SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN
TRƯỜNG THPT NAM ĐÀN 2
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NUÔI DƯỠNG VÀ LAN TOẢ LÒNG NHÂN ÁI CHO HỌC SINH THPT
LĨNH VỰC: KỸ NĂNG SỐNG
Tác giả: NGUYỄN THỊ HUYỀN
Tổ:
NGOẠI NGỮ
Số ĐT: 0374 624 225
Năm học: 2022 – 2023
MỤC LỤC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ ....................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 1 2. Mục đích nghiên cứu ........................................................................................... 2 3. Đối tượng nghiên cứu .......................................................................................... 2 4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 3 5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm ................................................... 3 II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU .............................................................................. 4 1. Cơ sở lý luận ........................................................................................................ 4 1.1. Lòng nhân ái ..................................................................................................... 4 1.2. Đặc điểm tâm lý của học sinh THPT .............................................................. 5 1.3. Phẩm chất phải rèn luyện cho học sinh theo chương trình giáo dục phổ thông mới .................................................................................................................. 6 2. Cơ sở thực tiễn ..................................................................................................... 7 2.1. Thực trạng sự xuống cấp nền tảng đạo đức ở thế hệ trẻ hiện nay ............... 7 2.2. Thực tiễn công tác giáo dục lòng nhân ái ở trường THPT Nam Đàn 2 ...... 8 3. Một số giải pháp nuôi dưỡng và lan toả lòng nhân ái cho học sinh THPT . 11 3.1. Bản thân người giáo viên là một tấm gương mẫu mực cho các em noi theo học tập..................................................................................................................... 11 3.2. Giáo viên đưa ra những tấm gương sáng điển hình về phẩm chất đạo đức gần gũi với cuộc sống xung quanh các em .......................................................... 15 3.3. Giáo dục các em học sinh biết yêu quý chính bản thân mình, để từ đó các em biết yêu quý, trân trọng những người xung quanh ...................................... 18 3.3.1. Tìm hiểu về vấn đề học sinh có những hành vi tự làm hại chính mình . 18 3.3.2. Đề xuất một số “bí quyết” để yêu thương chính bản thân mình. ........... 20 3.4. Lồng ghép các nội dung giáo dục tình yêu thương gia đình, con người vào các tiết dạy hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động trải nghiệm ...................... 21 3.5. Phối hợp giáo dục cùng với phụ huynh học sinh bằng nhiều hình thức khác nhau ............................................................................................................... 24 3.5.1. Trao đổi, chia sẻ tâm tư của người giáo viên và những hoạt động ý nghĩa, bổ ích học sinh đã tham gia ....................................................................... 24 3.5.2. Tạo cơ hội để học sinh gửi lời yêu thương, cảm ơn đấng sinh thành thông qua cuộc họp phụ huynh học sinh, qua zalo, qua thư ............................. 28 3.5.3. Phân tích, tìm hiểu những trường hợp học sinh cá biệt .......................... 30 3.6. Tìm kiếm, tạo ra cơ hội cho học sinh được tham gia các hoạt động trải nghiệm thực tế để gieo duyên lòng nhân ái ......................................................... 31 4. Đánh giá hiệu quả của sáng kiến. ..................................................................... 34 4.1. Khảo sát ý kiến của học sinh sau khi thực hiện đề tài ................................ 34 4.1.1. Mục đích khảo sát ....................................................................................... 34
4.1.2. Nội dung khảo sát. ....................................................................................... 35 4.1.3. Phương pháp khảo sát ................................................................................ 35 4.1.4. Đối tượng khảo sát. ..................................................................................... 35 4.1.5. Phân tích kết quả khảo sát ......................................................................... 35 4.2. Đánh giá kết quả rèn luyện của học sinh và những hoạt động các em làm được ........................................................................................................................ 37 4.3. Khảo sát tính cấp thiết và khả thi của đề tài ............................................... 38 4.3.1. Mục đích khảo sát ....................................................................................... 38 4.3.2. Nội dung khảo sát ........................................................................................ 38 4.3.3. Phương pháp khảo sát và thang đánh giá ................................................. 40 4.3.4. Đối tượng khảo sát ...................................................................................... 41 4.3.5. Kết quả khảo sát tính cấp thiết và khả thi của đề tài .............................. 41 4.3.6. Kết luận ......................................................................................................... 46 III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ........................................................................ 47 1. Kết luận ............................................................................................................ 47 2. Kiến nghị .......................................................................................................... 47 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 48
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: Kết quả khảo sát học sinh ....................................................................... 37 Bảng 2: Kết quả rèn luyện của học sinh .............................................................. 37 Bảng 3: Thống kê kết quả khảo sát tính cấp thiết .............................................. 41 Bảng 4: Thống kê kết quả khảo sát tính khả thi ................................................ 43 Bảng 5. Thứ hạng sự cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp ..................... 45
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1: Mức độ cấp thiết của các giải pháp ................................................... 42 Biểu đồ 2: Mức độ khả thi của các giải pháp ...................................................... 43 Biểu đồ 3: Tương quan giữa mức độ cấp thiết và mức độ khả thi của các giải pháp ........................................................................................................................ 44
DANH MỤC CÁC NỘI DUNG VIẾT TẮT TRONG SÁNG KIẾN
Viết tắt Nội dung đầy đủ
HS Học sinh
GV Giáo viên
PHHS Phụ huynh học sinh
THPT Trung học phổ thông
GVCN Giáo viên chủ nhiệm
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU ĐÍNH KÈM TRONG USB
STT TÊN NỘI DUNG
THƯ MỤC
MỤC 1 1
Bài dạy powerpoint tìm hiểu các nhân vật tiêu biểu giàu lòng nhân ái qua trò chơi “ Đây là nhân vật nào?”
MỤC 2 Video: Các “bí quyết” yêu bản thân 2
MỤC 3 Tiểu phẩm: Lời hối hận muộn màng 3
MỤC 4 Trò chơi ô chữ( trên powperpoint) 4
MỤC 5 Tiểu phẩm: Tôn trọng sự khác biệt 5
MỤC 6 Bản ghi âm “lời con muốn nói” 6
MỤC 7 Phóng sự tổng quan về đề tài 7
Hoặc đường link trên Google Drive để xem các tài liệu đính kèm: https://drive.google.com/drive/folders/1- GQzhT9E5wAkW37kWOkW4qSQbZV0z3aY?usp=sharing
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Từ bao đời nay, lòng nhân ái đã trở thành một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Nó chính là nền tảng đạo đức cốt lõi hình thành phẩm chất tốt đẹp của mỗi một con người. Lòng nhân ái ấy cũng đã được ông cha ta lưu truyền qua câu ca dao, tục ngữ “thương người như thể thương thân”.
Trong những năm gần đây, đại dịch covid-19 bùng nổ gây ra cuộc khủng hoảng toàn cầu, tác động lên mọi lĩnh vực của đời sống. Nền kinh tế của đất nước rơi vào tình trạng suy thoái trầm trọng, đời sống của người dân gặp rất nhiều khó khăn. Có những gia đình rơi vào cảnh thất nghiệp phải bỏ chốn thành thị về quê mưu sinh. Và còn đó là những mảnh đời bất hạnh của những em bé mồ côi cả cha lẫn mẹ hay là sự ra đi xót xa của các chiến sĩ, bác sĩ, y tá và người dân bởi một nguyên nhân “Covid -19”.
Bên cạnh đó, thiên tai cũng dường như ngày càng trở nên khắc nghiệt hơn với con người. Khúc ruột miền Trung cũng là nơi chịu nhiều thiệt hại thảm khốc bởi các cơn bão, lũ lụt càn quét. Cách đây hai năm là vụ sạt lở đất ở nhà máy thủy điện Rào Trăng 3 đã chứng kiến sự hi sinh anh dũng của 13 chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam, hay gần đây nhất là trận lũ quét ở Kỳ Sơn đã cuốn trôi đi nhà cửa, tài sản của người dân vùng miền núi khó khăn chắt chiu dành dụm được. Đáng thương thay có một em bé 4 tháng tuổi đã mãi mãi rời xa vòng tay của người thân theo dòng nước lũ.
Mặt khác, sự phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá của xã hội ngày nay đã cuốn con người vào vòng xoáy của lối sống nhanh, sống vội, lo cơm áo gạo tiền mà đôi lúc quên đi giá trị đích thực của cuộc sống. Con người càng ngày càng trở nên thờ ơ, hờ hững với cuộc sống xung quanh. Những vấn đề cuộc sống hàng ngày mà họ nghe, họ thấy dường như quá đỗi quen thuộc tới mức chẳng còn đáng để bận tâm. Họ không còn có suy nghĩ “sống trong đời sống, cần có một tấm lòng”.
Học sinh THPT- những mầm non tương lai của đất nước cũng là một đối tượng bị tác động không ít trước sự thay đổi và phát triển của xã hội thực tại. Các em được sinh ra và lớn lên trong một xã hội bị chi phối nhiều bởi sức mạnh của đồng tiền và sự ảnh hưởng của mạng xã hội. Bên cạnh những điều tốt đẹp được lan toả, vẫn còn nhiều nguồn thông tin tiêu cực làm ảnh hưởng tới cảm xúc, tư duy, hành động và lối sống của các em. Vì thế, chính các em càng ngày càng trở nên vô cảm trước những vấn đề đáng lẽ phải trăn trở trong lòng. Những nét văn hoá thuần phong mỹ tục, chuẩn mực đạo đức đang bị phai mờ theo lối sống hiện đại của một bộ phận giới trẻ đang cổ vũ cho lối sống thực dụng, buông thả, coi trọng giá trị của vật chất. Tình cảm gia đình, tình bạn bè, tình người trong các em mất đi vị trí quan trọng. Cha mẹ đã có công sinh thành, nuôi dưỡng nhưng ngược lại các em xem như đó là điều hiển nhiên cha mẹ phải làm cho mình mà quên đi tình yêu thương, trách nhiệm của bản thân với đấng sinh thành. Hay còn là một lời nói, một cử chỉ, một
1
ánh mắt của người đối diện không làm hài lòng các em thì cũng được xem là “ nhìn đểu” để rồi những cuộc ẩu đả đánh nhau gây tổn hại về mặt thể chất cũng như tinh thần xảy ra với bạn bè mình. Đó còn là sự hờ hững, thờ ơ khi ai đó gặp sự cố, thay vì giúp đỡ họ thì các em lại dừng lại quay phim, chụp ảnh, livestream để đăng tải lên mạng xã hội để giật tít, câu like, câu view. Tất cả những gì mà một bộ phận giới trẻ đang thể hiện chứng minh rõ lòng nhân ái, tình người trong các em đã và đang bị suy thoái trầm trọng.
Tại trường THPT Nam Đàn 2 mà tôi đang công tác vẫn còn xảy ra những vấn đề chung mà nhiều thế hệ học sinh THPT đang đối mặt. Vẫn còn những cuộc ẩu đả giữa các HS chỉ vì những vấn đề đơn giản mà các em tự cho là “mâu thuẫn”, vẫn còn sự thiếu tôn trọng thầy cô và sự thiếu chia sẻ, cảm thông, giúp đỡ các bạn cùng trang lứa. Đứng trước thực trạng đó, một hồi chuông cảnh tỉnh đã réo lên cho chúng ta, đặc biệt là thế hệ tương lai của đất nước. Chúng ta cần làm gì để nuôi dưỡng và lan toả trong các em lòng trắc ẩn, tình người với nhau như truyền thống, đạo lí bao đời nay của dân tộc Việt Nam.
Chính vì lẽ đó, đề tài mà tôi lựa chọn “Một số giải pháp nuôi dưỡng và lan toả lòng nhân ái cho học sinh THPT” nhằm đóng góp công sức của mình trong việc ươm mầm và phát triển một thế hệ thanh niên Việt Nam “tài đức vẹn toàn”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trước thực trạng sự xuống cấp về phẩm chất đạo đức của phần lớn thế hệ trẻ và sự ảnh hưởng của xã hội hiện tại, sáng kiến mà tôi dành thời gian tìm hiểu, thực hiện hi vọng đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nuôi dưỡng và lan toả lòng nhân ái cho các em HS mà tôi đang giảng dạy nói riêng và HS THPT nói chung. Khi bản thân được giáo dục và nhận thức đúng đắn, các em sẽ có kỹ năng để ứng xử, giải quyết các vấn đề xảy ra trong cuộc sống cũng như môi trường giáo dục. Nó sẽ giúp ngăn chặn được những hành vi không mong muốn xảy ra tại trường lớp như vô cảm, nạn bạo lực học đường, nạn kỳ thị, cô lập bạn bè - những vấn đề cấp bách đối với các thế hệ HS hiện nay.
Khi bản thân có hành động tốt đẹp, các em mong muốn chia sẻ, lan toả những điều đó tới mọi người xung quanh. Tình yêu thương con người ngày càng được nhân rộng và lớn dần lên. Các em sẽ cảm thấy cuộc sống thật ý nghĩa, tươi đẹp và đáng sống. Một thế hệ thanh niên Việt Nam bản lĩnh, tài năng và giàu lòng nhân ái là điều chắc chắn làm được. Chính các em sẽ góp phần khẳng định truyền thống nhân đạo tốt đẹp ngàn đời của dân tộc Việt Nam.
3. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh các lớp của trường THPT Nam Đàn 2 mà tôi đã và đang giảng dạy:
12C6K55 (tốt nghiệp năm học 2021-2022), 10C1K58, 10C5K58, 10C6K58, 10C9K58
2
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Tìm hiểu các tài liệu liên quan tới đề tài nghiên cứu như các khái niệm, các công trình nghiên cứu về giáo dục lòng nhân ái, đặc điểm tâm lý HS THPT, các phẩm chất phải rèn luyện cho HS theo chương trình giáo dục phổ thông mới, lòng nhân ái trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Phương pháp tiến hành thực nghiệm sư phạm:
+ Phương pháp quan sát: GV quan sát các biểu hiện của HS thông qua các hành động, cử chỉ, các mối quan hệ giao tiếp của HS với bạn bè, thầy cô, mọi người xung quanh để có những đánh giá, nhận xét đúng mực.
+ Phương pháp điều tra, thống kê: GV kết hợp thực hiện các cuộc khảo sát
thông qua google form nhằm mục đích sau:
• Tìm hiểu ý kiến của HS sau khi thực hiện đề tài • Khảo sát tính cấp thiết và khả thi của đề tài qua ý kiến của HS và GV
+ Phương pháp đóng vai, trải nghiệm thực tế:
- GV tạo cơ hội cho HS đóng vai, ghi âm, tạo ra những video liên quan đến
kiến thức, nội dung các giải pháp mà sáng kiến kinh nghiệm đề cập.
- GV tìm hiểu hoàn cảnh các bạn khó khăn trong lớp, cùng chia sẻ để các em biết cách tổ chức các hành động ý nghĩa, thiết thực để giúp đỡ các bạn. Ngoài ra, GV cũng tìm kiếm và tạo ra cơ hội để HS được trải nghiệm thực tế các hoạt động thiện nguyện tại các tổ chức xã hội ở trường và địa phương.
5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm - Đề tài mà sáng kiến của tôi đề cập đã phân tích và làm rõ được các giải pháp góp phần nuôi dưỡng và lan toả lòng nhân ái trong HS THPT, điều mà chưa có đề tài nào đề cập trước đây. Những đề tài trước đây nếu có cũng chỉ nghiêng về đề tài khái niệm giáo dục chung như giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống, thói quen tốt hoặc một phẩm chất tốt nào khác cần giáo dục cho HS.
- Đề tài mà tôi nghiên cứu mang tính cấp thiết và khả thi cao, có thể áp dụng được trong phạm vi rộng tại các trường THPT nói riêng cũng như một số cấp học khác nói chung.
- Hiệu quả mà các giải pháp mang lại có ý nghĩa thực tế trong việc ngăn chặn nạn bạo lực học đường, nạn vô cảm, nạn kỳ thị, cô lập bạn bè- những vấn đề cấp bách đối với các thế hệ HS hiện nay.
- Các giải pháp đưa ra được đúc kết từ những kinh nghiệm thực tế mà bản thân tôi đã thực hiện và trải nghiệm cùng với HS, PHHS của mình. Không những các em có cơ hội tham gia những hoạt động học tập, trải nghiệm bổ ích, ý nghĩa mà đây còn là dịp cho các em thể hiện lòng yêu thương, biết ơn tới đấng sinh thành. Để từ đó, các em biết trân quý từng giây phút ý nghĩa của cuộc đời này, biết yêu thương, sẻ chia cho những mảnh đời bất hạnh, kém may mắn hơn trong cuộc sống.
3
- Sau khi thực hiện đề tài, tôi phối hợp cùng HS xây dựng thành một phóng sự để tổng hợp nội dung của đề tài và chia sẻ, lan toả để mọi người được biết đến và học tập.
- Đặc biệt, chính các em sẽ là những “sứ giả”, những nhịp cầu nối để “gieo duyên” lan toả giá trị, thông điệp sống tích cực này tới mọi người xung quanh. Đi tới đâu, làm bất cứ việc gì các em sẽ cố gắng sống đúng với nhân cách của bản thân và trở thành những tấm gương sáng để mọi người noi theo và học tập.
II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở lý luận
1.1. Lòng nhân ái
a. Khái niệm -Theo nghĩa Hán Việt, “nhân” có nghĩa là người, “ái” có nghĩa là yêu. Lòng
nhân ái là tình yêu thương giữa con người với con người.
- Lòng nhân ái là phẩm chất đặc biệt trong mỗi con người, luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác mà không cần sự đền đáp, đó là tình yêu giữa con người với con người trong xã hội, trong cuộc sống thường ngày hay chính là sự cảm thông, chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau khi gặp khó khăn hay đối với những niềm vui, bảo vệ, che chở cho những con người yếu đuối, kém may mắn hơn mình.
b. Sự cần thiết phải giáo dục lòng nhân ái cho học sinh Cha ông ta đã có câu “Tiên học lễ, hậu học văn”. Đó cũng chính là câu khẩu hiệu rất quen thuộc mà các em bắt gặp tại các ngôi trường mà mình tham gia học tập. Câu khẩu hiệu nhấn mạnh sự quan trọng, ưu tiên việc học lễ nghĩa, rèn luyện đạo đức, tu dưỡng nhân cách cùng với việc học tập các kiến thức về văn hoá, xã hội. Lòng nhân ái chính là một “lễ” mà các em HS cần được nuôi dưỡng, dạy dỗ ngay từ khi còn nhỏ tới khi trưởng thành.
Giáo dục lòng nhân ái chính là giáo dục cho HS vừa biết yêu quý chính bản thân mình, vừa có tình yêu thương, biết cách trao gửi, chia sẻ, lan tỏa tình yêu đến với nhiều người khác. Nó dạy cho các em biết mở lòng, biết bao dung, từ bi, nhạy cảm với thế giới vạn vật, dần từ đó sẽ hoàn thiện và phát triển con người mình.
Chính vì thế, việc giáo dục lòng nhân ái cho HS được xem là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, cơ bản của nền giáo dục. Điều này không chỉ đúng với truyền thống người Việt, đúng với tư tưởng của Bác Hồ “vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”, mà còn đúng với bản chất khoa học và phù hợp với xu hướng giáo dục của hầu hết các quốc gia trên thế giới hiện nay.
c. Lòng nhân ái trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm của Người về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của đạo đức đối với con người, xã hội và đối với cán bộ, đảng viên; những nội dung cơ bản về đạo đức mới, đạo đức cộng sản, đạo đức cách
4
mạng và hệ thống chuẩn mực đạo đức của con người Việt Nam trong thời đại mới để cán bộ, đảng viên tự phấn đấu rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hết lòng, hết sức tận tụy phục vụ nhân dân, tận trung với nước, tận hiếu với dân, hết lòng yêu thương đồng bào, đồng chí, yêu thương con người, làm hết sức mình để cùng Đảng, toàn dân, toàn quân ta đấu tranh giải phóng dân tộc. Khi trở thành lãnh tụ của Đảng, Người luôn phấn đấu hết sức mình để thực hiện cho được một ham muốn “ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi yêu thương con người là phẩm chất đạo đức cao quý nhất. Phẩm chất ấy trong tư tưởng Hồ Chí Minh xuất phát từ truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân văn của nhân loại, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Ngay cả trước khi từ biệt cõi đời, Người vẫn còn canh cánh một điều “chỉ tiếc là không được phục vụ nhân dân lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.
Tình yêu thương con người ở Chủ tịch Hồ Chí Minh toát lên một tình cảm rộng lớn, cảm thông sâu sắc với mọi khổ đau, bất hạnh của nhân loại, Từ đồng bào, đồng chí của mình cho đến những người cùng khổ thuộc mọi màu da trên thế giới, người dân nô lệ bị mất nước, những người lao động bị áp bức, bóc lột, bất công. Người luôn nghiêm khắc với mình, độ lượng với người khác; có thái độ trân trọng con người, nâng đỡ con người sống tốt hơn và luôn quan tâm đến công tác, đời sống của từng đồng chí và việc ăn ở, học hành, giải trí của từng người dân.
1.2. Đặc điểm tâm lý của học sinh THPT
- Theo cách xác định phổ biến và được thừa nhận trong tâm lí học, lứa tuổi HS THPT nằm trong thời kì đầu của tuổi thanh niên hay còn gọi là thanh niên HS (từ 15-18 tuổi)
- Đặc trưng lớn nhất của hoàn cảnh xã hội của sự phát triển ở lứa tuổi này là các quan hệ có tính mở và sự chuyển đổi vai trò và vị thế xã hội. Đặc trưng này được thể hiện cụ thể như sau:
+ Ở lứa tuổi HS THPT, các mối quan hệ ít tính mâu thuẫn hơn so với độ tuổi trước đó. Quan hệ với cha mẹ, thầy cô, bạn bè đã trở nên thuận lợi hơn do sự trưởng thành nhất định trong nhận thức của HS và sự thay đổi trong cách nhìn nhận của người lớn. Tuy vậy, tính chất ít xác định về quan hệ xã hội vẫn còn. Một mặt HS đã có những sự độc lập nhất định trong tư duy, trong hành vi ứng xử, mặt khác HS lại chưa có được sự độc lập về kinh tế do vẫn phụ thuộc vào gia đình.
+ Quan hệ với phụ huynh: Trong gia đình, HS có thể có được quan hệ tương đối dân chủ hơn, được tôn trọng và lắng nghe. HS có thể tự quyết định một số vấn đề của bản thân hoặc được tham gia vào việc ra các quyết định đó như lựa chọn nghề nghiệp, học hành, tình cảm. Việc can thiệp trực tiếp theo kiểu “ra lệnh”, “ép buộc” của cha mẹ với trẻ không phù hợp và cũng không thể hiệu quả nữa. Sự tôn trọng, tin cậy và trò chuyện của phụ huynh với HS có thể tạo được mối quan hệ tốt
5
giữa cha mẹ và con cái, giúp các em có thể nhanh chóng trưởng thành theo chiều hướng tích cực.
+ Trong quan hệ với bạn bè: HS THPT có thể tham gia vào nhiều nhóm bạn đa dạng hơn. Nhóm bạn có các định hướng giá trị rõ rệt hơn và cỏ điều kiện tồn tại lâu dài hơn. Các em có thể vừa tham gia vào các nhóm có tổ chức như lớp học, chi đoàn vừa tham gia vào các nhóm bạn bè tự phát, trong đó có những nhóm thường xuyên, ổn định và các nhóm tạm thời tình huống. Các nhóm thường xuyên có sự phân hoá vai trò ổn định hơn và một số trường hợp có sự đoàn kết.
- Về đặc điểm nhân cách của HS THPT:
+ Quá trình hình thành nhân cách bao gồm cả việc hình thành “cái tôi”. Khi ở độ tuổi này, HS rất quan tâm đến hình ảnh của mình trong mắt người khác. Hình ảnh cái tôi được đánh giá qua nhiều tiêu chí khác nhau: tính bền vững, tính tương phản, mức độ rõ ràng.
+ Một thực trạng nữa ở HS THPT đó là lạm dụng các chất kích thích do bản thân muốn chứng minh là người lớn hoặc dễ bị lôi kéo, hoặc học giảm sút, gia đình không tin tưởng, thất tình và có thể tò mò. Ở HS THPT cũng hay bị căng thẳng do mâu thuẫn, xung đột hoặc sự kì vọng từ người lớn, ngoài ra do tâm lí đến việc thi đại học và chọn nghề.
1.3. Phẩm chất phải rèn luyện cho học sinh theo chương trình giáo dục
phổ thông mới
Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể đã đề ra 5 phẩm chất chủ yếu cần được hình thành và phát triển cho HS bao gồm nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm, yêu nước. Đây chính là những phẩm chất nền tảng giúp HS rèn luyện bản thân và hiểu được những phẩm chất quý giá của dân tộc mình.
Hình ảnh các phẩm chất chủ yếu cần phát triển cho HS theo chương trình
GDPT mới
6
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Thực trạng sự xuống cấp nền tảng đạo đức ở thế hệ trẻ hiện nay
a. Thực trạng chung
Trước sự ảnh hưởng của xã hội hiện nay, nhân cách của thế hệ trẻ ngày càng bị tác động đáng kể. Nhiều em không còn coi trọng giá trị của bản thân, sống buông thả, tự do, tự ý làm bất cứ việc gì mình thích mặc dù biết đó là việc không tốt. Có những nhóm HS ăn chơi trác táng, sa đà vào tệ nạn xã hội, nghiện ngập ma tuý. Có những em nghiện game quên ăn quên ngủ. Có những em bị ảo tưởng về các trò chơi, dùng dao hay các vũ khí tấn công mọi người xung quanh. Theo báo “Hà Nội mới”, ở huyện Thường Tín - Hà Nội, có nhóm thanh niên gồm 20 đối tượng chuyên gây rối trật tự, đánh người thuộc nhóm Nguyễn Thông Hoàn (sinh năm 2005, trú tại xã Tự Nhiên, cùng huyện) và Lương Thành Đạt (sinh năm 2000, trú tại xã Liên Phương) cầm đầu.
Bên cạnh đó, có những em không chịu được áp lực học hành, không kiểm soát được bản thân như trường hợp của em Nguyễn Thị H (SN 2002) trú thôn Quý Hương, xã Bình Quý, huyện Thăng Bình, Quảng Nam) treo cổ tự tử trong nhà vì thi trượt đại học (theo báo Pháp Luật).
Ngoài ra, các em sẵn sàng làm tổn thương ngay cả những người thân, người bạn hay thầy cô của chính mình. Còn rất nhiều những trường hợp tội phạm là vị thành niên mà các kênh thời sự và truyền thông chính thống đưa tin.
b. Thực trạng tại trường THPT Nam Đàn 2
Trong suốt thời gian giảng dạy tại trường THPT Nam Đàn 2, tôi nhận thấy phẩm chất đạo đức của các em HS đang ngày càng bị xuống cấp nghiêm trọng. Thực trạng HS xích mích đánh nhau xảy ra khá thường xuyên, đặc biệt đối với các em HS khối 10 mà tôi đang giảng dạy. Chỉ từ những sự việc đơn giản xảy ra, các em tìm đến bạo lực để giải quyết. Có trường hợp bạn bè trong lớp chỉ vì hiểu nhầm nhỏ mà dùng dao đâm chém nhau gây thương tích. Đó là trường hợp của em Nguyễn Hữu Thành và em Nguyễn Hữu Đạt- hai anh em sinh đôi cùng học chung lớp 10C9 mà tôi giảng dạy. Do mâu thuẫn với em Hà Đăng Hoàng học cùng lớp mà hai anh em rủ nhau dùng dao đâm bạn, gây thương tích. Hay là em Trần Hữu Hoàng lớp 11C9 hay bỏ học, hút thuốc lá, đánh nhau và uống rượu trước khi đến trường.
Ngoài ra, những hiểu nhầm qua các trang mạng xã hội cũng là một trong những lý do gây mâu thuẫn. Lớp 10C6 tôi chủ nhiệm, đầu năm học cũng có sự hiểu lầm đáng tiếc từ việc chia sẻ và bình luận các video trên facebook với lớp 10C9.
Hơn thế nữa, một số HS còn thể hiện sự thiếu tôn trọng, vô lễ với các GV trực tiếp giảng dạy qua thái độ đối xử, cách xưng hô với các thầy cô. Đó là trường hợp của em Nguyễn Thái Sơn 10C4 và em Nguyễn Duy Mạnh lớp 10C9. Không chỉ
7
một lần mà các em còn cố tình vi phạm nhiều lỗi khác và rủ rê các bạn trốn tiết học, vi phạm các nội quy an ninh trường học mà nhà trường đề ra. Danh sách HS vi phạm an ninh trường học tính đến cuối học kỳ 1 năm học 2022-2023 của trường tôi cũng là một con số đáng báo động. Nhà trường cũng đã triệu tập PHHS, GVCN, HS để họp hội đồng kỷ luật để tìm ra giải pháp phù hợp.
Hình ảnh cuộc họp hội đồng kỷ luật HS
2.2. Thực tiễn công tác giáo dục lòng nhân ái ở trường THPT Nam Đàn 2
a. Đối với giáo viên
- Thuận lợi:
+ Công đoàn nhà trường đã tổ chức các chương trình hưởng ứng phát động phong trào ủng hộ để xây dựng nhà công vụ tại trường THPT Mường Quạ và quyên góp quỹ xây nhà cho người nghèo theo công văn của công đoàn ngành giáo dục Nghệ An. Đó cũng là một việc làm thiết thực thể hiện tấm lòng nhân ái. Qua đây, HS cũng có cơ hội được biết đến các nghĩa cử tốt đẹp của các thầy, cô giáo.
+ Đoàn trường cũng phối hợp cùng Đoàn xã phát động các chương trình “chủ nhật xanh” để cùng chung tay với GV trong việc giáo dục lòng biết ơn, tình yêu thương con người cho HS.
+ GV trong các tiết dạy, ngoài việc truyền thụ kiến thức thì các thầy cô cũng thường nhắc nhở, dạy dỗ các em về các phẩm chất tốt đẹp mà mỗi con người cần có, cũng nhằm giúp các em nâng cao ý thức, tránh các tệ nạn xảy ra tại trường học.
+ Vào dịp Tết đến xuân về, nhà trường có tổ chức chương trình trao quà Tết cho HS có hoàn cảnh khó khăn và có ý thức học tập tốt qua sự quyên góp của các cán bộ GV, nhân viên nhà trường và các cựu HS.
8
Hình ảnh hoạt động trao quà Tết cho học sinh nghèo vào dịp Tết
- Hạn chế:
+ Ban giám hiệu nhà trường cũng đã phối hợp cùng Đoàn trường tổ chức các buổi toạ đàm, hoạt động trải nghiệm tìm hiểu về các chương trình như tuyên truyền các quy định của pháp luật về an toàn giao thông, phòng chống bạo lực học đường và an ninh mạng; diễn đàn thanh niên với biển đảo quê hương…nhưng cũng chưa có diễn đàn nào nói cụ thể về các giải pháp nuôi dưỡng và lan toả lòng nhân ái.
+ Các tiết dạy ngoài giờ lên lớp, hoạt động trải nghiệm chưa tạo được sự hứng thú, chú ý và sự tham gia tích cực từ phía HS. Lượng thời gian để dành riêng cho các hoạt động giáo dục kỹ năng sống chưa nhiều.
+ GV là người gặp gỡ và tiếp cận HS thông qua các tiết dạy. Họ có cơ hội để hiểu về năng lực, phẩm chất của cá nhân HS để tìm ra những phương pháp giáo dục theo chiều hướng tích cực. Tuy nhiên trên thực tế, qua mỗi tiết dạy với lượng thời gian cố định, GV phải truyền tải lượng kiến thức nhất định mà chưa có cơ hội để chia sẻ, đề cập nhiều tới các vấn đề này. Nếu có đề cập thì cũng chỉ mang tính khái quát chung, chưa thường xuyên, đều đặn để mang lại hiệu quả tốt nhất như mong muốn.
+ Địa bàn cư trú của HS trong các lớp ở trường tôi đến từ nhiều vùng khác nhau của các xã ở huyện Nam Đàn, Hưng Nguyên. Đó cũng là một trở ngại cho việc tìm hiểu hoàn cảnh thực tế cũng như trao đổi, gặp gỡ và phối hợp cùng PHHS để giáo dục HS.
+ PHHS trong địa bàn chủ yếu làm nông, công nhân hoặc đi xuất khẩu lao động, chưa có nhiều thời gian để quan tâm, đồng hành cùng con cái. Đặc biệt, một số bậc PHHS còn có suy nghĩ “ Cha mẹ sinh con, trời sinh tính”, “ trăm sự nhờ thầy”, phó mặc cho nhà trường và GV trong việc giáo dục HS.
9
b. Đối với học sinh
- Thuận lợi:
+ Qua các chương trình mà Đoàn trường phối hợp cùng Đoàn xã thực hiện để quét dọn đình Trung Cần và nghĩa trang liệt sỹ xã tại địa phương, hay là các chương trình ủng hộ đồng bào lũ lụt miền Trung, nhiều em HS cũng tham gia khá tích cực. Qua đó các em cũng đã nhận thức được phần nào đó tinh thần tương thân tương ái, sẻ chia, “lá lành đùm lá rách” của dân tộc ta.
+ Một số HS có nhận thức tốt cũng đã ít nhiều hiểu được bản chất của các phương pháp giáo dục mà GV truyền đạt trong các giờ học chính khoá, ngoài giờ lên lớp.
Hình ảnh các tập thể quyên góp để ủng hộ lũ lụt miền Trung
- Hạn chế:
+ Mỗi khi có chương trình tình nguyện hay phát động chung tay hành động của nhà trường thì còn có rất nhiều HS thiếu tinh thần tự giác, chưa cố gắng, chưa nhận thức đúng và đủ về vấn đề. Nếu các em có tham gia thì cũng chỉ theo hiệu ứng đám đông, làm cho vui chứ không có suy nghĩ nhiều về bản chất, ý nghĩa của hành động. Đặc biệt có một số HS hoàn cảnh khá giả hơn, có đồng tiền cha mẹ cho chi tiêu thoải mái hơn những HS khác thì các em thường hay mua quà ăn vặt, còn khi nhắc đến việc hỗ trợ, giúp đỡ người khác thì các em thường e dè, tiếc tiền hay ngại làm việc chân tay, chưa chủ động giúp đỡ.
+ Ngoài ra, các hoạt động ngoài giờ lên lớp hay các tiết sinh hoạt khi GV có đề cập tới lòng nhân ái, các em chỉ nghĩ nó mang tính lí thuyết, chưa chủ động thực hành nó khi có cơ hội. Các em cũng chưa hiểu được bản chất và sự liên quan giữa giáo dục lòng nhân ái với các tệ nạn bạo lực học đường hay nạn vô cảm.
10
+ Phẩm chất đạo đức, nhân cách của HS ngày nay bị ảnh hưởng nhiều bởi sự
phát triển của xã hội thực tại.
3. Một số giải pháp nuôi dưỡng và lan toả lòng nhân ái cho học sinh
THPT
Sau khi tìm hiểu về thực trạng của việc giáo dục lòng nhân ái, bản thân tôi đề xuất một số giải pháp sau nhằm nâng cao chất lượng giáo dục phẩm chất đạo đức cho HS.
3.1. Bản thân người giáo viên là một tấm gương mẫu mực cho các em noi
theo học tập
Từ lúc còn nhỏ, tôi đã luôn mơ ước mình sẽ trở thành một GV trong tương lai. Cứ mỗi lần nghe lời bài hát “Ước muốn ngày nào, ôm ấp trong tim, mai đây làm cô giáo…” là trong lòng tôi lại rạo rực, phấn chấn. Lúc đó bản thân tôi thấy yêu nghề giáo hơn bao giờ hết, muốn được làm cô giáo đứng trên bục giảng, dạy bảo cho học sinh giống như cô giáo của mình. Khi lớn lên đi học cấp 3, niềm đam mê ấy lại càng mãnh liệt để tôi lấy làm động lực cho sự phấn đấu của bản thân mình. Và khi nhận được giấy báo trúng tuyển đại học, trong lòng tôi vui sướng vì đã chạm tới ước mơ. Sau bốn năm học xa nhà, tôi vẫn luôn mong muốn được trở về quê hương để được cống hiến, giúp HS ở quê mình tiếp cận được bộ môn Tiếng Anh mà trong tuổi thơ những ngày đi học cấp 2 chúng tôi phải bỏ giữa chừng năm lớp 9 vì thiếu GV.
Với một tình yêu được nuôi dưỡng từ thời thơ ấu, bản thân tôi cảm thấy may mắn khi được đứng trên bục giảng, được thổi niềm đam mê học môn Tiếng Anh cho các thế hệ học trò cũng như chỉ bảo cho các em những điều hay lẽ phải, các kỹ năng cần thiết trong cuộc sống. Tôi vẫn luôn tâm đắc với một câu nói “cách giáo dục tốt nhất là giáo dục bằng chính nhân cách nhà giáo dục” được đúc kết từ các nhà tư tưởng, nhà giáo dục lớn từ trước đến nay trên thế giới.Vì vậy, từ sâu thẳm trong trái tim tôi luôn tự nhắc nhở bản thân mình phải luôn trau dồi chuyên môn, nhân cách của bản thân mình, đối nhân xử thế tốt để bản thân mình không thấy hổ thẹn và từ đó trở thành tấm gương cho các thế hệ HS noi theo.
Trước hết, ngoài việc tự nâng cao kiến thức bằng cách đọc tài liệu, tìm kiếm qua các kênh thông tin thì tôi còn học hỏi từ thầy cô, các bậc đồng nghiệp và bạn bè. Trong mỗi bài giảng, tôi luôn đổi mới, lồng ghép linh hoạt nhiều hoạt động, trò chơi để các em tìm thấy sự thú vị và đam mê khi học tập môn này. Bên cạnh đó, tôi thường đưa ra các dẫn chứng để nhắc nhở các em rằng Tiếng Anh là một môn học thực sự quan trọng, ý nghĩa để phục vụ cho tương lai sau này của các em. Biết sử dụng tiếng Anh thành thạo sẽ là một lợi thế lớn trong bất cứ lĩnh vực ngành nghề nào, và đó cũng là một tiêu chí để giúp các em có thể trở thành “công dân toàn cầu". Từ đó, các em càng hứng thú và tìm thấy động lực để phấn đấu. Tôi tin rằng khi các em có niềm tin về năng lực chuyên môn của người GV nào, chắc chắn các em sẽ đặt niềm tin vào những điều hay, lẽ phải học được từ người GV đó.
11
Đồng hành cùng việc trau dồi chuyên môn, nhân cách của nhà giáo là một điều mà tôi đặc biệt quan tâm. Để có thể dạy dỗ HS của mình trở thành một con người giàu lòng nhân ái, một công dân có ích cho xã hội, bản thân tôi mỗi ngày luôn tự rèn luyện, tu dưỡng nhân cách của bản thân. Tôi tìm hiểu các tài liệu về tiêu chuẩn tác phong làm việc, lối sống của nhà giáo để học tập cũng như các hành vi nhà giáo không được làm để tránh vi phạm.
- Về tác phong, lối sống nhà giáo:
Cách ăn mặc của một con người một phần nào phản ánh tính cách bên trong của họ và cũng thể hiên sự tôn trọng đối tác như cha ông ta thường nói “ăn cho mình, mặc cho người”. Vì thế mỗi khi đi dạy, tôi thường để ý tác phong ăn mặc lịch sự, trang trọng để đảm bảo sự nghiêm túc trong mỗi giờ dạy, không gây phản cảm và sự phân tán chú ý của HS và cũng thể hiện phần nào sự tôn trọng của tôi với đồng nghiệp, với HS. Khi nhìn vào đó, các em cũng thấy được để noi theo, tránh trường hợp ăn mặc không nghiêm túc khi đến lớp.
Lời ăn tiếng nói, cử chỉ khi giao tiếp với HS cũng như với đồng nghiệp cũng được tôi để ý sử dụng ở mức độ mô phạm, văn minh lịch sự. Và đặc biệt, tôi học cách để kiềm chế cảm xúc của mình trong những tình huống nóng giận khi HS vi phạm điều gì. Từ đó, tôi đặt mình vào vị trí của các em, tìm ra nguyên nhân và những biện pháp xử lý kịp thời, hiệu quả, tránh làm tổn thương HS của mình. Chính vì thế, các em sẽ học hỏi được nghệ thuật khi giao tiếp để thể hiện sự tôn trọng, thân thiện đồng thời biết học cách kiềm chế cảm xúc trong những tình huống cần thiết.
- Về vấn đề đồng hành cùng HS:
Mặc dù công việc bận rộn, nhà xa trường nhưng tôi vẫn cố gắng trở thành một người đồng hành cùng các em trong mọi hoạt động của trường, của lớp. Từ những vai trò là tư vấn cho những hoạt động của HS trong học tập cũng như ngoại khoá, văn nghệ, thể dục, thể thao đến hỗ trợ về vật chất, tinh thần, tôi mong muốn các em sẽ nhận thấy được sự quan tâm, thương yêu mà tôi muốn gửi gắm. Đó như là sự lo lắng, sẻ chia của một người mẹ trong gia đình, mong cho các đứa con thân yêu của mình luôn tìm thấy được hậu phương vững chắc.Và càng đồng hành cùng các em, tôi càng có thêm nhiều cơ hội để tìm và hiểu thêm về chính các học trò của mình.
Tôi vẫn còn nhớ ngày trường tôi tổ chức đi trải nghiệm tại các địa chỉ đỏ của Nghệ An và Hà Tĩnh. Trong lớp chủ nhiệm C6K55 của tôi có 40 HS, trong đó có em Phạm Thị Hồng Nhung, thuộc diện hộ cận nghèo, bố bị động kinh, mẹ bị bệnh tim, không đủ điều kiện để tham gia. Em nhắn tin chia sẻ cùng tôi và xin phép không tham gia, mong tôi thông cảm. Trong khi đó, bản thân tôi không muốn bất cứ HS nào phải ở nhà vì bất cứ lý do gì. Vì vậy, suất miễn phí của GVCN tôi ưu tiên cho em và tôi nộp suất tham gia của mình để đồng hành cùng các em. Hay còn là đợt văn nghệ chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam 20/11 năm trước, một mình tôi chở một HS là phó bí thư của lớp đi lấy đồ đã thuê ở Đức Thọ- Hà Tĩnh sau giờ
12
dạy buổi chiều vì sợ các em đi về muộn nguy hiểm. Sau khi chào tạm biệt HS, ra về một mình trên chiếc xe máy, giữa cánh đồng hoang vu tối đen trong khi đường đi không biết, tôi sợ hãi chỉ mong đặt chân nhanh đến cầu Yên Xuân để có thể tìm được đường về nhà.
Vào tháng 3, Đoàn trường THPT Nam Đàn 2 tổ chức cuộc thi “Thanh niên thanh lịch” để chào mừng 92 năm ngày thành lập Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Lớp tôi có một thí sinh được lọt vào vòng chung kết. Việc đi tìm đồ để thuê và đi lấy đồ cũng chiếm khá nhiều thời gian của em và cũng khá bất tiện, không an toàn khi em di chuyển bằng xe đạp điện từ Nam Đàn xuống Vinh. Vì vậy, thương trò tôi chở em đi thuê đồ, giúp em lấy đồ và trả đồ để em có thêm thời gian tập luyện, học tập và nghỉ ngơi. Thật vui biết bao, khi HS của tôi giành được vương miện hoa khôi cho cuộc thi lần này. Em vui mừng và cảm ơn tôi vì đã đồng hành cùng em suốt cuộc thi.
Trường tôi đóng tại vùng đất nông thôn nghèo và chịu nhiều ảnh hưởng của thiên tai ở huyện Nam Đàn. Hầu hết HS của tôi đều là con của những gia đình bố mẹ làm nông, vì thế đời sống của các em gặp khá nhiều khó khăn. Có những gia đình đông con, hay có bố mẹ ốm đau bệnh tật, sau mỗi ngày đi học về các em phải phụ giúp từ việc nhà cửa, chăm em út, việc làm đồng. Cũng xuất thân từ gia đình bố mẹ làm nông, tuổi thơ gắn liền với ruộng lúa, với những buổi chăn trâu bò, mò cua bắt ốc, cho lợn gà ăn; tôi thực sự thấu hiểu, chia sẻ và thương cho những HS có hoàn cảnh đặc biệt. Những dòng tin nhắn hỏi thăm, những cuộc trao đổi trực tiếp động viên chia sẻ, hay những món quà nhỏ ý nghĩa mà tôi cùng với các cán bộ lớp tới gia đình các em để thăm hỏi, trao tặng cũng sưởi ấm được phần nào trái tim của các em.
Hình ảnh tôi cùng HS tới thăm gia đình bạn có hoàn cảnh khó khăn trong lớp
13
Rồi còn kể đến những lần HS ốm đau nằm viện, tôi cũng tranh thủ bớt chút thời gian đến thăm các em để động viên tinh thần, mong các em sớm ổn định sức khoẻ trở lại trường. Đó là khi em Trần Thị Minh Anh lớp 12C6 mổ xoang tại bệnh viện tai mũi họng miền Trung hay là em Nguyễn Thị Duyên 12C6 bị căn bệnh kì lạ phải điều trị thời gian dài tại các bệnh viện ở Nghệ An và Hà Nội. Tôi cũng chia sẻ để chồng tôi đang làm việc tại Hà Nội dành chút thời gian đến thăm hỏi, động viên em. Tôi còn nhớ có em Hoàng Viết Nam là HS tôi đã từng dạy. Em là một HS kém may mắn khi sinh ra không có cha đồng hành dạy dỗ, rồi mẹ và em gái sau này cũng bị căn bệnh ung thư quái ác cướp đi sinh mạng. Chỉ còn em ở lại một mình, chống chọi với cuộc sống này trong khi bản thân mình còn mang bệnh tật. Tôi cũng chia sẻ, hỏi thăm động viên và giúp đỡ em bằng chút tấm lòng của mình.
- Về vấn đề tham gia các hoạt động thiện nguyện xã hội:
Với tôi, nếu mình có cơ hội làm được điều gì đó tốt đẹp cho đời thì mình cứ nên làm. Ai có sức khoẻ, có nhiều thời gian, hay khá giả hơn về kinh tế thì làm việc lớn hơn, còn ai không khoẻ mạnh bằng, có ít thời gian hơn thì làm những việc nhỏ hơn chứ không nhất thiết chỉ khi làm việc lớn lao thì mình mới tham gia. Chính vì thế, tôi cố gắng để phân chia thời gian hợp lý để có thời gian tham gia các hoạt động thiện nguyện tại trường và địa phương hoặc bớt đi sự chi tiêu hàng tháng của mình để quyên góp ủng hộ các gia đình có hoàn cảnh khó khăn, có người thân gặp nạn. Tôi cũng thường chia sẻ, trao đổi với các em HS về những hoạt động mà tôi tham gia, để một phần nào đó các em hiểu hơn về con người tôi cũng như thông điệp mà tôi muốn lan toả.
Hình ảnh thể hiện sự quyên góp, ủng hộ các hoàn cảnh khó khăn
14
Ngoài ra, tôi cũng dành thời gian tham gia các hoạt động công ích tại các ngôi chùa hay tổ chức xã hội. Nếu nhà chùa hay bất cứ tổ chức nào có công việc gì cần sự hỗ trợ như quét dọn, hay di chuyển đồ đạc, tôi sẵn sàng sắp xếp thời gian để ủng hộ.
Hình ảnh tôi tham gia lau chùi và chở gạch cùng các phật tử tại chùa Hà-
Hùng Tiến- Nam Đàn- Nghệ An
Sau tất cả những gì tôi đã, đang và sẽ thực hiện, bản thân tôi muốn ngày càng hoàn thiện chính mình để trở thành một phiên bản tốt đẹp hơn và lan toả những điều tích cực đó đến các HS của mình. Để từ đó, học trò thân yêu của tôi sẽ ít nhiều hiểu được nhân cách và cảm nhận được tấm lòng của tôi với các em. Việc học tập từ tôi những quan điểm sống tích cực, phẩm chất tốt đẹp để sống có ích cho xã hội là điều các em có thể làm được.
3.2. Giáo viên đưa ra những tấm gương sáng điển hình về phẩm chất đạo
đức gần gũi với cuộc sống xung quanh các em
Ngoài việc bản thân người GV là một tấm gương mẫu mực thì việc đưa ra những tấm gương sáng về phẩm chất đạo đức tốt của những người gần gũi với các em cũng là một giải pháp hiệu quả nhằm giáo dục nhân cách cho HS. Bác Hồ cũng đã từng nói “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Chính vì vậy, lồng ghép trong các tiết sinh hoạt, tôi phối hợp tổ chức các hoạt động tìm hiểu về các nhân vật đó qua việc đóng vai, các trò chơi để các em tham gia.
15
Hoạt động: TRÒ CHƠI “ ĐÂY LÀ NHÂN VẬT NÀO”
(Nội dung bài dạy tại MỤC 1 trong tài liệu USB đính kèm)
Thời gian thực hiện: Lồng ghép trong các tiết sinh hoạt lớp cuối tuần hoặc
- các tiết sinh hoạt bắt đầu buổi học, các tiết hoạt động trải nghiệm
- Mục tiêu: Qua hoạt động này, HS biết thêm và hiểu rõ về những việc làm ý nghĩa, giàu tính nhân văn của các nhân vật tiêu biểu mà GV muốn đề cập. Từ đó, các em biết trân quý tấm lòng, tình cảm mà họ dành cho nhà trường, cho quê hương, để cố gắng học tập, đạt thành công và hướng về cội nguồn, nơi chôn rau cắt rốn.
- Cách thực hiện:
+ GV chia lớp thành 2 đội chơi. Hai đội sẽ rung chuông nhanh để giành lượt trả lời cho đội của mình để tìm ra chân dung nhân vật được nhắc tới. Trả lời đúng ở gợi ý đầu tiên các đội sẽ ghi điểm tối đa 40 điểm, gợi ý tiếp theo 20 điểm, gợi ý thứ ba các em được 10 điểm.
Bức tranh 1:
• Gợi ý 1. Đây là một nhân vật khá nổi tiếng, sinh ra và lớn lên tại vùng quê
Nam Cường.
• Gợi ý 2. Anh đã có nhiều đóng góp trong việc phát triển quê nhà và đồng
thời giúp đỡ, quan tâm tới nhiều hoàn cảnh khó khăn
• Gợi ý 3. Anh là cựu HS trường chúng ta, người đã luôn đồng hành cùng nhà
trường trong các dịp trao tặng quỹ khuyến học cho HS nghèo.
Bức tranh 2:
• Gợi ý 1. Đây là GV đã từng có nhiều năm công tác tại trường THPT Nam
Đàn 2
• Gợi ý 2. Thầy đã từng là phó hiệu trưởng nhà trường .Thầy được nhiều HS,
phụ huynh cũng như đồng nghiệp yêu quý bởi nhân cách cao đẹp của mình
• Gợi ý 3. Thầy đã được Sở GD&ĐT tỉnh Nghệ An bổ nhiệm làm hiệu trưởng
của trường THPT Thanh Chương 3 năm 2020
Đáp án :
Bức tranh 1- Doanh nhân Trần Tuấn Lộc – Giám đốc công ty cổ phần xây
dựng Tuấn Lộc
Bức tranh 2- Thầy giáo Lê Văn Quyền- nguyên phó hiệu trưởng trường THPT
Nam Đàn 2
16
1. Doanh nhân Trần Tuấn Lộc 2. Thầy giáo Lê Văn Quyền
+ Sau khi HS trả lời đúng về tên của 2 nhân vật xuất hiện sau mảnh ghép, GV công bố điểm của 2 đội và tiếp tục hỏi để HS chia sẻ về những thông tin liên quan.
• Câu hỏi 1: Các em có thể kể ra những nghĩa cử cao đẹp mà anh Trần Tuấn
Lộc hay thầy giáo Lê Văn Quyền đã làm?
• Câu hỏi 2: Qua tìm hiểu về 2 nhân vật này, các em học hỏi được điều gì?
Em Trần Hoài Thương lớp 10C6 chia sẻ: “Thưa cô, em cũng sinh ra và lớn lên cùng xã với anh Trần Tuấn Lộc, em cũng biết anh có rất nhiều đóng góp cho nhà trường ta. Không chỉ trường ta, mà trường tiểu học Nam Cường khi xưa em học cũng được anh hỗ trợ xây cổng trường, hỗ trợ học bổng cô ạ. Đợt lũ lụt năm 2020 hay các dịp Tết nhân dân trong vùng được anh hỗ trợ rất nhiều. Còn thầy Lê Văn Quyền thì khi chúng em lên đây học, thầy đã được luân chuyển sang trường khác, nhưng em nghe các anh chị khoá trên kể lại, vợ chồng thầy Quyền và cô Châu được rất nhiều học sinh yêu quý. Thầy cô thường kêu gọi mọi người quyên góp, giúp đỡ các hoàn cảnh khó khăn ạ.”
+ Sau khi HS đưa ra ý kiến của mình, GV bổ sung thêm một số thông tin về 2
nhân vật
• Anh Trần Tuấn Lộc là một người con của quê hương Nam Cường- Nam Đàn và là cựu HS của trường THPT Nam Đàn 2. Anh đã hỗ trợ xây dựng cổng trường, căng tin nhà trường, dãy nhà học 2 tầng khối 12 bao gồm 10 phòng học. Không những thế, anh còn ủng hộ quỹ khuyến học và quỹ Tết vì người nghèo hàng năm cho nhà trường.
• Thầy giáo Lê Văn Quyền quê ở xã Hưng Xuân, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Xuất thân trong một gia đình có hoàn cảnh khó khăn nên thầy luôn chia sẻ, thấu hiểu được những khó khăn mà các em HS gặp phải. Thầy luôn quan tâm giúp đỡ HS trong học tập, đời sống. Thầy đã chuyển công tác lên làm hiệu trưởng
17
trường THPT Thanh Chương 3 và vẫn luôn đón nhận được tình cảm tốt đẹp từ các thế hệ HS, PHHS và đồng nghiệp.
Hình ảnh chụp từ tiết học về hoạt động tìm hiểu “Đây là nhân vật nào”
- Kết quả: Qua hoạt động trên, các em biết trân quý tấm lòng, tình cảm của 2 nhân vật mà GV đề cập. Từ đó, các em cũng có khát vọng, ước mơ về một tương lai thành công và có cơ hội giúp đỡ mọi người như hai nhân vật đó.
3.3. Giáo dục các em học sinh biết yêu quý chính bản thân mình, để từ đó
các em biết yêu quý, trân trọng những người xung quanh
Giáo dục HS biết yêu quý chính bản thân mình cũng là một tiền đề cho việc giáo dục lòng nhân ái. Yêu bản thân không có nghĩa là các em tự cho mình là những người thông minh, tài năng và xinh đẹp nhất, mà thay vào đó, các em biết chấp nhận cả những điểm yếu của mình, xem chúng như một phần cấu thành con người của chính các em. Như một ai đó đã từng nói “Yêu bản thân bắt nguồn từ việc chấp nhận con người thật của bạn”. Và khi biết cách chấp nhận chính mình thì các em cũng sẽ biết cách để tôn trọng sự khác biệt của người khác, biết sống chan hoà, bao dung với mọi người xung quanh. Bằng một số phương pháp tôi đã thực hiện dưới đây, tôi thấy các em càng ngày càng biết trân trọng chính bản thân mình.
3.3.1. Tìm hiểu về vấn đề học sinh có những hành vi tự làm hại chính mình
- Thời gian thực hiện: Lồng ghép trong các tiết sinh hoạt lớp cuối tuần hoặc
các tiết sinh hoạt bắt đầu buổi học, các tiết hoạt động trải nghiệm
- Mục tiêu: Qua hoạt động này, HS nhận thức được những vấn đề đúng hay
sai của các hành động để từ đó biết học cách yêu quý bản thân mình.
- Cách thực hiện:
18
+ GV giới thiệu vấn đề: Trước thực trạng ngày nay nhiều HS cảm thấy cuộc sống xung quanh mình tẻ nhạt,vô nghĩa, không có ai thấu hiểu, đồng hành hoặc gặp sự ngăn cản, hiểu nhầm nào đó từ bố mẹ, người thân, bạn bè thì các em thường tìm đến cách tự làm tổn thương bản thân hoặc tự kết thúc cuộc đời mình.
+ GV trình chiếu một số hình ảnh liên quan đến nội dung tự tử, lối sống tiêu
cực và yêu cầu các em chia sẻ suy nghĩ của mình sau khi xem.
+ GV gọi một số HS chia sẻ các suy nghĩ chân thực nhất của mình sau khi
xem các hình ảnh ở trên và yêu cầu các em trả lời một số câu hỏi:
• Câu hỏi 1: Theo các em, ai là người thiệt thòi nhất trong những tình huống
trên?
• Câu hỏi 2: Ai là người đau khổ nhất khi các bạn ấy “đi xa”?
+ GV tiếp tục chiếu một số hình ảnh, video người ở lại đau khổ khi có người thân ra đi và sau đó yêu cầu các em tìm hiểu lý do tại sao thế hệ trẻ ngày nay lại có những hành động thiếu suy nghĩ như vậy.
+ GV tiếp tục trình chiếu video về 2 nhân vật nổi tiếng trên thế giới và Việt
Nam
• Nhân vật 1: Nick Vujicic- người khuyết tật tay chân nhưng tràn đầy nghị lực sống phi thường. Anh là một diễn giả truyền cảm hứng nổi tiếng, giám đốc Life Without Limbs. Anh đã đi khắp nơi trên thế giới, trong đó có Việt Nam chúng ta để diễn thuyết truyền động lực về cuộc sống của một người khuyết tật mang hy vọng và mong muốn tìm được ý nghĩa cuộc sống.
• Nhân vật 2: Nguyễn Công Hùng - một công dân Việt Nam nổi tiếng với nghị lực sống và làm việc. Khi mới 2 tuổi, vì mắc căn bệnh hiểm nghèo khiến anh bị liệt toàn thân. Nhưng anh vẫn cố gắng đi học, đến năm học lớp 7, anh phải nghỉ vì bệnh ngày càng trầm trọng, cơ thể chỉ còn chưa đầy 20 kg. Bằng nghị lực của mình, Nguyễn Công Hùng vẫn tự học để đến năm 21 tuổi (2003), anh mở trung tâm tin học dành cho người khuyết tật. Anh còn sáng lập trang website mang tên www.nghilucsong.net với nội dung hỗ trợ người khuyết tật tìm kiếm thông tin về việc làm và học tập với hơn 30.000 thành viên khắp thế giới, 100.000 bài viết được sẻ chia. Năm 2005, Nguyễn Công Hùng được Tạp chí Công nghệ Thông tin eChip trao tặng danh hiệu “Hiệp sĩ công nghệ thông tin”.
+ GV yêu cầu HS so sánh 2 tình huống vừa nêu ra ở trên và phát biểu suy
nghĩ của mình.
+ GV tổng kết lại vấn đề và nhấn mạnh kết luận.
Trong cuộc sống, có những con người bình thường, khi mới gặp một chút trở ngại, khó khăn nào đó, họ thấy cuộc sống hết ý nghĩa họ tìm cách để làm tổn thương chính bản thân hoặc tự kết thúc cuộc đời mình. Ngược lại, có những người khuyết tật lại mơ ước mình có cơ thể lành lặn và một cuộc sống như bao người bình thường khác. Đặc biệt, họ còn làm được những điều lớn lao, phi thường mà
19
người bình thường chúng ta ít làm được. Chính vì vậy, được sinh ra với một cơ thể khoẻ mạnh, bình thường đã là một điều may mắn và hạnh phúc rồi, tại sao chúng ta không lấy đó làm niềm tự hào, động lực để luôn cố gắng. Người mù họ mong có đôi mắt sáng để thấy được thế giới, trong khi mình có đôi mắt sáng, mình lại suốt ngày chơi game để đôi mắt bị tổn thương. Chúng ta chính là kết tinh tình yêu của cha và mẹ, vượt qua bao nhiêu con tinh trùng khác để đến gặp trứng, để có một hình hài như hôm nay là chúng ta đã chiến thắng rất nhiều đối thủ khác. Hãy trân trọng sự tồn tại của chúng ta trong cuộc đời này.
- Kết quả: HS tự ý thức hơn về các hành động của mình, giảm đi suy nghĩ tiêu
cực nếu có trong chính bản thân và suy nghĩ tích cực hơn về cuộc sống hiện tại.
3.3.2. Đề xuất một số “bí quyết” để yêu thương chính bản thân mình.
- Thời gian thực hiện: Lồng ghép trong các tiết sinh hoạt lớp cuối tuần hoặc
các tiết sinh hoạt bắt đầu buổi học, các tiết hoạt động trải nghiệm
- Mục tiêu: Hoạt động này giúp HS nhận được năng lượng tích cực và học hỏi
được cách để yêu bản thân mình.
- Cách thực hiện:
+ GV trình chiếu bài hát vui tươi để các em xem. Bài hát có tựa đề “ Sắc môi
em hồng” của ca sĩ Minh Hằng
Link bài hát: https://www.youtube.com/watch?v=ca7vvP5Ewqc
+ Sau đó, GV hỏi một số em chia sẻ cảm xúc của mình sau khi nghe bài hát đó.
Em Phạm Thị Quyên lớp 10C5 có chia sẻ: “Thưa cô, em thấy bài hát này rất vui nhộn. Nhìn ca sĩ Minh Hằng thể hiện và đóng vai trong video này rất yêu đời, hồn nhiên. Phải yêu đời và xinh đẹp như Minh Hằng là có nhiều người yêu cô ạ.”
+ GV tiếp tục trao đổi cùng HS vấn đề hiện tại trong các lớp học tình trạng nhiều HS hay mệt mỏi, nằm ngủ trong giờ học, hay chia sẻ các status buồn trên facebok và sau đó yêu cầu HS làm việc theo nhóm và viết ra những cách để giúp các em yêu bản thân mình hơn.
Hình ảnh HS tham gia hoạt động tìm hiểu cách yêu bản thân mình
20
+ Sau khi HS viết ý kiến của mình, GV cùng HS đọc to để kiểm nghiệm thử và tóm tắt lại bằng một số cách thức sau để giúp các em HS biết yêu quý chính bản thân mình.
• Ăn uống lành mạnh, siêng năng tập luyện thể dục thể thao để có một cơ thể khoẻ mạnh. Và các em, đặc biệt là không lạm dụng điện thoại quá nhiều, không thức khuya chơi game. Khi bản thân khoẻ mạnh thì mình mới có năng lượng tích cực để làm việc.
• Luôn suy nghĩ tích cực, ngừng so sánh với người khác và hãy hài lòng với
phiên bản của chính mình để không quá áp lực cho bản thân.
• Giao lưu, gặp gỡ,tiếp xúc với những người bạn có quan điểm sống tích cực,
các em sẽ nhận được những năng lượng tích cực từ họ.
• Tập nói lời cảm ơn nhiều hơn. Cảm ơn cha mẹ, cảm ơn thầy cô, cảm ơn tất cả mọi người, cảm ơn cả những chông gai thử thách đã giúp mình vững vàng và trưởng thành hơn trong cuộc sống.
• Tạo thói quen nghe nhạc vui tươi, đọc sách, tìm hiểu và ghi nhớ các câu
châm ngôn hay trong cuộc sống.
+ GV trình chiếu một video các “bí quyết” để yêu bản thân do các em HS sáng tác để lan toả lối sống xanh. (nội dung video tại MỤC 2 trong tài liệu USB đính kèm)
+ GV đề xuất một số câu châm ngôn ý nghĩa để HS tìm đọc. (PHỤ LỤC 1)
- Kết quả: HS học được cách để yêu bản thân mình, quý trọng cuộc sống hiện tại
Hình ảnh HS trang trí góc học tập với thái độ yêu cuộc sống
3.4. Lồng ghép các nội dung giáo dục tình yêu thương gia đình, con người
vào các tiết dạy hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động trải nghiệm
Giáo dục tình yêu thương gia đình cũng là một nhân tố quan trọng trong việc nuôi dưỡng lòng nhân ái cho HS. Hoạt động này giúp các em có cơ hội để nhận
21
thức đúng vai trò, trách nhiệm của mình đối với gia đình và xã hội. Từ đó, các em sẽ biết được cần phải làm gì để xứng đáng với những gì mình nhận được.
Hoạt động 1: Giáo dục tình yêu gia đình
-Thời gian thực hiện: Lồng ghép trong các tiết sinh hoạt lớp cuối tuần hoặc
các tiết sinh hoạt bắt đầu buổi học, các tiết hoạt động trải nghiệm, ngoại khoá
- Mục tiêu: Qua hoạt động này, HS cảm nhận được sự thiêng liêng của tình cảm gia đình để càng biết trân quý và cố gắng sống tốt cho xứng đáng với sự hy sinh của cha mẹ.
- Cách thực hiện:
+ GV giới thiệu trò chơi “ The Voice of Nam Dan 2” và chia lớp thành 2 đội chơi .
+ GV dùng trò chơi “ Duck Race” (Đua vịt) trên link https://www.online- stopwatch.com/duck-race/ để chọn người tham gia hát. Mỗi con vịt trong cuộc chơi sẽ được gắn với số thứ tự của học sinh trên vnedu. Con vịt mang số thứ tự của bạn nào về đích trước tiên thì bạn có số thứ tự đó sẽ hát một đoạn của bài hát có từ “cha” hoặc “mẹ”. Nếu bạn nào hát đúng, 10 điểm sẽ thuộc về đội của bạn đó. Đội nào được điểm cao hơn thì đội đó sẽ chiến thắng.
+ Sau khi kết thúc trò chơi, GV liên kết để dẫn vào nội dung của bài học
+ GV tiếp tục trình chiếu một tiểu phẩm mang tên “ Lời hối hận muộn màng” do các bạn trong lớp đóng vai và yêu cầu HS chia sẻ cảm xúc chân thực nhất mà mình nhận được sau khi xem video. (nội dung video“ Lời hối hận muộn màng” tại MỤC 3 trong tài liệu USB đính kèm)
+ Sau đó, GV yêu cầu HS suy nghĩ về những việc nếu bản thân mình làm có lỗi với bố mẹ (như bạn nam trong video vừa xem) và ghi ra mẩu giấy GV phát sẵn những gì mình muốn nói, muốn xin lỗi bố mẹ.
+ GV yêu cầu các em dấu tên và nộp lại. Sau đó, GV chọn lọc một vài chia sẻ
nổi bật để đọc cho cả lớp nghe cảm nhận. (PHỤ LỤC 2)
+ GV tổng kết lại vấn đề bằng cách nhấn mạnh quan điểm rằng: Có một số người, khi bố mẹ đang còn sống bên cạnh mình thì chúng ta thấy đó là điều hiển nhiên, bố mẹ hy sinh vì ta, ta cũng thấy đó là trách nhiệm. Chúng ta có thể buồn, bỏ ăn bỏ học vì yêu một người xa lạ mà lại quên mất rằng người mình cần yêu thương, quan tâm đó chính là bố mẹ mình. Đừng để giọt nước mắt hối hận rơi xuống khi đã muộn. Hãy nói lời yêu thương, cảm ơn, xin lỗi tới bố mẹ mình khi còn có thể.
- Kết quả: HS cảm nhận được những gì mình nên hay không nên làm và dành
thêm thời gian để quan tâm tới bố mẹ mình
22
Hình ảnh HS xem tiểu phẩm “ Lời hối hận muộn màng” trong tiết học
Hoạt động 2: Giáo dục tình yêu con người
-Thời gian thực hiện: Lồng ghép trong các tiết sinh hoạt lớp cuối tuần hoặc
các tiết sinh hoạt bắt đầu buổi học, các tiết hoạt động trải nghiệm, ngoại khoá
- Mục tiêu: Qua hoạt động này, HS hiểu được sự cần thiết phải tôn trọng sự
khác biệt của người khác.
- Cách thực hiện:
+ GV chia lớp thành 2 đội chơi và thông qua luật trò chơi ô chữ. HS trả lời ô chữ và tìm từ khoá của chủ đề tiết học (nội dung trò chơi ô chữ tại MỤC 4 trong tài liệu USB đính kèm)
+ Sau khi kết thúc trò chơi, GV liên kết để dẫn vào nội dung của bài học
+ GV tiếp tục trình chiếu tiểu phẩm “Tôn trọng sự khác biệt” do các bạn đóng vai và yêu cầu HS phân tích việc đúng hay sai trong tình huống (nội dung video “Tôn trọng sự khác biệt” tại MỤC 5 trong tài liệu USB đính kèm)
+ GV để HS chia sẻ quan điểm của mình và sau đó tổng kết lại vấn đề bằng cách giúp nhấn mạnh sự cần thiết phải tôn trọng sự khác biệt của người khác bởi tôn trọng người khác chính là tôn trọng bản thân mình và đó cũng là một biểu hiện cao đẹp của lòng nhân ái như chương trình giáo dục phổ thông mới đề ra.
- Kết quả: HS học được cách tôn trọng sự khác biệt của người khác. Điều này giúp ngăn chặn được nạn kỳ thị người khuyết tật, nạn cô lập bạn bè và phân biệt đối xử, chơi theo nhóm riêng biệt tại trường học.
23
3.5. Phối hợp giáo dục cùng với phụ huynh học sinh bằng nhiều hình thức
khác nhau
Như chúng ta đã biết, gia đình là môi trường đầu tiên đặc biệt quan trọng trong việc hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách của một con người. Một đứa trẻ được sinh ra và lớn lên trong một gia đình có sự giáo dục đúng đắn thì đứa trẻ đó ắt có cơ hội phát triển thành một con người tử tế. Chính vì hiểu điều đó nên tôicố gắng tìm ra các giải pháp để phối hợp cùng phụ huynh giáo dục phẩm chất đạo đức cho các em.
3.5.1. Trao đổi, chia sẻ tâm tư của người giáo viên và những hoạt động ý
nghĩa, bổ ích học sinh đã tham gia
Bác Hồ đã từng nói “Giáo dục trong nhà trường chỉ là một phần, còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Giáo dục trong nhà trường nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn”. Chính vì thế, qua những lần gặp gỡ trực tiếp trong những cuộc họp PHHS, tôi chia sẻ những tâm tư, nguyện vọng trong việc tìm được sự hợp tác từ phía cha mẹ học sinh để cùng giáo dục các em.
Hoạt động 1: Chia sẻ tâm tư
- Mục tiêu: Sau hoạt động này, GV tìm được sự đồng tình, hợp tác và niềm tin
cho PHHS về phương pháp giáo dục của mình.
- Thời gian: Hoạt động này thường được diễn ra vào các buổi họp PHHS, những cuộc gặp gỡ trực tiếp, hoặc qua các tin nhắn trao đổi trong nhóm zalo, tin nhắn riêng.
- Chuẩn bị:
+ Trước mỗi buổi họp PHHS, tôi yêu cầu HS vệ sinh lớp học sạch sẽ, xếp bàn
ghế gọn gàng, viết bảng tiêu đề cuộc họp và vẽ trang trí.
+ Cắt cử HS nấu nước chè hoặc mua nước khoáng, chuẩn bị cốc uống nước,
một ít bánh kẹo.
- Cách thực hiện:
+ Đầu buổi họp, GV cắt cử 2 HS biểu diễn tiết mục văn nghệ để chào đón các
bậc cha mẹ của mình.
+ GV chia sẻ những thông tin chính của cuộc họp và nhận xét từng HS về ưu điểm cũng như những điều mà các em chưa làm được với một tâm thế thoải mái, không quá nặng nề về chỉ trích hay trách phạt.
24
Hình ảnh cuộc họp phụ huynh cuối năm học
+ GV nhấn mạnh, chia sẻ tâm tư của nghề giáo để PHHS hiểu thêm và cùng
đi đến thống nhất về phương pháp giáo dục HS.
Niềm hạnh phúc lớn nhất của người làm cha mẹ chính là sự trưởng thành của con cái, còn niềm hạnh phúc lớn nhất của nhà giáo chính là sự trưởng thành của học trò. Con cái của quý PHHS chính là những học trò, là những đứa con tinh thần mà người giáo viên dành cả tâm huyết để dạy dỗ. Các em có trưởng thành, khôn lớn nên người thì bản thân nhà giáo mới thấy vui và hạnh phúc được. Trong khi thế hệ trẻ hiện nay đang đối mặt với nhiều tệ nạn xã hội, với sự suy thoái về đạo đức thì việc giáo dục lòng nhân ái cho các em lại càng cần thiết, cấp bách hơn bao giờ hết. Chính ngay tại ngôi trường các em đang học tập ở đây cũng có rất nhiều HS bị ảnh hưởng bởi các lối sống tiêu cực của xã hội hiện đại. Chính vì thế, sự hợp tác, đồng lòng từ quý PHHS sẽ củng cố thêm niềm tin cho GV để cùng đồng hành với các em. Ở trường có thầy cô giảng dạy, ở nhà có cha mẹ đồng hành chỉ bảo, ra ngoài xã hội có pháp luật răn đe, các em sẽ sớm nhận thức được điều hay, lẽ phải, giá trị của cuộc sống.
+ GV yêu cầu PHHS chia sẻ mong muốn trong việc hợp tác giáo dục cùng
GV và nhà trường.
Anh Trần Hoài Nam- hội trưởng hội PHHS chia sẻ “ Trước hết, thay mặt các bậc phụ huynh trong lớp, tôi xin gửi lời cảm ơn tới những chia sẻ của GVCN. Làm cha mẹ ai cũng mong con cái nên người, học tập tốt, sau này có công ăn việc làm ổn định. Thầy cô cũng như cha, như mẹ, thay cha mẹ giáo dục các em ở trường. Thay mặt hội PHHS, tôi cũng đồng ý với sự chia sẻ của cô. Có bất cứ vấn đề gì ở trường, cô cứ thông báo lại cùng phụ huynh. Tôi cũng biết là có một số phụ huynh đôi lúc chưa hợp tác cùng GVCN để giáo dục con em mình, đang còn phó thác cho nhà trường. Nếu GVCN mà gọi điện thông báo hay yêu cầu gặp mặt … thì họ chưa hợp tác, nên cũng tạo ra sự bất lợi trong công tác giáo dục. Chính vì vậy, tôi mong
25
các bậc phụ huynh hãy dành thời gian quan tâm đến con hơn, hỏi thăm tình hình con qua GVCN và phối hợp để giáo dục các em trưởng thành.”
+ GV tổng kết lại vấn đề bằng cách cảm ơn sự chia sẻ của PHHS và hi vọng
cả hai phía hiểu nhau hơn và cùng nhau phối hợp để dạy dỗ HS nên người.
- Kết quả: Qua việc trao đổi, chia sẻ cùng nhau thì GV và PHHS hiểu rõ nhau
hơn, dễ dàng thống nhất phương pháp giáo dục HS.
Hình ảnh GVCN, hội trưởng và thành viên hội PHHS lớp sau buổi họp
Hoạt động 2: Chia sẻ hình ảnh, hoạt động ý nghĩa
- Mục tiêu: Qua việc chia sẻ các lịch học, thời khoá biểu, hình ảnh, video về các hoạt động học tập, trải nghiệm của HS giúp PHHS bám sát các hoạt động của con để phòng tránh trường hợp con đi đâu, làm gì bố mẹ không hay biết.
- Thời gian: Hoạt động này thường được diễn ra vào các buổi họp PHHS hoặc
qua các kênh trao đổi thông tin qua nhóm zalo, facebook, vnedu.
- Cách thực hiện:
+ Khi đồng hành cùng HS tham gia bất cứ hoạt động học tập, trải nghiệm, thể dục thể thao nào thì tôi thường quay phim, chụp ảnh để lưu lại để làm kỉ niệm cho các em cũng đồng thời để thông báo cho các bậc PHHS biết được các hoạt động mà các em tham gia ở trường.
+ Khi có hình ảnh, video hay các thông tin về thời khoá biểu, lịch học, hoạt
động ngoại khoá tôi thường chia sẻ bằng một số phương thức sau:
Cách 1:
Gửi qua nhóm zalo có các thành viên là phụ huynh do tôi lập ra. Đây cũng chính là một kênh hỗ trợ tôi trong việc đồng hành với PHHS để nắm bắt rõ thông tin 2 chiều. Khi nắm rõ thông tin về hoạt động của con cái ở trường, cha mẹ sẽ có sự giám
26
sát, nhắc nhở để các em thực hiện tốt các nội quy đề ra và hiểu hơn về con em mình. Ngoài ra, khi trong lớp có những HS cá biệt, hay vi phạm thì tôi chủ động liên hệ với phụ huynh em đó để tìm hiểu hoàn cảnh và tìm ra giải pháp giáo dục riêng
Hình ảnh GV gửi các thông tin trên nhóm zalo của phụ huynh
Cách 2:
Cũng trong các buổi họp PHHS, GV chia sẻ các hình ảnh, video về các hoạt động của các em đã tham gia để góp phần giúp PHHS hiểu biết về những gì mà con cái được dạy dỗ và tham gia. Và chính cha mẹ sẽ tạo được sự động viên khích lệ, ủng hộ cho các em trong những hoạt động tiếp theo. Còn nếu PHHS nào chưa hiểu về hoạt động của trường lớp nơi con mình theo học thì đó cũng là cơ hội cho họ thay đổi suy nghĩ theo hướng tích cực hơn khi nhìn thấy những hoạt động tích cực, ý nghĩa ở trường.
- Kết quả: GVCN và PHHS tìm được tiếng nói chung trong việc giáo dục HS.
Có chương trình hoạt động nào thì GV dễ tìm được sự ủng hộ từ PHHS.
Hình ảnh GV chia sẻ hoạt động văn nghệ của HS trong cuộc họp PHHS
27
3.5.2. Tạo cơ hội để học sinh gửi lời yêu thương, cảm ơn đấng sinh thành
thông qua cuộc họp phụ huynh học sinh, qua zalo, qua thư
Trong suy nghĩ của các em HS, cuộc họp PHHS là cuộc họp mang không khí nặng nề. Và hầu hết các em còn sợ mỗi lần bố mẹ đi họp về sẽ bị mắng, thậm chí đánh roi. Và việc nói ra lời yêu thương, cảm ơn tới bố mẹ mình trực tiếp là một điều không dễ. Với mong muốn giúp các em có cơ hội thể hiện tình yêu tới đấng sinh thành - một trong những phương pháp để giáo dục lòng nhân ái, tôi đề xuất ý tưởng và được các em đồng tình ủng hộ.
- Mục tiêu: Giúp HS biết cách thể hiện sự yêu thương với người thân của
mình, để từ đó các em biết quan tâm, yêu thương người khác.
- Thời gian: Hoạt động này thường được GVCN trao đổi riêng với từng PHHS
hoặc trong các buổi họp PHHS
- Cách thực hiện:
+ GV yêu cầu HS chuẩn bị những gì muốn nói, gửi gắm tới PHHS của mình.
Có thể là viết thư, quay video, ghép ảnh….
+ Xen kẽ vào các buổi họp PHHS hoặc qua trao đổi tin nhắn cùng với phụ huynh, GV chia sẻ, đọc ra những gì mà HS muốn nói để các bậc làm cha mẹ cũng thấy được sự trưởng thành của con mình. Đặc biệt có em Tô Huyền Trang, em vừa gửi lời cảm ơn bố mẹ mình và muốn nhờ cô gửi lời cảm ơn tới chú mự - người đã đồng hành cùng em trong suốt 5 năm qua khi em tạm xa bố mẹ ở Kỳ Sơn về quê ở cùng chú mự để học tập.
Hình ảnh lời cảm ơn của em Tô Huyền Trang gửi tới bố mẹ và chú mự Khác với những video, tấm hình mong muốn trao gửi của các bạn thì em Đặng
Văn Bảo Long viết thư và gửi email cho cô, nhờ cô nói hộ lòng mình.
28
“Kính gửi cô giáo, các bậc phụ huynh và mẹ của con! Hôm nay là buổi họp phụ huynh cuối cùng, cô giáo con nói muốn tổ chức một buổi họp thật ý nghĩa và trọn vẹn, qua đó cho chúng con cơ hội để bày tỏ lòng biết ơn tới bố mẹ. Các bạn con, đứa chụp ảnh, đứa quay clip nhưng con chọn viết thư. Tiếc rằng sáng nay con không thể trực tiếp đọc nó cho các bậc phụ huynh nghe nhưng con sẽ nhờ cô giáo gửi những lời cảm ơn của con đến với các bậc phụ huynh.
Trước hết, con xin cảm ơn các bố, các mẹ đã luôn ủng hộ và đồng hành cùng cô trò con trong suốt thời gian qua. Dù con chỉ mới chuyển vào lớp ta năm ngoái nhưng chừng đó thời gian cũng đã đủ để cô trò và bạn bè gắn bó với nhau. Chúng con không dám nhận mình là những học sinh hoặc giỏi xuất sắc nhưng vẫn có thể tự tin nói rằng ở trường, chúng con là học những học sinh ngoan. Các bố mẹ có thể hỏi cô giáo về điều đó, cô con thường nói giáo viên ai cũng khen lớp c6 ngoan nhất trường. Chúng con không hẳn là không có các xích mích nhưng nhìn chung là tập thể đoàn kết, biết yêu thương, quan tâm, gắn bó với nhau, bố mẹ hãy yên tâm rằng chúng con đã và đang lớn và trưởng thành. Cô giáo con cũng lần đầu làm giáo viên chủ nhiệm, dù cô chưa có nhiều kinh nghiệm nhưng cô rất tâm huyết và yêu thương chúng con. Có thể là cô nói hơi nhiều, cô nói to, nhưng chúng con biết là cô rất thương chúng con, cô như là người chị, người bạn thân thiết của chúng con. Cô dạy chúng con nhiều điều từ học tập, nấu ăn, đau bụng uống gì đến kĩ năng ứng xử, thế nên các bố các mẹ hãy yên tâm rằng mình giao con cho đúng người rồi đấy.
Đến đây em xin phép cô giáo, con xin phép các bậc phụ huynh rằng con có một vài điều muốn nói với mẹ của con. Từ nhỏ con hay ốm, hay bệnh, nuôi con, chăm con từ khi còn bé tí đến bay giờ con cao hơn mẹ rồi hẳn vất vả lắm mẹ nhỉ. Ngày còn bé ở nhà với mẹ toàn thích ăn canh hẹ mẹ nấu, mẹ tự cắt tóc cho con, cắt đầu đinh thì cứ cắt cho ngắn là được thôi nhưng mà mẹ vẫn rất tỉ mẩn căn đo từng chút một để rồi các o các bác cứ khuyên mẹ bỏ nghề giáo viên mà làm thợ cắt tóc, những ngày mất điện mẹ quạt cho con ngủ suốt đêm mà cứ hễ ngừng tay là con dậy rồi mẹ lại phải thức quạt cho con, những lần con ốm rồi đi bệnh viện cũng là mẹ chăm sóc cho con. Rồi năm lên lớp 6, bà ngoại mất, con xuống ở với ông,chắc mẹ cũng không an tâm lắm đâu mẹ nhỉ, một ngày mẹ xuống hai lần, nhắc con quét nhà, nấu cơm. Năm con học lớp 8, mẹ mua điện thoại mới, nhưng mẹ vẫn dùng điện thoại cục gạch để nhường nó cho con. Năm con lên lớp 9, mẹ cố gắng mua cho con được cái máy tính xách tay rồi năm nay mẹ mua cái mới nhưng lại đổi lấy máy cũ của con để dùng. Mẹ từng kì vọng nhiều vào con, điều đó khiên con rất áp lực, nhưng bây giờ mẹ nói rằng mẹ chỉ mong con trưởng thành thật khỏe mạnh, mẹ không cần con phải vào trường này trường kia, con có thể học trường nào con thích. Mẹ cho con mọi thứ mẹ có, dù có lúc mẹ có mắng, có đánh đòn, lúc đó con thấy giận mẹ nhưng rồi càng lớn con càng hiểu được mẹ yêu thương con nhiều đến thế nào. Và, Con yêu mẹ!!!
Lời sau cùng, con cảm ơn tất cả các bố các mẹ, mọi người đã phải cố gắng rất nhiều để chăm lo cho chúng con ăn học 12 năm trời, và sau này một số bạn sẽ tiếp tục học lên cao hơn và bố mẹ sẽ tiếp tục đồng hành cùng chúng con trên hành trình ấy. Cảm ơn các bố các mẹ đã đưa chúng con đến với thế giới này, đã chăm sóc nuôi dạy chúng con đến ngày hôm nay. Và một lần nữa, con xin thay mặt các bạn gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến các bậc phụ huynh và cô giáo của con.
Nam Đàn, 14/5/2022 Đặng Văn Bảo Long
Nội dung bức thư em Đặng Văn Bảo Long gửi mẹ
29
+ GV nhấn mạnh tầm quan trọng của mối quan hệ gia đình trong việc giáo dục con cái. Khi sống trong một gia đình giàu lòng yêu thương thì đứa trẻ cũng ắt biết cách yêu thương mọi người.
- Kết quả: HS biết cách thể hiện tình cảm với bố mẹ. PHHS cảm động trước tình cảm mà con cái dành cho mình và đồng thời nhận ra vai trò của mình trong việc giáo dục con cái. (HÌNH ẢNH HOẠT ĐỘNG- PHỤ LỤC 3) 3.5.3. Phân tích, tìm hiểu những trường hợp học sinh cá biệt Thực tế cho thấy một điều rằng hầu hết những HS trong lớp chưa ngoan đều có một gia đình, một tuổi thơ không mấy hạnh phúc. Bên cạnh những đứa trẻ vì được quá chiều chuộng và luôn xem mình là tâm của vũ trụ, từ đó sinh ra thói hư tật xấu thì cũng có những đứa trẻ phải chịu quá nhiều thiệt thòi vì sự thiếu quan tâm, sự sẻ chia của cha mẹ. Có những gia đình bố mẹ bỏ nhau, mỗi người đi tìm hạnh phúc riêng; có gia đình bố thì cờ bạc rượu chè, mẹ đi nước ngoài làm ăn không có điều kiện quan tâm con cái. Việc đưa ra những trường hợp HS như vậy cũng là một bài học “thức tỉnh” cho các bậc làm cha mẹ xem lại phương pháp giáo dục con của mình.
- Mục tiêu: PHHS sẽ nhận thức được phương pháp giáo dục phù hợp với con của mình để cha mẹ trở thành người bạn, người đồng hành cùng con. Khi đó việc uốn nắn, dạy dỗ con theo chiều hướng tích cực sẽ là một điều không quá khó.
- Thời gian: Hoạt động này thường được diễn ra vào các buổi họp PHHS,
hoặc những buổi gặp gỡ trực tiếp khi có cơ hội
- Cách thực hiện: + GV giới thiệu vấn đề bằng cách chia sẻ một số trường hợp HS chưa ngoan và cùng PHHS tìm ra nguyên nhân trực tiếp và nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự suy thoái về nhân cách như vậy
• Trường hợp 1: Lớp 10C9 tôi dạy có hai anh em sinh đôi Nguyễn Hữu Thành và Nguyễn Hữu Đạt là hai học sinh cá biệt vi phạm rất nhiều lỗi an ninh trường học của nhà trường. Hai HS này thường tự ý nghỉ học, khi đi học thì nằm ngủ, không ghi chép bài, dùng điện thoại trong giờ chơi game cá độ trên mạng xã hội, hút thuốc lá, đánh nhau, có thái độ vô lễ với thầy cô. Và đặc biệt, hai em sẵn sàng dùng dao đâm chém bạn trong lớp là em Hà Đăng Hoàng và đánh đập bất cứ bạn nào có xích mích với mình.
• Trường hợp 2: Lớp 10C6 tôi chủ nhiệm có em Hoàng Nhật Thiên Anh đầu năm vi phạm lỗi hút thuốc lá, sau đó đưa điện thoại dùng trong giờ và gây sự đánh nhau với bạn khác lớp.
+ Sau khi PHHS đưa ra chia sẻ, GV trình chiếu một đoạn ghi âm lời của những người con muốn nói và cùng PHHS rút ra nguyên nhân. (nội dung bản ghi âm tại MỤC 6 trong tài liệu USB đính kèm)
• Nguyên nhân trực tiếp: Sự ảnh hưởng của xã hội, môi trường sống và học
tập cùng với nhận thức hiện tại của các em.
• Nguyên nhân sâu xa:
30
Trường hợp 1: Đó chính là một gia đình không hạnh phúc khi mà người cha suốt ngày dùng roi vọt để giáo dục con, mẹ thì đi làm công ty từ sáng tới tận tối mịt mới về. Cả cha và mẹ đều không dành thời gian để hiểu, chia sẻ và đồng hành cùng các con.
Trường hợp 2: Bố mẹ ly hôn khi em còn nhỏ, mẹ buôn bán ngoài chợ cả ngày
không có sự quan tâm, em thiếu vắng tình thương của bố.
+ GV nhấn mạnh sự tổn thương của “đứa trẻ bên trong” của các em và giải thích để PHHS cùng hiểu. Đó là một phần cá tính được hình thành từ các trải nghiệm có ở thời ấu thơ và ảnh hưởng cho đến khi trưởng thành. Mọi lời nói, cử chỉ, hành động của chúng ta sẽ được con cái nhìn vào để học tập. Tính cách con cái phản chiếu hình ảnh và phong cách sống của cha mẹ.
+ GV trình chiếu một số nguyên nhân làm tổn thương đứa trẻ bên trong của
con cái mà cha mẹ nên tránh:
• Tuổi thơ thường xuyên bị bạo hành, ngược đãi về thân thể lẫn tinh thần. • Là nạn nhân của bạo lực học đường, gia đình. • Từng bị lăng mạ, sỉ nhục, chê bai, trách mắng, so sánh với nhiều người. • Sống trong gia đình thiếu vắng tình thương, cha mẹ thường xuyên bất hòa,
mâu thuẫn hoặc ly hôn.
• Bị đối xử bất công, không nhận được sự công bằng, luôn bị khinh thường. • Bị bỏ rơi, thiếu vắng tình yêu thương, không được quan tâm, chăm sóc. • Do sự ảnh hưởng từ những lời nói tiêu cực, mang tính chất sát thương. • Được dạy dỗ một cách nghiêm khắc, độc đoán, cực đoan. • Đã từng bị phản bội trong quá khứ, mất niềm tin. + GV hỏi PHHS một số câu hỏi: • Câu hỏi 1: Có bậc PHHS nào thấy hình ảnh của mình gặp trong những tình
huống trên không ạ?
• Câu hỏi 2: PHHS có suy nghĩ gì về vấn đề này và chúng ta cần làm gì để
thay đổi?
+ GV tổng kết vấn đề và chỉ ra rằng các bậc làm cha làm mẹ chúng ta hãy “nhìn cây sửa đất, nhìn con sửa mình”. Chúng ta cần dành thời gian quan tâm, đồng hành cùng con cái để các con cảm nhận được yêu thương, đồng thời hãy sửa đổi bản thân mình để trở thành tấm gương sáng cho con cái noi theo, học tập.
3.6. Tìm kiếm, tạo ra cơ hội cho học sinh được tham gia các hoạt động
trải nghiệm thực tế để gieo duyên lòng nhân ái
Sau những tiết học, buổi nói chuyện, những chia sẻ mà tôi trao đổi cùng HS, tôi mong muốn các em sẽ mở rộng tấm lòng của mình trước bất cứ những hoàn cảnh khó khăn nào mà các em gặp. Chính vì thế, khi có thời gian tôi chủ động tìm kiếm và tạo ra cơ hội cho các em tham gia các hoạt động tình nguyện tại nơi sinh sống, các câu lạc bộ, các ngôi chùa hay các tổ chức xã hội khác. Để sau mỗi lần tham gia bất cứ hoạt động nào, tình yêu thương con người sẽ ngày càng lớn dần trong trái tim các em.
31
Tôi tìm hiểu về các chương trình, hoạt động thiên nguyện của Đoàn trường, Đoàn xã để động viên khích lệ các em tham gia khi có cơ hội. Những buổi cắt cỏ, dọn dẹp vệ sinh tại Đình Trung Cần và hoạt động “tiếp sức mùa thi” cũng được các em tham gia tích cực, hăng hái.
Hình ảnh các em học sinh dọn vệ sinh tại Đình Trung Cần- xã Trung Phúc Cường Hình ảnh các em tham gia hoạt động “Tiếp sức mùa thi”
Khi tôi biết được thông tin các nhóm thiện nguyện tại địa phương quyên góp ủng hộ sách vở, quần áo cũ cho HS vùng miền núi khó khăn thì tôi cũng chia sẻ với các em HS tôi dạy để cùng chung tay hành động. Những bộ quần áo cũ, những quyển sách vở cũ được xếp lại ngay ngắn để gửi đi hoặc những thùng giấy loại được gom lại cẩn thận để mang đi bán gom lại tiền ủng hộ hoặc mua bút chỉ, bút bi, thước cho các em HS miền núi gặp khó khăn. Tất cả đều được các em trân quý gửi trao với một tấm lòng yêu thương.
Hình ảnh các em quyên góp sách vở, gom quần áo cũ ủng hộ trẻ em miền núi
Vào tháng 10 năm 2022, một trận lũ quét kinh hoàng ở Tà Cạ - Kỳ Sơn đã lấy đi biết bao tài sản, bao nhiêu mồ hôi nước mắt của người dân nơi đây. Trong lớp tôi chủ nhiệm có em Tô Huyền Trang có bố mẹ và người em trai sống ở vùng lũ
32
quét này, còn bản thân em về sống cùng với chú mự ở Nam Đàn để thuận lợi cho học tập. Biết được khó khăn này, HS lớp 12C6- K55 của tôi dù đã ra trường nhưng vẫn quyên góp lại được một số tiền nhỏ để sẻ chia khó khăn cùng gia đình bạn và người dân nơi đây qua sự giúp đỡ trao tận tay người dân của cô giáo Ngô Thuý Nga - GV trường THPT Nghi Lộc 3.
Hình ảnh các em quyên góp ủng hộ đồng bào Kỳ Sơn bị lũ cuốn
Đó còn những đợt hỏi thăm, động viên, chia sẻ với hoàn cảnh khó khăn của bạn trong lớp. Cả những HS cá biệt trong lớp 10C9 mà tôi giảng dạy, tuy các em còn vi phạm nhiều lỗi an ninh trường học và nề nếp của nhà trường, nhưng với bạn bè trong lớp thì các bạn cũng biết quan tâm, hỏi thăm lẫn nhau khi mà bạn Nguyễn Thái Nghĩa bị ốm đau nằm viện.
Hình ảnh các HS hỏi thăm bạn bè ốm đau (bên trái) và quyên góp ủng hộ
có hoàn cảnh khó khăn trong lớp nhân dịp Tết (bên phải)
Cách đây không lâu, ở vùng quê nghèo Khánh Sơn thuộc huyện Nam Đàn của chúng tôi xảy ra một sự việc quá đau lòng. Đó là sự ra đi quá xót xa của em Ngô
33
Văn Thiện- cựu HS trường THPT Nam Đàn 2 chúng tôi. Khi mà thanh xuân tươi đẹp nhất thì cũng là lúc em phải rời xa thế giới này nơi đất khách quê người, không có mẹ cha, người thân bên cạnh. Sau 2 năm nhập ngũ, em về đi xuất khẩu lao động với hi vọng giúp cha mẹ trả nợ nần, thoát khỏi cảnh nghèo khổ. Nhưng cuộc đời thật trớ trêu thay, chỉ mới 7 tháng xa quê hương mà em phải đánh đổi cả cuộc đời, để lại cho bố mẹ niềm đau tột cùng với một khoản nợ nần chồng chất. Báo chí truyền thông các trang cũng đưa tin để kêu gọi sự giúp đỡ của các mạnh thường quân, mong sớm đưa thi hài em về với quê cha đất tổ. Lớp 10C6- K58 mà tôi chủ nhiệm biết được thông tin này và cũng qua chia sẻ của tôi, các HS cũng đồng lòng ủng hộ để giúp đỡ gia đình em góp thêm phần kinh phí để đưa hương linh em trở về quê hương. Tôi cùng cán bộ lớp đã đến tận nhà thắp hương cho em và trao gửi tấm lòng tới gia đình.
Hình ảnh các em HS quyên góp và trao tấm lòng tới gia đình em Thiện
4. Đánh giá hiệu quả của sáng kiến.
Để có đánh giá khách quan và chính xác về tính khả thi cũng như hiệu quả mà đề tài “MỘT SỐ GIẢI PHÁP NUÔI DƯỠNG VÀ LAN TOẢ LÒNG NHÂN ÁI CHO HỌC SINH THPT” đã mang lại đối với hoạt động giáo dục nhân cách, kỹ năng sống cho HS, tôi tiến hành thực hiện các hoạt động bao gồm:
- Khảo sát ý kiến của HS sau khi thực hiện đề tài
- Đánh giá kết quả rèn luyện của HS và những hoạt động HS làm được
- Khảo sát tính cấp thiết và khả thi của đề tài
4.1. Khảo sát ý kiến của học sinh sau khi thực hiện đề tài
4.1.1. Mục đích khảo sát
34
- Nhằm nắm bắt các thông tin phản hồi của HS về tính hiệu quả của các giải pháp nuôi dưỡng và lan toả lòng nhân ái cũng như đánh giá mức độ cần thiết, tính khả thi của giải pháp được đưa ra trong đề tài GV tiến hành khảo sát ý kiến của tất cả HS tại các lớp mình đã tiến hành nghiên cứu.
4.1.2. Nội dung khảo sát.
- GV tiến hành khảo sát HS theo mẫu các câu hỏi trong bảng (PHỤ LỤC 4)
4.1.3. Phương pháp khảo sát
- GV sử dụng Google form tạo câu hỏi khảo sát theo nội dung đề ra, sau đó
gửi link khảo sát đến HS.
- HS vào đường link https://forms.gle/bD9QP1Vqx9hK3cjS9 để tham gia trả
lời câu hỏi khảo sát.
4.1.4. Đối tượng khảo sát.
- Đối tượng tham gia khảo sát là các HS tại 5 lớp 10C1K58, 10C5K58,
10C6K58, 10C9K58 và 12C6K55( HS vừa ra trường năm học 2021-2022)
TT Đối tượng Số lượng
1 10C1K58 43
2 10C5K58 45
3 10C6K58 44
4 10C9K58 40
5 12C6K55 40
∑ 212
4.1.5. Phân tích kết quả khảo sát
- Sau khi HS tham gia khảo sát, dựa trên kết quả đó (PHỤ LỤC 5), tôi đã tiến
hành tổng hợp dữ liệu thành bảng sau:
Câu Nội dung câu hỏi Lựa chọn
Kết quả
Rất ý nghĩa 89,2%
Ý nghĩa 10,8% Câu 1 Ít ý nghĩa 0
Em đánh giá như thế nào về mức độ ý nghĩa của những giải pháp về giáo dục lòng nhân ái mà giáo viên thực hiện? Không ý nghĩa 0
Bạo lực học đường 4,7%
35
Vô cảm 1,9%
Coi thường sự khác biệt 0,9%
của người khác
Câu 2 Các giải pháp giáo dục lòng nhân ái mà giáo viên đã thực hiện giúp hạn chế được những tình trạng nào xảy ra trong trường học? Tất cả các ý kiến trên 92,5%
2,8%
Yêu bản thân mình hơn, trân trọng cuộc sống mình đang có
Biết yêu thương, quan tâm 1,4% Câu 3
tới gia đình hơn Các giải pháp giáo dục lòng nhân ái đã thực hiện giúp ích gì cho bản thân em? 1,9%
Biết cảm thông, chia sẻ, sẵn sàng giúp đỡ mọi người
Tất cả các ý kiến trên 93,9%
2,4%
Động viên, chia sẻ, giúp đỡ, bạn bè trong học tập và trong cuộc sống
0,9%
Câu 4
Những hoạt động nào sau đây biểu hiện cho lòng nhân ái? Luôn tôn trọng sự khác biệt giữa con người hoặc giữa các nền văn hoá khác nhau
1,4%
Tham gia các hoạt động tình nguyện tại trường,địa phương để gây quỹ từ thiện
Tất cả các ý kiến trên 95,3%
100% Có
Câu 5 Không 0 Emcó mong muốn tham gia vào các hoạt động thể hiện lòng nhân ái khi có cơ hội không?
100% Có
Câu 6 Không 0 Nếu có cơ hội để chia sẻ, lan toả lòng nhân ái tới bạn bè, mọi người xung quanh,em có mong muốn thực hiện không?
4,2% Câu 7 Bản thân em làm tấm gương để mọi người học tập Em sẽ lan toả những hành động giàu lòng nhân ái bằng
36
cách nào? 10,8%
Chia sẻ các việc làm tốt qua các trang mạng xã hội: facebook, zalo
Kêu gọi mọi người cùng 3,4%
chung tay với mình
Tất cả các ý kiến trên 81,6%
Bảng 1: Kết quả khảo sát học sinh
- Thông qua kết quả khảo sát được, tôi nhận thấy những tín hiệu tích cực, khả quan sau khi thực hiện đề tài. 92,5% HS đã nhận thức được đầy đủ các ý nghĩa quan trọng của việc giáo dục lòng nhân ái trong trường học. Tỉ lệ HS đã đánh giá những giải pháp về lòng nhân ái mà GV thực hiện rất ý nghĩa cũng lên tới 82,9%.
- Ngoài ra, 100% HS đều mong muốn tham gia vào các hoạt động thể hiện lòng nhân ái khi có cơ hội và lan toả những hành động tốt đẹp tới mọi người. Điều này chứng minh được các giải pháp mà tôi thực hiện đã ảnh hưởng tích cực tới nhận thức của HS.
4.2. Đánh giá kết quả rèn luyện của học sinh và những hoạt động các em
làm được
a. Kết quả rèn luyện
LỚP
10C1K58 10C5K58 10C6K58 10C9K58 12C6K55 HẠNH
KIỂM
100% 82,3% 90,9% 72,5% 100% Tốt
0 17,7% 9,1% 22,5% 0 Khá
0 0 0 5% 0 Đạt
0 0 0 0 0 Chưa đạt
Bảng 2: Kết quả rèn luyện của học sinh
- Trong bảng kết quả ở trên 4 lớp 10C1K58, 10C5K58, 10C6K58, 10C9K58 là những lớp hiện tại tôi đang dạy. Đây là kết quả rèn luyện của học kỳ 1 năm học 2022-2023. Dự kiến kết quả học kỳ 2 có sự thay đổi theo chiều hướng tích cực bởi không còn xảy ra nhiều tình trạng HS vi phạm.
- Còn riêng lớp 12C6K55 là kết quả rèn luyện của năm học 2021-2022.
b. Các hoạt động học sinh làm được (PHỤ LỤC 6 )
37
Sau khi thực hiện các giải pháp trong một quãng thời gian, tôi nhận thấy HS
của mình có sự chuyển biến rõ rệt theo chiều hướng tích cực, cụ thể:
- Các em biết yêu quý bản thân mình hơn. Không còn các tình trạng nằm trong giờ học, ủ rũ, mệt mỏi, hay tụ tập xem điện thoại mà thay vào đó các em hay cười, tranh thủ vui chơi sau mỗi tiết học và tham gia hoạt động thể thao sau buổi học. Các em trang trí góc học tập của mình với một thái độ yêu cuộc sống và gửi ảnh cho GV xem.
- Ngoài ra, các em biết cách quan tâm, thể hiện tình yêu với cha mẹ của mình qua những bữa tiệc sinh nhật tổ chức cho mẹ. Đặc biệt, trong ngày sinh nhật của bản thân mình, các em đã biết nói lời cảm ơn mẹ vì mang nặng đẻ đau, cảm ơn cha mẹ đã nuôi nấng để các em có được ngày hôm nay.
- Còn riêng lớp 12C6 tuy đã ra trường nhưng các em vẫn không quên nhiệm vụ cao cả của mình là lan toả những hành động tốt đẹp mà các em được dạy dỗ tại trường THPT Nam Đàn 2. Các em luôn tích cực tham gia các hoạt động tại môi trường mới của mình.
- Các HS cùng tôi tổng hợp nội dung của đề tài và làm thành một phóng sự để lan toả, chia sẻ những điều tốt đẹp này cho mọi người cùng biết đến và học tập. (nội dung phóng sự tại MỤC 7 trong tài liệu USB đính kèm)
4.3. Khảo sát tính cấp thiết và khả thi của đề tài
4.3.1. Mục đích khảo sát
- Để đánh giá mức độ cấp thiết và khả thi của đề tài “Một số giải pháp nuôi dưỡng và lan toả lòng nhân ái cho học sinh THPT”, tôi đã tiến hành khảo sát ý kiến của các GV và HS tại trường THPT Nam Đàn 2.
4.3.2. Nội dung khảo sát
a. Khảo sát giáo viên
Các GV tham gia khảo sát sẽ trả lời câu hỏi theo mẫu trong bảng sau:
Hãy đánh dấu "X" vào sự lựa chọn phù hợp với ý kiến của thầy cô:
Câu Nội dung câu hỏi Lựa chọn
Rất cấp thiết
Cấp thiết Câu 1 Ít cấp thiết Thầy/cô đánh giá như thế nào về tính cấp thiết của giải pháp “bản thân người giáo viên là một tấm gương mẫu mực cho các em noi theo học tập”? Không cấp thiết
Rất cấp thiết
Thầy/cô đánh giá như thế nào về tính cấp thiết của giải pháp “giáo viên đưa ra Cấp thiết
38
Câu 2 Ít cấp thiết
Không cấp thiết những tấm gương sáng điển hình về phẩm chất đạo đức gần gũi với cuộc sống xung quanh các em”?
Rất cấp thiết
Cấp thiết
Câu 3 Ít cấp thiết
Thầy/cô đánh giá như thế nào về tính cấp thiết của giải pháp“giáo dục các em học sinh biết yêu quý chính bản thân mình, để từ đó các em biết yêu quý, trân trọng những người xung quanh”? Không cấp thiết
Rất cấp thiết
Cấp thiết Câu 4
Ít cấp thiết
Không cấp thiết Thầy/cô đánh giá như thế nào về tính cấp thiết của giải pháp “lồng ghép các nội dung giáo dục tình yêu thương gia đình, con người vào các tiết dạy hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động trải nghiệm”?
Rất cấp thiết
Cấp thiết Câu 5 Ít cấp thiết Thầy/cô đánh giá như thế nào về tính cấp thiết của giải pháp “ phối hợp giáo dục cùng với phụ huynh học sinh bằng nhiều hình thức khác nhau”? Không cấp thiết
Rất cấp thiết
Cấp thiết Câu 6 Ít cấp thiết
Thầy/cô đánh giá như thế nào về tính cấp thiết của giải pháp “tìm kiếm, tạo ra cơ hội cho học sinh được tham gia các hoạt động trải nghiệm thực tế để gieo duyên lòng nhân ái”? Không cấp thiết
Rất khả thi
Câu 7 Khả thi
Ít khả thi Thầy/cô đánh giá như thế nào về tính khả thi của giải pháp“bản thân người giáo viên là một tấm gương mẫu mực cho các em noi theo học tập”? Không khả thi
Rất khả thi
Khả thi
Câu 8 Ít khả thi
Thầy/cô đánh giá như thế nào về tính khả thi của giải pháp “giáo viên đưa ra những tấm gương sáng điển hình về phẩm chất đạo đức gần gũi với cuộc sống xung quanh các em học sinh”? Không khả thi
39
Rất khả thi
Khả thi
Câu 9 Ít khả thi Thầy/cô đánh giá như thế nào về tính khả thi của giải pháp“giáo dục các em học sinh biết yêu quý chính bản thân mình, để từ đó các em biết yêu quý, trân trọng những người xung quanh”? Không khả thi
Rất khả thi
Khả thi Câu 10
Ít khả thi
Không khả thi Thầy/cô đánh giá như thế nào về tính khả thi của giải pháp“lồng ghép các nội dung giáo dục tình yêu thương gia đình, con người vào các tiết dạy hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động trải nghiệm”?
Rất khả thi
Khả thi Câu 11 Ít khả thi Thầy/cô đánh giá như thế nào về tính khả thi của giải pháp “phối hợp giáo dục cùng với phụ huynh học sinh bằng nhiều hình thức khác nhau”? Không khả thi
Rất khả thi
Khả thi Câu 12
Ít khả thi
Thầy/cô đánh giá như thế nào về tính khả thi của giải pháp “giáo viên tìm kiếm, tạo ra cơ hội cho học sinh được tham gia các hoạt động trải nghiệm thực tế để gieo duyên lòng nhân ái”? Không khả thi
b. Khảo sát học sinh
Các HS tham gia khảo sát sẽ trả lời câu hỏi theo mẫu trong bảng (PHỤ LỤC 7)
4.3.3. Phương pháp khảo sát và thang đánh giá
- GV tạo đường link khảo sát trên Google form và gửi cho các thầy cô và HS
tham gia trả lời câu hỏi theo nội dung khảo sát.
+ Thầy cô vào đường link https://forms.gle/BxB1TiHpLdJCMff16
+ HS vào đường link https://forms.gle/AywJV2Hwrqrea9d47
- Thang đánh giá 4 mức (tương ứng điểm số từ 1 đến 4).
+ Tính cấp thiết: Không cấp thiết (1 điểm), ít cấp thiết (2 điểm), cấp thiết (3
điểm), rất cấp thiết (4 điểm).
+ Tính khả thi: Không khả thi (1 điểm), ít khả thi (2 điểm), khả thi (3 điểm),
rất khả thi (4 điểm).
40
+ Sau khi nhân kết quả thu được tôi tiến hành phân tích, xử lí số liệu trên bảng thống kê bằng phần mềm Excel, tính tổng điểm (∑) và điểm trung bình (X̅ ) của các biện pháp đã được khảo sát, sau đó xếp theo thứ bậc để nhận xét, đánh giá và rút ra kết luận.
4.3.4. Đối tượng khảo sát
- Đối tượng 1 là 59 GV trường THPT Nam Đàn 2. Họ là những GVCN cũng như GV bộ môn đã có những kinh nghiệm trong công tác giảng dạy và giáo dục HS.
- Đối tượng 2 là 212 HS của 5 lớp tôi giảng dạy và làm chủ nhiệm: 10C1K58, 10C5K58, 10C6K58, 10C9K58, 12C6K55 (các em vừa tốt nghiệp năm học: 2021- 2022)
4.3.5. Kết quả khảo sát tính cấp thiết và khả thi của đề tài
Sau khi GV và HS tham gia khảo sát, dựa trên kết quả (PHỤ LỤC 8), tôi đã
tiến hành tổng hợp dữ liệu thành các bảng sau:
a. Tính cấp thiết của các giải pháp đề xuất
Các thông số TT Giải pháp
X̅ Mức
1 Bản thân người giáo viên là một tấm gương mẫu mực cho các em 3,77 5
noi theo học tập
2 Giáo viên đưa ra những tấm gương sáng điển hình về phẩm chất 3,76 6
đạo đức gần gũi với cuộc sống xung quanh các em học sinh
3,79 3
3 Giáo dục các em học sinh biết yêu quý chính bản thân mình, để từ đó các em biết yêu quý, trân trọng những người xung quanh
3,81 1
4 Lồng ghép các nội dung giáo dục tình yêu thương gia đình, con người vào các tiết dạy hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động trải nghiệm
5 Phối hợp giáo dục cùng với phụ huynh học sinh bằng nhiều hình 3,78 4
thức khác nhau”?
6 Giáo viên tìm kiếm, tạo ra cơ hội cho học sinh được tham gia các 3,80 2
hoạt động trải nghiệm thực tế để gieo duyên lòng nhân ái
Trung bình 3,78
Bảng 3: Thống kê kết quả khảo sát tính cấp thiết
41
Kết quả khảo sát ở bảng 2 cho thấy, các nhóm đối tượng được khảo sát đã đánh giá tính cấp thiết của các giải pháp để nuôi dưỡng và lan toả lòng nhân ái cho HS THPT có mức độ cấp thiết cao, với điểm trung bình chung của cả 6 giải pháp 3,78 điểm. Mặc dù các đối tượng khảo sát có cách đánh giá khác nhau, nhưng theo quy luật số lớn, có thể nói đa số lượt ý kiến đánh giá đều thống nhất cho rằng cả 6 giải pháp đề xuất là có tính cấp thiết. Giải pháp 4: “Lồng ghép các nội dung giáo dục tình yêu thương gia đình, con người vào các tiết dạy hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động trải nghiệm ” được đánh giá cao nhất với X̅ = 3,81, xếp bậc 1/6. Trong khi đó, giải pháp 2: “Giáo viên đưa ra những tấm gương sáng điển hình về phẩm chất đạo đức gần gũi với cuộc sống xung quanh các em học sinh” được đánh giá ít cấp thiết nhất với X̅ = 3,76, xếp bậc 6/6. Còn lại các giải pháp khác có điểm trung bình tương ứng từ X̅ = 3,77 đến X̅ = 3,80
Mức độ cấp thiết của các giải pháp đề xuất tương đối đồng đều, khoảng cách giữa các giá trị điểm trung bình không quá xa nhau (chênh lệch giữa X̅ max và X̅ min là 0,05). Từ bảng số liệu ở trên, có thể biểu đạt qua biểu đồ 1
Biểu đồ 1: Mức độ cấp thiết của các giải pháp
Biểu đồ 1 cho thấy, các giải pháp theo thứ tự từ từ cao đến thấp là 4, 6 và 3 có điểm về tính cấp thiết lớn hơn 3,78 điểm, tức là lớn hơn giá trị điểm trung bình chung của 6 giải pháp. Đây là thứ tự ưu tiên về tính cấp thiết của các giải pháp đã đề xuất. Các giải pháp 5, 1 và 2 có điểm thấp hơn hoặc bằng giá trị điểm trung bình chung, nhưng vẫn cấp thiết.
b. Tính khả thi của các giải pháp đề xuất
TT Giải pháp
Các thông số X̅ Mức
1 Bản thân người giáo viên là một tấm gương mẫu mực cho các 3,70 5
em noi theo học tập
3,69 6
2 Giáo viên đưa ra những tấm gương sáng điển hình về phẩm chất đạo đức gần gũi với cuộc sống xung quanh các em học sinh
42
3,73 2
3 Giáo dục các em học sinh biết yêu quý chính bản thân mình, để từ đó các em biết yêu quý, trân trọng những người xung quanh
3,74 1
4 Lồng ghép các nội dung giáo dục tình yêu thương gia đình, con người vào các tiết dạy hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động trải nghiệm
5 Phối hợp giáo dục cùng với phụ huynh học sinh bằng nhiều 3,71 4
hình thức khác nhau”?
3,72 3
6 Giáo viên tìm kiếm, tạo ra cơ hội cho học sinh được tham gia các hoạt động trải nghiệm thực tế để gieo duyên lòng nhân ái
Trung bình 3,72
Bảng 4: Thống kê kết quả khảo sát tính khả thi
Kết quả khảo sát ở bảng 4 cho thấy, các nhóm đối tượng được khảo sát đã đánh giá tính khả thi của các giải pháp để nuôi dưỡng và lan toả lòng nhân ái cho HS THPT có mức độ khả thi cao, với điểm trung bình chung của cả 6 giải pháp 3,72 điểm. Mặc dù các đối tượng khảo sát có cách đánh giá khác nhau, nhưng theo quy luật số lớn, có thể nói đa số lượt ý kiến đánh giá đều thống nhất cho rằng cả 6 giải pháp đề xuất là có tính khả thi. Giải pháp 4: “Lồng ghép các nội dung giáo dục tình yêu thương gia đình, con người vào các tiết dạy hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động trải nghiệm ” được đánh giá cao nhất với X̅ = 3,74, xếp bậc 1/6. Trong khi đó, giải pháp 2: “Giáo viên đưa ra những tấm gương sáng điển hình về phẩm chất đạo đức gần gũi với cuộc sống xung quanh các em học sinh” được đánh giá ít khả thi nhất với X̅ = 3,69, xếp bậc 6/6. Còn lại các giải pháp khác có điểm trung bình tương ứng từ X̅ = 3,70 đến X̅ = 3,73
Mức độ khả thi của các giải pháp đề xuất tương đối đồng đều, khoảng cách giữa các giá trị điểm trung bình không quá xa nhau (chênh lệch giữa X̅ max và X̅ min là 0,05). Từ bảng số liệu ở trên, có thể biểu đạt qua biểu đồ 2
Biểu đồ 2: Mức độ khả thi của các giải pháp
43
Biểu đồ 2 cho thấy, giá trị trung bình chung của cả 6 giải pháp là 3,72 điểm, trong đó có 3/6 giải pháp có điểm cao hơn hoặc bằng giá trị trung bình chung là giải pháp 3, 4 và 6. Giải pháp 1, 2 và 5 cũng có tính khả thi nhưng thấp hơn giá trị điểm trung bình. Đây là một căn cứ để tôi biết nên lựa chọn thực hiện giải pháp nào trước.
Tóm lại, từ bảng kết quả khảo sát cho thấy, các giải pháp được sử dụng trong đề tài đều được các GV và HS đánh giá mức độ cấp thiết và khả thi cao. Các giải pháp đưa ra đạt điểm trung bình X̅ = 3,78 về tính cấp thiết và X̅ = 3,72 về tính khả thi. Việc thực hiện có hiệu quả các giải pháp này sẽ đóng góp phần phần quan trọng trong việc giáo dục nhân cách cho HS.
c. Mối tương quan giữa mức độ tính cấp thiết và tính khả thi của các
biện pháp
Kết quả nghiên cứu trên khẳng định tính cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp để nuôi dưỡng và lan toả lòng nhân ái cho HS THPT. Mối quan hệ giữa các mức độ cấp thiết và mức độ khả thi của các biện pháp được thể hiện trong biểu đồ 3 về mối tương quan giữa tính cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp.
Biểu đồ 3: Tương quan giữa mức độ cấp thiết và mức độ khả thi của các
giải pháp
Biểu đồ 3 cho thấy, các giải pháp có tính cấp thiết và tính khả thi cao. Trong đó, hầu như các giải pháp đều tính cấp thiết cao hơn tính khả thi. Giải pháp có tính cấp thiết và tính khả thi thấp nhất vẫn có điểm trung bình lớn hơn 3,73 điểm, tức là vẫn nằm trong khoảng cao của thang chấm 4 điểm tối đa. Điều này chứng tỏ các giải pháp của tôi đề xuất bước đầu đã được đa số GV và HS đồng tình ủng hộ.
44
Tính cấp thiết Tính khả thi
Giải pháp D2 (mi-ni) Thứ
Tổng điểm Tổng điểm Thứ bậc bậc Điểm trung bình Điểm trung bình (ni) (mi)
1021 3,77 5 1002 3,70 5 0 1
2 1018 3,76 6 999 3,69 6 0
3 1028 3,79 3 1012 3,73 2 1
4 1032 3,81 1 1014 3,74 1 0
5 1024 3,78 4 1006 3,71 4 0
6 1029 3,80 2 1008 3,72 3 1
6152 3,78 6041 3,72
Trung bình
Bảng 5. Thứ hạng sự cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp
Tuy nhiên, sự chênh lệch giữa tính cấp thiết và tính khả thi có thể dẫn đến tương quan thuận hoặc tương quan nghịch về mối quan hệ của các giải pháp. Việc tìm ra sự tương quan giữa tính cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp nuôi dưỡng và lan toả lòng nhân ái cho HS THPT là một yêu cầu ở góc độ khoa học và cả trong việc áp dụng kết quả nghiên cứu và thực tiễn.
Để tìm hiểu tương quan giữa tính cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp sử
dụng trong đề tài, tôi sử dụng công thức Spearman để tính hệ số tương quan thứ bậc:
Trong công thức trên: n là số giải pháp đề xuất; D là hệ số chênh lệch giữa thứ
bậc của tính cấp thiết và tính khả thi; R là hệ số tương quan.
Nếu R > 0 (R dương) và có giá trị càng lớn (nhưng không bao giờ bằng 1) thì tính cấp thiết và tính khả thi có tương quan thuận, nghĩa là giải pháp vừa cần thiết vừa khả thi. Nếu R < 0 (R âm) thì tính cấp thiết và tính khả thi có tương quan nghịch, nghĩa là các giải pháp có thể cấp thiết nhưng không khả thi hoặc ngược lại.
Thay số vào công thức trên, ta có:
45
Với hệ số tương quan R = 0,89 cho thấy giữa tính cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp có tính tương quan thuận và chặt chẽ, nghĩa là các giải pháp vừa cấp thiết lại vừa khả thi.
4.3.6. Kết luận
Kết quả khảo sát đã cho thấy các giải pháp đề xuất đều được đánh giá cao về tính chính xác, cấp thiết và tính khả thi. Mức độ cấp thiết của các giải pháp nuôi dưỡng và lan toả lòng nhân ái cho HS THPT tương đối đồng đều, khoảng cách giữa các giá trị điểm trung bình không quá xa nhau (chênh lệch giữa X̅ max và X̅ min là 0,05) với điểm trung bình X̅ =3,78). Các biện pháp có mức độ khả thi với điểm trung bình X̅ =3,72 điểm, khoảng cách giữa các giá trị điểm trung bình không quá xa nhau (chênh lệch giữa X̅ max và X̅ min là 0,05)
46
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Qua đề tài “Một số giải pháp nuôi dưỡng và lan toả lòng nhân ái cho học sinh THPT” mà tôi thực hiện, tôi đã nhận thấy tín hiệu tích cực từ HS của mình. Các hoạt động trong bài học mà tôi giao nhiệm vụ, các em rất hứng thú và hợp tác tích cực cùng các nhóm bạn của mình để hoàn thành. Các em đã nhận thức đúng năng lực, giá trị của bản thân mình trong gia đình, nhà trường và xã hội. Chắc chắn một điều rằng, các em càng biết trân quý cuộc sống hiện tại mình đang có và biết yêu thương quan tâm tới mọi người xung quanh.
Đặc biệt, các giải pháp mà tôi đã thực hiện giúp các em có cơ hội để nhận thức đúng về lòng nhân ái và rèn luyện tu dưỡng để nó trở thành một phẩm chất không thể thiếu trong suốt chặng đường học tập, làm việc và sinh sống của mình. Đất nước Việt Nam chắc chắn xây dựng được thế hệ thanh niên phát triển toàn diện, giàu lòng yêu nước, có ý chí tự cường, tự hào dân tộc; có lý tưởng cách mạng, hoài bão, khát vọng vươn lên xây dựng đất nước; có đạo đức, ý thức công dân, chấp hành pháp luật; có sức khỏe và lối sống lành mạnh; có văn hóa, kiến thức, trình độ học vấn, kỹ năng sống, nghề nghiệp và việc làm; có ý chí lập thân, lập nghiệp, năng động, sáng tạo, làm chủ khoa học, công nghệ.
Không những vậy, chính các em- những công dân tương lai của đất nước, người trực tiếp đón nhận lợi ích từ đề tài này sẽ là cầu nối để lan toả những thông điệp sống hữu ích, có giá trị tới gia đình, người thân, bạn bè. Đi tới đâu, làm việc gì các em sẽ luôn lấy lòng yêu thương con người làm kim chỉ nam cho hành trang vào đời của mình. Để từ đó, cuộc sống trong mắt các em càng trở nên tươi đẹp, ý nghĩa hơn bao giờ hết như nhà thơ Tố Hữu đã từng nói:
“Có gì đẹp trên đời hơn thế Người yêu người sống để yêu nhau”
2. Kiến nghị Tôi thực sự hi vọng những giải pháp được đề cập trong đề tài sẽ hỗ trợ một phần nào đó cho các nhà giáo dục, PHHS trong việc nuôi dưỡng và lan toả lòng nhân ái cho HS, nền tảng cốt lõi cho việc giáo dục phẩm chất đạo đức. Để đề tài ngày càng được áp dụng rộng rãi và nâng cao chất lượng hơn, tôi xin kiến nghị một số vấn đề sau:
- Trong khung chương trình học nên có thêm các chương trình hoạt động trải
nghiệm thực tế, giáo dục kỹ năng sống để tạo nhiều cơ hội cho HS tham gia.
- GV cần dành thêm thời gian để tìm hiểu, đổi mới các phương pháp giáo dục
kỹ năng sống bên cạnh giảng dạy kiến thức cho HS.
- HS cần chủ động tìm hiểu, trau dồi năng lực, nhân cách của bản thân mỗi ngày. - PHHS cần dành thời gian quan tâm tới con em của mình, đồng hành cùng
con, phối hợp cùng nhà trường và GV để giáo dục con cái trưởng thành.
Tôi tin chắc rằng, chúng ta sẽ tạo nên một thế hệ Việt Nam tương lai đủ trí tuệ, bản lĩnh, giàu lòng yêu thương con người để sẵn sàng “sánh vai với các cường quốc năm châu”.
Xin chân thành cảm ơn!
47
TÀI LIỆU THAM KHẢO
• Chương trình giáo dục phổ thông - chương trình tổng thể (ban hành kèm
theo thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26/12/2018)
• Hán Việt Từ Điển - Tác giả : Đào Duy Anh, Nhà xuất bản văn hoá thông tin • Tư tưởng Hồ Chí Minh về tấm gương đạo đức con người- Bài viết trên trang
trang web Sở Nội Vụ Tỉnh Ninh Thuận - Tác giả: Thanh Quý
(https://sonv.ninhthuan.gov.vn/portal/Pages/2022-4-19/Tu-tuong-Ho-Chi-
Minh-ve-tam-guong-dao-duc-yeu-thuob8uti6.aspx)
• Module THPT 1: Đặc điểm tâm lý của học sinh THPT- chương trình bồi
dưỡng thường xuyên
• Quy định về đạo đức nhà giáo (Ban hành kèm theo Quyết định số 16/2008/QĐ-BGDĐT ngày 16 tháng 4 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo)
48
PHỤ LỤC 1: CÁC CÂU CHÂM NGÔN, DANH NGÔN Ý NGHĨA ĐỂ
HỌC CÁCH YÊU BẢN THÂN MÌNH
1. "Yêu bản thân mình đầu tiên và mọi thứ sẽ đâu vào đấy. Bạn phải thực sự yêu bản thân mình thì mới có thể làm bất cứ điều gì trên thế giới này" - Lucille Ball.
2. "Hãy suy nghĩ những ý nghĩ khiến bạn hạnh phúc. Hãy làm những điều khiến bạn cảm thấy tốt đẹp. Hãy ở bên những người khiến bạn cảm thấy tốt đẹp. Hãy ăn những thứ khiến cơ thể bạn thấy tốt lành. Hãy đi với tốc độ khiến bạn thoải mái".
3. "Thời gian là có giới hạn. Đừng phí phạm nó cho việc sống một cuộc sống không phải của mình. Đừng để lời ong tiếng ve của người khác át đi tiếng nói của bản thân. Cứ nghe theo sự mách bảo của khối óc và trái tim, chỉ chúng mới hiểu bạn muốn làm gì. Những thứ khác cho qua đi".
4. ''Bạn của ngày hôm nay dịu dàng và xinh đẹp hơn ngày hôm qua, nụ cười của bạn ngọt ngào hơn và hành động của bạn tử tế hơn. Tin tưởng và bản thân nhiều hơn một chút vào ngày hôm nay và yêu bản thân nhiều hơn một chút. Bạn xứng đáng với nó. Cho phép bản thân quên đi phần quá khứ đầy tổn thương và tha thứ cho những lỗi lầm. Nỗ lực để trở thành một người tốt hơn, xây dựng một cái đẹp ngay từ bây giờ".
5. "Mỗi chúng ta đều là đóa hoa vô cùng đặc biệt trên thế gian này. Cánh hoa của chúng ta chỉ xinh đẹp và rực rỡ nhất khi mà ta có trách nhiệm với bản thân mình và ta yêu thương mọi người xung quanh".
6. "Bạn không thể tìm thấy giá trị của mình trong bất kỳ ai, mà giá trị của bạn nằm trong chính bản thân. Yêu thương và trở thành chính mình sau tất cả những gì đã trải qua, đừng chối bỏ chính mình vì bất cứ điều gì, hãy nhớ điều đó".
7. "Đừng bao giờ dành cho người khác sự ưu tiên khi người ta chỉ xem mình
là một trong những sự lựa chọn" - Maya Angelou.
8. "Đẹp là khi bạn là chính mình. Bạn không cần phải được chấp nhận bởi những người khác. Bạn cần phải chấp nhận chính mình". – Thiền sư Thích Nhất Hạnh
9. “Khi tôi bắt đầu yêu bản thân mình, tôi hiểu rằng tôi đang ở đúng nơi và
đúng thời điểm. Tôi gọi đó là sự tự tin” – Charlie Chaplin.
10. "Không một ai có thể làm cho bạn cảm thấy mình thấp kém nếu như
không có sự đồng ý của bạn".
11. "Phải luôn đối xử tốt với chính mình vì đời người chớp mắt đã trôi qua,
phải thương người yêu mình vì kiếp sau chưa chắc đã gặp lại".
12. "Đừng lo lắng về những gì người khác nghĩ, bạn nghĩ gì về mình mới quan
trọng".
49
PHỤ LỤC 2 : CHIA SẺ CỦA HỌC SINH VỀ LỜI XIN LỖI MUỐN NÓI VỚI BỐ MẸ
Chia sẻ của em Đặng Hoàng Thị Chính
Chia sẻ của em Nguyễn Khánh Miền
50
PHỤ LỤC 3: ẢNH CHỤP VIDEO VÀ HÌNH ẢNH HỌC SINH GỬI TỚI CHA MẸ TRONG BUỔI HỌP PHỤ HUYNH
51
PHỤ LỤC 4: BẢNG CÂU HỎI KHẢO SÁT HỌC SINH SAU KHI THỰC
HIỆN ĐỀ TÀI
Hãy đánh dấu "X" vào sự lựa chọn phù hợp với ý kiến của em
Câu Nội dung câu hỏi Lựa chọn
Rất ý nghĩa
Ý nghĩa Câu 1 Ít ý nghĩa
Em đánh giá như thế nào về mức độ ý nghĩa của những giải pháp về giáo dục lòng nhân ái mà giáo viên thực hiện? Không ý nghĩa
Bạo lực học đường
Vô cảm
Coi thường sự khác biệt Câu 2 của người khác
Tất cả các ý kiến trên Các giải pháp giáo dục lòng nhân ái mà giáo viên đã thực hiện giúp hạn chế được những tình trạng nào xảy ra trong trường học?
Yêu bản thân mình hơn, trân trọng cuộc sống mình đang có
Biết yêu thương, quan tâm Câu 3
tới gia đình hơn Các giải pháp giáo dục lòng nhân ái đã thực hiện giúp ích gì cho bản thân em?
Biết cảm thông, chia sẻ, sẵn sàng giúp đỡ mọi người
Tất cả các ý kiến trên
Động viên, chia sẻ, giúp đỡ, bạn bè trong học tập và trong cuộc sống
Luôn tôn trọng sự khác biệt giữa con người hoặc giữa các nền văn hoá khác nhau Câu 4
Những hoạt động nào sau đây biểu hiện cho lòng nhân ái?
Tham gia các hoạt động tình nguyện tại trường,địa phương để gây quỹ từ thiện
51
Tất cả các ý kiến trên
Có
Câu 5 Không Em có mong muốn tham gia vào các hoạt động thể hiện lòng nhân ái khi có cơ hội không?
Có
Câu 6 Không Nếu có cơ hội để chia sẻ, lan toả lòng nhân ái tới bạn bè, mọi người xung quanh,em có mong muốn thực hiện không?
Bản thân em làm tấm gương để mọi người học tập
Câu 7 Chia sẻ các việc làm tốt qua các trang mạng xã hội: facebook, zalo Em sẽ lan toả những hành động giàu lòng nhân ái bằng cách nào? Kêu gọi mọi người cùng
chung tay với mình
Tất cả các ý kiến trên
53
PHỤ LỤC 5: KẾT QUẢ KHẢO SÁT HỌC SINH SAU KHI THỰC HIỆN
ĐỀ TÀI
54
55
56
PHỤ LỤC 6: CÁC HOẠT ĐỘNG HỌC SINH LÀM ĐƯỢC
Hình ảnh HS trang trí góc học tập, lớp học với thái độ yêu đời
57
Hình ảnh HS thể hiện tình yêu với cha mẹ qua các dịp sinh nhật, dịp lễ
Hình ảnh HS tạo được thói quen lên thư viện mượn sách đọc
58
Hình ảnh HS quan tâm giúp đỡ bạn bè có hoàn cảnh khó khăn
Hình ảnh HS đã ra trường và tiếp tục lan toả hành động tốt đẹp ở môi
trường mới
59
PHỤ LỤC 7: PHIẾU KHẢO SÁT TÍNH CẤP THIẾT VÀ KHẢ THI
CHO HỌC SINH
Hãy đánh dấu "X" vào sự lựa chọn phù hợp với ý kiến của em
Câu Nội dung câu hỏi Lựa chọn
Rất cấp thiết
Cấp thiết Câu 1 Ít cấp thiết Em đánh giá như thế nào về tính cấp thiết của giải pháp“bản thân người giáo viên là một tấm gương mẫu mực cho các em noi theo học tập”? Không cấp thiết
Rất cấp thiết
Cấp thiết
Câu 2 Ít cấp thiết
Em đánh giá như thế nào về tính cấp thiết của giải pháp “giáo viên đưa ra những tấm gương sáng điển hình về phẩm chất đạo đức gần gũi với cuộc sống xung quanh các e”? Không cấp thiết
Rất cấp thiết
Cấp thiết
Câu 3 Ít cấp thiết Em đánh giá như thế nào về tính cấp thiết của giải pháp“giáo dục các em học sinh biết yêu quý chính bản thân mình, để từ đó các em biết yêu quý, trân trọng những người xung quanh”? Không cấp thiết
Rất cấp thiết
Cấp thiết Câu 4
Ít cấp thiết
lớp, hoạt động lên Không cấp thiết Em đánh giá như thế nào về tính cấp thiết của giải pháp“lồng ghép các nội dung giáo dục tình yêu thương gia đình, con người vào các tiết dạy hoạt động ngoài giờ trải nghiệm”?
Rất cấp thiết
Cấp thiết Câu 5 Ít cấp thiết Em đánh giá như thế nào về tính cấp thiết của giải pháp “phối hợp giáo dục cùng với phụ huynh học sinh bằng nhiều hình thức khác nhau”? Không cấp thiết
Rất cấp thiết
Câu 6 Cấp thiết
Ít cấp thiết Em đánh giá như thế nào về tính cấp thiết của giải pháp “Tìm kiếm, tạo ra cơ hội cho học sinh được tham gia các hoạt động trải nghiệm thực tế để gieo duyên
60
lòng nhân ái”? Không cấp thiết
Rất khả thi
Câu 7 Khả thi
Ít khả thi Em đánh giá như thế nào về tính khả thi của giải pháp“bản thân người giáo viên là một tấm gương mẫu mực cho các em noi theo học tập”? Không khả thi
Rất khả thi
Khả thi
Câu 8 Ít khả thi
Em đánh giá như thế nào về tính khả thi của giải pháp “giáo viên đưa ra những tấm gương sáng điển hình về phẩm chất đạo đức gần gũi với cuộc sống xung quanh các em học sinh”? Không khả thi
Rất khả thi
Khả thi
Câu 9 Ít khả thi
Em đánh giá như thế nào về tính khả thi của giải pháp“giáo dục các em học sinh biết yêu quý chính bản thân mình, để từ đó các em biết yêu quý, trân trọng những người xung quanh”? Không khả thi
Rất khả thi
Khả thi Câu 10
Ít khả thi
Em đánh giá như thế nào về tính khả thi của giải pháp“lồng ghép các nội dung giáo dục tình yêu thương gia đình, con người vào các tiết dạy hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động trải nghiệm”? Không khả thi
Rất khả thi
Khả thi Câu 11 Ít khả thi Em đánh giá như thế nào về tính khả thi của giải pháp “phối hợp giáo dục cùng với phụ huynh học sinh bằng nhiều hình thức khác nhau”? Không khả thi
Rất khả thi
Khả thi Câu 12
Ít khả thi
Em đánh giá như thế nào về tính khả thi của giải pháp “giáo viên tìm kiếm, tạo ra cơ hội cho học sinh được tham gia các hoạt động trải nghiệm thực tế để gieo duyên lòng nhân ái”? Không khả thi
61
THI
a. Kết quả khảo sát giáo viên
PHỤ LỤC 8: KẾT QUẢ KHẢO SÁT TÍNH CẤP THIẾT VÀ KHẢ CỦA HỌC SINH VÀ GIÁO VIÊN
62
63
64
65
b. Kết quả khảo sát học sinh
66
67
68
69
c. Tổng hợp kết quả khảo sát tính cấp thiết của giáo viên và học sinh
Mức độ đánh giá
Cấp thiết
Ít cấp thiết
Rất cấp thiết
Không cấp thiết
TT
Giải pháp
∑
SL Điểm SL Điểm SL Điểm SL Điểm
1
208
832
63
189
0
0
0
0
1021
tính cấp thiết của giải pháp“bản thân người giáo viên là một tấm gương mẫu mực cho các em noi theo học tập”?
205
820
66
198
0
0
0
0
1018
tính cấp thiết của giải pháp “giáo viên đưa ra những tấm gương sáng điển hình về phẩm chất đạo đức gần gũi với cuộc sống xung quanh các em học sinh”?
2
215
860
56
168
0
0
0
1028
tính cấp thiết của giải pháp“giáo dục các em học sinh biết yêu quý chính bản thân mình, để từ đó các em biết yêu quý, trân trọng những người xung quanh”?
4
219
876
52
156
0
0
0
0
1032
tính cấp thiết của giải pháp“lồng ghép các nội dung giáo dục tình yêu thương gia đình, con người vào các tiết dạy hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động trải nghiệm”?
0
3
211
844
60
180
0
0
0
1024
tính cấp thiết của giải pháp “phối hợp giáo dục cùng với phụ huynh học sinh bằng nhiều hình thức khác nhau”?
5
70
6
216
864
55
165
0
0
0
0
1029
tính cấp thiết của giải pháp“giáo viên tìm kiếm, tạo ra cơ hội cho học sinh được tham gia các hoạt động trải nghiệm thực tế để gieo duyên lòng nhân ái”?
d. Tổng hợp kết quả khảo sát tính khả thi của giáo viên và học sinh
Mức độ đánh giá
Rất khả thi
Khả thi
Ít khả thi
Không khả thi
TT Giải pháp
∑
SL Điểm SL Điểm SL Điểm SL Điểm
1
189
756
82
246
0
0
0
0
1002
tính khả thi của giải pháp“bản thân người giáo viên là một tấm gương mẫu mực cho các em noi theo học tập”?
2
186
744
85
255
0
0
0
0
999
tính khả thi của giải pháp “giáo viên đưa ra những tấm gương sáng điển hình về phẩm chất đạo đức gần gũi với cuộc sống xung quanh các em học sinh”?
199
796
72
216
0
0
0
0
1012
tính khả thicủa giải pháp“giáo dục các em học sinh biết yêu quý chính bản thân mình, để từ đó các em biết yêu quý, trân trọng những người xung quanh”?
0
3
201
804
70
210
0
0
0
1014
tính khả thi của giải pháp“lồng ghép các nội dung giáo dục tình yêu thương gia đình, con người vào các tiết dạy hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động trải nghiệm”?
4
71
5
193
772
78
234
0
0
0
0
1006
tính khả thi của giải pháp “phối hợp giáo dục cùng với phụ huynh học sinh bằng nhiều hình thức khác nhau”?
195
780
76
228
0
0
0
0
1008
tính khả thi của giải pháp“giáo viên tìm kiếm, tạo ra cơ hội cho học sinh được tham gia các hoạt động trải nghiệm thực tế để gieo duyên lòng nhân ái”?
6
72