MỤC LỤC
I. Đặt vấn đề ......................................................................................................... 2
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 2
2. Mục tiêu nghiên cứu ......................................................................................... 3
4. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................................ 3
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 3
6. Điểm mới của sáng kiến .................................................................................... 3
7. Thời gian nghiên cứu ........................................................................................ 4
II. Nội dung nghiên cứu ...................................................................................... 4
1. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của vấn đề ...................................................... 4
1.1. Cơ sở lý luận .................................................................................................. 4
1.2.Cơ sở thực tiễn ................................................................................................ 5
2. Một số vấn đề chung về dạy học theo phát triển năng lực ................................ 6
3. Yêu cầu khi dạy học Bài 13: Công dân với cộng đồng ..................................... 9
4. Một số kinh nghiệm sử dụng phương pháp dạy học tích cực ........................... 9
4.1. Kinh nghiệm sử dụng phương pháp động não ............................................... 10
4.2. Kinh nghiệm sử dụng phương pháp chơi trò chơi ........................................ 16
4.3. Kinh nghiệm sử dụng phương pháp đóng vai ................................................ 19
4.4.Kinh nghiệm sử dụng phương pháp thảo luận nhóm ...................................... 22
5. Kết quả thực nghiệm sư phạm ........................................................................... 26
III. Kết luận và kiến nghị ................................................................................... 28
Tài liệu tham khảo ................................................................................................ 30
Danh mục chữ cái viết tắt ...................................................................................... 30
Phụ lục ................................................................................................................... 31
1
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết việc đổi mới phương pháp dạy học không còn mới và xa lạ đối với mỗi giáo viên. Trong những năm gần đây giáo dục phổ thông nước ta đã và đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang chương trình tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ việc quan tâm đến học sinh học được cái gì đến việc quan tâm học sinh vận dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, nhất định phải thực hiện thành công việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “truyền thụ một chiều” sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất cho người học, tích cực hoá hoạt động của học sinh, khơi dậy và phát triển năng lực tự học, nhằm hình thành cho học sinh tư duy độc lập, tích cực sáng tạo, nâng cao năng lực phát triển và giải quyết vấn đề, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào hoạt động thực tiễn, tác động đến tình cảm đem lại niềm tin, hứng thú học tập cho HS. Để có những đổi mới trên cần thay đổi khâu soạn bài, kiểm tra đánh giá, đổi mới cách dạy, cách học của học sinh.
Trong giảng dạy môn GDCD phương pháp chủ đạo để rèn luyện nhân cách cho học sinh là phải thông qua việc thực hành của các em. Hơn bất cứ môn học nào, GDCD là môn học không chỉ đo bằng điểm số mà còn phải bằng chứng thực, kiểm tra bằng hành vi, điều đó thể hiện rõ trong quá trình tích cực, tự giác học tập của học sinh. Nếu rèn luyện cho học sinh có được phương pháp, tinh thần tự học, tự rèn luyện thì sẽ tạo cho các em lòng say mê, ham học, khơi dậy nội lực vốn có của bản thân đồng thời giúp học sinh tự rèn luyện những phẩm chất đạo đức, thế giới quan khoa học thông qua nội dung bài học và như vậy kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội.
Để đạt được kết quả đó điều cơ bản và quan trọng là giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học, phải chuyển từ dạy học theo định hướng nội dung sang dạy học theo định hướng năng lực. Nhưng trên thực tế việc đổi mới phương pháp dạy học đem lại hiệu quả chưa cao. Đặc biệt như ở Bài 13: “Công dân với cộng đồng” các phương pháp mà các giáo viên áp dụng chủ yếu đàm thoại, thuyết trình, một vài nội dung có thảo luận, nhưng câu hỏi thảo luận học sinh không cần phải suy nghĩ và trao đổi nhiều, chỉ chép trong sách giáo khoa ra, nên bài học thường nhàm chán, chưa có tính “mới” vì vậy mà chưa phát huy được tính tích cực học tập của học sinh, chưa rèn luyện được cho các em tính tự học, khả năng sáng tạo, học sinh chưa được rèn luyện, chưa được thể nghiệm bản thân, chưa phát huy hết các năng lực của mình.Vì vậy để học sinh được thể nghiệm, được rèn luyện và phát triển các kỹ năng của mình tôi đã chọn đề tài: Kinh nghiệm sử dụng một số phương pháp dạy học tích cực nhằm phát triển năng lực cho học sinh thông qua dạy học Bài 13: “Công dân với cộng đồng” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2
2. Mục tiêu nghiên cứu
Nhằm nâng cao chất lượng dạy học, chất lượng kiểm tra đánh giá học sinh; giúp rèn luyện các năng lực cho học sinh như năng lực hợp tác, năng lực trình bày trước đám đông, năng lực sáng tạo...tạo cho các em tính mạnh dạn, tự tin trong học tập và trong cuộc sống.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận về việc đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh
giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh.
- Các phương pháp dạy học tích cực như phương pháp đóng vai, phương pháp
chơi trò chơi, phương pháp động não, phương pháp thảo luận nhóm.
- Từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm qua việc trải nghiệm thực tế giảng
dạy của bản thân nhằm nâng cao chất lượng bộ môn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu mà tôi áp dụng trong đề tài này là giáo viên và học sinh các lớp khối 10 Trường THPT trên địa bàn Thị xã Hoàng Mai và huyện Quỳnh Lưu
- Phạm vi nghiên cứu: Bài 13: “Công dân với cộng đồng” – GDCD 10
5. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu lí luận: Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu thông qua việc nghiên cứu các tài liệu về dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh, sách giáo khoa, sách giáo viên và sách chuẩn kiến thức, kỹ năng và một số tài liệu tham khảo khác.
- Phương pháp quan sát sư phạm qua việc tổ chức hướng dẫn học sinh học
trên lớp.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm thông qua thao giảng, dự giờ, trao đổi rút kinh nghiệm để xem xét tính khả thi và hiệu quả của các biện pháp sư phạm đã đề xuất.
-Phương pháp phỏng vấn thông qua phỏng vấn giáo viên, học sinh.
6. Điểm mới của sáng kiến
Các phương pháp dạy học trước đây khi dạy Bài 13: “Công dân với cộng đồng”chưa phát huy được tính tích cực của học sinh, lớp học trầm, không sôi nổi, học sinh chưa rèn luyện được các kỹ năng, năng lực của bản thân. Ở đề tài này tôi đã sử dụng các phương pháp dạy học tích cực, như: phương pháp đóng vai, phương pháp chơi trò chơi, phương pháp động não, phương pháp thảo luận nhóm( học sinh hợp tác để cùng nhau hoàn thiện một bức tranh) nên đã phát triển được năng lực của các em, rèn luyện cho các em một số kỹ năng như: kỹ năng trình bày trước đám
3
đông; kỹ năng giao tiếp, kỹ năng hợp tác... Vì vậy, các em phấn khởi, hào hứng hơn trong học tập, lớp học sôi nổi hơn.
7. Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 01 năm 2019 đến tháng 3 năm 2020
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của vấn đề
1.1. Cơ sở lý luận
Đổi mới phương pháp dạy học là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm thực hiện đổi mới giáo dục, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục thế hệ trẻ. Chủ trương này đã thể hiện rõ trong nhiều văn bản quan trọng của Đảng và Nhà nước.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII khẳng định “chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn. Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội”.
Luật Giáo dục Số 43/2019/QH14, Điều 30 khoản 3 đã nêu rõ: “ Phương pháp giáo dục phổ thông phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh phù hợp với đặc trưng từng môn học, lớp học và đặc điểm đối tượng học sinh; bồi dưỡng phương pháp tự học, hứng thú học tập, kỹ năng hợp tác, khả năng tư duy độc lập; phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực của người học; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông vào quá trình giáo dục”.
Trong chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011-2020 ban hành kèm theo Quyết định 711/QĐ – TTg ngày 13/6/2012 của Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh: “Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của người học”
Định hướng trên nhấn mạnh đến việc phát huy tính tích cực, khả năng tự học, phương pháp tư duy sáng tạo, khả năng vận dụng kiến thức, hứng thú học tập của người học sinh.
Mặt khác, do yêu cầu dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh là học sinh vận dụng được kiến thức, kỹ năng đã học vào giải quyết tình huống trong cuộc sống, nghề nghiệp nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra của việc dạy học, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng năng lực vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn bị cho con người năng lực giải quyết các tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp.
Đồng thời, sử dụng các phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực không chỉ chú ý tích cực hoá học sinh về hoạt động trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống, đồng thời 4
gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn. Tăng cường việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ Giáo viên - Học sinh theo hướng cộng tác, nhằm phát triển các năng lực ở học sinh.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Đất nước đang trong thời kỳ Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa với nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa. Để thích ứng với cơ chế thị trường, chuẩn bị cho cuộc sống và có việc làm ngày càng tốt hơn, học sinh phải có sự chuyển biến manh mẽ về mục đích, động cơ, thái độ học tập. Xã hội phát triển nhanh đòi hỏi phải đáp ứng yêu cầu:
- Tự học suốt đời
- Năng động sáng tạo
- Tự lực giải quyết vấn đề của cuộc sống
Do vậy, dạy học theo phương pháp thụ động là chưa phù hợp với bản chất của lao động học tập và chưa đáp ứng được mục tiêu của xã hội hiện đại và phải có sự đổi mới. Thay cho tâm lí ỷ lại của thời bao cấp sẽ là sự tháo vát, năng động tự tạo việc làm. Học sinh sẽ ý thức được rằng học tập tốt trong nhà trường là hứa hẹn một tương lai tốt đẹp, sự thành đạt trong cuộc đời, phấn đấu trong học tập để có thực lực đạt tới vị trí kinh tế xã hội phù hợp với năng lực của mình. Với một đối tượng như vậy, đòi hỏi nhà trường phải có sự chuyển biến tích cực, sự đổi mới về nội dung, phương pháp dạy học - giáo dục.
Mặt khác, sự nghiệp Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa đất nước đòi hỏi phải có những con người lao động có chất lượng cao, năng động, sáng tạo, có đủ sức giải quyết vấn đề đặt ra trong thực tiễn phát triển của đất nước. Vì vậy có thể nói đổi mới giáo dục nói chung, đổi mới phương pháp dạy học nói riêng là một vấn đề cấp bách hiện nay để nâng cao chất lượng giáo dục, đáp ứng yêu cầu mới của đất nước.
Rõ ràng việc phát huy tính tích cực, tự giác học tập của học sinh đến mức độ nào phụ thuộc khá lớn vào phương pháp giảng dạy của giáo viên, cụ thể là thông qua khâu thiết kế, tổ chức và hướng dẫn của giáo viên. Trên thực tế, bên cạnh những giáo viên tích cực đổi mới phương pháp dạy học thì vẫn có nhiều giáo viên không muốn đổi mới hoặc cũng dạy theo hướng đổi mới nhưng còn mang nặng tính hình thức, đối phó...
Hoạt động đổi mới phương pháp dạy học ở trường THPT chưa mang lại hiệu quả cao. Truyền thụ tri thức một chiều vẫn là phương pháp dạy học chủ đạo của nhiều giáo viên. Số giáo viên thường xuyên chủ động, sáng tạo trong việc phối hợp các phương pháp dạy học cũng như sử dụng các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh còn chưa nhiều. Dạy học vẫn còn nặng về truyền thụ kiến thức lí thuyết. Việc rèn luyện kĩ năng sống, kỹ năng giải quyết các tình huống thực tiễn cho học sinh thông qua khả năng vận dụng tri thức tổng hợp chưa thực sự được quan tâm. Việc ứng dụng công nghệ thông tin –truyền thông, sử 5
dụng các phương tiện dạy học chưa được thực hiện rộng rãi và hiệu quả trong các trường THPT.
Thực trạng trên đây dẫn đến hệ quả là không rèn luyện được tính trung thực trong thi, kiểm tra; nhiều học sinh phổ thông còn thụ động trong việc học tập; khả năng sáng tạo và năng lực vận dụng tri thức đã học để giải quyết các tình huống thực tiễn cuộc sống còn hạn chế.
2. Một số vấn đề chung về dạy học theo định hướng phát triển năng lực
2.1. Khái niệm về năng lực
- Năng lực là khả năng vận dụng các kiến thức, kỹ năng, thái độ, niềm tin, giá
trị…vào việc thực hiện các nhiệm vụ trong những hoàn cảnh cụ thể của thực tiễn.
- Năng lực chung là những năng lực cơ bản, thiết yếu hoặc cốt lõi…làm nền tảng cho mọi hoạt động của con người trong cuộc sống và lao động nghề nghiệp. Năng lực chung được hình thành và phát triển từ nhiều môn học.
- Năng lực chuyên biệt là những năng lực được hình thành và phát triển trên cơ sở các năng lực chung theo định hướng chuyên sâu, riêng biệt. Năng lực chuyên biệt sẽ được hình thành và phát triển trong môn học/hoạt động giáo dục.
2.2. Chương trình giáo dục định hướng năng lực
Chương trình giáo dục định hướng phát triển năng lực (định hướng phát triển năng lực) nay còn gọi là dạy học định hướng kết quả đầu ra được bàn đến nhiều từ những năm 90 của thế kỷ 20 và ngày nay đã trở thành xu hướng giáo dục quốc tế. Giáo dục định hướng phát triển năng lực nhằm mục tiêu phát triển năng lực người học.
Giáo dục định hướng năng lực nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra của việc dạy học, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng năng lực vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn bị cho con người năng lực giải quyết các tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp. Chương trình này nhấn mạnh vai trò của người học với tư cách chủ thể của quá trình nhận thức.
Khác với chương trình định hướng nội dung, chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực tập trung vào việc mô tả chất lượng đầu ra, có thể coi là ”sản phẩm cuối cùng” của quá trình dạy học. Việc quản lý chất lượng dạy học chuyển từ việc điều khiển “đầu vào” sang điều khiển “đầu ra”, tức là kết quả học tập của HS.
Bảng so sánh một số đặc trưng cơ bản của chương trình định hướng nội dung và chương trình định hướng phát triển năng lực sẽ cho chúng ta thấy ưu điểm của chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực:
6
Chương trình định hướng nội dung Chương trình định hướng phát triển năng lực
Mục tiêu giáo dục
-Mục tiêu dạy học được mô tả không chi tiết và không nhất thiết phải quan sát, đánh giá được -Kết quả học tập cần đạt được mô tả chi tiết và có thể quan sát, đánh giá được; thể hiện được mức độ tiến bộ của HS một cách liên tục
Nội dung giáo dục
-Việc lựa chọn nội dung dựa vào các khoa học chuyên môn, không gắn với các tình huống thực tiễn. Nội dung được quy định chi tiết trong chương trình. - Lựa chọn những nội dung nhằm đạt được kết quả đầu ra đã quy định, gắn với các tình huống thực tiễn. Chương trình chỉ quy định những nội dung chính, không quy định chi tiết.
- GV chủ yếu là người tổ chức, hỗ trợ HS tự lực và tích cực lĩnh hội tri thức. Chú trọng sự phát triển khả năng giải quyết vấn đề, khả năng giao tiếp,…
Phương pháp dạy học
GV là người truyền thụ tri thức, là trung tâm của quá trình dạy học. HS tiếp thu thụ động những tri thức được quy định sẵn.
- Chú trọng sử dụng các quan điểm, phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực; các phương pháp dạy học thí nghiệm, thực hành.
Hình thức dạy học Chủ yếu dạy học lý thuyết trên lớp học.
- Tổ chức hình thức học tập đa dạng; chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học, trải nghiệm sáng tạo; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học.
Đánh giá kết quả học tập của HS Tiêu chí đánh giá được xây dựng chủ yếu dựa trên sự ghi nhớ và tái hiện nội dung đã học. Tiêu chí đánh giá dựa vào năng lực đầu ra, có tính đến sự tiến bộ trong quá trình học tập, chú trọng khả năng vận dụng trong các tình huống thực tiễn.
7
2.3. Các năng lực mà môn học GDCD hướng đến *Năng lực chung: - Nhóm năng lực làm chủ và phát triển bản thân: + Năng lực tự học + Năng lực giải quyết vấn đề + Năng lực sáng tạo + Năng lực tự quản lý - Nhóm năng lực về quan hệ xã hội: + Năng lực giao tiếp + Năng lực hợp tác - Nhóm năng lực công cụ: + Năng lực sử dụng công nghệ và truyền thông + Năng lực sử dụng ngôn ngữ + Năng lực tính toán. * Các năng lực chuyên biệt được hình thành thông qua môn GDCD: Môn GDCD ở trường THPT có vai trò quan trọng trực tiếp trong quá trình hình thành ý thức chính trị, hành vi đạo đức, pháp luật và lối sống cho học sinh .Môn học này có đặc điểm là gần gủi, gắn bó mật thiết với đời sống thực tiễn sinh động của gia đình, nhà trường và xã hội. Đặc điểm này tạo cho môn GDCD có những lợi thế để giáo viên có thể sử dụng các phương pháp giảng dạy tích cực nhằm phát triển các năng lực cho học sinh. Bên cạnh các năng lực chung, môn GDCD còn cung cấp các năng lực chuyên biệt sau:
-Tự nhận thức, tự điều chỉnh hành vi phù hợp với pháp luật và chuẩn mực đạo
đức xã hội:
+ Nhận thức được các giá trị đạo đức, truyền thống văn hóa, các quy định của pháp luật và nhận ra được các yếu tố tác động đến bản thân trong cuộc sống, học tập.
+ Nhận thức được các yếu tố tác động đến bản thân, có cách ứng xử phù hợp
với các tình huống trong cuộc sống, học tập.
+ Tự đánh giá, điều chỉnh hành vi phù hợp với pháp luật và chuẩn mực đạo
dức xã hội.
- Tự chịu trách nhiệm và thực hiện trách nhiệm công dân với cộng đồng đất
nước:
+ Đặt kế hoạch và nhiệm vụ phấn đấu cho mục tiêu của mình. + Nhận ra và tự chịu trách nhiệm trong các hoàn cảnh và công việc cụ thể. + Ý thức được quyền và nghĩa vụ của mình; tự giác thực hiện trách nhiệm
công dân với gia đình, cộng đồng, đất nước.
- Giải quyết các vấn đề đạo đức, pháp luật, chính trị, xã hội. + Tự đánh giá, tự điều chỉnh những hành động chưa hợp lí của bản thân trong
học tập và trong cuộc sống hàng ngày.
+ Chủ động tham gia hợp tác giải quyết các vấn đề đạo đức, pháp luật, chính
trị, xã hội.
8
3. Yêu cầu khi dạy Bài: “Công dân với cộng đồng”
Ở Bài 13: “Công dân với cộng đồng” gồm có 2 phần: - Phần 1: Cộng đồng và vai trò của cộng đồng đối với cuộc sống của con
người.
- Phần 2: Trách nhiệm của công dân đối với cộng đồng.
Khi dạy học bài này giáo viên cần giúp học sinh hiểu được:
*Về kiến thức: - Nêu được cộng đồng là gì và vai trò của cộng đồng đối với cuộc sống của
con người.
- Nêu được thế nào là nhân nghĩa, hòa nhập, hợp tác. - Nêu được các biểu hiện đặc trưng của nhân nghĩa, hòa nhập, hợp tác. - Hiểu được nhân nghĩa, hòa nhập, hợp tác là những yêu cầu đạo đức của người công dân hiện nay trong mối quan hệ với cộng đồng nơi ở, lớp học, trường học.
* Về kĩ năng:
Biết sống nhân nghĩa, hòa nhập, hợp tác với mọi người xung quanh.
* Về thái độ:
Yêu quý, gắn bó với lớp, với trường và cộng đồng nơi ở. Đây là một bài học khá quan trọng, nhằm giúp học sinh hiểu được con người ai cũng sống, học tập và làm việc trong những cộng đồng nhất định. Không ai có thể sống tách rời khỏi cộng đồng. Vì vậy mà mỗi thành viên cần phải sống và ứng xử sao cho phù hợp với lợi ích chung của cộng đồng, của xã hội. Đồng thời bài học này còn rèn luyện cho học sinh kỹ năng khai thác, sử dụng công nghệ thông tin để phục vụ cho bài học, tính mạnh dạn, tự tin, khả năng diễn đạt trước đám đông. Muốn đạt được điều đó đòi hỏi giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học, phải sử dụng các phương pháp dạy học tích cực trong quá trình truyền thụ kiến thức cho học sinh. Nhưng trong thực tế có một số giáo viên vẫn sử dụng các phương pháp truyền thống như đàm thoại, thuyết trình… Bên cạnh đó cũng có nhiều giờ dạy giáo viên đã đổi mới phương pháp dạy học nhưng những phương pháp đó hiệu quả chưa cao, chưa phát huy được tính tích cực, tự giác của học sinh, học sinh chưa được thể hiện khả năng, năng lực của mình, chưa biết áp dụng công nghệ thông tin để phục vụ cho bài học, các thao tác lên lớp của giáo viên còn lúng túng, chưa dứt khoát, các hoạt động chưa rõ ràng, .....nên hiệu quả của giờ dạy chưa cao. Vì vậy để thay đổi suy nghĩ, nhận thức, cách tìm hiểu kiến thức của các em học sinh và cũng để chia sẽ với các đồng nghiệp, tôi mạnh dạn nêu lên một số kinh nghiệm của mình về sử dụng phương pháp dạy học tích cực để dạy Bài 13: “Công dân với cộng đồng”. 4. Một số kinh nghiệm sử dụng phương pháp dạy học tích cực để dạy Bài 13: “Công dân với cộng đồng”-GDCD 10 theo định hướng phát triển năng lực
Để dạy tốt Bài 13: “Công dân với cộng đồng” - GDCD 10 tôi đã sử dụng kết hợp các phương pháp dạy học khác nhau, trong đó có một số phương pháp chủ đạo, đó là: Phương pháp động não, phương pháp trò chơi, phương pháp đóng vai và phương pháp thảo luận nhóm.
9
4.1. Kinh nghiệm sử dụng phương pháp động não Phương pháp động não là phương pháp dạy học trong đó nội dung bài học không được cấu trúc thành bài chặt chẽ, cho trước, tất cả học sinh trong lớp trong một thời gian ngắn phải đưa ra ý kiến, ý tưởng, giả định của mình về một vấn đề nào đó. Phương pháp động não được thực hiện như sau:
- Giáo viên nêu câu hỏi hoặc vấn đề cần được tìm hiểu trước cả lớp hoặc trước
nhóm, khích lệ học sinh phát biểu và đóng góp ý kiến càng nhiều càng tốt.
- Liệt kê tất cả mọi ý kiến lên bảng hoặc giấy to không loại trừ một ý kiến nào,
trừ trường hợp trùng lặp. - Phân loại ý kiến - Làm sáng tỏ những ý kiến chưa rõ ràng. -Tổng hợp ý kiến của học sinh, giáo viên hỏi xem học sinh có thắc mắc hay
bổ sung gì không. Với phương pháp này có ưu điểm: Tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh, tạo môi trường học tập sôi nổi, học sinh cùng nhau xây dựng nhận thức mới, thúc đẩy học sinh linh hoạt, sáng tạo trong khi giải quyết vấn đề. Bên cạnh đó phương pháp động não có những hạn chế sau: Nếu giáo viên yêu cầu quá cao thì sẽ làm cho học sinh bị ức chế, tự ti không thu được kết quả tốt; Ngược lại nếu yêu cầu ở mức độ thấp không cần động não nhiều thì học sinh không phát huy hết tính năng động sáng tạo trong tư duy. Để phát huy ưu điểm khắc phục hạn chế của phương pháp này giáo viên cần lưu ý: - Phương pháp này đặc biệt phù hợp với các vấn đề ít nhiều đã quen thuộc
trong thực tế cuộc sống của học sinh.
- Có thể sử dụng phương pháp này cho cả câu hỏi có phần kết đóng và phần
kết mở.
- Các ý kiến phát biểu nên ngắn gọn, bằng một từ hay một câu thật ngắn. -Tất cả các ý kiến đều cần được giáo viên hoan nghênh, chấp nhận mà không
nên phê phán, nhận định đúng hay sai ngay.
- Cuối giờ thảo luận, giáo viên nên nhấn mạnh kết luận này là kết quả của sự
tham gia chung của tất cả học sinh. Trong Bài “Công dân với cộng đồng” tôi đã sử dụng phương pháp động não ở phần: Cộng đồng, vai trò của cộng đồng đối với cuộc sống của con người và phần nhân nghĩa:
- Để tìm hiểu khái niệm cộng đồng là gì, tôi đã sử dụng một số hình ảnh trực quan sau đó nêu lên câu hỏi : GV chiếu một số hình ảnh : Chợ, lớp học, trường học, gia đình, một đám đông bên đường.
10
(Nơi buôn bán, trao đổi hàng hóa)
(Lớp học )
11
( Gia đình)
(Một đám đông bên đường)
12
(Trường học)
Câu hỏi 1: Những hình ảnh trên, hình ảnh nào nói về cộng đồng và hình ảnh nào không nói về cộng đồng? Vì sao?
Câu hỏi 2: Em hiểu cộng đồng là gì? Cho ví dụ
Câu hỏi3: Theo em mỗi cá nhân có thể tham gia được bao nhiêu cộng đồng? Bản thân em hiện nay đang tham gia những cộng đồng nào?
Câu hỏi 4: Mỗi người sống không thể tách khỏi cộng đồng. Vậy theo em cộng đồng có vai trò gì đối với cuộc sống của mỗi con người?
- HS suy nghĩ trả lời câu hỏi mà giáo viên nêu ra
- Sau khi học sinh trả lời, giáo viên nhận xét, rút ra kết luận:
+ Khái niệm cộng đồng: Cộng đồng là toàn thể những người cùng sống, có
những điểm giống nhau, gắn bó thành một khối trong sinh hoạt xã hội.
+ Vai trò của cộng đồng đối với cuộc sống của con người.
+ Muốn duy trì cuộc sống của mình, con người phải lao động và liên quan với những người khác, với cộng đồng. Không ai có thể sống ở bên ngoài cộng đồng và xã hội.
+ Cộng đồng là hình thức thể hiện các mối liên hệ và quan hệ xã hội của con người. Đó là môi trường xã hội để các cá nhân thực hiện sự liên kết, hợp tác với nhau, tạo nên đời sống của mình và của cả cộng đồng.
13
+ Cộng đồng chăm lo cho cuộc sống của cá nhân, đảm bảo cho mỗi người có
những điều kiện để phát triển.
Ngoài ra tôi còn sử dụng phương pháp động não kết hợp với phương pháp dạy học trực quan để dạy nội dung “nhân nghĩa”. Giáo viên nêu một số câu hỏi: Câu hỏi 1: Những hình ảnh sau hình ảnh nào nói về hoạt động nhân nghĩa?
14
Câu hỏi 2: Em hiểu nhân nghĩa là gì?
Câu hỏi 3: Em hãy nêu một số câu ca dao, tục ngữ nói về nhân nghĩa?
15
Câu hỏi 4: Bản thân em đã làm những việc làm nào thể hiện nhân nghĩa? Theo em những hoạt động nhân nghĩa mà em đã làm có ý nghĩa gì?
Câu hỏi 5: Để phát huy truyền thống nhân nghĩa bản thân em cần phải làm gì ?
HS suy nghĩa trả lời
GV nhận xét, kết luận
Như vậy thông qua việc sử dụng phương pháp động não ở các nội dung trên tôi nhận thấy các em đã được phát triển các năng lực:
- Năng lực sáng tạo: Trong quá trình tư duy, suy nghĩ các em sẽ phát huy tính sáng tạo của mình đưa ra các ý kiến,quan điểm của mình để trả lời các câu hỏi mà giáo viên nêu ra.
- Năng lực tự quản lí: Trong một thời gian ngắn HS đưa ra câu trả của mình một cách nhanh nhất và ngắn gọn, đầy đủ phù hợp với thời gian mà giáo viên giao.
- Năng lực sử dụng ngôn ngữ: HS biết lựa chọn ngôn ngữ phù hợp, ngắn gọn,
chính xác để diễn đạt câu trả lời của mình.
- Năng lực tự học: HS tự suy nghĩ, tự học và tự bộc lộ khả năng của mình.
- Năng lực giao tiếp: Rèn luyện cho học sinh tính mạnh dạn, tự tin, khả năng
giao tiếp, khả năng diễn đạt trước đám đông.
- Năng lực tự nhận thức, tự điều chỉnh hành vi phù hợp pháp luật và chuẩn mực đạo đức xã hội: HS biết tự nhận thức đâu là việc làm thể hiện tinh thần nhân nghĩa, đâu là việc làm không nhân nghĩa, để từ đó giúp các em có những hành động, những việc làm “nhân nghĩa”.
- Năng lực tự chịu trách nhiệm và thực hiện trách nhiệm công dân với cộng đồng, đất nước. HS có ý thức nêu cao trách nhiệm phát huy truyền thống nhân nghĩa của dân tộc ta.
Tóm lại: Thông qua hoạt động này tôi nhận thấy: Các em đã được thể hiện tính sáng tạo của mình, biết độc lập suy nghĩ, nêu lên chứng kiến của mình, tạo môi trường học tập sôi nổi, học sinh cùng nhau xây dựng nhận thức mới, thúc đẩy học sinh linh hoạt, sáng tạo trong khi giải quyết vấn đề. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế đó là để học sinh trả lời những câu hỏi mà giáo viên nêu ra sẽ mất nhiều thời gian ảnh hưởng đến các hoạt động khác.
4.2. Kinh nghiệm sử dụng phương pháp chơi trò chơi
Phương pháp chơi trò chơi là phương pháp tổ chức cho học sinh tìm hiểu một vấn đề hay thể nghiệm những hành động, những thái độ, những việc làm thông qua một trò chơi nào đó.
Một số trò chơi thường được sử dụng trong quá trình dạy học môn GDCD như trò chơi đuổi hình bắt chữ, trò chơi rung chuông vàng, trò chơi đối mặt, trò chơi ai là triệu phú, trò chơi đuổi hình bắt chữ, trò chơi tập làm phóng viên... Với tôi để dạy 16
nội dung: “Biểu hiện của nhân nghĩa”, tôi sử dụng phương pháp chơi trò chơi “Tiếp sức”.
Với phương pháp này có một số ưu điểm sau: Qua trò chơi, học sinh có cơ hội thể nghiệm những thái độ, hành vi. Chính nhờ sự thể nghiệm này, sẽ hình thành ở các em niềm tin vào những thái độ, hành vi tích cực, tạo ra động cơ bên trong cho những hành vi ứng xử trong cuộc sống. Qua trò chơi, học sinh sẽ được rèn luyện khả năng quyết định lựa chọn cho mình cách ứng xử đúng đắn, phù hợp trong tình huống. Qua trò chơi, học sinh được hình thành năng lực quan sát, được rèn luyện kỹ năng nhận xét, đánh giá hành vi. Bằng trò chơi việc học tập được tiến hành một cách nhẹ nhàng, sinh động, không khô khan, nhàm chán. Học sinh được lôi cuốn vào quá trình luyện tập một cách tự nhiên, hứng thú và có tinh thần trách nhiệm, đồng thời giải trừ được những mệt mỏi, căng thẳng trong học tập. Trò chơi còn giúp tăng cường khả năng giao tiếp giữa học sinh với học sinh, giữa giáo viên với học sinh.
Bên cạnh những ưu điểm trên, phương pháp này còn có một số hạn chế sau: Trong quá trình chơi có thể ồn ào, làm ảnh hưởng đến các lớp khác. Học sinh có thể ham vui, kéo dài thời gian chơi, làm ảnh hưởng đến các hoạt động khác của tiết học. Sự ganh đua thái quá giữa các cá nhân và nhóm học sinh trong khi chơi có thể mất đoàn kết trong tập thể học sinh. Ý nghĩa giáo dục trò chơi có thể bị hạn chế nếu lựa chọn trò chơi không phù hợp hoặc tổ chức trò chơi không tốt.
Trong bài này tôi đã sử dụng phương pháp chơi trò chơi “Tiếp sức” để dạy nội dung biểu hiện của nhân nghĩa
- Trước hết giáo viên phổ biến tên trò chơi, nội dung và luật chơi cho học sinh:
GV chia lớp thành 2 đội chơi:
- Mỗi đội lên trình bày các biểu hiện của nhân nghĩa, mỗi biểu hiện nêu một
ví dụ tương ứng.
- Mỗi em chỉ được lên một lần, em này lên trình bày xong xuống chổ ngồi và
em khác lên. Không lên một lúc nhiều em tránh lộn xộn.
Sau thời gian 3 phút, đội nào nêu được nhiều biểu hiện, ví dụ đúng và phù hợp với biểu hiện đó nhất thì đội đó sẽ chiến thắng.
- Phần thưởng cho đội thắng là một tràng pháo tay động viên khích lệ.
-Trò chơi phải phải phù hợp với nội dung, với đặc điểm và trình độ học sinh
THPT, với quỹ thời gian, với hoàn cảnh, điều kiện lớp học.
-Học sinh phải nắm được quy tắc chơi và phải tôn trọng luật chơi. Phải quy
định rõ thời gian chơi(2-3 phút).
- Phải phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh, GV gọi cả HS
nhút nhát cùng tham gia.
Kết quả sau 3 phút các em đã trình bày khá thành công:
17
(Ảnh 10A4 chơi trò chơi”
Sau khi kết thúc trò chơi giáo viên chiếu một số hình ảnh về hoạt động nhân nghĩa và để thay đổi không khí giáo viên cho học sinh nghe bài hát “Miền trung máu chảy ruột mềm”.
Với phương pháp này tôi nhận thấy thông qua việc tham gia chơi trò chơi các em đã được rèn luyện các năng lực như:
18
- Năng lực sáng tạo: Trong quá trình tham gia chơi sẽ phát huy được tính
sáng tạo của các em.
- Năng lực giải quyết vấn đề: HS biết cách giải quyết những vấn đề đặt ra
trong quá trình học tập và trong cuộc sống .
- Năng lực giao tiếp: Rèn luyện cho học sinh tính mạnh dạn, tự tin, hình thành
năng lực giao tiếp giữa GV với HS, giữa HS với HS.
- Năng lực tự học: HS tự suy nghĩ và đưa ra đáp án.
- Năng lực tự quản lí: HS biết quản lí thời gian để không ảnh hưởng đến kết
quả chung của nhóm.
- Năng lực tự nhận thức, tự điều chỉnh hành vi phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội: HS tự nhận thức được đâu là những việc làm nhân nghĩa và nêu lên những ví dụ trong thực tiễn cuộc sống.
- Năng lực tự chịu trách nhiệm và thực hiện trách nhiệm công dân với cộng đồng, đất nước: Thông qua việc chơi trò chơi các em được thể hiện trách nhiệm của mình đối với cộng đồng, đó là sống phải có lòng nhân nghĩa, luôn yêu thương, giúp đỡ mọi người.
Tóm lại: Với phương pháp này tôi nhận thấy lớp học sôi nổi hơn, học sinh hứng thú hơn, thay đổi được không khí trong lớp học. HS sẽ được rèn luyện tính mạnh dạn, tư tin, khả năng giao tiếp và khả năng diễn đạt trước đám đông. Học sinh được trải nghiệm, được làm, được thể hiện bản thân. Tuy nhiên bên cạnh đó tôi nhận thấy hoạt động trên đang còn một số hạn chế: Trong quá trình chơi lớp học sẽ ồn ào, học sinh ham vui sẽ kéo dài thời gian chơi nếu giáo viên không làm chủ được về mặt thời gian.
4.3. Kinh nghiệm sử dụng phương pháp đóng vai
Phương pháp đóng vai là phương pháp tổ chức cho người học thực hành,“làm thử” một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Đây là phương pháp dạy học nhằm giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào một sự kiện cụ thể mà họ quan sát được. Việc “diễn” không phải là phần chính của phương pháp này mà điều quan trọng là sự thảo luận sau phần diễn ấy.
Quy trình thực hiện của phương pháp này là:
- Giáo viên nêu chủ đề, chia nhóm và giao tình huống, yêu cầu đóng vai cho
từng nhóm.
-Trong đó có quy định rõ thời gian chuẩn bị, thời gian đóng vai của mỗi nhóm
- HS thảo luận chuẩn bị đóng vai
- HS tiến hành đóng vai
- Lớp thảo luận nhận xét
19
- Giáo viên yêu cầu học sinh rút ra ý nghĩa của tiểu phẩm mà các bạn vừa mới
thể hiện
- Giáo viên nhận xét, bổ sung và kết luận.
Phương pháp đóng vai có những ưu điểm là: Học sinh được rèn luyện, thực hành những kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái độ trong môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn; Gây hứng thú và chú ý cho học sinh; Tạo điều kiện làm phát triển óc sáng tạo của học sinh; Khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của học sinh theo hướng tích cực; Có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các vai diễn.
Bên cạnh những ưu điểm phương pháp đóng vai có những hạn chế sau: Nếu học sinh đóng vai không hiểu rõ vai của mình (lạc đề) thì sẽ không thu được kết quả như mong muốn, có khi kết quả ngược lại; Nếu không có yếu tố hóa trang hoặc đạo cụ thì sẽ giảm hiệu quả của giờ học, không gây được hứng thú của học sinh. Người đóng vai ít có kinh nghiệm và khả năng diễn đạt sẽ làm cho lớp học không tập trung hoặc rối nhiễu.
Vì vậy, để phát huy ưu điểm, hạn chế nhược điểm của phương pháp này ở Bài 13: “Công dân với cộng đồng”, tôi đã sử dụng phương pháp đóng vai và đã đúc rút được một số kinh nghiệm sau:
- Tình huống đóng vai phải là những chủ đề phù hợp với nội dung tri thức của bài, của môn GDCD, phù hợp với tâm lí lứa tuổi, trình độ học sinh và điều kiện, hoàn cảnh lớp học;Tình huống nên để mở, không cho trước “kịch bản” lời thoại.
- Phải dành thời gian phù hợp cho các nhóm đóng vai (không quá 4 phút);
Người đóng vai phải hiểu rõ vai của mình trong bài tập đóng vai để không lạc đề.
- Mặt khác để tránh mất nhiều thời gian, giáo viên yêu cầu các nhóm tự chuẩn bị ở nhà, sau đó lên lớp trình bày. Khi các nhóm tự chuẩn bị ở nhà nghĩa là các em cũng đã chuẩn bị bài mới, giáo viên hướng dẫn học sinh để giải quyết tình huống tốt thì phải đọc trước kiến thức nào, sau đó vận dụng vào để có cách ứng xử phù hợp. Các vai nên để học sinh tự xung phong và phân công nhau, giáo viên khích lệ những em nhút nhát cùng tham gia.
Cụ thể như ở phần “Hòa nhập” tôi sử dụng phương pháp đóng vai. Để dạy phần này có nhiều phương pháp dạy học khác nhau: Có nhiều giáo viên sử dụng phương pháp vấn đáp để khai thác nội dung hòa nhập.Với phương pháp này bản thân tôi thấy chưa phát huy được năng lực của học sinh, với tôi để dạy phần này nhằm phát huy được năng lực của học sinh tôi đã sử dụng phương pháp đóng vai, cụ thể như sau:
Giáo viên cho hai học sinh đóng hai vai chính đó là hai người mới chuyển trường từ một trường A đến trường B để học.
20
Tình huống:
Bạn H tính tình rụt rè, nhút nhát, không chơi với ai cả, lên lớp thường ngồi một mình. Ngược lại bạn Q luôn vui vẻ, sống hòa đồng với bạn bè nên được mọi người quý mến và chơi với bạn Q.
Ngoài hai vai chính này ra còn có một số vai phụ: Một bạn đóng vai giáo viên chủ nhiệm lớp giới thiệu với cả lớp có hai bạn mới chuyển trường từ trường A đến trường B để học, khoảng 3-4 bạn đóng vai các bạn trong lớp cùng chơi với bạn Q.
Để phương pháp đóng vai có hiệu quả, giáo viên nên cho học sinh chuẩn bị trước một tuần và yêu cầu mỗi học sinh khi lên thể hiện phải mạnh dạn, tự tin, thể hiện đúng vai của mình và phải đảm bảo tính nghiêm túc khi diễn.
Giáo viên nên dành thời gian phù hợp cho học sinh đóng vai (khoảng 3-4 phút).
(Ảnh các em tham gia đóng vai)
Chỉ từ 3-4 phút các em thể hiện khá thành công:
Thông qua hoạt động này tôi nhận thấy: Lớp học hào hứng hơn, học sinh được
rèn luyện tính tự giác, mạnh dạn, tự tin, ngại e thẹn, phát triển được các năng lực:
- Năng lực sáng tạo: HS nghĩ ra lời thoại để giao tiếp với nhau
21
- Năng lực tự quản lí: HS biết quản lí thời gian khi diễn (không quá 4 phút)
- Năng lực sử dụng ngôn ngữ: HS biết lựa chọn ngôn ngữ phù hợp, hay, hấp
dẫn để quãng cáo thuyết phục người nghe.
-Năng lực tự học: HS tự suy nghĩ, tự học và tự bộc lộ khả năng của mình.
-Năng lực giao tiếp: Rèn luyện cho học sinh tính mạnh dạn, tự tin, khả năng
giao tiếp, khả năng diễn đạt trước đám đông.
Tóm lại: Với phương pháp này HS sẽ được rèn luyện tính mạnh dạn, tư tin, khả năng giao tiếp và khả năng diễn đạt trước đám đông. Học sinh được trải nghiệm, được làm, được thể hiện bản thân. Tuy nhiên thông qua hoạt động này tôi thấy có một số hạn chế như: Việc diễn có hay không, có hấp dẫn, thu hút được người nghe hay không là tùy thuộc vào năng lực của học sinh; Học sinh còn e thẹn nên khi diễn đạt chưa được lưu loát.
4.4. Kinh nghiệm sử dụng phương pháp thảo luận nhóm
Phương pháp thảo luận nhóm là phương pháp dạy học trong đó nhóm lớn (lớp học) được chia thành các nhóm nhỏ để tất cả các thành viên trong lớp đều được làm việc, được bàn bạc, trao đổi về một chủ đề cụ thể và đưa ra ý kiến chung của nhóm mình về vấn đề đó.
Phương pháp thảo luận nhóm được sử dụng nhằm giúp cho mọi học sinh tham gia một cách chủ động vào quá trình học tập, tạo cơ hội cho các em có thể chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, ý kiến để giải quyết vấn đề có liên quan đến nội dung bài học, tạo cơ hội cho các em được giao lưu, học hỏi lẫn nhau, cùng hợp tác, giải quyết những nhiệm vụ chung.
-Quy trình thực hiện:
+ Giáo viên có thể giới thiệu chủ đề thảo luận
+ Chia nhóm, giao nhiệm vụ cho mỗi nhóm, quy định thời gian và phân công
vị trí làm việc cho mỗi nhóm.
+ Các nhóm thảo luận, giải quyết nhiệm vụ được giao.
+ Đại diện từng nhóm trình bày kết quả thảo luận của nhóm. Các nhóm khác
quan sát, lắng nghe, chất vấn, bình luận và bổ sung ý kiến.
+ Giáo viên tổng kết và nhận xét.
- Với phương pháp này có những ưu điểm sau: Nhờ không khí thảo luận cởi mở nên học sinh, đặc biệt là các em học sinh nhút nhát trở nên bạo dạn hơn, các em được học cách trình bày ý kiến của mình, biết lắng nghe có phê phán ý kiến của bạn, từ đó giúp học sinh dễ hòa nhập vào cộng đồng nhóm, tạo cho các em sự tự tin, hứng thú trong học tập và sinh hoạt. Giúp kiến thức của các em bớt chủ quan, phiến diện hơn và sâu sắc, bền vững, dễ nhớ hơn. Vốn hiểu biết và kinh nghiệm xã hội của học sinh thêm phong phú, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng hợp tác của học sinh được phát triển.
22
-Bên cạnh những ưu điểm trên phương pháp thảo luân nhóm còn có một số
hạn chế:
Ý kiến các nhóm có thể bị phân tán hoặc mâu thuẫn gay gắt với nhau. Một số học sinh nhút nhát hoặc vì một lí do nào đó không tham gia vào hoạt động chung của nhóm. Thời gian có thể bị kéo dài, lớp ồn ào, ảnh hưởng đến lớp khác.
- Để phát huy ưu điểm, khắc phục hạn chế trên giáo viên cần phải:
+ Để tiến hành phương pháp này điều đầu tiên là giáo viên phải chia lớp thành các nhóm, số lượng các nhóm tùy thuộc vào từng bài dạy, từng yêu cầu mà giáo viên đặt ra. Có nhiều cách chia nhóm: Chia theo tổ, chia theo tên thứ tự, chia theo bàn, với phần này tôi chia thành 4 nhóm theo tổ.
+ Chủ đề yêu cầu học sinh thảo luận phù hợp với nội dung bài học. Giáo viên nêu câu hỏi thảo luận ở dạng tình huống, phân tích, chứng minh,...Tránh trường hợp học sinh chép lại nội dung sách giáo khoa đã trình bày. Ở phần này tôi nêu một câu hỏi mở cho cả bốn nhóm cùng thảo luận .
+ Cách trình bày kết quả thảo luận nhóm để cho học sinh các nhóm tự chọn:
Như bằng lời, bằng tiểu phẩm, bằng tranh vẽ, hoặc bằng văn bản viết...
+ Mỗi nhóm bầu một nhóm trưởng điều hành chung và thư ký để ghi chép.
+ Giáo viên quy định thời gian thảo luận, thời gian trình bày, giáo viên phải
theo dõi hoạt động của mỗi nhóm, khuyến khích và giúp đỡ khi cần thiết.
+ Cần quy định rõ thời gian thảo luận nhóm và trình bày kết quả thảo luận cho
mỗi nhóm.
+ Giáo viên cần tạo cơ hội cho học sinh tham gia vào các nhóm khác nhau với các bạn khác nhau để các em có thể tương tác, học hỏi lẫn nhau. Các thành viên phải hướng vào nhau khi trao đổi, chia sẻ, thảo luận.
+ Học sinh cần tự đánh giá kết quả hoạt động của nhóm mình và đánh giá hoạt
động của nhóm khác.
Trong Bài “Công dân với cộng đồng” tôi đã sử dụng phương pháp thảo luận nhóm để dạy nội dung “Hợp tác”.
Thông thường ở nội dung “Hợp tác”, các giáo viên thường sử dụng phương pháp đàm thoại hoặc nếu có cho học sinh thảo luận thì câu hỏi thảo luận thường là những câu hỏi nặng về kiến thức, buộc học sinh phải cùng nhau suy nghĩ để trả lời, nên tạo áp lực, gây căng thẳng cho các em, lớp học lại nhàm chán. Với tôi ở phần này để thay đổi không khí lớp học, tránh nhàm chán và căng thẳng tôi cho em thảo luận bằng cách vẽ mỗi nhóm một bức tranh chủ đề về Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11(Bài này ở trường tôi dạy đúng vào dịp 20/11), tôi đã cho học sinh thực hiện trong vòng 15 phút và làm như sau:
23
-Giáo viên giới thiệu chủ đề thảo luận: Yêu cầu các nhóm thảo luận để hợp
tác với nhau cùng vẽ một bức tranh có chủ đề về Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11
- Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm theo 4 tổ, thời gian thảo luận và hoàn thiện
sản phẩm 15 phút
- HS thảo nhóm
- HS cùng hợp tác với nhau để vẽ tranh
(Lưu ý: Để hoàn thiện sản phẩm và đạt kết quả như mong muốn giáo viên giao học sinh chuẩn bị giấy, bút màu... từ tiết học trước, chia nhóm theo bốn tổ của lớp để các em tiện phân công chuẩn bị đồ dùng học tập).
(Hình ảnh lớp 10A4 hợp tác cùng vẽ tranh)
24
(đại diện các nhóm lên trình bày)
25
Sau khi thảo luận xong các nhóm lên treo sản phẩm của nhóm mình lên bảng,
nhóm trưởng các nhóm lần lượt lên trình bày kết quả của nhóm mình.
Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm ở phần này mục đích nhằm phát triển
năng lực của học sinh là:
- Năng lực giao tiếp: Hình thành năng lực giao tiếp giữa GV với HS, giữa HS
với HS. Tạo tính mạnh dạn, tự tin, khả năng giao tiếp tốt hơn.
- Năng lực sử dụng ngôn ngữ: Rèn luyện khả năng trình bày trước lớp
- Năng lực tự nhận thức và điều chỉnh hành vi của mình phù hợp với pháp luật
và chuẫn mực đạo đức của xã hội.
- Năng lực sáng tạo: HS sáng tạo trong việc đưa ra các ý tưởng để vẽ tranh.
- Năng lực giải quyết vấn đề: Giáo viên đặt ra vấn đề cho học sinh giải quyết
theo nhóm.
- Năng lực hợp tác: Học sinh hợp tác với nhau trong nhóm để làm việc tốt
hơn.
Như vậy thông qua hoạt động này tôi nhận thấy học sinh thể hiện được tài năng, năng khiếu của mình nên các em làm việc rất tích cực, thảo luận sôi nổi, các em đã thực sự thể hiện năng lực của mình, lớp học trở nên sôi nổi hơn, thúc đẩy tinh thần đoàn kết và tính hợp tác giữa các học sinh với nhau.Tuy nhiên với phương pháp này có những hạn chế như lớp học ồn ào, một vài học sinh không thảo luận, nếu giáo viên tổ chức không khéo sẽ mất nhiều thời gian, một số học sinh không có năng khiếu vẻ tranh.
5. Kết quả thực nghiệm sư phạm
- Địa điểm: Trường THPT A, tỉnh Nghệ An. Chọn ngẫu nhiên lớp 10A4 làm
lớp thực nghiệm, chọn lớp 10A2 làm lớp đối chứng.
- Kết quả thu được như sau:
+ Trước khi tiến hành thực nghiệm:
Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém
Lớp SL SL SL SL SL Tổng số HS Tỉ lệ % Tỷ lệ % Tỷ lệ % Tỷ lệ % Tỷ lệ %
10A4 42 9,5 15 35,7 22 52,4 4 1 2,4 0 0
10A2 42 11,9 17 40,5 19 45,2 5 1 2,4 0 0
26
+ Sau khi tiến hành dạy thực nghiệm, dạy đối chứng kết quả thu được như
sau:
Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém
Lớp SL SL SL SL SL Tổng số HS Giải pháp Tỷ lệ % Tỷ lệ % Tỷ lệ % Tỉ lệ % Tỷ lệ %
10A4 42 TN 19 45,2 20 47,6 3 7,1 0 0 0 0
10A2 42 ĐC 7 16,7 25 59,5 10 23,8 0 0 0 0
- Dựa trên các kết quả thực nghiệm sư phạm cho thấy chất lượng học tập của học sinh lớp thực nghiệm cao hơn học sinh lớp đối chứng, điều đó thể hiện ở các điểm sau:
+ Tỉ lệ % học sinh trung bình của lớp thực nghiệm thấp hơn so với lớp đối
chứng.
+ Tỉ lệ % học sinh khá, giỏi của lớp thực nghiệm là cao hơn so với lớp đối
chứng.
- Đối với lớp dạy thực nghiệm 10A4
Thay vì tiếp thu thụ động như trước đây, giờ đây học sinh đã chủ động tham gia vào việc tìm kiếm tri thức của bài học, hoạt động học tập của học sinh diễn ra sôi nổi, không gây cảm giác khó chịu, điều đó làm cho các tiết học không còn nhàm chán. Việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực đã kích thích được sự hứng thú của học sinh trong quá trình học chủ đề. Các em thấy tự tin hơn và mong muốn tìm tòi, khám phá tri thức, hình thành được khả năng tự học, tự nghiên cứu các vấn đề do giáo viên yêu cầu, những điều mà học sinh học được nhiều hơn không chỉ là kiến thức mà quan trọng là các em được trang bị cả kĩ năng sống như kĩ năng làm việc theo nhóm, kĩ năng sống hòa nhập với cộng đồng, kĩ năng quản lí, điều hành công việc, kĩ năng hùng biện, diễn thuyết trước đám đông, kĩ năng xử lí tình huống... đó là những kĩ năng cần thiết của con người trong thời đại ngày nay.
- Đối với lớp đối chứng 10A2
Hoạt động học tập ở lớp đối chứng chủ yếu là sử dụng phương pháp thuyết trình, đàm thoại và thảo luận nhóm theo các nội dung trong sách giáo khoa, vì vậy mà không gây hứng thú học tập cho học sinh. Khả năng vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống, khả năng hợp tác để hoàn thành nhiệm vụ học tập, là rất hạn chế. Một số học sinh học thiếu tập trung vì cảm thấy kiến thức trong sách giáo khoa đã có sẵn, không có gì đề khai thác thêm, không khí lớp học trầm xuống.
27
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Ý nghĩa của đề tài
- Đối với giáo viên:
+Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh là vấn đề mới và khó, đòi hỏi tất cả giáo viên phải được bồi dưỡng để nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm đáp ứng với yêu cầu mới của giáo dục nước ta hiện nay.
+ Sáng kiến kinh nghiệm này đã thực sự mang lại nhiều hiệu quả cụ thể và
thiết thực cho tôi trong quá trình dạy học.
+ Nó giúp tôi nâng cao hơn nữa trình độ chuyên môn cũng như nghiệp vụ trong quá trình giảng dạy như: Giúp tôi tiếp cận với các phương pháp dạy học tích cực.
+Không những thế khi sử dụng cách dạy này giáo viên đỡ vất vả hơn vì không
mất nhiều công sức trong quá trình giảng dạy.
- Đối với học sinh
+Tạo hứng thú, say mê học tập cho học sinh, các em hăng say phát biểu, rèn luyện cho học sinh kỹ năng trình bày một vấn đề trước đám đông, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng hợp tác, kĩ năng hòa nhập...Rèn luyện cho học sinh thói quen chủ động sáng tạo trong quá trình lĩnh hội tri thức. Đồng thời học sinh biết lên án đấu tranh với những hành vi, việc làm trái với quy tắc chuẩn mực đạo đức và quy định của pháp luật.
+ Từ kiến thức, kĩ năng được học, học sinh rút ra được những bài học bổ ích
cho bản thân để phục vụ cuộc sống sau này.
2. Kết luận và kiến nghị
2.1. Kết luận chung
Qua một thời gian giảng dạy, nghiên cứu, đề tài đã hoàn thành với những kết quả sau:
-Đã hệ thống lại các phần lí luận chung liên quan đến vấn đề đổi mới phương
pháp dạy học nhằm phát triển năng lực cho học sinh
-Đã nêu lên được một số kinh nghiệm của bản thân trong việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực nhằm phát triển năng lực cho học sinh thông qua dạy học Bài 13: “Công dân với Cộng đồng”
- Sáng kiến kinh nghiệm này đã thực sự mang lại nhiều hiệu quả cụ thể và thiết thực cho tôi trong quá trình dạy học, nó giúp tôi nâng cao hơn nữa trình độ chuyên môn cũng như nghiệp vụ trong quá trình giảng dạy như: Giúp tôi tiếp cận với các phương pháp dạy học tích cực. Không những thế khi sử dụng cách dạy này giáo viên đỡ vất vả hơn vì không mất nhiều công sức trong quá trình giảng dạy.
28
- Dạy học theo định hướng phát riển năng lực đã phát huy tính tích cực học tập của học sinh, tạo hứng thú, say mê học tập cho học sinh: Như hăng say phát biểu, rèn luyện cho học sinh kỹ năng trình bày một vấn đề trước đám đông, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng hợp tác, kĩ năng hòa nhập...Rèn luyện cho học sinh thói quen chủ động sáng tạo trong quá trình lĩnh hội tri thức. Đồng thời học sinh biết sống nhân nghĩa, hòa nhập và hợp tác.
2.2. Kiến nghị
- Đối với cơ quan cấp trên (Sở GD & ĐT) nên thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn, chuyên đề, trao đổi kinh nghiệm giữa các trường trong Huyện và trong Tỉnh để các giáo viên có dịp được học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả giảng dạy.
- Đối với Ban giám hiệu cần có kế hoạch, nhắc nhở, đôn đốc và tạo mọi điều kiện về cơ sở vật chất, thiết bị để các giáo viên thực hiện có hiệu quả giờ dạy của mình.
- Đối với Tổ, nhóm chuyên môn (GDCD) phải thường xuyên dự giờ, cùng trao đổi rút kinh nghiệm về việc đổi mới phương pháp dạy học thông qua việc kết hợp các phương pháp dạy học hiện đại, tích cực.
- Đối với giáo viên nói chung và giáo viên môn GDCD nói riêng phải thường xuyên trau dồi trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của mình, học hổi lẫn nhau để từ đó nâng cao chất lượng các bài dạy, góp phần hoàn thành tốt sự nghiệp cao cả mà Đảng và Nhà nước đã giao phó - sự nghiệp trồng người.
Trên đây chỉ là kinh nghiệm cá nhân sau một quá trình giảng dạy và học hỏi đồng nghiệp chắc còn một số khiếm khuyết rất mong được sự quan tâm, đóng góp ý kiến từ đồng nghiệp và giới chuyên môn để sáng kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn thiện hơn.
29
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa GDCD 10 - Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam.
2. Sách giáo viên GDCD 10 - Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam.
3. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức môn GDCD - Nhà xuất bảngiáo dục
Việt Nam
4. Tài liệu Bồi dưỡng giáo viên môn GDCD trường THPT. (Bộ GD & ĐT)
5. Dạy học theo chuẩn kiến thức, kỹ năng môn GDCD 10 - Nhà xuất bản
Đại học sư phạm.
6. Một số thông tin và hình ảnh từ mạng Internet.
7. Hướng dẫn thực hiện chương trình SGK môn GDCD 10 - Nhà xuất bản
giáo dục Việt Nam.
8. Tài liệu tập huấn dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo định
hướng phát triển năng lực học sinh- (Bộ GD &ĐT)
9. Sáng kiến kinh nghiệm của bản thân tôi đã đạt Bậc 4B- Ngành năm 2016
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
TT Chữ viết tắt Nội dung
Giáo dục công dân 1 GDCD
Trung học phổ thông 2 THPT
Học sinh 3 HS
Giáo viên 4 GV
5 Bộ GD&ĐT Bộ Giáo dục và Đào tạo
Thực nghiệm 6 TN
Đối chứng 7 ĐC
30
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC I. MỘT SỐ HÌNH ẢNH DẠY NỘI DUNG NHÂN NGHĨA
MỘT SỐ HÌNH ẢNH TÔI ĐÃ SỬ DỤNG TRONG BÀI HỌC
(Hình ảnh này dạy ở nội dung nhân nghĩa)
31
Bài hát: “ Miền Trung máu chảy ruột mềm” được giáo viên sử dụng để dạy nội dung nhân nghĩa.
32
PHỤ LỤC II. HÌNH ẢNH HỌC SINH THẢO LUẬN NHÓM Ở NỘI DUNG HỢP TÁC
33
34