
Phân I. Mở đầu
Lý do chọn biện pháp:
Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lí của trẻ 3 tuổi, đây là giai đoạn đầu tuổi
mẫu giáo, vận động của trẻ còn ở mức độ thấp các kỹ năng cầm bút tô màu, nặn,
dán, cắt, vẽ các nét cơ bản của trẻ còn rất vụng về. Khả năng sử dụng các
nguyên vật liệu để tạo thành bức tranh đơn giản chưa có. Trẻ hay tự làm theo ý
của mình, chú ý còn quá ngắn. Mặt khác, do trẻ mới rời gia đình đến lớp với cô
với bạn, lúc này môi trường sống, sinh hoạt của trẻ rộng hơn, mọi sự vật hiện
tượng xung quanh trẻ còn rất mới lạ, trẻ chưa có khái niệm về cái gì cụ thể, vốn
ngôn ngữ của trẻ còn quá ít. Trẻ chưa mạnh dạn tự tin khi tham gia vào các hoạt
động cùng cô và các bạn nhất là với hoạt động tạo hình.
Bên cạnh đó, các phương pháp hoạt động tạo hình lâu nay đang được sử
dụng còn mang tính rập khuôn theo mẫu, sao chép chưa phát huy hết khả năng
sáng tạo và sự linh hoạt của người giáo viên khi tổ chức hoạt động tạo hình. Là
một giáo viên đứng lớp tôi luôn muốn tìm ra cái mới lạ để tổ chức các hoạt động
giúp trẻ hứng thú tham gia tốt các hoạt động nhất là động phát triển thẩm mỹ
nên tôi đã chọn biện pháp “Biện pháp phát triển thẩm mỹ cho trẻ 3 - 4 tuổi thông
qua hoạt động tạo hình” nhằm tìm ra các phương pháp, biện pháp tối ưu góp
phần phát triển kỹ năng tạo hình và phát triển thẫm mỹ cho trẻ.
Phần II. Nội dung
1. Đánh giá thực trạng:
Năm học 2022 - 2023 tôi được nhà trường phân công giảng dạy tại lớp mẫu
giáo 3-4 tuổi B. Trong lớp 2 giáo viên đều có trình độ trên chuẩn và số trẻ là 24
cháu.Qua quá trình thực hiện biện pháp, bản thân tôi gặp phải những thuận lợi
khó khăn sau:
a. Thuận lợi:
Trường lớp khá rộng rãi, là môi trường lý tưởng cho mọi hoạt động của cô
và trẻ. Cơ vở vật chất trong lớp được nhà trường trang bị khá đầy đủ.
Ban giám hiệu vững về chuyên môn, luôn sát sao chỉ đạo giáo viên thực
hiện tốt chuyên môn của mình.
Là giáo viên có trình độ trên chuẩn, nhiều năm kinh nghiệm giảng dạy,
nắm vững chuyên môn, luôn nhiệt tình, yêu nghề mến trẻ, tâm huyết với nghề,
ham học hỏi nâng cao chuyên môn nghiệp vụ, nắm bắt được khả năng của từng
trẻ.
b. Khó khăn:
Đa số trẻ chưa học qua lớp nhà trẻ nên kỹ năng tạo hình còn hạn chế
Ngôn ngữ của trẻ còn hạn chế một số cháu còn nói ngọng phát âm chưa rõ,
chưa diễn tả được ý hiểu của mình đối với người khác.
Trẻ đến lớp còn nhút nhát, khóc nhè, không tích cực hoạt động. Nề nếp của
các cháu còn lộn xộn.
Một số gia đình còn nuông chiều con thái quá, luôn sẵn sàng phục vụ trẻ
nên các cháu có thái độ ngang bướng, ỷ lại tới lớp hay làm nũng cô giáo khi
không đáp ứng nhu càu của trẻ.
1