SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC VIẾT
CHO HỌC SINH GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
MÔN NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG PT DTNT THPT SỐ 2
Lĩnh vực: Ngữ Văn
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN
TRƯỜNG PT DTNT THPT SỐ 2
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC VIẾT
CHO HỌC SINH GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
MÔN NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG PT DTNT THPT SỐ 2
Lĩnh vực: Ngữ Văn
Tác giả:
Phan Thị Hồng
Trương Thị Thanh Thủy
Ngũ Thị Hiền
Tổ:
Ngữ Văn
Năm thực hiện: 2022 - 2023
Số điện thoại: 0947 936 655
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài .................................................................................................... 1
2. Mục đích, phạm vi nghiên cứu của đề tài ............................................................. 1
2.1. Mục đích nghiên cứu .......................................................................................... 1
2.2. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................ 2
3. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................................ 2
4. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................... 2
5. Kế hoạch nghiên cứu ............................................................................................. 2
6. Cấu trúc của đề tài ................................................................................................. 2
7. Đóng góp của đề tài ............................................................................................... 2
B. NỘI DUNG ........................................................................................................... 3
I. Cơ sở khoa học của đề tài ..................................................................................... 3
1. Cơ sở lí luận .......................................................................................................... 3
1.1. Dạy học môn Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực. ............................ 3
1.1.1 Khái niệm năng lực .......................................................................................... 3
1.1.2. Dạy học phát triển năng lực ............................................................................ 4
1.1.3. Mục tiêu hình thành các năng lực của môn Ngữ văn ..................................... 4
1.2. Năng lực viết trong dạy học môn Ngữ văn ........................................................ 4
1.2.1. Khái niệm năng lực viết .................................................................................. 4
1.2.2. Vai trò của năng lực viết ................................................................................. 5
1.2.3. Những yêu cầu của năng lực viết đối với từng bậc học .................................. 5
2. Cơ sở thực tiễn ...................................................................................................... 6
2.1. Thực trạng chung về dạy học phát triển năng lực viết ở học sinh THPT .......... 6
2.1.1. Ưu điểm ........................................................................................................... 6
2.1.2. Hạn chế ........................................................................................................... 6
2.2. Thực trạng cụ thể về dạy học phát triển năng lực viết ở trường PTDTNT THPT số 2 Nghệ An. ................................................................................................. 9
2.2.1. Đặc điểm tình hình của trường PTDTNT THPT số 2 ..................................... 9
2.2.2. Những mặt ưu điểm và hạn chế về công tác phát triển năng lực viết ở trường PTDTNT THPT số 2, Nghệ An ................................................................................ 11
II. Một vài giải pháp góp phần phát triển năng lực viết cho học sinh trường PTDTNT THPT số 2, Nghệ An. ............................................................................. 13
1. Nguyên tắc đề xuất giải pháp .............................................................................. 13
2. Một vài giải pháp cụ thể ...................................................................................... 13
2.1. Phát triển năng lực viết thông qua giờ học trên lớp. ........................................ 13
2.1.1 Với các giờ học theo chương trình GDPT 2018 ............................................ 13
2.1.2. Với các giờ học theo chương trình GDPT 2006 ........................................... 17
2.2. Phát triển năng lực viết qua hoạt động ngoại khóa ......................................... 28
2.2.1. Phát triển năng lực viết văn qua hoạt động chuyên san thường kì của trường PT DTNT số 2 .......................................................................................................... 28
2.2.2. Phát triển năng lực viết qua hoạt động bình tập san. ................................... 32
2.2.3. Phát triển năng lực viết qua bảng tin, trang tin điện tử ............................... 35
2.2.4. Phát triển năng lực viết qua những lá thư tay .............................................. 37
2.2.5. Rèn luyện kĩ năng viết qua các cuộc thi viết ................................................. 40
3. Khảo sát sự cấp thiết và tính khả thi của đề tài ................................................... 41
3.1. Mục đích khảo sát ............................................................................................ 41
3.2 Nội dung và phương pháp khảo sát ................................................................... 41
3.2.1 Nội dung khảo sát ........................................................................................... 41
3.2.2 Phương pháp khảo sát và thang đánh giá ..................................................... 41
3.3. Đối tượng khảo sát ........................................................................................... 41
3.4. Kết quả khảo sát về sự cấp thiết và tính khả thi của đề tài. ............................. 42
3.4.1. Sự cấp thiết của đề tài. .................................................................................. 42
3.4.1. Sự khả thi của các giải pháp đã đề xuất. ...................................................... 42
III. Kết quả thực nghiệm ......................................................................................... 42
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ......................................................................... 44
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 45
PHỤ LỤC ............................................................................................................... 46
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Nghị quyết số 88 ngày 28/11/2014 của Quốc hội về đổi mới chương trình, sách giáo khoa có quy định: “Mục tiêu giáo dục phổ thông là tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất năng lực, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh”.Thông tư số 32/2018/TT-BGDDT ngày 26/11/2018 ban hành về chương trình giáo dục tổng thể đã trình bày đầy đủ những yêu cầu cần đạt về năng lực học sinh. Theo đó, dạy học phát triển năng lực hiện là mục tiêu và nhiệm vụ quan trọng, cốt lõi của ngành. Để đạt được mục tiêu đó thì bản thân mỗi chúng ta- người cầm phấn phải xác định được nhiệm vụ cốt lõi của từng môn học gắn với từng năng lực, kĩ năng cụ thế từ đó giúp học sinh đạt được mục tiêu của chương trình giáo dục tổng thế.
1.2. Ngữ văn là một môn học có vai trò quan trọng trong hệ thống các môn học của chương trình giáo dục phổ thông. Mac-xim-Gor-ki từng nói “Văn học là nhân học”, văn học góp phần giáo dục tư tưởng bồi dưỡng nhân cách, nuôi dưỡng tâm hồn con người. Bên cạnh đó, môn Ngữ văn còn là môn học công cụ, có nhiệm vụ hình thành phát triển ở học sinh các phẩm chất năng lực đặc thù, tiêu biểu là bốn năng lực đọc, viết, nói và nghe. Năng lực viết là một trong bốn năng lực không thể thiếu đối với mỗi học sinh, dù là học sinh chuyên hay không chuyên văn vẫn rất cần đến các kĩ năng tạo lập văn bản, kĩ năng dùng ngôn ngữ để diễn đạt trong văn bản… nhằm phục vụ cho học tập và làm việc sau khi rời ghế nhà trường.
1.3. Trường PT DTNT THPT Số 2 là ngôi trường với nhiệm vụ đặc biệt: Giáo dục và đào tạo con em đồng bào miền núi ở những vùng miền đặc biệt khó khăn , chủ yếu là con em dân tộc Thái, Thổ,... điểm đầu vào thấp, thiếu thốn về vật chất, hạn chế về kĩ năng, xa gia đình, luôn khao khát tình cảm, học sinh ở đây quen với ngôn ngữ bản địa nên việc diễn đạt ngôn ngữ trong trang viết còn nhiều hạn chế. Vậy mà sau 3 năm học tập, điểm thi tốt nghiệp THPT của các em luôn đứng thứ 2 toàn tỉnh, đặc biệt môn Ngữ văn 2 năm liền giữ vị trí đầu bảng. Kết quả đó là thành tựu lớn lao được kết tinh từ nhiều nguyên nhân, trong đó một trong những nguyên nhân hàng đầu là sự phù hợp của phương pháp giảng dạy đối với đối tượng. Và quan trọng nhất là công tác phát triển năng lực viết luôn được đề cao ở bộ môn Ngữ Văn.
Từ những lí do, trên chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài “ Một số giải pháp phát triển năng lực viết cho học sinh góp phần nâng cao chất lượng môn Ngữ văn ở trường PT DTNT THPT Số 2”
2. Mục đích, phạm vi nghiên cứu của đề tài 2.1. Mục đích nghiên cứu
- Thấy được thực trạng của năng lực viết ở môn Ngữ văn trong đại bộ phận
học sinh hiện nay.
1
- Đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực viết góp phần nâng cao chất lượng
môn văn ở trường Nội trú.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Người viết tập trung vào các kinh nghiệm rèn năng lực viết cho học sinh
trường DTNT
3. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh khối 10, 11, 12 ở trường DTNT số 2
4. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng linh hoạt các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thu thập, xử lí tài liệu, thông tin
- Phương pháp điều tra, khảo sát - Phương pháp thống kê, so sánh - Phương pháp phân tích, tổng hợp….
5. Kế hoạch nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu trong khoảng thời gian từ năm học 2019 đến nay, kiểm
nghiệm qua các kì thi tốt nghiệp THPT 2019-2020, 2020-2021, 2021-2022.
- Thời gian viết và hoàn thiện: Năm học 2022-2023
6. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phần nội dung của đề tài gồm:
- Cơ sở lí luận
- Thực trạng về năng lực viết của học sinh nói chung, năng lực viết của học
sinh trường PTDTNT THPT số 2 Nghệ An nói riêng.
- Một vài giải pháp nhằm nâng cao năng lực viết góp phần nâng cao chất
lượng môn Ngữ Văn ở trường PTDTNT THPT số 2 Nghệ An.
- Kết quả đạt được
7. Đóng góp của đề tài
Sáng kiến góp phần phát triển năng lực viết cho học sinh DTNT trong quá trình học tập môn Ngữ văn trong nhà trường và tạo nền tảng kiến thức, kĩ năng cho các em sau khi rời trường THPT.
2
B. NỘI DUNG
I. Cơ sở khoa học của đề tài 1. Cơ sở lí luận
1.1. Dạy học môn Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực.
1.1.1 Khái niệm năng lực
Phạm trù năng lực thường được hiểu theo những cách khác nhau và mỗi cách hiểu có những thuật ngữ tương ứng: (1) Năng lực (Capacity/Ability) hiểu theo nghĩa chung nhất là khả năng (hoặc tiềm năng) mà cá nhân thể hiện khi tham gia một hoạt động nào đó ở một thời điểm nhất định; (2) Năng lực (Compentence) thường gọi là năng lực hành động: là khả năng thực hiện hiệu quả một nhiệm vụ/ một hành động cụ thể, liên quan đến một lĩnh vực nhất định dựa trên cơ sở hiểu biết, kỹ năng, kỹ xảo và sự sẵn sàng hành động.
Từ các cách hiểu trên, có nhiều định nghĩa khác nhau về Năng lực. Ví dụ: Năng lực là khả năng cá nhân đáp ứng các yêu cầu phức hợp và thực hiện thành công nhiệm vụ trong một bối cảnh cụ thể” (OECD, 2002). Năng lực được xây dựng trên cơ sở tri thức, thiết lập qua giá trị, cấu trúc như là các khả năng, hình thành qua trải nghiệm/củng cố qua kinh nghiệm, hiện thực hóa qua ý chí (John Erpenbeck 1998). Năng lực là các khả năng và kỹ năng nhận thức vốn có ở cá nhân hay có thể học được… để giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống. Năng lực cũng hàm chứa trong nó tính sẵn sàng hành động, động cơ, ý chí và trách nhiệm xã hội để có thể sử dụng một cách thành công và có trách nhiệm các giải pháp… trong những tình huống thay đổi (Weinert, 2001).
Theo Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (1992), năng lực được giải thích với hai nghĩa: Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một loạt hành động nào đó; Năng lực là: Phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao [8, 656].
Tài liệu CT GDPT năm 2018 giải thích khái niệm năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,... thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể.
Từ các định nghĩa trên, chúng ta có thể rút ra những đặc điểm chính của năng lực là sự kết hợp giữa tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện của người học. Năng lực là kết quả huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng, các thuộc tính cá nhân khác nhau. Năng lực được hình thành, phát triển thông qua hoạt động và thể hiện thành công trong hoạt động thực tiễn.
3
1.1.2. Dạy học phát triển năng lực
Dạy học phát triển năng lực từ lâu đã được áp dụng ở các nước có nền giáo dục tiên tiến và phát triển. Đây là xu hướng dạy học nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra của hoạt động dạy, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất, nhân cách, chú trọng năng lực vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn bị cho con người năng lực giải quyết các tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp. Dạy học phát triển năng nhấn mạnh vai trò của người học với tư cách là chủ thể của quá trình nhận thức.
Trong bối cảnh kinh tế nước ta đang trên đà phát triển, có sự hội nhập và giao lưu văn hóa, kinh tế với các nước trên thế giới, dạy học phát triển năng lực giúp học sinh chuẩn bị tâm thế về mọi mặt cả tri thức lẫn kĩ năng, phẩm chất… để nhanh chóng hòa nhập với cuộc sống mới.
1.1.3. Mục tiêu hình thành các năng lực của môn Ngữ văn
Môn Ngữ văn là môn học quan trọng và chiếm thời lượng số tiết học nhiều ở chương trình THPT. Ngữ văn là môn học được tích hợp từ ba phân môn là văn, tiếng Việt và làm văn. Về cơ bản đây vừa là môn học nghệ thuật vừa là môn học thực hành. Chính vì vậy, mục tiêu của môn Ngữ văn là hình thành và phát triển cho học sinh hai năng lực quan trọng là Năng lực thẩm mĩ và Năng lực ngôn ngữ.
- Năng lực thẩm mĩ: Mục tiêu của môn Ngữ văn là giúp học sinh có năng lực khám phá và thưởng thức cái đẹp. Học sinh phát hiện ra cái đẹp và có những rung động thẩm mĩ. Cái đẹp trong các văn bản nghệ thuật thường không bộc lộ ra bên ngoài mà được ẩn giấu qua từ ngữ, hình ảnh, các biện pháp tu từ… nên học sinh phải giải mã được nó, hiểu và cảm nó. Từ đó, các em nhận ra được cái đẹp trong cuộc sống, hướng bản thân mình tới cái đẹp, cái thiện.
- Năng lực ngôn ngữ: Năng lực ngôn ngữ gồm năng lực làm chủ ngôn ngữ và năng lực sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp và tạo lập văn bản. Ở phương diện này, môn Ngữ Văn có mục tiêu giúp học sinh hiểu và cảm nhận được sự giàu đẹp của tiếng Việt, nắm được các quy tắc ngữ pháp, chính tả… một cách thuần thục để giao tiếp trong các tình huống, môi trường khác nhau. Một phần rất quan trọng nữa là giúp học sinh biết sử dụng tiếng việt để tạo lập ra các văn bản chuẩn mực. Không những thế, các em còn phải có khả năng cảm thụ, thông hiểu và vận dụng hiểu biết vào việc thực hành viết các kiểu loại văn bản thường gặp trong cuộc sống hằng ngày.
1.2. Năng lực viết trong dạy học môn Ngữ văn
1.2.1. Khái niệm năng lực viết
Giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện chuyển bước từ chương trình giáo dục chú trọng phát triển kiến thức sang chương trình chú trọng phát triển năng lực cho học sinh. Môn Ngữ văn được coi là môn học công cụ để phát triển năng lực giao tiếp, một năng lực được coi là cốt lõi của người học. Viết là một trong những
4
hoạt động thể hiện năng lực giao tiếp. Theo tài liệu Tài liệu bồi dưỡng giáo viên phổ thông đại trà, modul 2, sử dụng phương pháp dạy học, giáo dục phát triển phẩm chất,năng lực học sinh trung học phổ thông môn Ngữ Văn diễn giải viết trong dạy học môn Ngữ Văn là kĩ năng tạo lập văn bản gồm: kĩ thuật viết và viết câu, đoạn, văn bản. Trong đó yêu cầu cụ thể gồm: các yêu cầu về quy trình tạo lập văn bản và thực hành viết theo đặc điểm của các kiểu văn bản [1, tr.13]. Như vậy, viết là hoạt động truyền đạt thông tin – một trong hai quá trình của hoạt động giao tiếp là tạo lập ngôn bản và tiếp nhận ngôn bản. Dạy viết trong môn Ngữ Văn là hình thành và phát triển kĩ năng tạo lập các kiểu văn bản theo quy trình và đặc điểm thể loại văn bản.
Như vậy, năng lực viết có thể hiểu là người học có khả năng viết một cách độc lập khi được yêu cầu thực hiện và bài viết thể hiện đầy đủ các tiêu chí của một bài viết sáng tạo; khả năng nhận biết được ích lợi của việc viết; nhận biết khi nào thì cần viết và viết như thế nào để giải quyết được vấn đề; người đọc sẽ có nhận thức, thái độ, hành động như người viết mong muốn.
1.2.2. Vai trò của năng lực viết
Viết là một trong những hoạt động thể hiện, truyền đạt thông tin – một trong hai quá trình của hoạt động giao tiếp là tiếp nhận và tạo lập văn bản. Quy trình thực hành viết văn bản cần được cụ thể hóa: xác định được nhiệm vụ, mục đích và đối tượng tiếp nhận văn bản; thu thập thông tin; lập dàn ý; viết bản thảo; đánh giá và rà soát; chia sẻ bài viết; hoàn thiện bài viết. Quy trình này có những hỗ trợ cụ thể cho học sinh khi gặp khó khăn trong việc tạo lập văn bản.
1.2.3. Những yêu cầu của năng lực viết đối với từng bậc học
Đối với hoạt động viết, ở cấp tiểu học: yêu cầu học sinh viết đúng chính tả, từ vựng, ngữ pháp; viết được một số câu, đoạn văn ngắn; bước đầu viết được bài văn ngắn hoàn chỉnh, chủ yếu là bài văn kể, tả và bài giới thiệu đơn giản; viết được văn bản kể lại những câu chuyện đã đọc, những sự việc đã chứng kiến, tham gia, những câu chuyện do học sinh tưởng tượng; miêu tả những sự vật, hiện tượng quen thuộc; giới thiệu về những sự vật và hoạt động gần gũi với cuộc sống của học sinh; viết đoạn văn nêu những cảm xúc, suy nghĩ của học sinh khi đọc một câu chuyện, bài thơ, khi chứng kiến một sự việc gợi cho học sinh nhiều cảm xúc; nêu ý kiến về một vấn đề đơn giản trong học tập và đời sống; viết một số kiểu văn bản như: bản tự thuật, tin nhắn, giấy mời, thời gian biểu, đơn từ; bước đầu biết viết theo quy trình; bài viết cần có đủ ba phần (mở bài, thân bài, kết bài).
Ở cấp trung học cơ sở: học sinh viết được bài văn tự sự, miêu tả và biểu cảm; bước đầu biết viết bài văn nghị luận, thuyết minh, nhật dụng; viết đúng quy trình, biết cách tìm tài liệu để đáp ứng yêu cầu viết văn bản; có hiểu biết về quyền sở hữu trí tuệ và biết cách trích dẫn văn bản.
Ở cấp trung học phổ thông: học sinh viết thành thạo kiểu văn bản nghị luận và thuyết minh về các đề tài gắn với đời sống và định hướng nghề nghiệp; Viết
5
được văn bản nghị luận và văn bản thông tin có đề tài tương đối phức tạp; văn bản nghị luận yêu cầu phân tích, đánh giá, so sánh giá trị của tác phẩm văn học; bàn về những vấn đề phù hợp với đối tượng gần đến tuổi thành niên, đòi hỏi cấu trúc và kiểu lập luận tương đối phức tạp, bằng chứng cần phải tìm kiếm từ nhiều nguồn; văn bản thuyết minh viết về những vấn đề có tính khoa học dưới hình thức một báo cáo nghiên cứu đúng quy ước; tuân thủ quyền sở hữu trí tuệ và tránh đạo văn; bài viết thể hiện được cảm xúc, thái độ, những trải nghiệm và ý tưởng của cá nhân đối với những vấn đề đặt ra trong văn bản; thể hiện được một cách nhìn, cách nghĩ, cách sống mang đậm cá tính.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Thực trạng chung về dạy học phát triển năng lực viết ở học sinh
THPT
2.1.1. Ưu điểm
Trong sự chuyển mình của thế giới trước các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật của thời đại 4.0, giáo dục nước nhà đã có những bước tiến dài. Các bước đi khởi sắc và mạnh mẽ đó đã chuyển đổi cơ bản môn học Ngữ văn với quan niệm truyền thống sang hiện đại, phù hợp thời đại mới. Một trong những bước chuyển mình đó của bộ môn phải kể đến phương pháp dạy học chú trọng tính thực hành. Năng lực viết vì thế mà được chú trọng, góp phần nâng cao chất lượng bộ môn.
Trong những năm qua, môn Ngữ văn đã có nhiều thay đổi trong dạy học cũng như kiểm tra đánh giá. Có được sự thay đổi cần tiết này phải kể đến vai trò chỉ đạo chuyên môn quyết liệt và hợp lí từ lãnh đạo các cấp, nhất là vai trò quan trọng của chuyên viên bộ môn. Sự thay đổi tích cực về phương pháp giảng dạy cũng như kiêm rtra đánh giá, đặc biệt là thay đổi hợp lí cấu trúc đề thi qua các kì thi của tỉnh nhà đã tác động tích cực tới sự chuyển mình trong công tác dạy và học. Cùng với sự chỉ đạo sát sao của lãnh đạo nhà trường, môn Ngữ văn đã thực sự thay đổi về cách dạy, cách học, từ đó mà việc rèn luyện năng lực viết cho học sinh cũng được chú trọng và đạt được những thành tự bước đầu.
Một trong những thuận lợi nữa của bộ môn Ngữ văn đó là quy tụ được một đội ngũ giáo viên lành nghề, dạn dày kinh nghiệm, có ý thức trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp. Trong việc dạy học môn Ngữ văn nói chung, dạy viết nói riêng luôn đầy nhiệt tình, say mê, trách nhiệm. Chính vì thế những năm gần đây, năng lực viết của bộ môn có nhiều tiến bộ vượt bậc. Điều này có thể nhận thấy rõ ràng qua kết quả thi tốt nghiệp THPT với những vị trí cao liên tiếp trong hai năm gần đây trên bảng xếp hạng toàn quốc.
2.1.2. Hạn chế
6
Tuy vậy, xét một cách khách quan năng lực viết của đại bộ phận học sinh bậc THPT vẫn còn nhiều hạn chế. Đâu đó vẫn tồn tại hiện tượng ngồi nhầm lớp ở hầu khắp các vùng miền. Nhiều học sinh lên cấp 3 vẫn “ăn chưa nên đọi, nói chưa nên lời”, viết câu văn chưa chuẩn, không biết cách diễn đạt ý trong một bài văn. Hiện tượng dùng từ sai, sai chính tả, sai phong cách ngôn ngữ còn rất phổ biến. Rất nhiều em chưa viết đúng quy định của một tờ đơn xin nghỉ học hoặc ghi sai quy cách của một bản tường tình, bản kiểm điểm. Rất nhiều em chưa từng tiếp xúc và không biết bắt đầu thế nào với một biên bản hội họp…Đó quả là những tực trạng đáng buồn, đáng lo, đáng được quan tâm trăn trở. Nhưng có vẻ như nó quá phổ biến nên chúng ta thừa nhận như một lẽ đương nhiên!
Một trong những điều đáng quan tâm nữa ở bộ môn Ngữ văn trong việc rèn năng lực viết đó là khả năng nhận thức việc đổi mới môn học cưa cao. Nhiều giáo viên đã qua thời tuổi trẻ, tuy nhiều kinh nghiệm giảng dạy nhưng chưa thực sự bắt nhịp kịp thời với cái mới. Họ bị sức ì ngăn cản, họ ngại học hỏi công nghệ thông tin, ngại bước qua biết bao điều tâm đắc của lối dạy cũ để mở lòng với một điều mới mẻ khá kém cạnh chất văn chương…Một số giáo viên vẫn còn tư duy bảo thủ, thiếu tin tưởng vào sự thay đổi, khả năng tiếp cận nắm bắt thông tin, xu thế thời đại hạn chế, vì thế thực sự chuyển mình trong dạy học văn để chú trọng luyện viết vẫn là một vấn đề nan giải.
Với bộ phận giáo viên đã thay đổi cũng vướng vào một vài vướng mắc khác: Đó là phương pháp, có là cơ sở vật chất, đó là sự kiên trì khi bắt tay vào chỗ nào cũng thấy vô vàn khó khăn bất cập. Đồng lương ít ỏi, áp lực công việc ngày càng cao, yêu cầu của bộ môn Ngữ văn lại luôn khó nhất trong hệ thống các môn học…những điều này quả là những rào cản khiến dạy học phát triển năng lực nói chung, việc luyện viết cho học sinh nói riêng vẫn còn khá nhiều khó khăn cần tháo gỡ.
Theo tìm hiểu, cũng đã có nhiều giải pháp được đề cập đến trong những sáng kiến trước đây liên quan đến việc luyện viết trong môn Ngữ. Tuy nhiên giải pháp trực tiếp về cách thức luyện viết thì chưa được chú trọng, vẫn còn tản mạn, cảm tính và chưa mang tính xây dựng một cách hệ thống, toàn diện. Đứng trước thực trạng đó, tôi thiết nghĩ cần phải có những giải pháp phát triển năng lực viết cho học THPT góp phần nâng cao chất lượng bộ môn một cách nghiêm túc, hệ thống toàn diện và mang tính khả thi cao.
Trước những thực trạng chung của dạy học phát triển năng lực viết và thấy được tính cấp bách của nó, đầu năm học 2019-1020, chúng tôi đã điều tra 50 giáo viên của ba trường đó là THPT Lê Viết Thuật, THPT Nguyễn Trường Tộ- Hưng Nguyên, THPT Diễn Châu 2 và 110 học sinh ở ba trường trên địa bàn Thành phố Vinh, huyện Hưng Nguyên, Huyện Diễn Châu, huyện Anh Sơn ( thuộc các lớp 11C ở trường THPT Nguyễn Trường Tộ- Hưng Nguyên, 12 D1 ở trường THPT Lê
7
Viết Thuật và lớp 11D ở trường THPT Diễn Châu 2) để biết được nhận thức của giáo viên THPT và học sinh về vai trò của dạy học phát triển năng lực viết cũng như năng lực viết ở các em học sinh. Chúng tôi đã tiến hành phát phiếu điều tra giáo viên và học sinh với nội dung câu hỏi như sau:
Bảng 1. Câu hỏi dành cho giáo viên
Câu hỏi Câu trả lời Tần số Tỉ lệ %
Không quan trọng 3 6
Bình thường 11 22
Quan trọng 36 72 Câu 1: Theo thầy(cô), việc hình thành và phát triển năng lực viết cho học sinh có quan trọng không?
Chưa có giải pháp 28 56
20 40 Đã tìm ra giải pháp nhưng chưa hiệu quả Câu 2: Thầy (cô) đã tìm được giải pháp gì để phát triển năng lực viết cho học sinh?
2 4 Đã tìm ra giải pháp và thực hiện có hiệu quả
Bảng 2. Câu hỏi dành cho học sinh
Theo em năng lực viết có quan trọng trong việc nâng cao chất lượng môn Ngữ văn không?
Câu trả lời Tần số Tỉ lệ %
Hoàn toàn không có ý nghĩa 3 2,7 %
Không quan trọng 7 6,4%
Bình thường 50 45,5%
Quan trọng 30 27,3%
Rất quan trọng 20 18,1%
Tổng 110 100%
Em có hứng thú với các tiết học thực hành luyện viết ở môn Ngữ Văn không?
Câu trả lời Tần số Tỉ lệ %
Hoàn toàn không có ý nghĩa 3 2,7 %
Không quan trọng 7 6,4%
Bình thường 50 45,5%
8
Quan trọng 30 27,3%
Rất quan trọng 20 18,1%
Tổng 110 100%
Khả năng viết văn của em ở các kiểu bài đã học?
Câu trả lời Tần số Tỉ lệ %
Hoàn toàn không vững 3 2,7 %
Vững ở một vài kiểu bài 7 6,4%
Vững vàng 50 45,5%
Rất vững vàng 30 27,3%
Tổng 110 100%
2.2. Thực trạng cụ thể về dạy học phát triển năng lực viết ở trường
PTDTNT THPT số 2 Nghệ An.
2.2.1. Đặc điểm tình hình của trường PTDTNT THPT số 2
Trường PT Dân tộc nội trú THPT số 2 Nghệ An là nơi “ Tạo nguồn, đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ, khỏe, có trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật cao của từng dân tộc ” cho các huyện miền núi, cho tỉnh nhà. Năm học 2012-2013 là năm học đầu tiên, Trường chính thức khai giảng với 05 lớp học gồm 150 em học sinh. Những năm đầu thành lập nhà trường vừa phải mượn trường cơ sở vật chất của trường Cao đẳng sư pham Nghệ An để học tập và sinh hoạt vừa phải xây dựng nhà trường, đến năm 2014 trường mới về đúng cơ sở của trường.
Trường PT Dân tộc nội trú THPT số 2 Nghệ An là một loại hình trường đặc biệt. Đặc biệt vì mục tiêu nhiệm vụ của trường, đặc biệt vì đối tượng là học sinh dân tộc thiểu số, đặc biệt vì các em phải sống xa quê hương, làng bản, gia đình, từ mọi miền núi cao của miền Tây xứ Nghệ về sống tập trung trong trường nội trú giữa thành phố để học hành, rèn luyện. Những năm đầu mới thành lập được sự quan tâm của UBND tỉnh, Sở Giáo dục - Đào tạo và các ngành thầy và trò nhà trường đã vượt muôn vàn khó khăn để cùng nhau dạy và học góp phần xây dựng nên một trường Dân tộc nội trú vững mạnh về chất lượng, khang trang về vật chất, khẳng định được vị thế của mình là một trong những trường đứng đầu trong hệ thống các trường THPT Dân tộc nội trú trên toàn quốc và các trường THPT trong tỉnh. Ở đây các em phải sống xa nhà mọi hoạt động từ học tập đến sinh hoạt ngày ngày đều do các em tự lập. Vì thế cán bộ giáo viên của trường vừa thực hiện nhiệm vụ người thầy, người cô, vừa gánh vác trách nhiệm như người cha, người mẹ, tổ chức nuôi dạy học sinh một cách tốt nhất, lấy tiêu chí “ Trường là nhà – Thầy cô là cha mẹ - Bạn bè là anh em” để giáo dục các em.
9
Trải qua 12 năm xây dựng và phát triển, trường đã trở thành một trong những ngôi trường có chất lượng tốt nhất của giáo dục dân tộc và miền núi. Trong năm học 2022 – 2023 nhà trường có 18 lớp với gần 700 học sinh. Đội ngũ cán bộ giáo viên – nhân viên gồm: 4 Cán bộ quản lí, 43 giáo viên giảng dạy và 27 nhân viên khác. Tỉ lệ giáo viên/ lớp đảm bảo theo định biên và yêu cầu giảng dạy. Ban giám hiệu là một tập thể đoàn kết, nhất trí năng động, sáng tạo và có tầm nhìn khoa học. Trong công tác chỉ đạo, điều hành luôn chủ động có kế hoạch cụ thể, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Công tác tổ chức, triển khai kịp thời, kiểm tra đánh giá sâu sát, thực chất và đổi mới. Khi thực hiện luôn chủ động điều chỉnh chế kế hoạch kịp thời sát với thực tế. Được sự tin tưởng cao của Cán bộ giáo viên, học sinh và cha mẹ học sinh. Đội ngũ giáo viên, nhân viên phục vụ vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ, tâm huyết, trách nhiệm, nhiệt tình, yêu thương học sinh như con. Chất lượng học tập của các em năm sau cao hơn năm trước ( Kết quả thi Tốt nghệp THPT Quốc gia: Điểm trung bình trong hai năm liên tục 2019 và 2020 đứng thứ 4 toàn tỉnh, gần đây nhất là năm 2021 đứng thứ 2 toàn tỉnh; Kết quả học sinh giỏi tỉnh hàng năm đều đứng tốp 10 các trường THPT ở bảng A). Đời sống các em học sinh ngày càng được nâng cao, bữa ăn được cải thiện, không chỉ no mà đảm bảo về dinh dưỡng.
Trường có khuôn viên rộng với tổng diện tích trên 50.000 m2, có hệ thống tường rào được xây kiên cố, có khu hiệu bộ, các phòng học, phòng chức năng được bố trí hợp lý, cảnh quan hài hòa với ao cá, nhà sàn, các sân bóng chuyền, vườn hoa… tạo môi trường xanh, sạch, đẹp và thân thiện.
2.2.1.1. Thuận lợi.
Học sinh sống tập trung trong khuôn viên nhà trường, rất thuận lợi cho việc triển khai học tập và các hoạt động giáo dục. Các em ngoan ngoãn, ý thức tổ chức kỉ luật cao, tính cách thật thà, chăm chỉ, dễ mến. Theo quy định của nhà trường học sinh toàn trường các em tập trung học tập ngày 2 buổi sáng - chiều, các buổi tối học sinh tự học trên lớp với sự quản lí giám sát của bộ phận trực đêm. Điện thoại di động và mạng Internet sử dụng dưới sự điều hành giám sát của giáo viên chủ nhiệm, đoàn thanh niên. Ngoài giờ học và tự học, các em giải trí chủ yếu bằng thể thao, sinh hoạt tập thể và đọc sách báo. Thông tin các em được cập nhật thường xuyên qua các loại báo giấy, được đọc hằng ngày và đọc tập trung theo đơn vị lớp vào các buổi sinh hoạt đầu giờ và phát thanh tối thứ 7. Ngoài ra, các em được nhà trường tổ chức học võ, học bơi, tổ chức các lớp tiếng anh do giáo viên nước ngoài trực tiếp giảng dạy. Với môi trường học tập và sinh hoạt gần như khép kín, học sinh nhà trường có điều kiện rất thuận lợi cho việc nâng cao chất lượng dạy học cũng như hình thành phát triển phẩm chất, năng lực.
2.2.1.2. Khó khăn.
Hầu hết các em là con em dân tộc thiểu số, đến từ những vùng miền khó khăn, thiếu thốn. Các em đi xa nhà, chưa quen với cuộc sống tập thể, ngại giao tiếp, tự ti, khó hòa đồng. Một số em dè dặt trong bày tỏ tâm tư nguyện vọng, tiếp thu kiến thức và kĩ năng đào tạo một cách thụ động. Điều kiện gia đình các em đa
10
phần còn nhiều khó khăn, sách vở và tư liệu phục vụ học tập không thể tự trang bị mà phụ thuộc vào nguồn có sẵn từ thư viện nhà trường. Lối sống tập thể, nội trú góp phần quan trọng trong việc tập trung học tập và tổ chức các hoạt động ngoài giờ nhưng cũng khá tù túng và gò bó với một số em học sinh chưa thích nghi kịp thời với môi trường, vì thế thời gian đầu không tránh khỏi hiện tượng các em buồn chán, nản chí, muốn quay về với gia đình. Để khắc phục điều này, nhà trường và các tổ chức, thầy cô giáo đã rất quan tâm, áp dụng nhiều cách thức mềm mỏng, linh hoạt, khích lệ, động viên để các em có thêm động lực và quyết tâm vượt khó yên tâm học tập và rèn luyện.
2.2.2. Những mặt ưu điểm và hạn chế về công tác phát triển năng lực viết ở
trường PTDTNT THPT số 2, Nghệ An
Bên cạnh những mặt ưu điểm và hạn chế chung về công tác phát triển năng lực viết cho học sinh tại trường THPT như đã trình bày ở trên, công tác này tại trường PTDTNT THPT số 2, Nghệ An hiện nay còn tồn tại những ưu điểm, hạn chế sau:
2.2.2.1.Ưu điểm
Trong những năm qua, Ban giám hiệu nhà trường luôn chú trọng chỉ đạo công tác đổi mới phương pháp dạy học, tập trung thay đổi cách dạy cách học để phù hợp với xu thế thời đại mới. Đội ngũ giáo viên bộ môn nhiệt tình, tâm huyết, đã chú trọng đến việc dạy cách thức, dạy phương pháp, phát huy năng lực của học trò. Môn Ngữ văn là một môn học được nhiều học sinh nội trú say mê, hứng thú, không chỉ bởi những năng khiếu sẵn có từ các em mà còn vì bề dày thành tích về chất lượng bộ môn đã trở thành truyền thống của trường. Môi trường nội trú cũng là một môi trường rất thuận lợi cho việc “học thầy không tày học bạn”, vì thế, ít nhiều các em học sinh tự bảo ban nhau, kèm cặp, học hỏi lẫn nhau vô cùng hiệu quả.
2.2.2.2. Hạn chế
Tuy nhiên việc phát triển năng lực viết diễn ra chưa đều trong đại đa số học sinh của trường. Các em học khối tự nhiên thường có xu hướng thờ ơ với môn Ngữ văn, và việc luyện viết đương nhiên khó thực hiện ở các lớp học này. Mặc dù tư duy logic và khả năng lập luận của các em khối khoa học tự nhiên khá tốt, nhưng việc không trau dồi vốn từ, không nắm vững kiểu loại văn bản, kĩ thuật viết, diễn đạt ý chưa tốt đã dẫn đến chất lượng các bài viết ở bộ phận học sinh này khá yếu kém. Mặt khác, sự nhận thức về đổi mới phương pháp dạy học ở các giáo viên diễn ra không đồng đều. Có những giáo viên ngại thay đổi, chưa hiểu rõ sự cần thiết, tầm quan trọng của dạy học phát triển năng lực. Tâm lí dạy học chú trọng thi cử vẫn còn tồn tại, dẫn đến dạy viết, luyện viết chưa thật sự được coi trọng.
Qua khảo sát 230 học sinh, trong đó 110 HS khối 11, 110 HS khối 12 và 110 HS khối 10 được lựa chọn ngẫu nhiên của trường PTDTNT THPT số 2 trong năm học 2021-2022:
Câu hỏi: Em có hứng thú với các tiết học viết văn không?
11
Số câu trả lời Khối Rất hứng thú Bình thường Không hứng thú
Khối 10 20 40 50
Khối 11 30 44 36
Khối 12 50 30 30
Câu hỏi: Việc rèn luyện kĩ năng viết trong các giờ dạy văn có được giáo viên chú trọng không?
Số câu trả lời Khối Không Ít Nhiều
Khối 10 0 10 100
Khối 11 12 12 86
Khối 12 0 8 102
Câu 3: Theo em khả năng viết văn của bản thân có cần thiết cho việc học môn Văn và cho cuộc sống sau này không?
Câu trả lời Tần số Tỉ lệ %
Hoàn toàn không cần thiết 0 0%
Không quan trọng 3 2,7%
Bình thường 6 5,5%
Quan trọng 40 36%
Rất quan trọng 61 55%
Tổng 110 100%
Từ những khảo sát trên chúng tôi nhận thấy: Việc phát triển năng lực viết là vô cùng quan trọng và cần thiết. Tuy vậy không phải giáo viên nào cũng coi trọng và đề cao, cũng không phải học sinh nào cũng ý thức rõ và dành thời gian cho việc luyện viết. Hiện nay, chương trình giáo dục 2018 đã triển khai được gần một năm học, trong đó quy định khá cụ thể rõ ràng cho các tiết viết với những yêu cầu cứng về thời lượng, kiểu bài, nội dung, chủ đề. Tin rằng, đây sẽ là những thay đổi thực sự giúp giáo viên và học sinh có những nhận thức cũng như cách tiếp cận phù hợp về phương pháp dạy - học, giúp năng lực viết của học sinh dần được nâng cao. Tuy vậy, cần có cái nhìn đa dạng hơn trong việc luyện viết văn cho học sinh. Công việc này không phải chỉ bó buộc trong một vài tiết dạy, không thể chỉ là những bài tập
12
được giới hạn trong sách giáo khoa, mà rất cần thiết sự linh hoạt, rộng mở, biến việc dạy viết trở thành hoạt động tự nhiên, gần gũi, gây hứng thú, trở thành niềm thích thú đam mê. Biến việc học viết văn cực khổ, mệt mỏi, gò bó trở thành niềm vui, sự thú vị không chỉ trong không gian lớp học, đó quả là những cách thức cần nhận thức, áp dụng và triển khai. Chính vì lẽ đó thật cần thiết những giải pháp cụ thể, thiết thực nhằm nâng cao năng lực viết cho học sinh trường nội trú.
II. Một vài giải pháp góp phần phát triển năng lực viết cho học sinh
trường PTDTNT THPT số 2, Nghệ An.
1. Nguyên tắc đề xuất giải pháp
- Phải phù hợp xu thế thời đại và thực hiện theo chỉ đạo của các cấp, các
ngành về công tác dạy học phát triển năng lực.
(Thực hiện Nghị quyết 29 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục khẳng định đổi mới chương trình theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất của người học)
- Đảm bảo phù hợp tâm lí, tính cách, sở thích của học sinh THPT. Với lứa tuổi nào, các em khao khát khám phá, tìm tòi, mong muốn được sáng tạo, thể hiện. Các giải pháp phát triển năng lực viết cần dựa trên đặc điểm tâm lí và năng lực của học sinh để phát huy khả năng, sở thích, tạo sự lôi cuốn, sôi động cho các hoạt động. Qua đó mà hình thành năng lực dựa trên hứng thú, sở thích, nhu cầu từ bản thân.
- Đảm bảo tính hoạt động thực tiễn GD tại trường DTNT THPT số 2 . Các giải pháp được đề xuất cho việc tổ chức quá trình học tập được thực thi trong thực tiễn hoạt động trải nghiệm và tiến hành ở trường DTNT THPT số 2. Điều đó có nghĩa là các giải pháp phải đáp ứng mục tiêu đào tạo của nhà trường, giúp HS nắm kiến thức và kỹ năng thực hành tương ứng, có khả năng phát hiện, giải quyết những vấn đề cơ bản của GD ở trường THPT đặt ra. Các giải pháp phải phù hợp với điều kiện của nhà trường, đặc điểm tâm sinh lý của học sinh, đảm bảo tính hiện đại, thiết thực, hài hòa về nội dung, phương pháp, tạo điều kiện để người học hình thành và phát huy nhiều phẩm chất, năng lực quan trọng.
2. Một vài giải pháp cụ thể
2.1. Phát triển năng lực viết thông qua giờ học trên lớp.
2.1.1 Với các giờ học theo chương trình GDPT 2018
Môn Ngữ văn trong chương trình giáo dục phổ thông 2018 hướng đến phát triển triển toàn diện cho học sinh bao gồm các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe. Tuy theo cấu trúc bài kiểm tra của học sinh, phần viết chỉ chiếm số điểm 4/10 nhưng vai trò quan trọng của năng lực viết không vì thế mà giảm sút. Bởi năng lực viết không chỉ thể hiện ở cấu trúc phần Viết mà ngay ở phần Nói và Nghe cũng liên
13
quan chặt chẽ. Bởi để Nói và Nghe hiệu quả, người nói phải chuẩn bị các nội dung bằng cách Viết ra bài chuẩn bị của mình, bên cạnh đó người Nghe lại cần ghi chép nội dung đã nghe để chuẩn bị cho phần phản biện, thảo luận.
2.1.1.1. Thống kê các dạng bài viết cần học trong 3 bộ sách giáo khoa lớp
10 hiện hành
Trong chương trình Ngữ văn 10 bộ sách Kết nối tri thức hiện nay phần viết
thuộc các dạng sau:
- Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá tác phẩm truyện ( chủ đề, những
nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật; nhân vật trong tác phẩm truyện) (Bài 1 và bài 7) - Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ ( Bài 2) - Viết bài luận thuyết phục người khác từ bỏ một thói quen hay một quan
niệm (Bài 3) và viết bài luận về bản thân (Bài 9)
- Viết văn bản nghị luận về một vấn đề xã hội (Bài 6) - Viết báo cáo nghiên cứu về một vấn đề ( Bài 4 và bài 5) - Viết văn bản nội quy hoặc văn bản hướng dẫn nơi công cộng
Ở bộ sách Cánh Diều, phần viết thuộc các dạng:
- Viết bài văn nghị luận về một vấn đề xã hội ( Bài 1 và bài 5) - Viết báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề (Bài 2) - Viết bài luận thuyết phục người khác từ bỏ một thói quan hay một quan
niệm (Bài 3), Viết bài luận về bản thân (Bài 4)
- Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện (Bài 6); phân tích , đánh giá một tác phẩm thơ (Bài 7) và phân tích, đánh giá một tác phẩm văn học ( Bài 8)
Ở bộ sách Chân Trời Sáng Tạo, phần viết thuộc các dạng:
- Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một truyện kể (Bài 1) - Viết văn bản nghị luận phân tích đánh giá một bài thơ ( Bài 3) - Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm trữ tình (Bài 6) - Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của một
tác phẩm tự sự hoặc tác phẩm kịch (Bài 8)
- Viết văn bản nghị luận về một vấn đề xã hội ( Bài 2) - Viết bài luận thuyết phục người khác từ bỏ một thói quen hay một quan
niệm (Bài 7), Viết bài luận về bản thân (Bài 9)
- Viết báo cáo nghiên cứu có sử dụng trích dẫn, cước chú ( Bài 4) - Viết một văn bản nội quy hướng dẫn nơi công cộng ( Bài 5)
Ngoài các dạng bài viết nêu trên, ở mỗi bài sẽ có hoạt động kết nối đọc – viết
yêu cầu học sinh viết đoạn văn về một vấn đề cụ thể lien quan đến bài đọc.
Nhìn chung ở cả 3 bộ sách đang hướng đến rèn kĩ năng viết cho người học biết cách viết các loại văn nghị luận (Văn học và xã hội), bài luận và một số kiểu
14
văn bản thông tin, nghiên cứu khoa học… phù hợp xu hướng thời đại và xu hướng chọn nghề nghiệp của các em sau này.
2.1.1.2. Giải pháp phát triển năng lực viết cho học sinh trong chương trình
2018
a. Mục đích
Nhìn trong tổng thể, kĩ năng viết có mối liên hệ chặt chẽ với các kĩ năng còn lại. Phát triển năng lực viết cho học sinh sẽ phát huy được năng lực đọc và năng lực nói và nghe. Để viết một bài văn tốt, ngoài năng lực ngôn ngữ, học sinh phải biết vận dụng tri thức đã học ở phần đọc. Đọc hiểu thấu đáo các văn bản, học sinh sẽ có cơ sở để viết. Khi học sinh viết tốt thì khả năng thuyết trình về một vấn đề nào đó trước đám đông của học sinh sẽ hiệu quả, thuyết phục bởi trước khi nói các em phải chuẩn bị bằng bài viết.
b. Cách thức thực hiện
Hiện tại, trường PT DTNT THPT Số 2 đang sử dụng bộ sách Kết nối tri thức nên trong khuôn khổ đề tài, chúng tôi đóng góp một số giải pháp để phát triển năng lực viết của học sinh trong bộ sách này. Tất cả các bài viết trong sách giáo khoa, nhà biên soạn đã hướng dẫn kĩ cho học sinh từng bước để viết một văn bản theo yêu cầu. Chúng tôi chỉ hướng đến cách thức mà chúng tôi đang thực hiện nhằm phát triển năng lực viết cho học sinh ở các dạng bài.
- Bám sát sách giáo khoa, nắm vững các bước làm văn
Vào các giờ học chính khóa trên lớp, giáo viên yêu cầu học sinh đọc kĩ và phân tích văn bản tham khảo, bám vào hướng dẫn của sách giáo khoa trình bày để nắm được một cách chi tiết, cụ thể các bước từ yêu cầu đến chuẩn bị viết; tìm ý và lập dàn ý; viết và chỉnh sửa hoàn thiện bài viết. Sau khi học sinh nắm vững cách làm bài, giáo viên cung cấp ngữ liệu là văn bản thơ/ đoạn thơ hoặc truyện/đoạn truyện ngoài sách giáo khoa đối với dạng viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm truyên/thơ để học sinh áp dụng. Còn đối với các dạng viết khác thì giáo viên cho học sinh viết bài theo từng dạng đề phù hợp với từng thể loại Các em sẽ vận dụng kiến thức vừa học trong phần tri thức ngữ văn và đọc các văn bản để làm bài. Do thời lượng thời gian ở trên lớp không đủ để viết một bài hoàn chỉnh, do đó giáo viên yêu cầu các em đọc kĩ ngữ liệu, tự xác định các tín hiệu, yếu tố cần có để lập dàn ý bài.
- Tăng cường luyện tập thực hành vào các giờ học buổi chiều
Vào các giờ học buổi chiều, giáo viên cho học sinh trao đổi, thảo luận để tự đưa ra một dàn ý hợp lí nhất. Các em cùng nhau bàn bạc phân tích dựa trên tri thức về thể loại đã học. Dàn ý đó phải do học sinh xây dựng, giáo viên chỉ là người hướng dẫn, định hướng. Do các lớp 10 thời gian đầu mới vào trường, kĩ năng viết còn non, nên giáo viên sẽ phải hướng dẫn viết từng phần như mở bài, triển khai đoạn (Như phần hướng dẫn học sinh trong giờ học chương trình GDPT 2006). Với
15
các em học sinh còn non, giáo viên không được vội vàng mà phải từ từ hướng dẫn các em áp dụng từng cách một.
- Phát huy lợi thế nội trú bằng cách phân nhóm luyện viết theo nội dung cho
sẵn.
Vào các giờ tự học vào buổi tối, học sinh dành thời gian nghiên cứu tham khảo thêm các tài liệu để hoàn chỉnh bài viết. Các em trao đổi với nhau theo nhóm nhỏ để đưa ra các ý tưởng bài viết dựa theo dàn ý đã xây dựng từ giờ học buổi chiều. Sau khi trao đổi với nhau, cá nhân mỗi em sẽ áp dụng kiến thức giáo viên hướng dẫn viết kết hợp với tài liệu tham khảo để hoàn thiện bài viết của mình.
- Linh hoạt trong kiểm tra đánh giá bài làm để học sinh nhận ra cụ thể nhất
ưu điểm, nhược điểm của bài viết
Toàn bộ bài viết của các em yêu cầu giáo viên phải đọc và chỉnh sửa cụ thể, chi tiết từng bài. Một vài bài đầu giáo viên chấm dựa trên các tiêu chí, nhận xét, chỉnh sửa ý, lời…. cho các em. Khi học sinh dần quen với cách nhận xét, chỉnh sửa bài của mình, giáo viên giao cho các em nhiệm vụ mới là chấm chéo, tức học sinh tự chấm bài của nhau.
Mục đích của việc chấm chéo là luyện kĩ năng đọc hiểu, phân tích đánh giá một sản phẩm, từ đó rút ra kinh nghiệm kĩ năng cho mình. Với cách làm này, giáo viên phải chấp nhận vất vả hơn là vừa chấm bài viết vừa chấm bài nhận xét. Giáo viên yêu cầu lớp trưởng phân công danh sách chấm chéo, và danh sách này sẽ thay đổi theo tuần để các học sinh có cơ hội được đọc bài của nhiều bạn hơn. Các em sẽ chấm và nhận xét bài của bạn bằng màu mực tím để không trùng với nhận xét chung bằng mực đỏ của giáo viên.
Người chấm cuối cùng là giáo viên. Giáo viên sẽ phải chấm toàn bộ bài của học sinh, nhận xét, sửa lỗi cả bài viết lẫn phần chấm của học sinh. Khi chấm, giáo viên phải nhận xét rất tỉ mỉ, cụ thể để học sinh biết lỗi sai của mình mà khắc phục. Khi nhận xét, ngoài dựa vào bảng kiểm để đưa ra những cái làm được và chưa được của bài viết thì giáo viên vẫn phải trên cơ sở động viên, khích lệ học làm tốt hơn. Giáo viên phải đưa ra các lời nhận xét theo chiều hướng tích cực khiến học sinh phát hiện ra điểm mạnh của mình để tiếp tục phát huy, nhận ra hạn chế nhưng vẫn vui vẻ nhận để khắc phục.
Sau khi chấm xong, giáo viên trả bài, có nhận xét chung và có lời khen đến một số bài viết và bài chấm xuất sắc, động viên những bài chưa thật tốt lần sau viết tốt hơn. Còn đối với dạng bài viết văn bản nội quy hoặc văn bản hướng dẫn nơi công cộng, giáo viên sẽ chọn một số bài chụp và trình chiếu cho cả lớp cùng xem và nhận xét, đánh giá.
c. Kết quả
Ở những bài viết đầu học sinh còn chưa quen nên khá vất vả cho giáo viên. Các em nhận xét, sửa… theo suy nghĩ của các em nên có những bài giáo viên sẽ
16
phải sửa, điều chỉnh cả hai. Nhưng sau một thời gian các em đã quen dần nên người viết cũng ít mắc lỗi hơn và người chấm là học sinh cũng biết bám vào các bảng kiểm để nhận xét nên giáo viên dễ theo dõi hơn. Với một học sinh lớp 10, giáo viên không được đòi hỏi sự hoàn mĩ ở cả người viết lẫn người chấm. Các em còn sai sót ở cách dùng từ đặt câu, ở cách triển khai, ở lỗi diễn đạt…. các em sẽ sửa dần với sự dẫn dắt của người dạy qua các bài viết sau.
Sau gần một năm học áp dụng cách luyện viết như thế này, khi học những bài viết, học sinh đã phát hiện vấn đề khá nhanh, năng lực viết được nâng lên, cộng thêm khả năng nhận xét, phân tích, đánh giá cũng được nâng lên.
(Phụ lục 2)
2.1.2. Với các giờ học theo chương trình GDPT 2006
2.1.2.1. Phát triển năng lực viết bài văn nghị luận
a. Rèn luyện phương pháp mở bài gián tiếp
- Mục đích:
Một bài văn nghị luận hay không chỉ thu hút mọi người ở những lí lẽ, lập luận, dẫn chứng mà còn tạo ấn tượng cho người đọc ở giọng điệu, và phần đặt vấn đề thường là phần quan trọng nhất tạo nên giọng điệu, cá tính người viết.
Mở bài hay không chỉ lôi cuốn người đọc mà còn khơi gợi chính cảm xúc của
người viết đối với vấn đề cần nghị luận.
Vì thế, luyện viết mở bài là nội dung đầu tiên cần quan tâm trong việc phát
triển năng lực viết văn nghị luận cho học sinh.
- Cách thức thực hiện
+ Thứ nhất: giáo viên ôn tập lại những yêu cầu của phần mở bài. Các yêu cầu
đó bao gồm:
Ngắn gọn: Mở bài hay còn gọi là phần đặt vấn đề cần ngắn gọn để tránh cảm giác nhàm chán cho người đọc. Mở bài ngắn gọn là ngắn về số lượng câu và nội dung thể hiện, số lượng câu chỉ cần khoảng 4 - 6 câu, nội dung chỉ cần sự tóm tắt ngắn gọn. Hãy viết mở bài là sự tóm tắt, khơi nguồn nội dung ít để người đọc cảm nhận được sự tò mò và đi chinh phục nội dung tiếp theo ở phần thân bài
Đầy đủ: Nêu được vấn đề, câu nói dẫn dắt, ngắn nhưng đầy đủ ý mới quan trọng, vấn đề chính cũng như nội dung quan trọng bắt buộc phải nhắc đến phần mở bài.
Độc đáo: Mở bài phải được sự chú ý cho người đọc về vấn đề cần viết bằng những liên tưởng khác lạ, tưởng tượng phong phú trong các bài văn miêu tả, kể tạo sự thu hút bất ngờ cho người đọc. Sự độc đáo trong mở bài khiến bài viết của các bạn trở nên nổi bật và nhận được sự chú ý và theo dõi của mọi người về chất lượng bài văn. Mở bài cần linh hoạt sử dụng các hình thức mới lạ để gây ấn tượng mạnh mẽ tới người đọc
17
Tự nhiên: Dùng ngôn từ giản dị, mộc mạc trong cách viết bài, đặc biệt thể
hiện ở phần mở bài là cần thiết để có một mở bài hay.
+ Thứ hai: Giáo viên ôn tập lại các cách mở bài gián tiếp và gợi ý một số mở
bài minh họa.
+ So sánh
So sánh là cách đối chiếu hai hoặc nhiều đối tượng với nhau ở phương diện giống nhau, khác nhau hoặc cả hai. Cách mở bài so sánh gây thích thú cho người đọc vì nó chứng tỏ người viết có kiến thức văn học phong phú. Có nhiều cách làm phần mở bài theo dạng so sánh. Tác phẩm thì có tác giả, đề tài, chủ đề, nội dung, cảm hứng, thể loại, giai đoạn, giá trị, nhân vật… nên người viết có thể đối chiếu điểm giống nhau, khác nhau hoặc vừa giống vừa khác của một trong các vấn đề đó.
Đưa ra mở bài tham khảo :
Nếu như đến với Xuân Diệu, chúng ta sẽ được tận hưởng vẻ đẹp của cuộc sống trần thế như một thiên đường trên mặt đất và niềm yêu đời, khát sống đến vồ vập thì đến với Huy Cận bạn đọc sẽ thấy được “ những chút buồn rơi rắc đã kết thành bao nhiêu châu ngọc.” Tất cả những tác phẩm của Huy Cận trước khi ông tham gia cách mạng để mang nỗi buồn, ảo não, một trong những tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ đó là bài thơ Tràng giang.
+ Đi từ đề tài
Bất kì tác phẩm văn học nào cũng thuộc một đề tài nào đó. Hiểu điều này, cùng với kiến thức lí luận văn học “Đề tài là phạm vi hiện thực được phản ánh trong tác phẩm”, người viết nghị luận văn học sẽ dễ dàng giới thiệu vấn đề một cách rành mạch. Các nhà văn viết về mùa thu thì đề tài là mùa thu; viết về tình bạn, tình yêu, tình cảm gia đình thì đó cũng là đề tài.
Đưa ra mở bài tham khảo: Áp dụng cho Truyện Kiều, Chiếc Thuyền Ngoài Xa,
Vợ Chồng A Phủ.
Chúng ta đã gặp không ít những số phận người phụ nữ bi thương trong các tác phẩm văn học Việt Nam, đó là một nàng Vũ Nương oan khuất, một nàng Kiều bi kịch, một Chị Dậu tủi hờn… Nhưng khi tiếp cận với dòng văn học cách mạng, vẫn những người phụ nữ ngày xưa ấy lại trỗi dậy mạnh mẽ đứng dậy làm chủ đời mình. Một trong những nhân vật văn học nữ tiêu biêu biểu là nhân vật…. của nhà văn/ nhà thơ…
+ Đi từ giai đoạn
Mỗi thời kì lịch sử, giai đoạn lịch sử lại có những bối cảnh xã hội khác nhau ảnh hưởng ít nhiều trực tiếp hoặc gián tiếp đến giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Đi từ giai đoạn, thời kì văn học sẽ gắn hiện thực đời sống với nhà văn - tác phẩm - bạn đọc. Cách mở bài này dành cho những học sinh kiểu “triết học gia” ham tìm tòi, ưa lí luận nhờ đó dễ tạo điểm nhấn cho bài văn.
18
Đưa ra mở bài tham khảo: (Mở bài như thế này chỉ áp dụng với các bài văn
viết về chiến tranh, người lính, ví dụ: Tây Tiến, …)
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đã góp thêm những trang vàng vào lịch sử dân tộc. Đã có rất nhiều văn nghệ sẽ đã có được cảm hứng sáng tác từ đề tài này. Chính vì vậy đây cũng là giai đoạn văn học có nhiều thành công góp phần làm rạng rỡ nền văn học nước nhà.”….” Của nhà văn/ nhà thơ ……… là một trong những đóng góp như vậy. Hình ảnh của những người lính quả cảm, kiên cường, ngày đêm chiến đấu bảo vệ đất nước/ Nhân vật chính trong tác phẩm (tên) …đã thật sự để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc
+ Đi từ thể loại
Không có tác phẩm nào không thuộc một thể loại chính nào đó. Mỗi thể loại văn học lại có những đặc trưng riêng. Người viết dựa vào đặc trưng thể loại để giải mã nghệ thuật trong tác phẩm.
+ Trích dẫn một câu nói, một câu thơ hoặc từ một triết lí cuộc sống.
Đây là dạng mở bài dễ gây ấn tượng sâu sắc đối với người đọc, thể hiện tầm hiểu biết rộng. Để viết được mở bài dạng này cần sử dụng các câu nói, câu châm ngôn, câu thơ liên quan đến đề bài và vận dụng, dẫn dắt nó hướng tới vấn đề cần nghị luận.
Mở bài tham khảo: Đại thi hào Nga M. Goocki cho rằng “Văn học là nhân học” Còn Nam Cao nhà văn hiện thực xuất sắc của chúng ta quan niệm: “một tác phẩm văn học có giá trị phải vượt lên mọi bờ cõi và giới hạn ca ngợi tình thương bác ái, sự công bình… làm cho người gần người hơn do tác phẩm văn học là sản phẩm tinh thần của con người do con người tạo ra để phục vụ con người. Vì thế nhà văn chân chính đồng thời phải là nhà nhân đạt “từ trong cốt tủy”. Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài và Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu là những tác phẩm thành công với tinh thần vì con người, đặc biệt là người phụ nữ.
- Kết quả thực hiện:
+ 100% HS đều biết cách viết mở bài đúng trọng tâm của đề.
+ 60% HS viết được mở bài hay, đặc sắc, tạo ấn tượng sâu sắc cho người đọc.
b. Hướng dẫn học sinh cách triển khai luận điểm trong văn nghị luận.
- Mục đích: Luận điểm có vai trò quan trọng và ý nghĩa lớn, nó được coi như là xương sống của việc lập luân. Bởi vì, không chỉ trong văn nghị luận mà bình thường trong tranh luận cũng cần phải quan tâm đến luận điểm là gì, và đưa ra luận cứ như thế nào. Để bài văn trở nên hấp dẫn và cuốn hút những luận điểm phải thực sự sắc bén và có tính chắc chắn cao. Đồng thời cũng cần có “sức nặng” để khi đọc vào người khác thấy bản thân bị thuyết phục bởi luận điểm này. Hướng dẫn Hs triển khai luận điểm là bước trọng tâm nhất trong quá trình hướng dẫn HS làm bài văn nghị luận giúp HS có thể xác định được cách triển khai vấn đề, đi đúng trọng
19
tâm của đề, tránh lan man. Giúp HS hình thành được những luận điểm đảm bảo tính đúng đắn, bao quát, đặt ra các câu hỏi cần tranh luận và trả lời thuyết phục cho những câu hỏi đó. Bên cạnh đó là phản biện về những lập luận đối lập và những phần chưa làm rõ trong lập luận của bản thân.......
- Cách thực hiện:
Đầu tiên giáo viên cung cấp cho học sinh khái niệm, vai trò, cách nhận diện
luận điểm trong các văn bản nghị luận:
+ Khái niệm: Luận điểm được hiểu là những quan điểm, tư tưởng, là lập luận chính để làm nổi bật một vấn đề nào đó đang được nhắc đến trong một bối cảnh cụ thể, hoặc là trong một bài văn nghị luận. Luận điểm là gì được biết đến là những ý kiến cơ sở, là nền tảng giúp triển khai quan điểm của bản thân để truyền đạt lại cho những người xung quanh.
+ Vai trò của luận điểm: Luận điểm có vai trò quan trọng và ý nghĩa lớn, nó được coi như là xương sống của việc lập luân. Bởi vì, không chỉ trong văn nghị luận mà bình thường trong tranh luận cũng cần phải quan tâm đến luận điểm là gì, và đưa ra luận cứ như thế nào. Để bài văn trở nên hấp dẫn và cuốn hút những luận điểm phải thực sự sắc bén và có tính chắc chắn cao. Đồng thời cũng cần có “sức nặng” để khi đọc vào người khác thấy bản thân bị thuyết phục bởi luận điểm này.
+ Cách nhận biết luận điểm
. Dựa vào các dữ liệu có sẵn trong đề bài (ví dụ như: những thông tin, những
luận cứ, dẫn chứng trong bài được nêu ra)
. Dựa vào cách đặt các câu hỏi (Để nhận diện được đâu là luận điểm hãy chú
ý cách chúng ta đặt câu hỏi liên quan và xoay quanh chủ đề bài văn)
. Dựa vào cách thức nghị luận (Phương thức nghị luận cũng là yếu tố để giúp
chúng ta biết được khoảng vị trí mà luận điểm chính được đặt trong bài)
Tiếp đến, giáo viên hướng dẫn học sinh cách xây dựng luận điểm trên các đề
văn cho sẵn.
Đối với học sinh miền núi, đây là một trong những thao tác không mấy thành thạo, bởi kiến thức nền tảng về bộ môn ở các em không được vững, nhất là ở phân môn làm văn. Bởi thế giúp các em xây dựng luẩn điểm cần đi một cách tuần tự, từ từ, kiên trì và cần xuất phát từ ví dụ cụ thể.
Ví dụ: Phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Chiều tối (Hồ Chí Minh).
Đối với đề trên, cần xác định các luận điểm và triển khai theo hướng sau:
Luận điểm 1: Vẻ đẹp cổ điển
Luận điểm 2: Vẻ đẹp hiện đại
Luận điểm 3: Đánh giá
20
Cuối cùng, giáo viên tổ chức cho học sinh thực hành luyện tập theo nhiều
hình thức khác nhau:
. Ra bài tập về nhà
. Ra bài tập nhóm : Mỗi nhóm có 5 học sinh, trong đó 2 bạn khá và 3 bạn
trung bình, yếu về môn học để cùng thực hiện bài tập.
. Tăng cường luyện tập xây dựng luận điểm vào các tiết dạy buổi chiều.
- Kết quả đạt được:
Hầu hết tất cả HS đều có thể xác định được các luận điểm trong bài văn nghị luận và triển khai luận điểm đó rõ ràng, hợp lí, khoa học. HS biết cách triển khai bài làm của mình theo hệ thống luận điểm. Bài viết của học sinh đảm bảo được lập luận chặt chẽ, logic, tính rõ ràng, mạch lạc.
c. Cách liên kết đoạn văn
- Mục đích: Giúp học sinh có kĩ năng để khi tạo lập văn biết biết cách liên kết các đoạn văn với nhau sao cho phù hợp, tập trung làm rõ chủ đề. Để làm được điều đó, khi dạy học, giáo viên lưu ý cho học sinh mấy vấn đề sau:
+ Sự liên kết giữa các đoạn với nhau sẽ tạo thành một bài văn hoàn chỉnh về mặt bố cục của văn bản. Các đoạn ngắn trở nên liền mạch về ý nghĩa và hoàn chỉnh về hình thức.
+ Một bài văn cho dù có nhiều chữ, sử dụng đúng ngữ pháp, bố cục trong văn bản, các biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa… nhưng thiếu sự liên kết về nội dung và không liền mạch thì bài văn đó không mang nhiều ý nghĩa.
+ Giúp người đọc hiểu và cảm nhận toàn bộ bài văn mà tác giả đã viết.
+ Có thể mở rộng nội dung, nhân vật và câu chuyện khi sử dụng hợp lí các
cách liên kết đoạn.
- Cách thực hiện:
Đầu tiên, giáo viên hướng dẫn HS ôn tập về các phép liên kết (phép liên kết
nội dung và phép liên kết hình thức):
+ Liên kết về nội dung:
Liên kết chủ đề: Hướng dẫn HS viết các câu phải phục vụ chủ đề chung của
đoạn văn, các đoạn văn phải thể hiện được chủ đề chung của toàn văn bản
Liên kết logic: Hướng dẫn HS viết các câu trong đoạn văn và các đoạn văn
trong văn bản phải được sắp xếp theo một trình tự hợp lí
+ Liên kết hình thức:
Phép lặp từ ngữ: Hướng dẫn HS sử dụng từ ngữ đã có ở câu trước lặp lại ở
câu phía sau:
21
Phép đồng nghĩa, trái nghĩa và liên tưởng: Sử dụng ở câu đứng sau các từ ngữ
đồng nghĩa, trái nghĩa hoặc cùng trường liên tưởng với từ ngữ đã có ở câu trước.
Phép thế: Sử dụng ở câu đứng sau các từ ngữ có tác dụng thay thế từ ngữ đã
có ở câu trước.
Phép nối: Sử dụng ở câu đứng sau các từ ngữ biểu thị quan hệ với câu trước.
Tiếp theo, giáo viên tổ chức luyện tập thực hành viết các đoạn văn trong dàn ý
cho sẵn.
Cuối cùng, giáo viên cho học sinh thực hành viết bài văn hoàn chỉnh trong đó
chú trọng đánh giá phần liên kết câu, đoạn trong bài.
- Kết quả thực hiện:
Sau một thời gian chú trọng luyện tập phần liên kết câu, liên kết đoạn, văn bản, tất cả học sinh đã nhận diện được phép liên kết, hầu hết các em chú ý tới tính liên kết khi thực hành viết văn. Phần lớn học sinh đã thực hành khá tốt các phép liên kết trong bài làm. Nhiều em sử dụng nhuần nhuyễn phép liên kết đem lại hiệu quả cao cho nội dung diễn đạt.
d. Hướng dẫn học sinh cách lựa chọn bằng chứng trong văn nghị luận
- Mục đích: Một bài văn nghị luận không thể thiếu các dẫn chứng, tuy nhiên không phải dẫn chứng nào cũng có thể đưa vào bài viết. Do vậy, khi dạy học, giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh lựa chọn dẫn chứng. Mục đích là giúp học sinh biết cách lựa chọn và đưa dẫn chứng vào bài viết sao cho phù hợp và thuyết phục.
- Cách thực hiện:
Trước hết, giáo viên cùng học sinh đọc một số bài nghị luận xã hội xuất sắc, rồi cùng điểm lại những bằng chứng các bài văn đã sử dụng. Từ thực tế các bài làm đó, giáo viên phân tích kĩ các yêu cầu của việc trích dẫn bằng chứng trong văn nghị luận
Thứ nhất hướng dẫn học sinh chọn lọc bằng chứng đảm bảo sự chính xác. Sức thuyết phục của đề văn nghị luận xã hội được tạo nên bởi lí lẽ sắc bén và dẫn chứng xác thực, vậy nên khi chọn dẫn chứng cần lựa chọn những dẫn chứng thực tế ngoài cuộc sống để bài văn có sức thuyết phục cao
Thứ hai, hướng dẫn học sinh khi đưa dẫn chứng đảm bảo yếu tố cần và đủ. Bài văn nghị luận cần có nhiều hơn một dẫn chứng. Lấy quá ít dẫn chứng thì vấn đề nghị luận sẽ không được làm sáng tỏ. Bên cạnh những dẫn chứng mang tính chất bản lề và bắt buộc, người viết cần liên hệ thêm những dẫn chứng để có sự liên hệ, so sánh. Tuy nhiên, nếu đưa quá nhiều dẫn chứng vào bài sẽ khiến bài văn nghị luận bị loãng. Bởi vậy, khi đưa dẫn chứng vào bài cần lưu ý yếu tố cần và đủ, không thiếu dẫn chứng nhưng cũng không có quá nhiều dẫn chứng. Việc đưa dẫn
22
chứng tùy thuộc vào việc có bao nhiêu vấn đề được nêu ra trong luận điểm. Thông thường, với mỗi một lí lẽ, người viết cần đưa ra ít nhất một dẫn chứng đi kèm
Thứ ba, hướng dẫn học sinh khi đưa dẫn chứng vào bài văn nghị luận phải đảm bảo tính điển hình, tiêu biểu. Ngoài việc đưa dẫn chứng phong phú, người viết còn cần biết chọn lọc dẫn chứng, ưu tiên những dẫn chứng điển hình và tiêu biểu. Thông thường, học sinh thường chọn những dẫn chứng quen thuộc. Chẳng hạn như khi bàn luận về vấn đề “Nghị lực sống vượt lên trên hoàn cảnh”, học sinh thường lấy những dẫn chứng về thầy giáo Nguyễn Ngọc Kí kiên trì luyện viết chữ bằng chân. Hay Mạc Đĩnh Chi bắt đom đóm cho vào vỏ trứng, lấy ánh sáng học bài. Rõ ràng, những dẫn chứng này đều đúng. Nhưng vì đã quá quen thuộc nên sẽ không tạo ra được tính hấp dẫn cho bài văn. Người viết nên sử dụng những dẫn chứng mới mẻ hơn. Chẳng hạn như câu chuyện về Nic Vujicic- tấm gương vượt khó, dù sinh ra không có tay chân nhưng vẫn mạnh mẽ vượt lên để trở thành diễn giả nổi tiếng. Dẫn chứng này sẽ truyền thêm cảm hứng cho rất nhiều người. Như vậy, chúng ta nên chọn lọc những dẫn chứng mới mẻ thông qua việc thường xuyên tìm hiểu và cập nhật các thông tin về đời sống văn hóa- xã hội.
Thứ tư, khi đưa dẫn chứng vào bài văn nghị luận phải kết hợp với việc phân tích dẫn chứng. Khi đưa dẫn chứng vào bài, cần kết hợp với việc phân tích, đánh giá dẫn chứng. Thao tác này sẽ khiến cho dẫn chứng phát huy hết vai trò, hiệu quả. Nếu không phân tích, đánh giá, bài văn sẽ trở nên hời hợt, sáo rỗng. Không sâu sắc và đủ sức tác động đến người đọc. Để làm được điều này, người viết cần hiểu đúng, đánh giá đúng và cảm thụ đúng về giá trị của dẫn chứng.
Thứ năm, khi đưa dẫn chứng trong văn nghị luận cần đảm bảo tính logic và hệ thống. Khi đưa dẫn chứng trong văn nghị luận, người viết cần đảm bảo tính hệ thống. Nghĩa là các dẫn chứng phải được sắp xếp theo một trình tự, quy luật nhất định. Ví dụ như việc sắp xếp dẫn chứng theo trục thời gian tuyến tính (từ lịch sử, quá khứ đến thời điểm hiện tại). Hoặc theo chiều không gian (từ rộng đến hẹp, từ xa đến gần,…. hoặc ngược lại). Tính hệ thống sẽ giúp cho người viết tránh được tình trạng đưa dẫn chứng một cách tràn lan và mất kiểm soát.
Sau khi phân tích kĩ các yêu cầu của việc đưa dẫn chứng, giáo viên tổ chức lớp theo nhóm tìm các bằng chứng tiêu biểu từ thực tế đời sống, phân theo các tư tưởng đạo lí thường có trong đề ra: Nhóm tìm dẫn chứng về ý chí năng lực, nhóm tìm dẫn chứng về kiên trì, nhóm tìm dẫn chứng về dũng cảm….
- Kết quả đạt được: Vẫn còn có một số bài làm đưa quá nhiều dẫn chứng làm cho bài viết bị loãng, không trọng tâm nhưng hầu hết HS biết cách chọn và đưa dẫn chứng vào bài hợp lí. Những dẫn chứng được đưa vào bài làm là những dẫn chứng tiêu biểu, có cơ sở thực tiễn tạo được chiều sâu cho bài viết. HS biết đánh giá, bình luận về dẫn chứng đưa ra thể hiện được năng lực phân tích và giải quyết vấn đề trong khi làm bài văn NLXH
23
e. Hướng dẫn học sinh cách đưa lí luận văn học khi viết bài nghị luận văn học.
- Mục đích: Lí luận văn học là phần kiến thức bàn luận về các vấn đề, tính đặc trưng của văn học có ảnh hưởng hay tác động như thế nào đến con người, đời sống xã hội...Việc vận dụng lí luận văn học, đánh giá, bình luận khi viết bài thể hiện được năng lực cũng như cách nhìn của người viết về các khía cạnh của văn học. Đồng thời bài làm thể hiện được toàn diện các mặt về vấn đề cần nghị luận cũng như chính kiến của người viết.
- Cách thức thực hiện:
+ Đầu tiên, giáo viên giới thiệu cho học sinh các cách đưa lí luận văn học vào
bài làm:
Ngay từ mở bài mọi người đã có thể vận dụng lí luận được. Nên đưa ra những vấn đề về nền văn học nước nhà, hay hiện thực sáng tạo, tình cảm nhà văn, chức năng của văn học...
Ví dụ: "Nhà thơ xứ Daghestan - Raxun Gamzatov đã từng viết với lòng biết ơn "Thơ ca nếu không có người tôi đã mồ côi". Thơ ca đã ra đời và song hành với nhân loại, như một phương tiện đắc lực và đầy xúc cảm, giúp con người bày tỏ nỗi niềm và đi sâu khám phá thế giới nội tâm sâu kín, bí hiểm. Tôi chợt nhớ thi sĩ Xuân Quỳnh và bồi hồi hình dung nhà thơ ấy sẽ cô đơn biết bao nếu không thể trao gửi tâm tình vào nghệ thuật. Bài thơ "Sóng" là tất cả nỗi niềm của nội tâm sâu kín ấy. Là sóng biển, sóng lòng mà người con gái miền La Khê đã tha thiết gửi trao trong từng dòng, từng chữ...
Khi vào đến thân bài thì trước khi phân tích tác phẩm theo yêu cầu của đề bài thì mọi người cũng có thể sử dụng lí luận để tránh đi việc nêu ra hoàn cảnh ra đời một cách khô cứng, tạo chiều sâu cho bài viết.
Ví dụ: Mỗi tác phẩm nghệ thuật phải thực sự là "tiếng sáo thổi lòng thời đại, thành giao liên dẫn dắt đưa đường". Dường như ý thức rõ về điều này, nhà văn Tô Hoài trong những ngày tháng sống ở Tây Bắc đã viết nên "Vợ chồng A Phủ". Áng văn là "tiếng sáo", là "giao liên" dẫn ta tới hiện thực cuộc sống lặng im Tây Bắc và cho chúng ta thấy những khát khao đẹp đẽ về tự do và hạnh phúc của con người.
Khi viết về tác giả bài viết cần sử dụng kiến thức về quan niệm nghệ thuật của
các tác giả để bài viết có chiều sâu và phong phú hơn.
Ví dụ: Nguyễn Tuân từng muốn mỗi ngày đều có "cái say của rượu tân hôn", kì vọng mỗi trang đời là một trang nghệ thuật. Luôn luôn đổi mới cảm giác, nhận thức cũng như phương châm cảm thụ cái đẹp, ông coi đời là những “trang hoa” luôn mở dưới ánh sáng nghệ thuật mới. Và chuyến đi Tây Bắc của nhà văn sau Cách mạng là một "trang hoa" như thế. Để từ đây vẻ đẹp thiên nhiên và con người
24
được mở ra " dưới ánh sáng nghệ thuật" của "Người lái đò Sông Đà"... (diễn tiếp để vào phân tích)
Khi phân tích câu thơ, câu văn để làm rõ luận điểm đều có thể dùng lí luận văn học được. Ví dụ: Phân tích đoạn thơ của Việt Bắc "Những đường Việt Bắc của ta...", ta phân tích hình ảnh, nhạc tính của câu thơ, sau đó mở rộng "Đọc những dòng thơ ấy tôi thấy bồi hồi xao xuyến và nhớ lại sinh thời Huy Cận ngợi ca:
"Yêu thơ thơ kể lại hồn ông cha
Đời bao tâm sự thiết tha
Nằm trong tiếng nói lòng ta thuở nào"
+ Tiếp theo, giáo viên giới thiệu cho học sinh cách đánh giá, bình luận trong
quá trình viết bài.
Có thể khi đưa ra các dẫn chứng, chứng minh kèm theo bình luận đề làm rõ
hơn dẫn chứng mình đưa ra:
Ví dụ: Cảm nhận khổ hai trong bài thơ Vội vàng (Xuân Diệu)
HS có thể trích các dẫn chứng khác để so sánh làm rõ vấn đề:
Nổi bật lên trong đoạn thơ là tình yêu cuộc sống và điều này thể hiện rõ trong
rất nhiều tác phẩm của nhà thơ Xuân Diệu:
“Không muốn đi mãi mãi ở vườn trần
Chân hóa rễ hút mùa dưới đất”
(Thanh niên, Xuân Diệu)
Tình yêu cuộc sống đến tha thiết thể hiện rõ trong hai câu thơ trên. Đó là lời tiếp nối về cái nhìn đối với cuộc sống sau bức tranh thiên nhiên tràn đầy sức sống trong bài thơ Vội vàng
Đưa ra đánh giá, bình luận sau khi chứng minh vấn đề nghị luận ở phần gần
cuối của bài viết. Cần đánh giá lại các khía cạnh của vấn đề cần nghị luận.
Ví dụ:
Đề bài: Cảm xúc của nhân vật trữ tình trong bài thơ Từ ấy (Tố Hữu)
Sau khi chứng minh vấn đề, HS cần đưa ra các đánh giá các vấn đề sau: nghệ thuật của bài thơ, vai trò, vị trí của bài thơ trong sự nghiệp, phong cách sáng tác của nhà thơ, khẳng định lại giá trị của bài thơ đối với nền văn học, tên tuổi của tác giả .
HS có thể vận dụng các nhận định của những nhà phê bình để đưa vào làm
đánh giá cho bài làm của mình:
25
Ví dụ: Khi viết các bài văn liên quan đến nhà thơ Huy Cận, HS có thể sử dụng các đánh giá của nhà phê bình Hoài Thanh: “Huy Cận đi lượm lặt những chút buồn rơi rớt để sáng tạo nên những vần thơ ảo não”; “Người đời sẽ ngạc nhiên vì không ngờ với một ít cát bụi tầm thường, thi nhân lại có thể đúc thành bao nhiêu châu ngọc”.
+ Cuối cùng, sau khi nắm vững cách làm, học sinh tiến hành luyện viết qua một số đề văn cụ thể. Giáo viên chấm bài, nhận xét, chữa lỗi, bổ sung. Yêu cầu học sinh trao đổi bài làm tốt cho nhau để cùng học hỏi.
- Kết quả đạt được: Mặc dù có nhiều HS còn lủng củng trong cách đánh giá, bình luận và đưa lí luận văn học vào trong bài làm nhưng hầu hết HS đều hiểu được tầm quan trọng của kĩ năng này và bắt đầu biết cách rút ra kinh nghiệm trong quá trình làm bài. Từ đầu lớp 10 với những bài viết thiếu chiều sâu, sau khi được rèn luyện rất nhiều HS đã thành thạo trong kĩ năng này ở các lớp 11, 12.
(Phụ lục 3)
2.1.2.2. Giúp học sinh hình thành năng lực viết văn bản hành chính phục
vụ đời sống.
a. Mục đích
Tất cả các môn học đều hướng đến việc giúp HS vận dụng kiến thức phục vụ đời sống thực tế, môn Ngữ văn cũng không ngoại lệ. Hiểu được nhiệm vụ đó nên tất cả GV đều chú trọng hướng dẫn HS viết các dạng văn bản hành chính thường gặp phục vụ đời sống, làm việc sau này. Tuy nhiên có một hiện thực đáng lo ngại là số học sinh biết viết văn bản hành chính - công vụ không nhiều, thậm chí là rất ít em biết cách viết. Vì thế, việc trau dồi kĩ năng viết các loại văn bản này là thực sự cần thiết cho học sinh.
b. Cách thức thực hiện
- Trước hết, GV giúp HS nắm được một số loại văn bản hành chính thông
dụng:
Văn bản không có tên loại: Công văn là văn bản dùng để giao dịch về công việc giữa các cơ quan đoàn thể. Đối với loại văn bản này thì ở đầu văn bản không thể hiện tên loại văn bản. Đây cũng là cách để phân biệt công văn với loại văn bản hành chính khác.
Ví dụ: Công văn đôn đốc, công văn trả lời, công văn mời họp, công văn giải
thích, công văn yêu cầu, công văn kiến nghị, công văn chất vấn.
Văn bản có tên gọi: Thông báo, báo cáo, biên bản, tờ trình, đề án, chương trình, kế hoạch, hợp đồng, các loại giấy (giấy đi đường, giấy giới thiệu, giấy
26
nghỉ phép, giấy ủy nhiệm,…) các loại phiếu (phiếu gửi, phiếu báo, phiếu trình…). Những văn bản loại này thường thể hiện loại tên gọi cụ thể.
Ví dụ:
Báo cáo là loại văn bản hành chính được dùng để trình bày cho rõ tình hình hay sự việc. Ví dụ như: Báo cáo tuần, báo cáo tháng, báo cáo quý, báo cáo năm, báo cáo định kỳ, báo cáo đột xuất, báo cáo chuyên đề, báo cáo hội nghị.
Thông báo là loại văn bản hành chính được dùng để báo cho mọi người biết tình hình hoạt động, các thông tin, tin tức liên quan tới đơn vị bằng văn bản;Ví dụ như : thông báo nộp phạt hành chính, thông báo xử phạt hành chính
Biên bản là loại văn bản hành chính được dùng để ghi chép lại những gì đã xảy ra hoặc tình trạng của một sự việc để làm chứng về sau. Ví dụ như: biên bản hội nghị, biên bản nghiệm thu, biên bản hợp đồng, biên bản bàn giao.
Các văn bản hành chính có vai trò chủ yếu là: cụ thể hóa các văn bản quy phạm pháp luật, hướng dẫn cụ thể các chủ trương, chính sách của nhà nước, hỗ trợ cho quá trình quản lý hành chính nhà nước và thông tin pháp luật. Như vây, chúng ta cần phải phân biệt rõ ràng văn bản hành chính với văn bản quy phạm pháp luật. Theo đó, văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật định, trong đó có quy tắc xử sự chung, được nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, được quy định cụ thể tại Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015.
- Tiếp đến, từ những hiểu biết trên, giáo viên hướng dẫn học sinh viết văn
bản hành chính đúng mẫu quy định:
Khi viết, soạn thảo các văn bản hành chính cần lưu ý về mẫu chung của văn
bản hành chính. Thông thường, một văn bản hành chỉnh sẽ gồm các thông tin:
Có Quốc hiệu và tiêu ngữ xuất hiện trong văn bản. Nội dung Quốc hiệu và
tiêu ngữ: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam/Độc lập Tư do Hạnh phúc
Có thông tin về địa điểm, thời gian văn bản này được tạo ra. Ví dụ: Hà Nội,
ngày 12 tháng 12 năm 2022
Có chứa đựng thông tin về họ tên, chức vụ liên quan của người nhận hoặc tên cơ quan tiếp nhận văn bản đó. Ví dụ: Kính gửi Ông Nguyễn Văn A – Chủ tịch UBND Huyện X
Có thông tin về họ tên, chức vụ của người gửi văn bản hoặc là tên của cơ quan,
tập thể thực hiện việc gửi đi văn bản này: Thông tin người đại diện cho cơ quan gửi
Có thông tin về nội dung của văn bản đó, thể hiện điều gì: Ghi rõ ràng nội
dung cần báo cáo hoặc thông báo là gì
Có chữ ký và xác nhận của cá nhân hay tập thể gửi đi văn bản đó.
27
Hướng dẫn học sinh viết văn bản hành chính đúng phong cách ngôn ngữ.
Ngôn ngữ sử dụng trong văn bản là tiếng Việt, chính xác, phổ thông.
Không dùng từ ngữ địa phương, từ ngữ cổ và từ ngữ thông tục. Từ ngữ nước ngoài chỉ được sử dụng khi không có từ ngữ tiếng Việt tương ứng để thay thế. Từ ngữ nước ngoài có thể sử dụng trực tiếp nếu là từ ngữ thông dụng, phổ biến hoặc phải phiên âm sang tiếng Việt.
Văn bản phải sử dụng ngôn ngữ viết, cách diễn đạt phải rõ ràng, đơn giản, dễ hiểu. Trong văn bản có thuật ngữ chuyên môn cần phải làm rõ nội dung thì thuật ngữ đó phải được giải thích.
Từ ngữ viết tắt chỉ được sử dụng trong trường hợp cần thiết và phải giải thích nội dung của từ ngữ đó tại lần xuất hiện đầu tiên trong văn bản.Đối với văn bản sử dụng nhiều từ viết tắt, cần quy định riêng một điều giải thích toàn bộ các từ viết tắt trong văn bản.
Từ ngữ được sử dụng trong văn bản phải thể hiện chính xác nội dung cần truyền đạt, không làm phát sinh nhiều cách hiểu; trường hợp dùng từ có thể hiểu theo nhiều nghĩa thì phải giải thích theo nghĩa được sử dụng trong văn bản. Không sử dụng từ nghi vấn, các biện pháp tu từ trong văn bản.
Từ ngữ phải được sử dụng thống nhất trong văn bản.
- Cuối cùng, giáo viên tổ chức cho học sinh thực hành viết với các văn bản hành chính được tiếp xúc hằng ngày, quen thuộc, gần gũi: Đơn xin nghỉ học, đơn xin nghỉ phép, đơn đề nghị ... Biên bản họp lớp, biên bản họp chi đoàn, biên bản đại hội chi đoàn...Bản tự kiểm điểm, bản cam kết ... Thời gian biểu tự học...
c. Kết quả đạt được
HS biết xác định được cách vận dụng văn bản hành chính trong đời sống. Tất cả HS đều biết cách viết các văn bản hành chính thông dụng đảm bảo đầy đủ về nội dung cũng như các yêu cầu về hình thức cơ bản. Đây có thể xem là hành trang cơ bản nhất của HS về tạo lập văn bản phục vụ đời sống xã hội. Qua đó thấy được vai trò của môn Ngữ văn đối với thực tiễn.
2.2. Phát triển năng lực viết qua hoạt động ngoại khóa
2.2.1. Phát triển năng lực viết văn qua hoạt động chuyên san thường kì của
trường PT DTNT số 2
Cuộc sống bận rộn quá khiến nhiều khi ta không có thời gian để lắng lại những cảm xúc ngọt ngào từ sâu thẳm trái tim, không có thời gian để ghi lại những niềm yêu hiện hữu ngay chính tâm hồn mình. Rất cần một mảnh vườn nhỏ vun trồng cảm xúc, và tập san thường kì của nội trú 2 là một mảnh vườn như thế. Bắt đầu từ năm 2012, trường PT DTNT THPT Số 2 đã bắt đầu triển khai hoạt động
28
chuyên san thường kì . Mỗi năm cho ra đời hai số, một vào dịp chào mừng ngày 20.11 và một vào dịp 26.3. Điều đáng nói là tác giả của các tập chuyên san đó không phải là giáo viên, không phải của riêng một số cá nhân nào có khả năng về văn thơ, viết lách… mà tác giả là toàn bộ học sinh của trường.
2.2.1.1. Mục đích
Mục đích của hoạt động viết chuyên san là phát huy được sức sáng tạo, khả năng sáng tác của học sinh trong lĩnh vực văn học nghệ thuật. Đây cũng là dịp để các em nuôi dưỡng và thể hiện cảm xúc. Qua những tác phẩm của mình, vốn từ các em được trau dồi, khả năng quan sát, thể hiện được nâng cao, đặc biệt, đôi khi thầy cô gặp gỡ trong trang viết những tiếng lòng của các em về trường, về lớp, về gia đình...Từ đó mà thấu hiểu, yêu thương,gắn bó với nhau hơn trong môi trường nội trú. Đặc biệt, cứ mỗi năm 2 số tập san, hơn mười năm qua, tâm tư tình cảm của các thế hệ học trò nội trú đã được lưu truyền đầy ý nghĩa. Đó sẽ là nơi các em tìm lại được chính mình trong những cuộc trở về...
2.2.1.2. Cách thức thực hiện
Bắt đầu từ tháng 9, 10 và tháng 1,2 hàng năm, nhà trường phát động học sinh viết bài cho cuốn tập san “Suối Ngàn” được xuất bản vào hai dịp đặc biệt là chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam và ngày thành lập Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh.
Sau khi phát động, Ban biên tập đưa ra thể lệ, yêu cầu của hoạt động viết chuyên san phổ biến về các lớp. Thứ nhất, các bài viết không được sao chép, sưu tầm mà phải do học sinh tự sáng tác. Thứ hai, tất cả học sinh, các lớp đều phải tham gia viết bài. Mỗi học sinh ít nhất là một bài và không giới hạn số bài nạp lên. Đoàn trường sẽ tính điểm thi đua cho các lớp tham gia và lớp có nhiều bài được chọn đăng. Thứ ba, học sinh viết bài không giới hạn về thể loại, các em được tự do sáng tạo theo cảm xúc, sở trường miễn là phải đúng chuẩn mực đạo đức, văn hóa và pháp luật. Thứ tư, các bài viết tập trung vào các đề tài về thầy cô giáo, nhà trường, Đoàn, bạn bè, tình yêu tuổi học trò, cảm xúc bất chợt, trách nhiệm….. Đề tài rộng nên học sinh rất dễ để bộc lộ cảm xúc của mình.
Vào các giờ sinh hoạt đầu giờ, các lớp trưởng sẽ phổ biến cho các thành viên trong lớp về thể lệ, yêu cầu của Ban biên tâp đưa ra để các thành viên biết và thực hiện. Lớp phải có quy định và tính thi đua cho các thành viên. Tất cả các thành viên đều phải ý thức được rằng viết bài tập san là một phần trách nhiệm và quyền lợi của mình. Học sinh lớp 10 do mới vào trường chưa hiểu nên sẽ được hướng dẫn. Các anh chị lớp 11 và 12 được phân công về các lớp thuộc khối 10 để trò chuyện, hướng dẫn, giải đáp một số thắc mắc cho các em.
Vào các giờ tự học, sinh hoạt đầu giờ hoặc sau mỗi giờ học, chúng tôi sẽ trực tiếp hướng dẫn học sinh viết bài tập san, đặc biệt là học sinh khối 10. Cụ thể về các
29
vấn đề sau:
+ Thứ nhất là lựa chọn đề tài: Người viết cần lựa chọn đề tài theo yêu cầu của Ban biên tập. Ví dụ, viết bài cho số báo chào mừng ngày 20.11, các em có thể viết về thầy cô (thầy cô đã từng dạy mình mà mình yêu quý, không bị đóng khung là buộc phải viết về thầy cô đang dạy), bạn bè dưới mái trường, những kỉ niệm tuổi học sinh, một cảm xúc bất chợt của bản thân, những kỉ niệm khi sống trong môi trường Nội Trú 2…
+ Thứ hai là lựa chọn hình thức, thể loại: Người viết cần dựa vào khả năng bản thân và đề tài mình viết để lựa chọn hình thức, thể loại cho phù hợp. Các em nên chọn thơ khi có khả năng và có hiểu biết về luật thơ. Nên chọn truyện ngắn khi có hiểu biết về truyện ngắn, có vốn ngôn ngữ, vốn sống phong phú, có khả năng sắp xếp các sự việc, chi tiết… Ban biên tập không giới hạn về thể loại, do đó người viết được thoải mái lựa chọn miễn thể hiện cảm xúc và nội dung của mình một cách tốt nhất.
+ Thứ ba là đặt nhan đề: Nhan đề là tên gọi của tác phẩm. Nhan đề hay và đúng là phải khái quát ở mức cao về nội dung tư tưởng của văn bản, của tác phẩm; phải nói cô đọng được cái "thần", cái "hồn" của tác phẩm. Nhan đề sao cho ấn tượng, hấp dẫn, thu hút được người đọc. Để đặt được như thế không phải dễ và đó là yêu cầu đối với các nhà văn nhà thơ. Còn đối với học sinh, với khả năng của các em, khi đặt tên cho tác phẩm của mình, các em có thể lấy tên một nhân vật chính, có thể lấy dòng cảm xúc chủ đạo, cũng có thể sử dụng một hành động hay một hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng nào đó để đăt tên cho tác phẩm của mình. Cần lưu ý là nhan đề cần ngắn gọn, có ít nhiều liên quan đến nội dung bài viết của các em.
+ Thứ tư là về nội dung: Nội dung bài viết phụ thuộc vào ý tưởng của các em. Cần thể hiện nội dung một cách rõ ràng, nhất quán và phù hợp với hình thức thể loại.
+ Cuối cùng là một số lưu ý về ngôn từ, giọng điệu: Người viết sử dụng ngôn từ phải trong sáng, sử dụng đúng và hay khi sử sụng từ, viết câu, quan trọng là nữa là đúng phong cách ngôn ngữ. Về giọng điệu cần phù hợp nội dung bài viết và quan trọng phải chân thành, không cần phải cố gồng để thể hiện khiến bài viết trở nên sáo rỗng, phản cảm.
Sau khi bài viết của học sinh nạp về, biên tập vòng sơ loại là các giáo viên trong tổ Ngữ văn, một số giáo viên am hiểu thơ văn đã chọn lọc theo từng thể loại. Sau cùng tổng chủ biên và cố vấn sẽ chọn bài chất lượng cao để xuất bản. Bài được chọn đăng hạn chế theo quy định nên phải chọn lựa hết sức kĩ càng và công tâm. Những bài được chọn phải là những bài được viết với cảm xúc chân thành; lời lẽ, ngôn từ mộc mạc, chuẩn mực; nội dung, ý nghĩa phải luôn hướng tới những
30
điều tốt đẹp, truyền được cảm hứng; lối viết lôi cuốn và đầy sáng tạo.
Đoàn trường có trách nhiệm tổng hợp số lượng bài viết và các bài được chọn
đăng thông báo cho các lớp và tính điểm thi đua hoạt động phong trào.
2.2.1.3. Kết quả đạt được
Những cuốn chuyên san dày dặn, đa dạng thể loại, gói ghém mọi tâm tư tình cảm của các em học sinh luôn là niềm háo hức mỗi khi tập san phát hành. Đó nụ cười rạng rỡ, tiếng reo vui hãnh diện của các em học sinh khi bài mình được chọn đăng, cảm giác giống như thuở đôi mươi chúng ta, những cô cậu thế hệ 7x, 8x có bài viết đang báo vậy. Những em có bài đăng tập san sẽ được nhà trường tặng một cuốn tập san làm kỉ niệm. Có những em đã gửi về cho gia đình kèm theo một lá thư bày tỏ tình cảm: “Đây là bài thơ con viết về mẹ được đăng tập san đó, con gửi về tặng mẹ nè”…Nghe thật đáng yêu!
Bên cạnh đó, cách thức luyện viết qua tập san cũng là một trong những cách thức hiệu quả để phát triển năng lực viết cho học sinh. Qua tập san, các em được trải nghiệm ngòi bút của mình trên nhiều thể loại. Biết cách nhìn nhận đánh giá, lựa chọn và gọt giãu ngôn ngữ. Nhiều em học được rất nhiều về cách
Kết quả thu được là tất cả học sinh của trường đều viết bài và các bài viết đó là do các em tự sáng tác. Các em không lên mạng được nên các em không sao chép được. Sách báo trên thư viện rất nhiều nhưng các em không sao chép sưu tầm. Học sinh tích cực viết bài vì phong trào thi đua của lớp và cũng vì muốn chứng tỏ năng lực viết của bản thân. Các em tự sáng tác nhiều thể loại như thơ, truyện ngắn, tản văn, truyện cười… Để có được bài viết nạp cho ban biên tập chuyên san, các em không chờ đến ngày phát động mới viết mà rất nhiều em khi có ý tưởng, cảm hứng đã viết trước, sau đó đó chỉnh sửa và nạp bài theo quy định. Có một điều rất đặc biệt là học sinh của trường viết bài với một sự hăm hở, tích cực, tự giác và với toàn bộ lòng nhiệt huyết chứ không phải miễn cưỡng, gượng ép. Chính vì vậy chất lượng các bài viết của các em khá cao. Đành rằng sẽ có những bài viết còn vụng về câu từ, về suy nghĩ, về nội dung ở một số bài nhất là với học linh lớp 10 nhưng những bài sau, số sau đặc biệt là lớp 11, 12 chất lượng các bài viết của các em càng được nâng cao.
Theo yêu cầu, thể lệ của Ban biên tập, hai cuốn tập san sẽ được xuất bản vào hai dịp quan trọng hàng năm. Cuốn thứ nhất sẽ được xuất bản vào dịp 20.11 nên chủ đề sẽ xoay quanh về nhà giáo, mái trường và bạn bè. Học sinh bày tỏ tấm tròng tri ân của mình với thầy cô giáo qua những vần thơ, câu văn, những bài cảm nhận hoặc tản văn. Tác phẩm mà các em viết đều xuất phát từ tấm lòng chân thành của các em đối với người dạy mình. Không chỉ thế, các em còn bày tỏ tình cảm của mình đến với những mẹ nhà ăn, bác bảo vệ trong trường, những người góp phần vào chăm sóc sức khỏe cho các em để các em yên tâm học hành. Có lẽ khó có môi
31
trường nào như môi trường nội trú, các em không nói lời hoa mĩ, khách sáo, sáo rỗng mà tất cả các em gửi gắm vào trong bài thơ bài văn của mình dẫu vụng về nhưng hết sức chân thành. Cuốn thứ 2 sẽ xuất bản vào tháng 3, tháng thanh niên. Mặc dù ra đời vào tháng thanh niên nhưng chủ đề không chỉ dừng lại viết về Đoàn mà các em được viết về tình bạn, tình yêu tuổi học trò, về cuộc sống và học tập trong ngôi trường nội trú, về tình cảm với gia đình và có cả viết về một khoảnh khắc bất chợt nào đó. Không bị bó hẹp trong một chủ đề nghe có vẻ nghiêm túc , viết về Đoàn, nên các em được tự do bộc lộ khả năng viết của mình. Qua các bài viết, người đọc được thấy “con người thật” của các em hoàn toàn không đồng nhất với vẻ bề ngoài nhiều khi còn tự ti, khúm núm, e ngại của học sinh miền núi. Các em được sống là chính mình với sự bay bổng lãng mạn, với sự vô tư hồn nhiên của tuổi học trò, với sự nhớ nhung gia đình sau mấy tháng xa cách và với cả tính tự lập, trưởng thành từ khi vào sống trong môi trường nội trú.
Đến nay, nhà trường đã cho xuất bản 22 số chuyên san đặc biệt. Các em có bài đăng không được nhận nhuận bút bằng tiền mà các em được tặng quyển tập san mà mình là một trong những tác giả của tập san đó. Các em cảm thấy hết sức hãnh diện, tự hào vì bài mình được chọn. Những em khác chưa có bài đăng lại tiếp tục cố gắng viết bài cho các số tiếp theo.
Tất cả 22 số chuyên san đặc biệt đều được nhà trường đặt ở vị trí trang trọng trong nhà truyền thống. Mục đích là để những ai đến tham quan nhà trường hay các bậc phụ huynh thấy được bên cạnh việc dạy – học kiến thức thì học sinh của trường còn biết tự sang tác những tác phẩm bằng chính khả năng của mình. Mục đích nữa là để học sinh các thế hệ mỗi khi về trường, các em đọc những cuốn tập san họ lại thấy mình trong đó, họ tự hào về bản thân đã có sự nỗ lực, cố gắng và đã được ghi nhận. Mục đích quan trọng nữa là để các em học sinh đang học trong trường coi đó như một mục tiêu cố gắng, phát huy bản thân.
Giá trị của hoạt động viết tập san là trải qua những lần viết bài, các em học sinh đã tự rèn luyện cho mình ý thức trách nhiệm, tăng vốn sống, tăng vốn từ ngữ và năng lực viết đã được nâng cao rất nhiều. Việc viết bài cho chuyên san không chỉ có ý nghĩa khi đang học trong trường Nội Trú 2 mà sau này, khi ra đời, các em có thể bộc lộ suy nghĩ, cảm xúc của bản thân bằng những văn bản nghệ thuật, những bài tản văn… Từ đó các em sẽ thấy tâm hồn mình đẹp hơn, sống có ý nghĩa hơn và luôn hướng về những cái thiện.
(Phụ lục 4)
2.2.2. Phát triển năng lực viết qua hoạt động bình tập san.
Không chỉ viết bài cho chuyên san thu hút được sự quan tâm của học sinh mà
hoạt động bình chuyên san cũng được rất nhiều học sinh quan tâm.
2.2.2.1. Mục đích, đối tượng
32
Mục đích của hoạt động bình tập san là để học sinh có cơ hội đọc, suy ngẫm và vận dụng kiến thức sẵn có về môn Ngữ văn, vốn sống, vốn ngôn ngữ để cùng trao đổi với nhau cái hay, cái đẹp, cái giá trị và cả cái còn chưa được trong các sản phẩm nghệ thuật do mình cùng bạn bè sáng tạo. Qua hoạt động bình tập san, các em phát huy được năng lực viết, năng lực phân tích, phản biện và khả năng trình bày trước đám đông.
Đối tượng của hoạt động bình tập san là các sản phẩm được chọn đăng của học sinh, người bình cũng là học sinh. Hoạt động bình tập san không giống như phê bình văn học của những nhà nghiên cứu. Cả người bình và đối tượng bình chỉ đang dựa vào cảm tính, dựa vào lượng kiến thức hiểu biết của lứa tuổi học sinh. Do đó, để có được những buổi bình tập san, học sinh cần được hướng dẫn cụ thể về cách thức.
2.2.2.2. Cách thức thực hiện
Bước 1: Sau khi xuất bản, đoàn trường phát các cuốn tập san vừa xuất bản về các lớp để các em đọc và cảm nhận. Các lớp sẽ cử ra những học sinh có khả năng viết tốt để tiến hành chuẩn bị cho hoạt động bình tập san. Những em được chọn sẽ phải đọc kĩ các tác phẩm, suy nghĩ, trao đổi với nhau nên chọn thể loại, tác phẩm nào và tiến hành viết lời bình cho các bài viết nhóm chọn.
Bước 2: giáo viên dạy môn Ngữ văn sẽ tổ chức gặp các học sinh được chọn, hướng dẫn các viết lời bình vào lúc đầu giờ buổi sáng hoặc vào thời gian các em tự học:
Thứ nhất, các em cần phải đọc kĩ tác phẩm. Để có được một bài bình các em sẽ phải đọc thật kĩ tác phẩm. Do tác giả và bạn đọc cùng lứa tuổi, cùng ngang nhau về trình độ nên bạn đọc dễ dàng nắm bắt được tư tưởng, tình cảm của tác giả qua hoạt động đọc.
Thứ hai là ghi chép. Trong quá trình đọc, người bình ghi chép lại một số vấn đề để đi tìm câu trả lời. Việc ghi chép sẽ làm cho người bình nắm chắc được văn bản để có cái nhìn toàn diện hơn. Người bình có thể ghi chép một số vấn đề như :
- Bài viết nêu lên vấn đề gì? - Điểm ấn tượng nhất của mình về bài viết đó là gì? - Về mặt hình thức, thể loại có gì cần lưu ý không? - Mình có học hỏi được điều gì qua bài viết đó không? - Bản thân mình có đóng góp ý kiến gì cho tác giả không? - …………………………………
Thứ ba là đọc lại bài ghi chép để xem trọng tâm hoặc vấn đề nổi bật của văn bản mà mình sẽ phát triển trong bài bình của mình. Từ đó hình thành các luận điểm để triển khai vấn đề đó một cách thuyết phục.
33
Thứ tư là viết. Sau hoạt động đọc và ghi chép, người bình cần bắt tay vào viết
lời bình. Cần đảm bảo các yêu cầu sau:
- Phải thể hiện được quan điểm của mình và bình một cách khách quan trên
tinh thần xây dựng, góp ý để tác giả ghi nhận những cái được và cái chưa được.
- Trước khi viết cần lập dàn ý ( có thể chi tiết hoặc không chi tiết) để tránh
quên ý, lặp ý.
- Phần mở đầu cần gây được ấn tượng đối với người đọc bằng cách trích dẫn
câu nói hoặc câu chuyện… có liên quan.
- Bài viết phải thuyết phục người đọc, người nghe bằng các cứ liệu, lí lẽ
thuyết phục.
Thứ năm là chỉnh sửa bài viết. Người viết cần đọc lại bài viết, đối chiếu với
yêu cầu và dàn ý để thực hiện việc chỉnh sửa và hoàn thiện. Cần lưu ý:
- Kiểm tra lại bài viết đã đúng cấu trúc chưa. - Bài viết đã thể hiện được quan điểm của mình chưa, các luận điểm đưa ra
có làm rõ được quan điểm đó không.
- Các câu, đoạn trong bài viết có sự liên kết chặt chẽ với nhau không. - Ngôn từ sử dụng trong bài viết đã đúng, hay và phù hợp chưa.
Thứ sáu là trình bày bài bình của mình trước tập thể ( Trong đó có thể có tác giả). Người bình vận dụng kĩ năng thuyết trình để trình bày bài viết của mình. Để thuyết phục, người bình có thể kết họp ánh mắt, điệu bộ, cử chỉ, có thể nhấn mạnh một số nội dung cơ bản bàn sâu về nó nếu đó là điều mà mình cho là vấn đề nổi bật của bài viết.
Cuối cùng là bảo vệ quan điểm của mình trước sự phản hồi của tác giả hoặc của các bạn đọc khác và cần biết tiếp thu những ý kiến đóng góp khác làm cho bài viết của mình được hoàn thiện hơn.
Bước 3: Tổ chức các câu lạc bộ bình tập san theo khối lớp.
34
Bước 4: Tổ chức đọc lời bình tập san.
Đây có lẽ là một “đặc sản” của nội trú 2 mà khó có trường nào làm được. Vào các các tiết chào cờ liên tiếp trong tháng phát hành tập san, đoàn trường sẽ cử 1-2 em học sinh có bài bình xuất sắc lên đọc lời bình trước cờ để toàn thể giáo viên và học sinh lắng nghe. Những cảm xúc thẫm đẫm văn chương từ những tâm hồn trong trẻo được thể hiện từ các giọng đọc hồn nhên, trong sáng, say mê sẽ giúp thầy cô và các bạn có một ngày đầu tuần tươi đẹp, hứng khởi.
2.2.2.3. Kết quả đạt được
Kết quả là sau mỗi lần tập san được xuất bản, các lớp, các câu lạc bộ đã có những hoạt động bình tập san vô cùng sôi động. Sau những lần bình, các bài viết sau chất lượng cao hơn, và cũng vì thế mà chất lượng các cuốn tập san của trường ngày càng được nâng cao chất lượng nội dung, đa dạng về hình thức thể loại và luôn thu hút được sự tham gia của đông đảo học sinh.
(Phụ lục 5)
2.2.3. Phát triển năng lực viết qua bảng tin, trang tin điện tử
Bảng tin, trang tin điện tử là một “điểm nhấn đặc biệt” của mỗi trường học và
ở trường PT DTNT THPT Số 2 không là ngoại lệ.
2.2.3.1. Mục đích
Mục đích của bảng tin và trang tin điện tử là cập nhật thông tin cho học sinh trong trường, giáo viên, cựu học sinh, cha mẹ học sinh và cả những người quan tâm muốn tìm hiểu về trường. Do học sinh ở của trường sống xa gia đình nên cha mẹ không thể cập nhật hàng ngày tin tức của trường con mình học nên họ sẽ theo dõi hoạt động của trường để nắm bắt tình hình. Vì vậy bảng tin nhà trường và trang tin điện tử không chỉ là nơi cập nhật thông tin mà còn là nơi trưng bày thành tích của nhà trường, là nơi thể hiện tình cảm của học sinh đối với nhà trường vào những dịp quan trọng, là nơi thể hiện sự tri ân qua những ngày lễ lớn như ngày Quốc Khánh, kỉ niệm ngày thành lập Đảng, Đoàn, ngày giải phóng Miền Nam….
2.2.3.2. Cách thức thực hiện
35
Thứ nhất: Ban truyền thông của nhà trường tập huấn các mục đích, yêu cầu,
cách thức đang trang tin điện tử cũng như bản tin đoàn cho ban cán sự các lớp.
Yêu cầu của bảng tin và trang tin điện tử là phải hấp dẫn về nội dung, trình bày bắt mắt, chủ đề đa dạng và phù hợp, phải có tính giáo dục cao. Để có được nội dung hấp dẫn, người viết phải chú ý các vấn đề sau:
Đặt tiêu đề: Tất cả các bài viết đều có tiêu đề. Thông qua tiêu đề người đọc phần nào hiểu được nội dung chủ đề của bảng tin. Bảng tin được đặt ở vị trí dễ quan sát cho tất cả mọi người thế nên để tạo được ấn tượng cho bài viết, người viết cần chú ý đặt tiêu đề ngắn gọn, hấp dẫn. Ví dụ như: Tiếp bước dấu chân, Thời gian, Người lái đò….
Câu mở đầu: Bất kì một thể loại, một văn bản nào cách mở đầu cũng hết sức quan trọng. Viết bảng tin nhà trường lại cần đặc biệt chú ý bởi hình thức đặc biệt của nó.
Đối với những bài viết cung cấp thông tin, câu mở đầu có một tầm quan trọng đặc biệt. Nếu như chỉ được phép nói một câu để thông báo về sự kiện, thì đó chính là câu mở đầu của bảng tin. Câu mở đầu bảng tin phải chứa đựng được thông điệp cốt lõi, chủ yếu nhất. Nó là sự nhắc lại và bổ sung hoàn chỉnh cái quan trọng nhất mà tít đã thông báo.
Đối với bài viết chào mừng những ngày lễ lớn, câu mở đầu không nên quá cứng nhắc mang tính chất thông báo. Để phù hợp với dung lượng bảng tin nhà trường, người viết sẽ lựa chọn câu mở đầu sao cho ấn tượng nhưng phải ngắn gọn và phù hợp với các sự kiện, chủ đề. Có thể tạo ấn tượng cho người đọc bằng cách mở đầu bằng việc trích dẫn một câu nói, một câu danh ngôn, đưa ra một con số có ý nghĩa với chủ đề/sự kiện hoặc đặt ra một câu hỏi. Ví dụ mở đầu bài viết chào mừng ngày thành lập Đoàn thanh niên Cộng Sản Hồ Chí Minh có thể viết: Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói rằng: "Một năm khởi đầu từ mùa xuân, một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội". Tuổi trẻ chính là chúng ta, đoàn viên thanh niên, là tương lai của đất nước. Hôm nay nhân ngày Đoàn ta tròn 92 tuổi, chúng cùng nhìn lại những chặng đường đã qua để tiếp thêm sức mạnh cho đoàn viên thanh niên ngày mai….”
Phần nội dung bài viết cần căn cứ vào mục đích, chủ đề của từng tuần, từng
tháng, từng đợt thi đua….
Nếu là bản tin thì phần nội dung là nội dung diễn biến các sự kiện, địa điểm,
thời gian, các số liệu…
Nếu là bài viết chào mừng các ngày lễ lớn thì phần nội dung bao gồm các vấn
đề sau:
- Điểm lại các mốc thời gian chính trong lịch sử hình thành và phát triển .
- Ý nghĩa, giá trị đối với đất nước, dân tộc
36
- Ý nghĩa, giá trị đối với thế hệ học sinh, của thế hệ trẻ
- Cảm xúc, tình cảm của thế hệ trẻ
Phần kết bao giờ cũng sẽ là sự thể hiện tình cảm chân thành chung của học sinh. Đó là lời biết ơn sâu sắc, là lòng tự hào, là lời hứa, lời nhắn gửi…. của tất cả học sinh trong trường.
Thứ hai: Luân phiên từng lớp một sẽ phụ trách bảng tin, trang tin theo từng chủ đề. Bài viết được kiểm duyệt chặt chẽ trước khi đăng. Việc làm này đã gắn trách nhiệm của tập thể lớp với phần thông tin của đoàn trường, khiến các em phải có tinh thần trách nhiệm gọt giũa bài viết, trau chuốt ngôn từ, trình bày hợp lí phần nội dung mình phụ trách.
2.2.3.3. Kết quả đạt được
Nhiều học sinh trường PT DTNT THPT Số 2 viết bảng tin và trang tin điện tử rất tốt. Các trang tin điện tử với những bài viết hay, ý nghĩa và có tác dụng vừa cung cấp thông tin vừa làm hiệu ứng truyền thông cho trường. Các bảng tin nhà trường được các em hợp tác viết và trang trí vô cùng đẹp mắt và đầy ý nghĩa. Các nhóm viết luôn có ý thức trách nhiệm và có sự thi đua khi được giao nhiệm vụ viết bảng tin và trang tin điện tử.
Giá trị để lại của hoạt động viết bảng tin và trang tin điện tử không chỉ dừng lại ở các sản phẩm hấp dẫn, đẹp mắt, ý nghĩa mà còn ở việc tạo ra cơ hội để học sinh bộc lộ khả năng viết, vẽ; ở việc làm việc nhóm, phát huy tinh thần tập thể; ở việc phát huy tinh thần trách nhiệm, tính thi đua giữa các nhóm. Đây là tiền đề cho các em chọn khi chọn ngành nghề sau này, đặc biệt là các nghề về lĩnh vực báo chí, truyền thông, viết lách…
(Phụ lục 6)
2.2.4. Phát triển năng lực viết qua những lá thư tay
Nhìn chung lứa tuổi học sinh hiện nay rất ít em biết đến thư. Rất nhiều em chưa bao giờ được nhận thư và đương nhiên chưa bao giờ viết thư. Phương tiện để các em trao đổi thông tin là những chiếc điện thoại thông minh. Chỉ cần có nó là mọi thông tin được cập nhật. Các em thoải mái trò chuyện với nhau bằng nhiều hình thức như chat, nhắn tin, gọi điện… Chính vì vậy nhu cầu trao đổi tâm tư nguyện vọng của các em được thể hiện ở các hình thức mang tính công nghệ nhiều hơn.
Học sinh trường DTNT Số 2 không giống như vậy. Các em học tập, rèn luyện và ăn ở tại trường. Các em không được sử dụng điện thoại di động và chỉ được lên mạng khi có sự cho phép. Các em không thể gặp gỡ trò chuyện với gia đình thường xuyên, không thể giao lưu với bạn bè phương xa bằng thiết bị công nghệ nên các em đã chọn cho mình một kênh truyền thống là viết thư. Mặc dù các em vẫn có thể gọi điện cho người thân nhưng một số trường hợp, hoàn cảnh nên các em sử dụng
37
thư để gửi gắm bày tỏ ví dụ như có những trường hợp không thể nói trực tiếp bằng lời, cũng có khi các em ngại nói ra, có khi là yêu cầu của giáo viên.
2.2.4.1. Mục đích, đối tượng
Mục đích của việc viết những trang thư là để các em thể hiện tình cảm, cảm xúc hoặc trao đổi thông tin, kết nối mối quan hệ…; viết thư còn để trao đổi tâm tư nguyện vọng, để đối thoại với chính bản thân mình…; viết thư kể lại những điều mình đã làm được và chưa làm được, tự nhận xét bản thân mình sau một kì học tập ở trường… Nhìn xa hơn, sau khi ra trường các em có thể viết thư tự nói về bản thân gửi qua email để ứng tuyển một công việc, một vị trí nào đó cho cơ quan tuyển dụng.
Đối tượng các em hướng đến là bố mẹ, anh chị, bạn bè ở phương xa; là cô giáo chủ nhiệm, là một người bạn đặc biệt ngay chính trong trường; cũng có thể là thư gửi chính bản thân mình…
2.2.4.2. Cách thức thực hiện
Bước 1: Hướng dẫn học sinh viết thư
Mặc dù ở cấp học tiểu học các em đã được học cách viết thư nhưng các em chưa bào giờ viết, chưa có cơ hội viết thế nên giáo viên sẽ phải hướng dẫn cách viết cho các em ngay khi mới vào lớp 10. Một số vấn đề cần lưu ý:
Để viết được một lá thư, trước hết người viết cần biết cấu trúc của một lá thư.
Một lá thư bình thường bao giờ cũng gồm những phần sau đây:
1. Mở đầu: Gồm có tên người gửi và người nhận, địa chỉ, ngày tháng năm.
2. Lời chào: Mở đầu một lá thư thường là :….. thân mến,…. yêu quý…
Tùy vào đối tượng đọc thư để có lời chào cho phù hợp. Nếu là bạn bè thì có thể xưng hô chào hỏi một cách thân mật, nếu là bậc nhiều tuổi hơn mình phải xưng hô chào hỏi một cách lễ phép, và nêu là nhà tuyển dụng thì phải chào hỏi xưng hô một cách trang trọng.
3. Thân: Là nội dung chính của lá thư.
Sau lời chào hỏi, một bức thư bình thường sẽ là lời hỏi thăm sức khỏe, trình bày lí do viết thư. Tùy vào lí do, viết thư để có nội dung và giọng điệu phù hợp. Có rất nhiều lí do như viết thư như viết thư để cảm ơn, viết thư để xin lỗi, viết thư để trình bày yêu cầu, viết thư mời hay thông báo tin tốt/xấu, viết thư để thăm hỏi hay thư gửi chính bản thân mình.
4. Kết: Lời dặn dò, nhắn gửi, mong muốn, yêu cầu….và chữ ký của người
viết thư.
Không chỉ viết thư theo đúng cấu trúc, người viết thư cần xuất phát từ sự chân thành của mình. Lời hỏi thăm sức khỏe, lời xin lỗi, lời cảm ơn, lời mời, lời động viên chia sẻ… tất cả phải xuất phát từ tấm chân tình của mình mới khiến người đọc
38
nhận được sự tôn trọng, cảm động. Cần tránh những lời nói khách sáo, hoa mỹ nhưng sáo rỗng khi viết thư.
Giọng điệu, ngôn từ khi viết thư cần đúng chuẩn mực. Người viết cần chú ý đối tượng đọc thư để sử dụng ngôn từ, giọng điệu phù hợp. Viết thư cho người thân, bạn bè để hỏi thăm sức khỏe, người viết có thể sử dụng giọng điệu gần gũi, thân mật thậm chí có thể suồng sã trong giới hạn cho phép. Viết thư để xin lỗi hoặc cảm ơn cần có thái độ chân thành, thể hiện được thái độ cầu thị. Viết thư để thông báo tin xấu tuyệt đối không được đùa giỡn, bỡn cợt mà cần có sự cảm thông, chia sẻ với người nhận tin.
Cuối cùng là chữ viết và cách trình bày. Người viết cố gắng viết chữ rõ ràng, đúng chính tả, đúng ngữ pháp, trình bày sạch sẽ, không tẩy xóa. Một bức thư là tâm tư tình cảm, là nguyện vọng, là những điều mình muốn nói nên phải viết làm sao để người đọc nắm bắt được linh hồn của bức thư.
Bước 2: Giáo viên tổ chức cho học sinh thực hành viết thư
Ở nội trú 2, sau khi kết thúc học kì 1, các thầy cô sẽ về tại địa phương học sinh để trao đổi tình hình học tập của các em. Đây là dịp những lá thư tay thấm đẫm tình cảm được gửi về cho gia đình. Trong thư là niềm thương nỗi nhớ, là lời tâm sự, dặn dò, là những câu chuyện trường lớp được sẻ chia với bố mẹ, anh, chị em…
Cũng ở nội trú 2, các em học sinh có thói quen dùng thư để gửi tới thầy cô giáo tình cảm cũng như lời tâm sự. Đó là những băn khoăn, thắc mắc, là những nỗi niềm thầm kín, là lời bày tỏ lòng biết ơn. Nội trú 2 vì thế luôn thấm đẫm chân tình.
Những lá thư tay thật khó để luyện năng lực viết, giáo viên chỉ viết cảm được, thấy được sự thay đổi về giọng điệu, cách nghĩ, cách diễn đạt, cách bày tỏ của các em ngày một khác đi sau những năm học cấp ba. Để thấy sự trưởng thành không chỉ trong tư tưởng mà còn trong cả năng lực viết của các em.
2.2.4.3. Kết quả đạt được
Tất cả học sinh trường PT DTNT THPT Số 2 đều biết viết thư, nhiều em còn viết thư thường xuyên và coi nó là nơi để bộc lộ cảm xúc tâm tư của mình. Có những bậc cha mẹ sau khi nhận được bức thư tay do chính con mình viết đã cảm động vì bất ngờ. Họ bất ngờ vì con họ nay biết nói lời cảm ơn, xin lỗi, biết tự nhìn nhận đánh giá bản thân mình, biết thể hiện tình cảm của mình đối với cha mẹ… Tất cả những điều đó đều được thể hiện trong thư bởi nếu nói trực tiếp các em rất ngại ngùng. Ngay cả những ngày lễ lớn như 20.11, học sinh của trường còn tự tạo cho mình những bức thư với những cái bì thư tự chế để gửi lên những giáo viên các em quý mến. Các em gửi gắm vào bức thư đó với bao sự biết ơn, tôn trọng và cả mong muốn của mình.
Cái giá trị để lại không chỉ đơn giản là những bức thư mà qua hoạt động viết thư các em đã rèn luyện cho mình một thói quen tốt, mối quan hệ tốt và đặc biệt là
39
năng lực viết của các em cũng phát triển lên nhiều. Điều đó có ý nghĩa to lớn cho cuộc sống của các em sau này.
(Phụ lục 7)
2.2.5. Rèn luyện kĩ năng viết qua các cuộc thi viết
2.2.5.1. Mục đích:
Tổ chức các cuộc thi viết nhằm tuyên truyền ý nghĩa các ngày lễ lớn, các dịp kỉ niệm có ý nghĩa với học sinh; để phát hiện, lựa chọn học sinh có năng lực viết tốt nhằm bồi dưỡng để tạo nên hạt giống tốt cho các thành tích phía trước của nhà trường.
Hàng năm, vào các sự kiện trọng đại, các cuộc thi viết lại được tổ chức. Nhà trường luôn tạo nên sân chơi lí thú cho học sinh, khuyến khích học sinh hưởng ứng. Qua các cuộc thi viết này, học sinh thể hiện được khả năng của mình về nhiều lĩnh vực, trong đó có khả năng về viết.
2.2.5.2. Cách thức thực hiện:
Đối với các cuộc thi do cấp trên tổ chức, giáo viên chủ nhiệm khuyến khích học sinh có năng khiếu của lớp mình tham gia các cuộc thi “Đại sứ văn hóa đọc”, các cuộc thi viết theo chuyên đề do thành đoàn tổ chức.
Đối với cuộc thi viết do Đoàn trường phát động hàng năm dành cho học sinh khối 12 với chủ đề “Lời tri ân của tuổi 18” , nhà trường và giáo viên chủ nhiệm khối 12 khuyến khích tất cả học sinh tham gia viết. Đây sẽ là dịp thể hiện tình cảm, sự tri ân của các em đối với thầy cô giáo, đến những mẹ nhà ăn chăm sóc các em trong những năm học tập trong môi trường nội trú.
Tiếp theo, Sau khi các cuộc thi phát động, giáo viên dạy Ngữ văn hướng dẫn các em tham khảo các bài viết, đưa ra ý tưởng về nội dung, hình thức, cách trình bày…
Cuối cùng, vào các giờ tự học, các em sẽ hoàn thành bài viết của mình.
Với các cuộc thi viết do các cấp tổ chức, học sinh sẽ hoàn thành và nạp bài theo lịch của ban tổ chức. Còn cuộc thi viết cho khối 12 sẽ bắt đầu từ đầu tháng 5 đến cuối tháng 5 hàng năm. Những lớp tham gia số lượng đông đảo, nhiều bài hay sẽ dành được điểm thi đua cho tập thể lớp. Những bài viết được chọn sẽ được chọn đăng trên trang facebook của đoàn trường.
2.2.5.3. Kết quả đạt được
100% HS tham gia các cuộc thi viết do Trường phát động. Rất nhiều bài viết có chất lượng thể hiện năng lực của người viết. Đây không chỉ là dịp thể hiện phong trào thi đua mà qua cuộc thi, các thầy các cô còn góp nhặt được những tình cảm ngây thơ, trong sáng đầy xúc động của trò giành cho mình. Mỗi bài viết đầu mang một thông điệp nhất định đến những người thầy, người cô đã và đang dạy dỗ
40
tại trường, đó cũng là dịp để thầy, cô nhìn lại mình, không ngừng cố gắng, trau dồi bản thân.
Bên cạnh đó, HS có dịp để thể hiện tầm hiểu biết tri thức của mình về văn hóa đọc sách, giới thiệu đến bạn bè của mình những quyển sách hay, phục vụ cuộc sống. Đây được xem là hoạt động có ý nghĩa to lớn trong thời đại công nghệ thông tin đang phát triển mạnh mẽ, văn hóa nghe nhìn chiếm ưu thế hơn văn hóa đọc.
(Phụ lục 8)
3. Khảo sát sự cấp thiết và tính khả thi của đề tài
3.1. Mục đích khảo sát
Khảo sát nhằm kiểm tra kiểm tra tính cấp thiết và khả thi của các giải pháp
mà đề tài nêu ra.
3.2 Nội dung và phương pháp khảo sát
3.2.1 Nội dung khảo sát
- Các giải pháp được để xuất có thực sự cấp thiết đối với vấn đề nghiên cứu
hiện nay không?
- Các giải pháp được đề xuất có khả thi với vấn đề nghiên cứu hiện tại hay
không?
3.2.2 Phương pháp khảo sát và thang đánh giá
Phương pháp được sử dụng để khảo sát là trao đổi bằng bảng hỏi, các câu hỏi được thiết kế vào phiếu bài và gửi trực tiếp hoặc gián tiếp qua công cụ hỗ trợ https://foms.gle cho GV(https://bom.so/6DNCPx) cần khảo sát kèm theo bảng tóm tắt nội dung đề tài.
Tính điểm trung bình X bằng phần mềm Excel.
Các câu hỏi khảo sát với thang đánh giá 4 mức (tương ứng với số điểm từ 1
đến 4:
A- Rất cấp thiết , B- cấp thiết, C- ít cấp thiết, D- không cấp thiết / A- Rất
khả thi, B- khả thi, C- ít khả thi, D- không khả thi.
3.3. Đối tượng khảo sát
Chúng tôi đã tiến hành điều tra trong năm học 2022-2023 với số lượng GV
được khảo sát trên các địa bàn cụ thể như sau:
STT Trường THPT khảo sát Địa bàn khảo sát Số GV được khảo sát
1 Trường PT DTNT THPT số 2. Thành phố Vinh 8
2 Trường PT DTNT THPT số 1 Thành phố Vinh 6
41
3 Trường THPT Diễn Châu 2 Huyện Diễn Châu 7
Bảng 3.1 Số lượng trường học, GV được khảo sát.
3.4. Kết quả khảo sát về sự cấp thiết và tính khả thi của đề tài.
3.4.1. Sự cấp thiết của đề tài.
Các thông số STT Các giải pháp X Mức
1 Phát triển năng lực viết thông qua giờ học trên lớp 3,9 C
2 C 3,8
Giải pháp phát triển năng lực viết qua hoạt động ngoại khóa (qua hoạt động chuyên san, qua bảng tin, trang điện tử)
3 Phát triển năng lực viết qua những lá thư tay C 3,7
4 Phát triển năng lực qua các cuộc thi viết. C 3,8
Bảng 3.2. Đánh giá sự cấp thiết của các giải pháp đề xuất
Từ số liệu thu được bảng trên có thể rút ra những nhận xét sau: mức độ rất cần thiết của các giải pháp trên là tương đối cao. Trong đó cao nhất là giải pháp phát triển năng lực viết thông qua giờ học trên lớp (đạt 3,9/4,0), tiếp đến là giải pháp phát triển năng lực viết qua hoạt động ngoại khóa và qua cuộc thi viết (đạt 3,8/4,0)
3.4.1. Sự khả thi của các giải pháp đã đề xuất.
Các thông số STT Các giải pháp X Mức
1 Phát triển năng lực viết thông qua giờ học trên lớp 3,9 C
2 C 3,9
Giải pháp phát triển năng lực viết qua hoạt động ngoại khóa (qua hoạt động chuyên san, qua bảng tin, trang điện tử)
3 Phát triển năng lực viết qua những lá thư tay C 3,9
4 Phát triển năng lực qua các cuộc thi viết. C 3,9
Bảng 3.3 Đánh giá tính khả thi của các giải pháp đã đề xuất
Từ số liệu thu được bảng trên có thể rút ra nhận xét:
Các giải pháp chúng tôi đề xuát nhằm phát triển năng lực viết cho học sinh góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn ở trường PT DTNT THPT Số 2 Nghệ An có hiệu quả và tính khả thi cao.
III. Kết quả thực nghiệm
42
Sau gần 4 năm học áp dụng đề tài, năm học 2019-2020, 2020-2021, 2021- 2022, và 2022-2023 chúng tôi ghi nhận kết quả hết sức khả quan. Kết quả đã phản ánh được sự thay đổi, tiến bộ rõ rệt của học sinh qua từng năm học được thể hiện qua năng lực viết. Cụ thể như sau:
- Đối với hoạt động viết tập san, bình tập san, viết thư, thi viết: Đã có sự thay đổi rõ nét trong bài viết của các em. Mới bắt đầu vào lớp 10, các em viết còn vụng về cả về câu từ, cách diễn đạt, cả về các ý tưởng. Nhưng bắt đầu lên lớp 11 và 12, bài viết của các em được nâng cao về chất lượng như cách dùng từ, đặt câu, cách diễn đạt, thể hiện ý tưởng, sử dụng đa dạng các thể loại…Không chỉ dừng lại ở năng lực viết mà năng lực phân tích, bình luận, thuyết trình, phản biện của các em cũng được nâng cao.
- Kết quả rõ nhất, minh chứng cho sự phát triển năng lực viết của các em học sinh DTNT Số 2 đó là kết quả kì thi THPT QG. Điểm đầu vào lớp 10 của các em thấp gần như nhất tỉnh, thế nhưng sau 3 năm học tập tại trường, dưới sự dẫn dắt của giáo viên kết hợp với sự nỗ lực không ngừng nghỉ của các em điểm thi đầu ra trong 4 năm trở lại đây luôn đứng tốp đầu của tỉnh, đặc biệt môn Ngữ văn năm 2021 và 2022 đạt điểm trung bình 8.6 và 8.7 xếp thứ nhất toàn tỉnh.
- Với kết quả đạt được đó, chúng tôi nhận thấy hoạt động dạy và học môn Ngữ văn theo hướng phát triển năng lực viết cho học sinh trường PT DTNT THPT Số 2 hết sức hiệu quả. Học sinh không chỉ được chú trọng phát triển năng lực viết trong các giờ học mà còn được phát triển toàn diện các kĩ năng giao tiếp khác giúp các em nhanh chóng hòa nhập xu thế sau khi rời trường.
43
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Viết là một kĩ năng không thể thiếu của bộ môn Ngữ văn và hết sức quan trọng trong cuộc sống. Phát triển được năng lực viết là phát triển được tư duy tổng hợp ở học sinh. Học sinh phải đọc, phải tích lũy tri thức văn học và đời sống mới có đủ vốn ngôn ngữ và kiến thức để tạo lập văn bản. Chương trình giáo dục phổ thông 2018 không chú trọng riêng đến bất kì một kĩ năng nào mà nó chú trọng sự phát triển hài hòa giữa đọc – viết – nói và nghe. Nhưng để nói được học sinh cũng phải có năng lực viết, và người nghe cũng cần phải biết viết ra những điều mình nghe được để trao đổi thảo luận. Do vậy, việc dạy học Ngữ văn chú trọng phát triển năng lực viết là hết sức quan trọng.
2. Phát triển năng lực viết cho học sinh không chỉ dừng lại ở các giờ học Ngữ văn trên lớp. Trong trường học và ngoài đời sống rất nhiều lĩnh vực cần sử dụng năng lực viết của học sinh. Vì vậy, trong các hoạt động ngoài giờ học, học sinh cần nhiều cơ hội để phát huy năng lực của mình, có nhiều cơ hội để vận dụng kiến thức đã học để tạo lập nhiều văn bản ở nhiều thể loại phù hợp với nhiều bối cảnh khác nhau. Các em cần nhiều cơ hội để khẳng định năng lực cá nhân cũng như phát huy tinh thần tập thể trong quá trình học tập và hoạt động ngoài giờ học.
3. Học sinh trường PT DTNT THPT Số 2 đã và đang được tạo các điều kiện để phát triển năng lực viết. Các em đã khẳng định được năng lực của mình qua điểm số, qua bảng xếp hạng của trường, của Sở giáo dục và đào tạo, qua các sản phẩm các em tạo ra khi đang học ở môi trường Nội Trú 2. Đây là tiền đề chắp cánh cho tương lai của các em sau khi rời ngôi trường Nội Trú để tiếp tục học tập và làm việc.
Đề tài được áp dụng trong trường PT DTNT THPT Số 2 đạt được nhiều kết quả. Môi trường học tập và rèn luyện ở trường Nội Trú là đặc thù, thuận lợi cho sự phát triển năng lực viết của các em. Các trường THPT trên địa bàn cần có các phương pháp, cơ chế linh hoạt phù hợp để dạy học phát triển năng lực viết cho học sinh.
44
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2020), Tài liệu bồi dưỡng giáo viên phổ thông đại trà, modul 2, sử dụng phương pháp dạy học, giáo dục phát triển phẩm chất, năng lực học sinh trung học phổ thông môn Ngữ Văn.
2. Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 2002
45
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Câu hỏi khảo sát sự cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp đề
xuất
Phụ lục 2: Hình ảnh bài chấm chéo của học sinh
Phụ lục 3: Bài văn nghị luận của học sinh
Phụ lục 4: Hình ảnh về tập san
Phụ lục 5: Bài viết bình tập san của học sinh
Phụ lục 6: Hình ảnh bài viết bảng tin
Phụ lục 7: Bức thư của học sinh gửi cho bố mẹ
Phụ lục 8: Bài viết tri ân của học sinh