuy nhiên các thông tin trên mạng xã hội đều không được kiểm chứng, dẫn đến có nhiều thông tin không chính xác, sai lệch nội dung hoặc những thông tin “đùa”, “câu like”, “giật tít” làm cho người dùng thường xuyên rơi vào trạng thái căng thẳng, hồi hộp, lo lắng… Điều này dẫn đến những rối loạn bệnh lý như rối loạn lo âu, rối loạn ám ảnh cưỡng chế, rối loạn stress… Một số người trẻ tuổi khi sử dụng mạng xã hội sẽ dẫn tới những rối loạn nhân cách kiểu hoang tưởng, tự đề cao bản thân, chống đối xã hội, tính vị kỷ, ích kỷ, một số có các hành vi kích động và gây hấn.
- Xao lãng mục tiêu cá nhân
Khi bạn quá chú tâm vào mạng xã hội thì bạn sẽ quên đi các nhiệm vụ, mục tiêu mà bạn muốn hoàn thành. Thời gian dành cho việc phát triển bản thân, học hỏi thì bạn có thể lại đem đi xài hoang phí chỉ bằng việc lướt mạng và đọc các thông tin không cần thiết. Bạn sẽ dễ rơi vào trạng thái chán nản, mệt mỏi khi quá sa đà vào mạng xã hội và dẫn đến việc học sa sút, thiếu kỹ năng cần thiết cho công việc, chất lượng sống mỗi ngày giảm đi.
63
PHỤ LỤC 3. Câu trả lời phỏng vấn của học sinh
64
65
PHỤ LỤC 4. Văn bản Kế hoạch
TRƯỜNG THPT HUỲNH THÚC KHÁNG CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỔ VĂN - NGOẠI NGỮ Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Nhóm Ngữ văn
KẾ HOẠCH NGOẠI KHÓA
HỌC KỲ I, NĂM HỌC 2019 - 2020
- Căn cứ vào Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ giáo dục trung học năm học 2019 -
2020 của Bộ GD-ĐT và Sở GD-ĐT Nghệ An;
- Căn cứ vào phương hướng nhiệm vụ năm học 2019 – 2020 của Trường THPT
Huỳnh Thúc Kháng
Nhóm Ngữ văn xây dựng Kế hoạch hoạt động ngoại khóa học kỳ I, năm học
2019 - 2020 như sau:
I. MỤC TIÊU Giúp học sinh: 1. Về kiến thức
- Hiểu rõ hơn về tình bạn, tình bạn khác giới ở lứa tuổi học sinh.
- Các em có quyền được tự do và được bảo vệ trong các mối quan hệ đó.
- Lứa tuổi vị thành niên và vai trò của gia đình trong giáo dục vị thành niên.
2. Về kỹ năng
- Hình thành các kỹ năng sống.
- Rèn luyện các kỹ năng: giải quyết vấn đề, tranh biện, đàm phán, hợp tác, làm việc nhóm, giao tiếp…
3. Về thái độ
- Có ý thức xây dựng một tình bạn trong sáng.
- Có cách ứng xử đúng trong quan hệ tình bạn, đặc biệt là tình bạn khác giới và có hành vi đúng mực trong quan hệ bạn bè.
- Có chính kiến trước các vấn đề của đời sống xã hội.
4. Định hướng phát triển năng lực
- Phát triển các năng lực: năng lực tư duy phản biện, năng lực sáng tạo, năng lực ngôn ngữ…
II. KẾ HOẠCH
66
1. Thời gian và địa điểm:
- Thời gian: 7h – 8h35 ngày 14/10/2019
- Địa điểm: Sân trường THPT Huỳnh Thúc Kháng
2. Thành phần tham dự:
- Toàn thể giáo viên và học sinh toàn trường.
3. Nội dung:
- Chủ điểm “Thanh niên với tình bạn, tình yêu, gia đình”
4. Hình thức:
- Tổ chức cuộc thi tranh biện giữa hai đội III. KỊCH BẢN CHƯƠNG TRÌNH
1. Phần 1: Chào hỏi
- Hai đội thi chào hỏi khán giả và tự giới thiệu. Thời gian dành cho mỗi đội là 5 phút. Điểm số: 30.
- Ban giám khảo nhận xét, cho điểm.
2. Phần 2: Hiểu biết
- Hai đội chọn gói câu hỏi, mỗi gói 6 câu hỏi.
- Từng đội thảo luận trả lời. Nếu không trả lời được, đội đối phương trả lời, nếu đúng lấy điểm; khán giả trả lời, nếu đúng lấy quà. Điểm số: 30
- Ban giám khảo cho điểm.
3. Phần 3: Phần chơi dành cho khán giả.
Phần chơi có 5 câu hỏi theo chủ đề dành cho học sinh toàn trường. Học sinh xung phong trả lời câu hỏi và nhận quà từ Ban tổ chức.
4. Phần 4: Tranh biện
- Nêu tình huống bằng hình thức tiểu phẩm. Từ đó đưa ra chủ đề bằng cách đặt câu hỏi yêu cầu hai đội trả lời. Chủ đề: “Có nên yêu ở tuổi học trò?”
- Đại diện hai đội trình bày. Đội thứ nhất: đồng tình. Đội thứ hai: phản đối.
- Tranh biện, đối thoại:
+ Giữa hai đội với nhau (2 câu hỏi).
+ Giữa hai đội với khán giả: khán giả đặt câu hỏi cho hai đội (2-3 câu hỏi).
- Điểm: 40
- Ban giám khảo nhận xét, tư vấn, định hướng.
5. Phần 5: Tổng kết, trao thưởng
67
- Ban thư kí thông báo kết quả.
- Trao thưởng cho hai đội thi.
(Giữa các phần có xen các tiết mục văn nghệ phù hợp với chủ đề)
IV. PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ
TT Nội dung công việc Thực hiện
Phần thi Tranh biện
- Lựa chọn đội thi 1 Nhóm Ngữ văn
- Tư vấn, hướng dẫn và duyệt nội dung, hình thức tranh biện.
Xây dựng hệ thống câu hỏi theo chủ đề
2 - Câu hỏi cho hai đội thi Ban ngoài giờ lên lớp
- Câu hỏi cho khán giả
3 - Duyệt văn nghệ, tiểu phẩm Đoàn trường và nhóm Ngữ văn
- Ban giám khảo 4 Đại diện nhóm Ngữ văn, Đoàn trường, Ban ngoài giờ lên lớp - Tư vấn
5 - Loa máy, cơ sở vật chất Đoàn trường
Trên đây là kế hoạch tổ chức ngoại khóa học kì I, năm học 2019 - 2020 của nhóm Ngữ văn. Thay mặt nhóm chuyên môn, chúng tôi mong nhận được sự hỗ trợ về vật chất và tinh thần cũng như sự chỉ đạo của Lãnh đạo nhà trường, sự phối hợp thực hiện của các bộ phận trong nhà trường để hoạt động ngoại khóa thành công, đạt mục đích, yêu cầu đã đề ra.
PHÊ DUYỆT CỦA BAN GIÁM HIỆU Vinh, ngày 5 tháng 10 năm 2019
68
Người lập kế hoạch:
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo Công an Nghệ An, Câu lạc bộ tranh biện – sân chơi bổ ích cho học
sinh, 26/11/2018.
2. Báo Quảng Ninh, Phát triển tư duy tranh biện cho học sinh, 5/10/2019
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo,
- Những vấn đề chung về chương trình giáo dục phổ thông 2018 - Tài
liệu tập huấn giáo viên 2019.
- Tài liệu Phân phối chương trình Hoạt động ngoài giờ lên lớp - (Dùng
cho các cơ quan quản lí giáo dục và giáo viên, áp dụng từ năm
học 2009-2010).
- Tài liệu tìm hiểu chương trình hoạt động trải nghiệm và hoạt động trải
nghiệm, hướng nghiệp – Tài liệu tập huấn giáo viên 2019.
4. Lê Tấn Cẩm Giàng (2011), Tư duy phản biện, Viện Nghiên cứu Giáo dục,
Hà Nội.
5. Bùi Thế Hưng, Phát huy khả năng phản biện của học sinh THPT trong
dạy học văn, Tạp chí Giáo dục, số 303, 2013.
6. Hoàng Phê, Hoàng Thị Tuyền Linh, Vũ Xuân Lương, Phạm Thị Thủy,
Đào Thị Minh Thu, Đặng Thanh Hòa, Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà
Nẵng, 2007.
7. Nhân dân tv, Tranh biện - công cụ thúc đẩy học tập trong giáo dục hiện đại
8. Phan Trọng Ngọ, Dạy học và PPDH trong nhà trường, NXB ĐHSPHN, 2005.
9. Vietyouthtodebate, Giáo án khóa học debate, tài liệu lưu hành nội bộ
trong khóa học về tranh biện và tư duy phản biện, Hà Nội, 2016.
10. Phạm Thị Xuyến, Rèn luyện năng lực tự học cho học sinh trong giờ văn
học sử qua hình thức tranh luận, Tạp chí Giáo dục số 102, năm 2004.
11. Nguyễn Như Ý (cb), 2002, Từ điển tiếng Việt thông dụng, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
12. WEB: http://debatewise.org/; http://en.wikipedia.org/wiki/Debate;
69
http://www.idebate.org/; http://www.ipdadebate.org/
70