CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
BẢN ĐĂNG KÍ SÁNG KIẾN NĂM 2014 Tên sáng kiến:
TÍCH HỢP LIÊN MÔN NGỮ VĂN, LỊCH SỬ, ĐỊA LÍ, VĂN HÓA HỌC, SINH THÁI HỌC TRONG BÀI ĐỌC- HIỂU VĂN BẢN NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ( TRÍCH) CỦA NGUYỄN TUÂN.
Tác giả sáng kiến: Nguyễn Thị Hồng Liên Đơn vị công tác: Tổ Văn Trường THPT chuyên Lương Văn Tuỵ
Ninh Bình, tháng 5 năm 2014
1
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
BẢN ĐĂNG KÍ SÁNG KIẾN NĂM HỌC 2013- 2014
I. TÊN SÁNG KIẾN
Tích hợp liên môn Ngữ văn, Lịch sử, Địa lí, Văn hóa học, Sinh
thái học trong bài đọc- hiểu văn bản Người lái đò Sông Đà( trích) của
Nguyễn Tuân.
II. TÁC GIẢ SÁNG KIẾN
Họ tên: Nguyễn Thị Hồng Liên
Chức danh: Giáo viên
Học vị: Cử nhân ngành Ngữ Văn
Với mục tiêu giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về
đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực
cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân..., chương
trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo quyết định số 16/ 2006/QĐ-
BGDĐT ngày 5/5/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã nêu:
Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù
hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng
2
Địa chỉ: Tổ Văn- Trường THPT chuyên Lương Văn Tuỵ Hộp thư điện tử: hoahonglien1976@gmail.com ĐT liên hệ: 0972676816 III. NỘI DUNG SÁNG KIẾN 1. Giải pháp cũ thường làm.
lớp học; bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn
luyện kỹ năng vận dụng kiến thức liên môn vào giải quyết các tình hình thực
tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học
tập cho học sinh. Việc thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đòi
hỏi phải đổi mới đồng bộ từ mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương thức
dạy học đến cách thức đánh giá kết quả dạy học, trong đó khâu đột phá là đổi
mới phương pháp dạy học. Một trong những đổi mới về phương pháp daỵ học
môn Ngữ văn hiện nay là chú trọng yêu cầu tích hợp theo đặc trưng thể loại
và tích hợp kiến thức liên môn. Theo yêu cầu đổi mới đó, ở mỗi bài khi dạy
học, giáo viên và học sinh cần chú ý kết hợp cả tri thức, cả kĩ năng về Văn,
Tiếng Việt và Làm văn; đặc biệt cần chú ý tới tính đặc trưng về thể loại; đồng
thời phải chú ý vận dụng kết hợp kiến thức của các môn học, ngành học khác.
Nhưng trong các bài học cụ thể, kể cả sách giáo khoa và sách bài tập Ngữ văn
của học sinh chưa chú ý tới yêu cầu tích hợp này. Đó là thiếu sót không chỉ ở
một bài mà ta còn có thể thấy ở nhiều bài trong chương trình Ngữ văn hiện
nay.
3
Trong chương trình Ngữ văn THPT, các bài đọc - hiểu về văn bản tùy bút chiếm số lượng rất ít so với các văn bản thơ, truyện. Ở chương trình Ngữ văn 12, học sinh được tìm hiểu hai văn bản: Người lái đò Sông Đà(trích) của Nguyễn Tuân và Ai đã đặt tên cho dòng sông? ( trích) của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nguyễn Tuân (1910-1987) là cây bút văn xuôi tài hoa độc đáo của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông đặc biệt thành công ở thể loại tuỳ bút, đưa thể tùy bút, bút kí đạt tới trình độ nghệ thuật cao với những đặc sắc riêng. Người lái đò Sông Đà in trong tập kí Sông Đà (1960) của Nguyễn Tuân. Tập tùy bút này gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Người lái đò Sông Đà là một trong những áng văn tiêu biểu nhất của tập Sông Đà, thể hiện những nét đặc sắc trong nghệ thuật tùy bút của Nguyễn Tuân. Vào những năm 1958- 1960, Đảng và nhà nước ta có chủ trương phát triển kinh tế, văn hóa miền núi Tây Bắc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem lại cho Nguyễn Tuân và nhiều nghệ sĩ đương thời nguồn cảm hứng sáng tạo dạt dào. Tác phẩm là kết quả của nhiều dịp Nguyễn Tuân đến với Tây Bắc trong thời kì kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1958. Tác phẩm có sức sống lâu bền vì nó không đơn giản minh họa cho một chủ trương, chính sách mà bộc lộ những cảm xúc, suy ngẫm của nhà văn về cuộc sống, xã hội, con người; từ một thời mà nói đến được nhiều thời.
Trước đây, khi hướng dẫn HS tìm hiểu trích đoạn tùy bút này, vì chưa chú ý tới tính đặc trưng về thể loại; đồng thời chưa chú ý vận dụng kết hợp
kiến thức của các môn học, ngành học khác nên bản thân tôi cũng như không
ít đồng nghiệp mới giúp học sinh nắm được:
- Vài nét về tác giả Nguyễn Tuân và tùy bút Người lái đò Sông Đà
- Vận dụng kiến thức đa ngành, bằng câu chữ điêu luyện, nghệ thuật nhân hóa, so sánh, mạch liên tưởng đa chiều tài hoa, uyên bác…, Nguyễn Tuân đã
làm hiện hình Sông Đà vừa hung bạo vừa trữ tình. Con Sông Đà dưới ngòi
phong phó, kh¶ n¨ng quan s¸t tinh tưêng b»ng nhiÒu gi¸c quan ; vèn tri thøc réng, s©u cña t¸c gi¶ vÒ nhiÒu ngµnh nghÒ: qu©n sù, v¨n häc, thÓ thao. - Từ đó giúp học sinh thấy được nét đặc sắc chủ yếu trong nghệ thuật tùy
bút Nguyễn Tuân trở thành một sinh thể vừa hung bạo vừa trữ tình. S«ng §µ ®ưîc nh×n tõ nhiÒu gãc ®é: V¨n hãa, ®Þa lÝ, lÞch sö, v¨n häc trÝ tưởng tượng
bút của Nguyễn Tuân.
- Giáo dục nhân cách cho HS, bồi dưỡng tư tưởng trong sáng., tình cảm
yêu nước, yêu cảnh trí non sông gấm vóc Việt Nam.
Hạn chế của bài học là qua bài đọc- hiểu một văn bản thuộc thể tùy bút,
chúng tôi chưa giúp HS:
- Biết vận dụng sáng tạo những kiến thức, kĩ năng đã học vào thực tiễn
cuộc sống, trong nhiều tình huống mà các em sẽ gặp sau này.
- Có những nhận thức sâu sắc về hiện thực cuộc sống, biết yêu, bảo vệ và
chung sống hòa bình với thiên nhiên; có thái độ thân thiện với tự nhiên, không
khai thác cạn kiệt dẫn đến tàn phá tự nhiên.
kết hợp tri thức của nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm giải quyết những vấn đề
mang tính phức hợp.
- Biết tích hợp những kiến thức về Ngữ học, Lí luận văn học, Lịch sử, Địa lí, Văn hóa học, Sinh thái học…khi tìm hiểu một tác phẩm văn chương,
Là một người giáo viên đứng trên bục giảng, khi thiết kế được một giáo án hay, tiến hành hoạt động dạy và học thành công luôn là một niềm vui, niềm mong ước. Ngược lại, một bài nào đó khi soạn giảng chưa tìm được cái hay, cái đặc sắc, không thành công thì nó sẽ trở thành niềm ám ảnh, trăn trở không nguôi. Vì vậy, bản thân tôi không cho phép mình chấp nhận một thực tại như thế mà phải tìm ra giải pháp để khắc phục. Phải đầu tư nghiên cứu để biến một bài dạy khô khan thành một bài sinh động hấp dẫn.
2. Giải pháp mới cải tiến
4
2.1.Giáo án dạy học tích hợp đối với một bài học cụ thể là một thử
nghiệm nhằm đổi mới phương pháp dạy học, vận dụng lí luận dạy học
hiện đại vào thực tiễn dạy học bộ môn Ngữ văn, điều này xuất phát từ yêu
cầu và mục tiêu giáo dục, đào tạo của bộ môn: Hình thành và phát triển
năng lực cho HS một cách có hiệu quả hơn; kích thích hứng thú học tập,
rèn luyện tư duy sáng tạo...
Sự hợp nhất, liên kết giữa các phân môn, giữa các môn có liên quan tạo
thành một thể thống nhất là một xu hướng dạy học đáp ứng yêu cầu phát triển
của thời đại, hình thành cho HS thói quen tư duy tổng hợp, tư duy liên kết,
thói quen nghiên cứu khoa học trong liên kết đó, vận dụng vào thực tiễn ở
những mức độ, bình diện khác nhau, rèn luyện năng lực giải quyết những vấn đề phức hợp. Giáo án dạy học góp phần gắn lí thuyết với thực hành, kiến thức
với thực tế cuộc sống, tư duy với hành động.
2.2. Ở đây, với khuôn khổ có hạn của một tiểu luận, người viết chỉ xin
đề xuất một hướng dạy học có sự tích hợp kiến thức liên môn đối với trích đoạn tùy bút Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân. Theo phân phối
chương trình, việc đọc- hiểu văn bản Người lái đò Sông Đà( trích) được tiến
hành trong hai tiết. Tiểu luận này đề xuất hướng tiếp cận văn bản ở tiết 1.
GV hướng dẫn HS tìm hiểu văn bản, kết hợp phát vấn với giải thích, diễn
giảng, trình chiếu. Giáo viên tổ chức giờ dạy theo sự kết hợp giữa các phương
pháp: đọc tái hiện, nêu vấn đề, gợi tìm, đàm thoại, trao đổi thảo luận nhón, kết
hợp với diễn giảng thuyết trình.
- Vài nét về tác giả Nguyễn Tuân và tùy bút Người lái đò Sông Đà
- Vận dụng kiến thức đa ngành, bằng câu chữ điêu luyện, nghệ thuật
nhân hóa, so sánh, mạch liên tưởng đa chiều tài hoa, uyên bác…, Nguyễn
Tuân đã làm hiện hình Sông Đà vừa hung bạo vừa trữ tình; có lúc tưởng như
mang diện mạo, tâm địa của một thứ kẻ thù số một với con người nhưng thực ra lại luôn hòa hợp trong mối quan hệ với con người. Đồng thời nhà văn bộc
lộ tình yêu tha thiết với thiên nhiên, quê hương, đất nước.
- Từ đó học sinh thấy được nét đặc sắc chủ yếu trong nghệ thuật tùy bút
của Nguyễn Tuân.
Đồng thời, qua bài đọc- hiểu một văn bản thuộc thể tùy bút, HS sẽ hiểu
về đặc trưng của thể , rèn luyện kĩ năng tìm hiểu một văn bản tùy bút. HS biết
5
Qua bài học, cần giúp HS nắm được những nội dung cơ bản sau:
vận dụng sáng tạo những kiến thức, kĩ năng đã học vào thực tiễn cuộc sống, trong nhiều tình huống mà các em sẽ gặp sau này.
Bên cạnh đó, cần giáo dục nhân cách cho HS, bồi dưỡng tư tưởng trong
sáng., tình cảm yêu nước, yêu cảnh trí non sông gấm vóc Việt Nam. Từ bài
học, giúp HS có những nhận thức sâu sắc về hiện thực cuộc sống, biết yêu,
bảo vệ và chung sống hòa bình với thiên nhiên; có thái độ thân thiện với tự nhiên, không khai thác cạn kiệt dẫn đến tàn phá tự nhiên. Đặc biệt qua bài
học, HS phát huy được năng lực vận dụng kiến thức liên môn, tích hợp kiến
thức Ngữ văn, Lí luận văn học, Lịch sử, Địa lí, Văn hóa học, Sinh thái học...
để khám phá chiều sâu tư tưởng và vẻ đẹp của một tác phẩm văn chương, kết hợp tri thức của nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm giải quyết những vấn đề
mang tính phức hợp.
Thiết bị dạy học, học liệu
+ SGK Ngữ văn 12, tập một + SGV Ngữ văn 12, tập một
+ Tư liệu tham khảo
+ Thiết kế bài học
+ Thiết kế giáo án điện tử bằng ứng dụng Powerpoint để giảng dạy cho HS. Các tranh ảnh, vedioclip sẽ được chuyển thành file hình ảnh, âm thanh và
trình chiếu trên phần mềm điện tử.
IV. HIỆU QUẢ GIẢNG DẠY
thấy bài dạy của mình đã đạt được những kết quả sau:
1. Học sinh hiểu bài, cảm thấy hứng thú thực sự với giờ học. Qua tiết
học, HS nắm được những nội dung cơ bản sau:
+ Vài nét về tác giả Nguyễn Tuân và tùy bút Người lái đò Sông Đà
+ Vận dụng kiến thức đa ngành, bằng câu chữ điêu luyện, nghệ thuật
nhân hóa, so sánh, mạch liên tưởng đa chiều tài hoa, uyên bác…, Nguyễn
Tuân đã làm hiện hình Sông Đà vừa hung bạo vừa trữ tình; có lúc tưởng như
mang diện mạo, tâm địa của một thứ kẻ thù số một với con người nhưng thực
ra lại luôn hòa hợp trong mối quan hệ với con người. Đồng thời nhà văn bộc
lộ tình yêu tha thiết với thiên nhiên, quê hương, đất nước.
6
Sau việc đầu tư soạn giảng, cải tiến phương pháp giảng dạy, tôi nhận
+ Từ đó học sinh thấy được nét đặc sắc chủ yếu trong nghệ thuật tùy bút
của Nguyễn Tuân.
2. Qua bài đọc- hiểu một văn bản thuộc thể tùy bút, HS sẽ hiểu về đặc
trưng của thể , rèn luyện kĩ năng tìm hiểu một văn bản tùy bút. HS biết vận
dụng sáng tạo những kiến thức, kĩ năng đã học vào thực tiễn cuộc sống, trong
nhiều tình huống mà các em sẽ gặp sau này.
3. Giáo dục nhân cách cho HS, bồi dưỡng tư tưởng trong sáng., tình cảm
yêu nước, yêu cảnh trí non sông gấm vóc Việt Nam. HS có những nhận thức
sâu sắc về hiện thực cuộc sống, biết yêu, bảo vệ và chung sống hòa bình với
thiên nhiên; có thái độ thân thiện với tự nhiên, không khai thác cạn kiệt dẫn đến tàn phá tự nhiên.
4. HS phát huy được năng lực vận dụng kiến thức liên môn, tích hợp
kiến thức Ngữ văn, Lí luận văn học, Lịch sử, Địa lí, Văn hóa học, Sinh thái
học... để khám phá chiều sâu tư tưởng và vẻ đẹp của một tác phẩm văn chương, kết hợp tri thức của nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm giải quyết những
vấn đề mang tính phức hợp. 5.Trong tiết học Tự chọn, GV tổ chứ kiểm tra đánh giá kết quả học tập
của HS. HS đã thực hiện tốtcác bài tập nhằm phát triển năng lực, định hướng
năng lực xã hội, năng lực cá thể, các em đã được trang bị kĩ hơn nhiều kiến
thức về văn học; có khả năng tiếp nhận những vấn đề sâu sắc, có ý nghĩa về
cuộc sống, con người và nghệ thuật; có năng lực, kĩ năng đọc - hiểu các văn
bản văn chương. Trong các bài kiểm tra, tôi ra đề về trích đoạn này, đa số các
em đều đạt yêu cầu, có nhiều bài đạt điểm khá, giỏi, có những bài viết rất
6. Tổ chuyên môn dự giờ nhìn chung đều đánh giá cao chất lượng bài
dạy.
sáng tạo, giàu cảm xúc.
V. ĐIỀU KIỆN VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
- Đối tượng áp dụng là học sinh lớp học sinh THPT, lớp 12, lớp học có
khoảng từ 30 đến 35 em. Các em có niềm say mê, yêu thích học môn Ngữ
văn, có hứng thú khám phá vẻ đẹp của tác phẩm văn chương.
7
- HS đã được trang bị vốn kiến thức phong phú, có hệ thống ở nhiều
môn khoa học khác nhau, đủ khả năng để tiếp nhận dự án dạy học.
- Ngoài các tiết học theo Phân phối chương trình, HS có thêm tiết học
Tự chọn, đó là một thuận lợi để GV và HS có thể thực hiện các bài tập nhằm
phát triển năng lực, định hướng năng lực xã hội, năng lực cá thể., các em đã
được trang bị nhiều kiến thức về văn học; có khả năng tiếp nhận những vấn đề
sâu sắc, có ý nghĩa về cuộc sống, con người và nghệ thuật; có năng lực, kĩ
năng đọc - hiểu các văn bản văn chương.
8
Xác nhận của tổ chuyên môn Tác giả sáng kiến Nguyễn Thị Hồng Liên
PHỤ LỤC * Giáo án thể nghiệm
Đọc - hiểu văn bản: Người lái đò Sông Đà (Tiết1)
( Nguyễn Tuân) A. MỤC TIÊU BÀI HỌC
1. Về kiến thức Giúp học sinh hiểu:
- Vài nét về tác giả Nguyễn Tuân và tùy bút Người lái đò Sông Đà
- Vận dụng kiến thức đa ngành, bằng câu chữ điêu luyện, nghệ thuật
nhân hóa, so sánh, mạch liên tưởng đa chiều tài hoa, uyên bác…, Nguyễn
Tuân đã làm hiện hình Sông Đà vừa hung bạo vừa trữ tình; có lúc tưởng như mang diện mạo, tâm địa của một thứ kẻ thù số một với con người nhưng thực
ra lại luôn hòa hợp trong mối quan hệ với con người. Đồng thời nhà văn bộc
lộ tình yêu tha thiết với thiên nhiên, quê hương, đất nước.
- Từ đó giúp học sinh thấy được nét đặc sắc chủ yếu trong nghệ thuật tùy
bút của Nguyễn Tuân.
2. Kĩ năng
- Qua bài đọc- hiểu một văn bản thuộc thể tùy bút, HS sẽ hiểu về đặc
trưng của thể , rèn luyện kĩ năng tìm hiểu một văn bản tùy bút. - HS biết vận
dụng sáng tạo những kiến thức, kĩ năng đã học vào thực tiễn cuộc sống, trong
nhiều tình huống mà các em sẽ gặp sau này.
3. Thái độ
- Giáo dục nhân cách cho HS, bồi dưỡng tư tưởng trong sáng., tình cảm
yêu nước, yêu cảnh trí non sông gấm vóc Việt Nam.
- HS có những nhận thức sâu sắc về hiện thực cuộc sống, biết yêu, bảo
vệ và chung sống hòa bình với thiên nhiên; có thái độ thân thiện với tự nhiên,
không khai thác cạn kiệt dẫn đến tàn phá tự nhiên.
4. HS biết tích hợp những kiến thức về Ngữ học, Lí luận văn học, Lịch sử,
Địa lí, Văn hóa học, Sinh thái học…khi tìm hiểu một tác phẩm văn chương,
9
kết hợp tri thức của nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm giải quyết những vấn đề mang tính phức hợp.
B. PHƯƠNG TIỆN THỰC HIỆN
- SGK, SGV. - Thiết kế bài học trên word và power point. - Một số tư liệu lịch sử, địa lí về sông Đà, tài liệu nghiên cứu văn học về
tác phẩm Người lái đò Sông Đà.
C.PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
- GV hướng dẫn HS tìm hiểu văn bản, kết hợp phát vấn với giải thích, diễn giảng, trình chiếu. Giáo viên tổ chức giờ dạy theo sự kết hợp giữa các
phương pháp: đọc tái hiện, nêu vấn đề, gợi tìm, đàm thoại, trao đổi thảo luận
nhón, kết hợp với diễn giảng thuyết trình.
D. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC * Ổn định trật tự.
* Kiểm tra bài cũ: Giáo viên kiểm tra việc chuẩn bị bài ở nhà của học sinh
trong quá trình dạy bài mới.
* Bài mới: Lời vào bài: Nhà thơ CLV trong bài thơ Tiếng hát con tàu đã từng viết:
Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu. Có một thời Tây Bắc đã trở thành mảnh đất hóa tâm hồn của bao cuộc
Nguyễn Tuân trên hành trình kiếm tìm cái đẹp cũng đã dừng chân tại mảnh
đất Tây Bắc và phát hiện chất vàng mười của thiên nhiên và con người xứ
thiêng liêng rừng núi đã anh hùng này. Các em có thể thấy được điều đó qua
tác phẩm Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân. Ở lớp 11 các em đã được
làm quen với tác giả Nguyễn Tuân qua truyện ngắn Chữ người tử tù. Hôm
nay các em sẽ được gặp lại tác giả này qua một tác phẩm khác, ở một thể loại
khác đó là: Tùy bút.
Người lái đò Sông Đà (trích) sẽ được tìm hiểu trong hai tiết. Tiết 1 sẽ
dừng ở việc tìm hiểu tính cách hung bạo của Sông Đà.
10
đời và là nguồn cảm hứng dạt dào cho bao văn nhân, nghệ sĩ. Nhà văn
Nội dung cần đạt Hoạt động của giáo viên và học sinh
Giáo viên yêu cầu học sinh
nhắc lại những kiến thức đã
học về tác giả.
Hỏi: Dựa vào những kiến thức
đã học, em hãy nêu ngắn gọn
những hiểu biết của em về tác
giả Nguyễn Tuân?
11
GV nhấn mạnh lại những nét tiêu biểu trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Học sinh đọc phần tiểu dẫn Hỏi: Dựa vào phần tiểu dẫn hãy nêu hoàn cảnh ra đời và xuất xứ của tác phẩm ? HS trả lời, GV bổ sung và nhấn mạnh lại. I. TÌM HIỂU CHUNG 1. Tác giả - Nguyễn Tuân (1910 – 1987) - Là nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái Đẹp, nâng cái Đẹp lên thành tôn giáo. - Phong cách nghệ thuật độc đáo: tài hoa, uyên bác. - Đưa thể tùy bút, bút kí đạt tới trình độ nghệ thuật cao với những đặc sắc riêng… 2.Tác phẩm Người lái đò Sông Đà a. Hoàn cảnh sáng tác - Vào những năm 1958- 1960, Đảng và nhà nước ta có chủ trương phát triển kinh tế, văn hóa miền núi Tây Bắc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem lại cho Nguyễn Tuân và nhiều nghệ sĩ đương thời nguồn cảm hứng sáng tạo dạt dào - Tác phẩm là kết quả của nhiều dịp Nguyễn Tuân đến với Tây Bắc trong thời kì kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1958. Tác phẩm có sức sống lâu bền vì nó không đơn giản minh họa cho một chủ trương, chính sách mà bộc lộ những cảm xúc, suy ngẫm của nhà văn về cuộc sống, xã hội, con người; từ một thời mà nói đến được nhiều thời. b. Xuất xứ - Tác phẩm trích từ tập tùy bút Sông Đà, in lần đầu năm 1960. Tập tùy bút này gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Người lái đò Sông Đà là một trong những áng văn tiêu biểu nhất của tập Sông Đà, thể hiện những nét đặc sắc trong nghệ thuật tùy bút của Nguyễn Tuân
liên
Giáo viên dẫn dắt để học sinh thấy được mạch liên kết của văn bản:
GV nhấn mạnh: Từ hai hình tượng nhân vật mà nhà văn ca ngợi (Sông Đà và người lái đò Sông Đà), có thể thấy mạch ngầm văn bản:
12
II. TÌM HIỂU CHI TIẾT VĂN BẢN 1. Mạch văn * Bề mặt câu chữ: phóng túng, biến hóa linh hoạt với những tưởng đa chiều… Xét về cấu trúc bề mặt, tùy bút của Nguyễn Tuân nói chung và Người lái đò Sông Đà nói riêng có sự phóng túng với nhiều liên tưởng tạt ngang, tạt dọc- những liên tưởng đa chiều. Trong bài tùy bút này, nhà văn đã xây dựng hai nhân vật : Sông Đà và người lái đò Sông Đà. Có lúc nhà văn nói đến dòng sông hung bạo, khi lại nói về người lái đò vượt thác, lúc trở về miêu tả dòng sông trữ tình thơ mộng, khi trần thuật, khi miêu tả, lúc trữ tình để bộc lộ tài hoa của mình, để thấy được hết sự sinh động đa diện của các hình tượng. Vì vậy, mạch văn( xét ở bề mặt câu chữ rất khó theo dõi). - Nhưng thực ra, tác phẩm có một mạch ngầm văn bản rất chặt chẽ, ẩn sâu trong lối diễn đạt của Nguyễn Tuân. Điều đó được bộc lộ rất rõ qua những câu thơ được nhà thơ mượn để làm lời đề từ cho tác phẩm. Trước hết, mượn câu thơ của nhà thơ Ba Lan Wladyslaw Broniewski: Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông làm câu thơ đề từ, Nguyễn Tuân muốn ca ngợi Sông Đà như một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa đã ban tặng cho con người. Và bài tùy bút này của ông cũng như một công trình nghệ thuật ngôn từ - một sáng tạo độc đáo tài hoa mà Nguyễn Tuân tặng lại cho đời. Đồng thời, mượn câu thơ Chúng thủy giai đông tẩu, Đà giang độc Bắc lưu của Nguyễn Quang Bích làm lời đề từ, Nguyễn Tuân muốn bộc lộ sự uyên bác tài hoa của mình: dùng văn thơ nhìn con sông như một nhà địa lí để thấy được hướng chảy của nó. Câu thơ gợi cảm nhận về cá tính khác thường của Sông Đà cũng gặp được cá tính độc đáo của Nguyễn Tuân. * Mạch ngầm văn bản: Nhà văn đi kiếm
GV hỏi: Trong tác phẩm, kể cả ở nhan đề, hai chữ Sông Đà luôn được nhà văn viết hoa. Viết như thế có đúng quy tắc chính tả không ? Dụng ý của Nguyễn Tuân ? GV nhấn mạnh: Hỏi: Dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Tuân, em thấy Sông Đà được khắc họa với những nét tính cách nổi bật nào? HS trả lời: Đó là sự hung bạo
và vẻ đẹp trữ tình.
13
GV định hướng: Chúng ta tìm hiểu nét tính cách thứ nhất của Sông Đà. Hỏi: Sự hung bạo của Sông Đà được miêu tả qua những hình ảnh nào? HS trả lời: Sự hung bạo của Sông Đà được miêu tả qua những hình ảnh: đá bờ sông, thác sông,hút nước, ghềnh nước, thạch trận đá. GV hướng dẫn HS lần lượt tìm hiểu từng hình ảnh. HS đọc đoạn văn đầu tiên, tìm chi tiết khắc họa cảnh bờ sông. tìm chất vàng mười của thiên nhiên( Sông Đà vừa hung bạo vừa trữ tình) và thứ vàng mười đã qua thử lửa trong tâm hồn con người Tây Bắc( người lái đò tay lái ra hoa- người nghệ sĩ vượt thác). 2. Nhân vật Sông Đà - Trong tác phẩm, kể cả ở nhan đề, hai chữ Sông Đà luôn được nhà văn viết hoa. Xét về quy tắc chính tả, viết như thế là không đúng. Song đây chính là một dụng ý của tác giả. Vì ứng xử với Sông Đà như một con người nên dòng sông được nhà văn xây dựng như một sinh thể có hồn, có lai lịch, tên gọi, chiều dài, hướng chảy và diện mạo, tính cách. Ở phần trước văn bản này, nhà văn đã rất dụng công đi tìm lai lịch độc đáo của dòng sông. + Lai lịch độc đáo: Khai sinh ở huyện Cảnh Đông, tỉnh Vân Nam Trung Quốc, đi qua một vùng núi ác, đến gần nửa đường thì nhập quốc tịch Việt Nam. + Tên: Li Tiên, Bả Biên Giang. + Chiều dài: 883 nghìn thước mét chảy qua hai nước Việt Nam và Trung Quốc. + Hướng chảy: ứng với câu thơ đề từ thứ hai (nhà thơ mượn của Nguyễn Quang Bích). a. Sông Đà hung bạo * Bờ sông Hùng vĩ bờ sông thể hiện ở đá bờ sông.- Đá bờ sông: + Đá dựng vách thành. Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. + Có vách đá thành chẹt lòng sông như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách.
GV giải thích từ chẹt, hình ảnh cái yết hầu. Hỏi: Căn cứ vào những từ gạch chân, phát hiện thủ pháp nghệ thuật sử dụng trong đoạn văn đó và tác dụng của chúng ? HS đọc đoạn miêu tả ghềnh sông (lại như quãng mặt ghềnh…thuyền ra) và phát hiện chi tiết miêu tả. GV giải thích các từ: gùn ghè, đòi nợ xuýt… Hỏi: Em có nhận xét gì về xét về cách sử dụng từ ngữ, kết cấu, nhịp điệu của những câu văn miêu tả ghềnh sông?Tác dụng của chúng?
+ Nhà văn liên tưởng: ngồi trong khoang đò qua quãng ấy đang mùa hè cũng cảm thấy lạnh, cảm thấy mình như đang đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện… - Nghệ thuật so sánh kết hợp với những liên tưởng độc đáo khắc họa chiều sâu hun hút khó lường của những vách đá dựng đứng.→ Bờ sông hùng vĩ, hiểm trở. * Ghềnh sông - Mặt ghềnh Hát loóng, dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy. Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra. - Sử dụng câu văn có kết cấu trùng điệp, từ ngữ táo bạo, mới mẻ, điệp động từ (xô), danh từ (sóng, gió) gây ấn tượng mạnh, gợi nhịp điệu nhanh, mạnh, gấp gáp, dữ dội của gió to sóng cả trên Sông Đà. Thể hiện sự dữ dội của ghềnh sông. * Hút nước - Trên sông bỗng có những cái h út nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu… nước thở và kêu như cửa cống cái bị sặc… nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Cảm giác sợ hãi càng tăng cường khi Nguyễn Tuân đưa ra giả định: có anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, dũng cảm ngồi vào chiếc thuyền thúng tròn vành, rồi cho cả mình, cả thuyền cả máy quay xuống đáy hút Sông Đà thì cũng chỉ thu được những
thước phim màu quay tít… Ở đoạn này nhà văn sử dụng trùng trùng điệp điệp những liên tưởng, so sánh kết hợp vận dụng tri thức ngành xây dựng, kĩ thuật đặc tả của điện ảnh để
14
HS theo dõi đoạn văn viết về hút nước Sông Đà- trang186. Nhà văn dùng những hình ảnh nào để miêu tả hút nước ? Phát hiện thủ pháp nghệ thuật sử dụng trong đoạn văn đó? Tác giả vận dụng những kiến thức của những ngành nào để miêu tả hút nước ?
miêu tả sự dữ dằn, ghê rợn của những hút nước quái ác. . .Những cái hút ấy là những cạm bẫy cực kì nguy hiểm cho những người lái đò trên sông. Đặc biệt là những liên tưởng làm mạch văn biến hóa linh hoạt thể hiện rõ đặc trưng của thể loại tùy bút. * Thác nước - Tiếng thác nước nghe như oán trách gì, rồi lại như van xin, rồi lại như khiêu khích , giọng gằn và chế nhạo. Rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa, đang phá toang rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. - Nhận xét: đây là các âm thanh với những cung bậc khác nhau, mỗi lúc một cuồng loạn, man dại, hoang dã.
- Sử dụng nghệ thuật nhân hóa, so sánh;
HS đọc trang 187 đoạn cuối cùng và trả lời câu hỏi: Ở trên miêu tả hút nước bằng những hình ảnh nghiêng về thị giác. Đến đây nhà văn miêu tả thác nước bằng những hình ảnh nghiêng về thính giác. Có những âm thanh nào của thác nước được miêu tả? Gv hỏi: Những thủ pháp nghệ thuật nào được nhà văn sử dụng để miêu tả thác nước? Tác dụng của chúng? HS đọc thầm từ chỗ ngoặt khúc
sông lượn….có giỏi thì tiến gần
thạch trận bằng những chi tiết
nào ?
vào. Nhà văn dựng lại cảnh
15
dùng lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông, nhà văn cho thấy Sông Đà như một sinh thể có tiếng nói với nhiều cung bậc, sắc thái tâm trạng, cảm xúc…Thác nước Sông Đà hung dữ như loài thuỷ quái, hung thần thách thức, đe dọa con người với những thanh âm cuồng loạn, man dại và hoang dã. * Thạch trận đá - Đá: + Từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông… mỗi lần có thuyền xuất hiện…. một số hòn đá bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền…Mặt hòn nào cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn mặt nước sông chỗ này. + Đá bày thạch trận trên sông…chia làm ba hàng (tiền vệ, trung vệ, hậu vệ) đòi ăn chết cái thuyền. Vòng vây thứ nhất mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh. Cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn. Vòng vây thứ hai tăng thêm nhiều cửa tử, cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Vòng vây thứ ba bên phải, bên trái đều là luồng chết, luồng sống ở giữa bọn
đá hậu vệ của con thác. - Nước thác: reo hò làm thanh viện cho đá,…hò la vang dậy…, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo…như quân liều mạng đá trái thúc gối vào bụng và hông thuyền… Dưới góc nhìn đa ngành (bóng đá, võ thuật, quân sự…), nghệ thuật nhân hóa, ngôn ngữ giàu chất tạo hình, trí tưởng tượng phong phú, tài năng quan sát tỉ mỉ, kỹ lưỡng, thạch trận Sông Đà hiện lên như một trận đồ bát quái, một kẻ thù tâm địa hiểm ác. Nguyễn Tuân đã rất dụng công khi miêu tả đá của Sông Đà, thể hiện đậm nét sự uyên bác, tài năng miêu tả của nhà văn.
=> Tiểu kết
Vận dụng kiến thức đa ngành, bằng câu chữ điêu luyện, nghệ thuật nhân hóa, so sánh, mạch liên tưởng đa chiều tài hoa, uyên bác…, Nguyễn Tuân đã làm hiện hình Sông Đà hung bạo mang diện mạo, tâm địa của một thứ kẻ thù số một với con người. Đồng thời nhà văn bộc lộ tình yêu tha thiết với thiên nhiên, quê hương, đất nước.
Hỏi: Nêu những nhận xét chung của em về đoạn văn miêu tả con Sông Đà hung bạo của nhà văn?
E. CỦNG CỐ- DẶN DÒ:
- Tóm lược kết cấu của bài học qua sơ đồ:
16
I. Giáo viên củng cố lại bài học:
Sông Đà hung bạo
Hút nước ghê rợn
Thạch trận hiểm ác
Ghềnh sông dữ dội
Thác nước hung dữ
Bờ sông hùng vĩ, hiểm trở
Cái nhìn độc đáo
Ngôn ngữ giàu có, tài hoa
Giọng điệu biến hóa
Nguyễn Tuân- nhà văn của những cảm giác mạnh, nhìn Sông Đà ở phương diện đa ngành, liên ngành.
17
- Sông Đà hung bạo, hùng vĩ nhưng không nên nhìn dòng sông ở góc độ kẻ thù số một của con người. Hãy nhìn sự hung bạo của Sông Đà như một thử thách của thiên nhiên mà con người cần biết để chung sống và chế ngự nó. - Các công trình thủy điện của Việt Nam, nhất là công trình thủy điện Hòa Bình chính là thành công của con người trong việc chinh phục, chế ngự thiên nhiên. + Công trình thủy điện Hòa Bình góp phần quan trọng vào việc phòng chống lũ lụt cho vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng trong đó có thủ đô Hà Nội. + Nhà máy thủy điện Hòa Bình là nguồn cung cấp điện chủ lực của toàn bộ hệ thống điện Việt Nam. Năm 1994, cùng với việc khánh thành nhà máy và tiến hành xây dựng đường dây 500KV Bắc - Nam từ Hòa Bình tới trạm Phú Lâm (Thành phố Hồ Chí Minh) hình thành một mạng lưới điện quốc gia. Công trình này góp phần đắc lực trong việc cung cấp nguồn điện cho miền Nam và miền trung Việt Nam. + Hơn nữa, đập thủy điện Hòa Bình đóng vai trò quan trọng vào việc cung cấp nước tưới cho sản xuất nông nghiệp ở vùng hạ lưu trong đó có đồng bằng sông Hồng, nhất là trong mùa khô; điều tiết mực nước sông đồng thời đẩy nước mặn ra xa các cửa sông. + Đồng thời, thủy điện sông Đà còn giúp chúng ta cải thiện việc đi lại bằng đường thủy ở cả thượng lưu và hạ lưu. Năm 2004 công trình tượng đài chiến thắng Điện Biên Phủ được vận chuyển chủ yếu bằng con đường này. Rõ ràng, bằng bàn tay và khối óc của mình, chúng ta đã chế ngự được sự hung bạo của Sông Đà. II. Dặn dò:
- Giờ sau tiếp tục tìm hiểu tiết 2 của bài học Người lái đò Sông Đà ( trích).
F. RÚT KINH NGHIỆM .........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
* Kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh
GV chia lớp thành bốn nhóm, mỗi nhóm thực hiện một bài với mục đích, yêu cầu riêng, HS thảo luận trong 3 phút cuối của tiết học, sau đó chuẩn
bị ở nhà rồi trình bày, nộp sản phẩm trong tiết học tự chọn.
1. Nhóm 1:
Bài tập: Cảm nhận của anh (chị) về nghệ thuật miêu tả thạch trận Sông
Đà trong trích đoạn Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân.
a. Mục tiêu:
+ Củng cố nội dung bài học.
tư duy độc lập, biết thể hiện những suy nghĩ, cảm xúc riêng.
+ HS biết tích hợp kiến thức văn học với văn hóa, xã hội, kiến thức của
môn Địa lí để giải quyết một vấn đề mang tính phức hợp.
+ Phát triển năng lực cộng tác làm việc, năng lực cảm thụ cảm văn học,
b. Yêu cầu: HS có thể trình bày theo những cách khác nhau, cần đảm bảo
được những ý sau đây:
- Đá:
+ Từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông… mỗi lần có thuyền
xuất hiện…. một số hòn đá bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền…Mặt hòn nào
cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn mặt nước sông chỗ này.
18
+ Đá bày thạch trận trên sông…chia làm ba hàng (tiền vệ, trung vệ, hậu vệ) đòi ăn chết cái thuyền. Vòng vây thứ nhất mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh. Cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn. Vòng vây thứ hai tăng
thêm nhiều cửa tử, cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Vòng vây
thứ ba bên phải, bên trái đều là luồng chết, luồng sống ở giữa bọn đá hậu vệ
của con thác.
- Nước thác: reo hò làm thanh viện cho đá,…hò la vang dậy…, ùa vào
mà bẻ gãy cán chèo…như quân liều mạng đá trái thúc gối vào bụng và hông
thuyền…
Dưới góc nhìn đa ngành (bóng đá, võ thuật, quân sự…), nghệ thuật nhân hóa, ngôn ngữ giàu chất tạo hình, trí tưởng tượng phong phú, tài năng
quan sát tỉ mỉ, kỹ lưỡng, thạch trận Sông Đà hiện lên như một trận đồ bát
quái, một kẻ thù tâm địa hiểm ác. Nguyễn Tuân đã rất dụng công khi miêu tả
19
đá của Sông Đà, thể hiện đậm nét sự uyên bác, tài năng miêu tả của nhà văn.
2. Nhóm 2:
Bài tập: Thông qua bài học ,vận dụng những kiến thức về Địa lí, hãy
giới thiệu những hiểu biết về Sông Đà.
a. Mục tiêu:
+ Củng cố kiến thức.
+ Phát triển năng lực cộng tác làm việc, năng lực đánh giá. + Rèn luyện khả năng tích hợp tri thức Văn học và Địa lí.
b. Yêu cầu:
HS cần đảm bảo được ý cơ bản sau: + Sông Đà có độ dài 910 km, diện tích lưu vực là 52900 km2. + Đoạn ở Việt Nam dài 527 km.
+ Sông có lưu lượng nước lớn, cung cấp 31% lượng nước cho sông Hồng.
Sông Đà là một nguồn tài nguyên thủy điện lớn cho ngành công nghiệp
điện Việt Nam.
+ Lưu vực sông có tiềm năng tài nguyên to lớn với nhiều loại khoáng
sản quý hiếm, các hệ sinh thái đặc trưng bao gồm các nguồn sinh vật với mức
3. Nhóm 3:
Bài tập: Anh( chị) suy nghĩ như thế nào về mối quan hệ giữa con người
và thiên nhiên? Nên hiểu việc chinh phục thiên nhiên như thế nào cho đúng?
a. Mục tiêu:
+ Củng cố nội dung bài học.
+ Phát triển năng lực cộng tác làm việc, năng lực cảm thụ cảm văn học,
tư duy độc lập, biết thể hiện những suy nghĩ, cảm xúc riêng.
+ HS biết tích hợp kiến thức văn học với văn hóa, xã hội, sinh thái học
vấn đề thiên nhiên và môi trường sống mà cả thế giới đang quan tâm.
và kiến thức của môn Địa lí để giải quyết một vấn đề mang tính phức hợp-
b. Yêu cầu: HS có thể trình bày theo những cách khác nhau, cần đảm bảo
được những ý sau đây:
+ Con người và tự nhiên có mối quan hệ vô cùng gắn bó, mật thiết. Một
mặt con người tôn sùng, tín ngưỡng trước những hiện tượng tự nhiên; một
mặt cũng lo sợ trước thiên nhiên biến hóa không cùng, ngoài vòng kiểm soát
của họ.
+ Trong quan hệ với tự nhiên, con người tận dụng triệt để môi trường tự
nhiên để duy trì sự sống, để chống lại các thế lực ngoại xâm. trong chuyện ăn,
quan niệm về mặc của người Việt Nam cũng là một quan niệm rất thiết thực
20
ăn chắc mặc bền. . .Con người thời đại này quan niệm thiên, địa, nhân nhất thể thiên thời địa lợi nhân hòa. Con người, trời dất đều có cấu trúc âm-dương,
có chung một cấu trúc vật chất. Nếu trời đất vận hành theo qui luật âm- dương
hài hòa, ngũ
+ Nhìn chung, con người đặt trong mối quan hệ với thiên nhiên là một
quan hệ gắn bó không thể tách rời. Thiên nhiên nuôi sống con người, giúp con người chống lại những thế lực ngoại xâm nhưng thiên nhiên cũng là thế lực
mà con người phải chống đỡ. Trong giai đoạn trung đại Việt Nam, đối với con
người thiên nhiên là một lực lượng siêu nhiên, thần thánh và con người cũng
đã có những lúc run sợ trước những thế lực đó. Nhưng dần dần họ đã tìm ra nhiều cách để chinh phục thiên nhiên để phục vụ cho đời sống của mình. Với
các khả năng khoa học hiện có, con người hầu như làm chủ thiên nhiên trong
việc chế tạo các sản phẩm mới để tăng thêm nhu cầu và thị hiếu của nhân loại.
Đôi khi những nhu cầu đó hoàn toàn không cần thiết và vô ích nếu không nói là làm thoái hóa thêm quá trình phát triển của con người cũng như huỷ hoại
tài nguyên thiên nhiên và công sức con người một cách phí phạm. Con người
đã lạm dụng khoa học, và với mặc cảm tự tôn, họ tin rằng sẽ chiến thắng được
thiên nhiên, kiểm soát thiên nhiên, và luôn cố gắng thỏa mãn lòng kiêu hãnh của mình qua việc chinh phục thiên nhiên.Tóm lại, con người càng thách thức
thiên nhiên càng phải gánh thêm nhiều hậu quả không thể lường trước đựơc!
+ Nếu ý thức được những bổn phận và trách nhiệm trên mỗi người
trong chúng ta sẽ biết gìn giữ và bảo vệ môi trường sống chung quanh mình,
đó là một phương cách an toàn và nhân bản nhất để có một cuộc hành trình tốt đẹp và an bình nhất trong thiên kỷ thứ ba.
4. Nhóm 4:
Bài tập: Sưu tầm tranh ảnh về sông Đà.
a. Mục tiêu:
+ Kích thích động cơ, hứng thú học tập, sự tìm tòi, sáng tạo của HS
+ HS kết hợp tri thức của nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm giải quyết một
vấn đề mang tính phức hợp.
+ Phát triển năng lực xã hội, năng lực cá thể
b.Yêu cầu:
+ HS lên mạng tìm những tranh ảnh về sông Đà.
21
* Các sản phẩm của HS
- Trong tiết học tự chọn, HS giới thiệu sản phẩm trước lớp
+ Nhóm 1, 2, 3 : Mỗi nhóm cử một HS đại diện lên bảng trình bày
những vấn đề đã tìm hiểu.
+ Nhóm 4 cử một đại diện lên giới thiệu tranh ảnh, các sản phẩm nghệ
thuật đã sưu tầm.
- Tổ chức cho HS tự đánh giá về kết quả làm việc của từng nhóm
- GV tổng kết, đánh giá về phương pháp tiến hành, nội dung và kết quả
của các vấn đề đã được nghiên cứu và trình bày của từng nhóm.
Sản phẩm của nhóm 1
Câu hỏi: Cảm nhận của anh (chị) về nghệ thuật miêu tả thạch trận Sông
Đà trong trích đoạn Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân.
22
Trả lời: Nguyễn Tuân (1910 – 1987) là nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái Đẹp, nâng cái Đẹp lên thành tôn giáo. Văn của Nguyễn Tuân có phong cách nghệ thuật độc đáo: tài hoa, uyên bác. Ông đã đưa thể tùy bút, bút kí đạt tới trình độ nghệ thuật cao với những đặc sắc riêng… Người lái đò Sông Đà trích từ tập Sông Đà, in lần đầu năm 1960( tập tùy bút gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo) là một trong những áng văn tiêu biểu nhất của tập Sông Đà, thể hiện những nét đặc sắc trong nghệ thuật tùy bút của Nguyễn Tuân. Tác phẩm là kết quả của nhiều dịp Nguyễn Tuân đến với Tây Bắc trong thời kì kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1958. Tác phẩm có sức sống lâu bền vì nó không đơn giản minh họa cho một chủ trương, chính sách mà bộc lộ những cảm xúc, suy ngẫm của nhà văn về cuộc sống, xã hội, con người; từ một thời mà nói đến được nhiều thời. Xét về cấu trúc bề mặt, tùy bút của Nguyễn Tuân nói chung và Người lái đò Sông Đà nói riêng có sự phóng túng với nhiều liên tưởng tạt ngang, tạt dọc- những liên tưởng đa chiều. Trong bài tùy bút này, nhà văn đã xây dựng hai nhân vật : Sông Đà và người lái đò Sông Đà. Có lúc nhà văn nói đến dòng sông hung bạo, khi lại nói về người lái đò vượt thác, lúc trở về miêu tả dòng sông trữ tình thơ mộng, khi trần thuật, khi miêu tả, lúc trữ tình để bộc lộ tài hoa của mình, để thấy được hết sự sinh động đa diện của các hình tượng. Vì vậy, mạch văn( xét ở bề mặt câu chữ rất khó theo dõi). Nhưng thực ra, tác phẩm có một mạch ngầm văn bản rất chặt chẽ, ẩn sâu trong lối diễn đạt của Nguyễn Tuân. Điều đó được bộc lộ rất rõ qua những
câu thơ được nhà thơ mượn để làm lời đề từ cho tác phẩm( Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông - nhà thơ Ba Lan Wladyslaw Broniwski; Chúng thủy giai đông tẩu, Đà giang độc Bắc lưu- Nguyễn Quang Bích). Nhà văn đi kiếm tìm chất vàng mười của thiên nhiên( Sông Đà vừa hung bạo vừa trữ tình) và thứ vàng mười đã qua thử lửa trong tâm hồn con người Tây Bắc( người lái đò tay lái ra hoa- người nghệ sĩ vượt thác). Dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Tuân, Sông Đà được khắc họa với những nét tính cách nổi bật là sự hung bạo và vẻ đẹp trữ tình. Sự hung bạo của Sông Đà được miêu tả qua những hình ảnh: đá bờ sông, ghềnh sông,hút nước, thác nước, thạch trận đá. Trong tác phẩm Người lái đò Sông Đà, điều đặc sắc là trong cách miêu
tả tính cách hung bạo của dòng sông, nhà văn Nguyễn Tuân đã thực sự dày
công để bắt cho được sự hung bạo, dữ tợn của con sông phải nổi bật lên thành
hình khối và gào thét lên trong muôn vạn âm thanh. Đây là cảnh Đà giang bày
thạch trận. Tác giả tưởng tượng đá Sông Đà bày thạch trận để đón đánh người lái đò. Nhà văn đã dành một đoạn rất dài để tái hiện cảnh đá Sông Đà bày
thạch trận. Dưới ngòi bút của nhà văn, đá từ ngàn năm nay vẫn mai phục hết
trong lòng sông…mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện là một số hòn bèn
nhổm dậy để vồ lấy thuyền… Mặt hòn nào cũng ngỗ ngược, hòn nào , cũng nhăn nhúm, méo mó hơn mặt nước sông chỗ này. Đá biết bày thạch trận trên sông… chia làm ba hàng (tiền vệ, trung vệ, hậu vệ) đòi ăn chết cái thuyền. Vòng vây thứ nhất mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh. Cửa sinh
nằm lập lờ phía tả ngạn. Vòng vây thứ hai tăng thêm nhiều cửa tử, cửa sinh lại
bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Vòng vây thứ ba bên phải, bên trái đều là
luồng chết, luồng sống ở giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Thạch trận vừa bày
xong thì nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, mặt nước hò la vang dậy, ùa
thúc gối vào bụng và hông thuyền…
Trong cách miêu tả của Nguyễn Tuân, dường như nhà văn đã cố ý tạo ra
cảm giác xa lạ hóa, một thủ pháp quen thuộc của Bec-tôn Brêch, nhằm tác
động mạnh vào tâm lí và nhận thức người đọc. Theo tâm thức quen thuộc của
người Việt, các thế lực khắc nghiệt của tự nhiên là nước và đá là những lực lượng thù địch, đối kháng. Hai lực lượng đó đã được dân gian hóa thành hai
vị thần Sơn Tinh, Thủy Tinh. Và cuộc chiến giữa hai thế lực ấy tưởng chẳng
bao giờ ngừng lại được. ca dao đã từng có câu:
Núi cao sông hãy còn dài Năm năm báo oán, đời đời đánh ghen.
23
vào mà bẻ gãy cán chèo của người lái đò. Sóng như quân liều mạng đá trái
Vậy mà trên dòng sông hung bạo này, Sơn Tinh và Thủy Tinh, đá và thác phối hợp với nhau thật kì diệu, tạo thành một cảnh tượng sông nước hung
bạo, dữ dội chưa từng thấy. Có lẽ đây là dịp để ngòi bút Nguyễn Tuân tung
hoành, sảng khoái trong những cảm hứng thật hùng tráng và lãng mạn.
Như vậy dưới góc nhìn đa ngành (bóng đá, võ thuật, quân sự…), nghệ
thuật nhân hóa, ngôn ngữ giàu chất tạo hình, trí tưởng tượng phong phú, tài năng quan sát tỉ mỉ, kỹ lưỡng, thạch trận Sông Đà hiện lên như một trận đồ
bát quái, một kẻ thù tâm địa hiểm ác. Nguyễn Tuân đã rất dụng công khi
miêu tả đá của Sông Đà, thể hiện đậm nét sự uyên bác, tài năng miêu tả của
nhà văn. …………………………
Sản phẩm của nhóm 2 Câu hỏi: Thông qua bài học ,vận dụng những kiến thức về Địa lí, hãy
giới thiệu những hiểu biết về Sông Đà ?
24
Trả lời:
Sông Đà, còn gọi là sông Bờ hay Đà Giang là phụ lưu lớn nhất của sông Hồng. Sông bắt nguồn từ tỉnh Vân Nam, Trung Quốc chảy theo hướng Tây
Bắc - Đông Nam để rồi nhập với sông Hồng ở Phú Thọ.
Sông Đà dài 910 km (có tài liệu ghi 983 km), diện tích lưu vực là
52.900 km². Ở Trung Quốc, sông có tên là Lý Tiên Giang, do hai nhánh Bả
Biên Giang và A Mặc Giang hợp thành. Trong một số tiếng châu Âu, sông Đà được dịch là sông Đen (tiếng Anh: Black River; tiếng Pháp: rivière Noire).
Đoạn ở Trung Quốc dài khoảng 400 km từ núi Nguy Bảo (巍寶山) ở
huyện tự trị người Di người Hồi Nguy Sơn phía nam châu tự trị châu tự trị
dân tộc Bạch Đại Lý chảy theo hướng tây bắc-đông nam qua Phổ Nhĩ.
Đoạn ở Việt Nam dài 527 km (có tài liệu ghi 543 km). Điểm đầu là biên
giới Việt Nam-Trung Quốc tại huyện Mường Tè (Lai Châu). Sông chảy qua
các tỉnh Tây Bắc Việt Nam là Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Phú
Thọ (phân chia huyện Thanh Thủy, Phú Thọ với Ba Vì, Hà Nội). Điểm cuối
là ngã ba Hồng Đà, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ. Đoạn đầu sông trên lãnh
thổ Việt Nam, sông Đà còn được gọi là Nậm Tè. Các phụ lưu trên lãnh thổ
Việt Nam gồm Nậm Na (ở tả ngạn), Nậm Mốc (ở hữu ngạn).
Sông Đà có lưu lượng nước lớn, cung cấp 31% lượng nước cho sông
Hồng và là một nguồn tài nguyên thủy điện lớn cho ngành công nghiệp điện
Việt Nam. Năm 1994, khánh thành Nhà máy Thủy điện Hoà Bình có công suất 1.920 MW với 8 tổ máy. Năm 2005, khởi công công trình thủy điện Sơn
La với công suất theo thiết kế là 2.400 MW. Dự kiến sắp xây dựng nhà máy
thủy điện Lai Châu ở thượng nguồn con sông này.
sinh học cao.
……………………………………
25
Lưu vực có tiềm năng tài nguyên to lớn với nhiều loại khoáng sản quý hiếm, các hệ sinh thái đặc trưng bao gồm các nguồn sinh vật với mức đa dạng
Sản phẩm của nhóm 3
Bài tập: Anh( chị) suy nghĩ như thế nào về mối quan hệ giữa con người
và thiên nhiên? Nên hiểu việc chinh phục thiên nhiên như thế nào cho đúng?
Trả lời
Ngay từ thửa hồng hoang, đi khai thiên lập địa, dựng bờ mở cõi, ông cha
ta đã có mối quan hệ với thiên nhiên và khát vọng được chinh phục thiên nhiên.
Đối với người Việt Nam, tố chất cơ bản nuôi sống con người là hạt gạo
bát cơm. Nghề sinh sống cơ bản xưa nay là nghề trồng lúa nước, đó cũng là
cơ sở hình thành nên văn hóa Việt Nam - văn hóa làng xã. Có thể nói đây là yếu tố cơ bản để Việt Nam không bị Trung Hoa đồng hóa trong ngàn năm
Bắc thuộc. Chúng ta vẫn thường cho rằng văn hóa là cách ứng xử thích hợp
với thiên nhiên làm nên lối sống, nếp sống của một cộng đồng hay xã hội.
Hay nói cách khác, văn hóa là những biểu hiện trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên.
Như đã nói, nước ta bắt đầu với nền văn minh nông nghiệp nên lẽ
đương nhiên phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên. Đặc biệt trong thời phong kiến,
khoa học kĩ thuật chưa là công cụ đắc lực cho con người như ngày nay. Chính
vì vậy, con người và tự nhiên có mối quan hệ vô cùng gắn bó, mật thiết. Một
mặt con người tôn sùng, tín ngưỡng trước những hiện tượng tự nhiên; một
mặt cũng lo sợ trước thiên nhiên biến hóa không cùng, ngoài vòng kiểm soát
của họ.
nề nên chưa có một vũ trụ quan có hệ thống mà chỉ có những tín ngưỡng
nguyên thủy. Đầu tiên là thờ các thần tự nhiên như thần mặt trời, thần nước,
thần sông, mây mưa, sấm chớp…sau đó là thờ thần lúa với rất nhiều lễ nghi,
lễ hội như: rước nước, lễ xuống đồng, lễ cơm mới. Long Quân diệt ba con chằn tinh ở ba vùng cho dân yên ổn làm ăn thì đất nước có ba vùng. Cùng với
sự trồng lúa nước có sự phát triển của chăn nuôi và những hoạt động sinh
sống khác từ trước vẫn còn tiếp tục (chài lưới, săn bắn) nên việc thực hiện tín
ngưỡng phồn thực hay thờ sinh thực khí của nam và nữ cũng xuất hiện.
Đi gần tới việc trời đất, vạn vật được sinh ra thế nào thì truyền thuyết. thần thoại nước ta không thiếu những lời kiến giải ngây thơ. Vẫn là thần,
26
Là một dân tộc sống bằng nghề nông, phụ thuộc vào thiên nhiên nặng
nhưng thần Trụ Trời là người đã tách trời khỏi đất, làm nên sông hồ, núi non. Tiếp theo đó là những ông: ông tát bể, ông kể sao, ông trồng cây, ông xây rú.
Những Ông ấy được tạo ra từ hình dáng con người và chính con người với
sức lao động của mình- cả cơ bắp lẫn tư duy- đã tạo ra thế giới ấy. Trường ca
anh hùng của người Mường Mo Đẻ đất đẻ nước rõ rệt, trọn vẹn hơn cả. Trong
đó có lời kể về cả một quá trình sáng tạo vũ trụ, hình thành nên muôn loài, hình thành con người và xã hội loài người.
Thời trung đại, con người chưa nhìn tự nhiên như một khách
thể và mình là chủ thể. Đối với con người trung đại, tự nhiên là để tiêu dùng
chứ không còn ý nghĩa nào khác. Bởi vì nông nghiệp là chủ yếu nên con người khai thác tự nhiên mà sống. Dần dần sau đó, con người thấy mình trong
tự nhiên, bắt đầu từ thân thể. Người ta vẽ mắt vào đằng mũi thuyền để tránh
đá ngầm, nước xoáy; hoa sen tượng trưng cho đức Phật; hay, cổ tay em trắng
như ngà, con mắt em sắc như là dao cau, miệng cười như thể hoa ngâu, chiếc khăn đội đầu như thể hoa sen. Người ta nhìn thấy một phẩm chất nhất định và
tốt đẹp ở sự vật và bản thân mình cũng có phẩm chất ấy nên gán luôn cho
cảnh vật: phẩm chất kiên cường, bất chấp gian nan, thử thách ở cây tùng cây
bách tuế hàn nhi tri rùng bách chi hậu điêu.
Trong quá trình tiến hóa của xã hội tự nhiên thì việc xuất hiện của con
người được xem là một kết quả của quá trình phát triển vượt bậc. Con người
là một động vật bậc cao với sự phát triển hoàn chỉnh của bộ não và đôi tay
được xem là một thành tựu. Cùng với sự phát triển đó của con người thì rất
nhiều quan niệm khác về con người ra đời.
Trong lao động sản xuất, con người không nắm bắt được những quy luật
mình là chủ yếu trăng quầng trời hạn trăng tán trời mưa, ráng mỡ gà có nhà
thì giữ hay tôm đi chạng vạng, cá đi rạng đông…Lúc bấy giờ, thiên nhiên với
con người vẫn là điều bí ẩn. Trước những hiện tượng thiên nhiên mà họ
không thể chống chọi hoặc lí giải được thì họ lại thần thánh hóa nó lên và gắn
cho nó một sự tích hay một hình tượng nào đó để thờ cúng như Sơn Tinh
Thủy Tinh gắn với hiện tượng lũ lụt hằng năm; thủy triều lên xuống với họ là
thần biển đang hít thở; sấm chớp mây mưa đều do các thần tạo ra. Như vậy,
thiên nhiên là nguồn cung cấp, nuôi dưỡng sự sống cho họ nhưng đồng thời
cũng là kẻ thù mà họ chưa thể chống chọi lại được.
27
của hiện tượng tự nhiên mà chỉ có thể dự báo dựa trên những kinh nghiệm của
Nghề nông nghiệp lúa nướcdiễn tiến theo từng giai đoạn nhỏ nhưng phải hội tụ thành làng là một tất yếu tự nhiên xã hội, bởi nông nghiệp lúa
nước phải gắn liền với trị thủy. Mà vấn đề trị thủy phải đòi hỏi sức mạnh của
cộng đồng mới có thể xây dựng hệ thống mương, đập chống hạn, đắp đê ngăn
lụt. Như vậy, trong mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên thì đã bắt đầu
xuất hiện khát vọng chinh phục tự nhiên và bước đầu họ đã tiến hành thực hiện nó. Kinh tế nông nghiệp Việt Nam không chỉ đơn thuần có cây lúa mà
còn có rất nhiều loại cây hoa màu khác cho củ, quả, hạt…cây lâu năm ăn trái
và chăn nuôi gia súc, gia cầm. Nền tảng kinh tế ấy dĩ nhiên phụ thuộc nặng nề
vào tự nhiên. Nghề nông gắn liền với trị thủy. Vấn đề trị thủy không giới hạn trong mỗi làng mà còn yêu cầu sức mạnh liên kết giữa các làng, vùng, miền.
Và cứ thế, con người tất yếu phải cư trú thành làng. Thế nhưng làng không
thể mở rộng không gian cư trú vô hạn định, bởi nó chịu sự chi phối của nhiều
yếu tố như phạm vi đất canh tác, điều kiện địa lí tự nhiên . . .
Có thể nói, văn hóa nông nghiệp lúa nước là nền văn hóa nhào nặn
giữa Đất và Nước. Trường tồn trong lịch sử văn hóa Việt Nam đã diễn ra như
thế.
Mở đầu từ châu thổ sông Hồng, sông Mã khi nước biển bắt đầu rút dần thì con người tràn xuống trung du, đồng bằng tụ cư, khai phá đất đai, phát
triển nghề lúa nước. Con người lúc này phải thường xuyên đối mặt với sự tấn
công của thú dữ, lũ lụt, hạn hán và các thế lực ngoại xâm. Và trong quá trình
chống chọi lại những thế lực đó tính cách con người hình thành.
Có thể thấy rằng, văn hóa của con người trồng cấy Việt Nam là cái bản lĩnh biết nhu- cương, biết công biết thủ, biết trông trời trông đất trông mây,
chuẩn mực nhất thì nhì thục ấy là khả năng ứng biến của con người Việt
Nam, của lối sống Việt Nam, văn hóa Việt Nam.
Trong quan hệ với tự nhiên, con người tận dụng triệt để môi trường tự
nhiên để duy trì sự sống, để chống lại các thế lực ngoại xâm. Nếu như nhiều
dân tộc coi ăn uống là chuyện tầm thường không đáng nói thì người Việt coi
rất thiết thực, thậm chí công khai cho rằng có thực mới vực được đạo, nó quan
trọng đến mức trời đánh còn tránh bữa ăn. Ngay cả khi tính thời gian cũng
lấy ăn uống và cây trồng làm đơn vị: làm gì nhanh thì trong khoảng giập bã
trầu lâu hơn thì chín nồi cơm, còn kéo dài lâu nữa thì tới hai mùa lúa …
Trong cơ cấu bữa ăn của người Việt cũng in đậm bản sắc lúa nước của mình.
28
Trông mưa trông nắng trông ngày trông đêm rồi tùy thời mà làm ăn theo
Không thể thiếu là cơm, cà, dưa, rau rồi mới đến thịt. Cả trong phương thức ăn cũng thể hiện tính cộng đồng rất rõ-quây quần cả nhà bên nhau ăn
uống vui vẻ.
Trong việc ứng phó với môi trường tự nhiên, thể hiện rõ nhất qua việc
mặc. Việc mặc giúp con người ứng phó với cái nóng, rét, mưa, gió. Nhân dân
ta đã nói một cách đơn giản: “được bụng no, còn lo ấm cật”. Vì vậy, cũng như trong chuyện ăn, quan niệm về mặc của người Việt Nam cũng là một quan
niệm rất thiết thực ăn chắc mặc bền . . .
Nhưng mặc không chỉ để ứng phó với môi trường tự nhiên mà còn
có ý nghĩa xã hội rất quan trọng quen sợ dạ, lạ sợ áo. Mặc trở thành mục đích để trang điểm, làm đẹp người đẹp vì lụa lúa tốt vì phân, mặc giúp con người
khắc phục những nhược điểm về tuổi tác cau già khéo bổ thì non, nạ dòng
trang điểm lại giòn hơn xưa.
Ở xã hội Việt Nam cổ truyền, bản chất của nông nghiệp là sống định cư nên con người ít di chuyển. Có đi thì cũng đi rất gần. Hoạt động chủ yếu của
con người nông nghiệp Việt Nam là đi từ nhà ra ruộng, lên nương. Việt Nam
là vùng sông nước, kênh mương chằng chịt và bờ biển dài. Bởi vậy, vấn đề đi
lại từ ngàn xưa chủ yếu là đường thủy; và người Việt xưa giỏi bơi lặn, thạo thủy chiến, giỏi dùng thuyền. Sông ngòi phong phú thuận tiện cho giao thông
đường thủy phát triển lại gây khó khăn cho giao thông đường bộ. Vì vậy Việt
Nam hay có những cầu tre, cầu dừa, cầu dây . . . chính vì thế mà hình ảnh
sông nước ăn sâu vào tâm thức của người Việt Nam chớ thấy sóng cả mà ngã
tay chèo, ăn cỗ đi trước lội nước theo sau, thuyền theo lái gái theo chồng. Người Việt hay nói chìm đắm trong suy tư, thời gian trôi nhanh, ăn nói trôi
đến thăm nhau, quá giang. ..
Những người sống bằng nghề sông nước thường lấy ngay thuyền, bè làm
nhà ở. Nhiều gia đình quần tụ lập nên xóm chài, làng chài. Ấn tượng với
thiên nhiên sông nước mạnh đến nỗi nhà của người Việt thường được làm với
chiếc mái cong mô phỏng hình thuyền. Chiếc mái cong ngoài hình ảnh con
thuyền không có tác dụng thực tế gì cho nên về sau người bình dân thường
làm thẳng cho giản dị, chỉ có những công trình kiến trúc lớn mới làm mái
cong cầu kì.
Bên cạnh việc xây nhà thì chọn hướng nhà cũng là cách tận dụng tối đa
thế mạnh của môi trường tự nhiên để ứng phó với nó. Hướng nhà tiêu biểu là
29
chảy, thân bọt bèo. Ngay cả khi đi bộ cũng nói theo kiểu đi trên sông: lặn lội
hướng nam- vừa tránh được cái nóng từ phía tây, cái bão từ phía đông, gió từ phía bắc và tận dụng gió mát từ phía Nam: gió Nam chưa nằm đã ngáy hay
cất nhà quay cửa vô Nam, quay lưng về chướng không làm cũng có ăn.
Ngoài ra người Việt cũng rất quan tâm đến việc chọn hàng xóm láng
giềng. Đến thời kinh tế hàng hóa phát triển, người Việt còn chú ý chọn vị trí
giao thông thuận tiện nhất cận thị, nhị cận giang những đô thị có tốc độ phát triển nhanh đều là những đô thị gần biển, sông thuận tiện giao thông.
Con người thời đại này quan niệm thiên, địa, nhân nhất thể “thiên thời
địa lợi nhân hòa”. Con người, trời dất đều có cấu trúc âm-dương, có chung
một cấu trúc vật chất. Nếu trời đất vận hành theo qui luật âm- dương hài hòa, ngũ hành biến hóa thì con người cũng vận hành theo qui luật đó. Sự biến
chuyển của vật chất là một quá trình cuối cùng trở về lại cái ban đầu: thủy
sinh mộc, mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ, thổ sinh kim, kim sinh thủy, thủy sinh
mộc. Cứ như vậy vật chất biến hóa theo chu kì. Quan niệm đó dẫn đến lối giải thích duy tâm: mọi tài năng của con người đều do trời phú mà có.
Nhìn chung, con người đặt trong mối quan hệ với thiên nhiên là một
quan hệ gắn bó không thể tách rời. Thiên nhiên nuôi sống con người, giúp con
người chống lại những thế lực ngoại xâm nhưng thiên nhiên cũng là thế lực mà con người phải chống đỡ. Trong giai đọan trung đại Việt Nam, đối với con
người thiên nhiên là một lực lượng siêu nhiên, thần thánh và con người cũng
đã có những lúc run sợ trước những thế lực đó. Nhưng dần dần họ đã tìm ra
nhiều cách để chinh phục thiên nhiên để phục vụ cho đời sống của mình.
Cũng như những loài linh trưởng khác, con người là một sinh vật xã hội, sống bầy đàn. Hơn thế nữa, con người cũng rất thành thạo việc sử dụng ngôn
tin. Con người tạo ra những xã hội phức tạp trong đó có những nhóm hỗ trợ
nhau và đối nghịch nhau ở từng mức độ, có thể từ những cá nhân trong gia
đình cho đến những quốc gia rộng lớn. Giao tiếp xã hội giữa con người và con
người đã góp phần tạo nên những truyền thống, nghi thức, quy tắc đạo đức,
giá trị, chuẩn mực xã hội và cả luật pháp. Tất cả cùng nhau tạo nên những nền
tảng của xã hội loài người. Con người cũng rất chú ý đến cái đẹp và thẩm mỹ,
cùng với nhu cầu muốn bày tỏ mình, đã tạo nên những sự đổi với về văn hóa
như nghệ thuật văn chương và âm nhạc.
Con người cũng được chú ý ở bản năng muốn tìm hiểu mọi thứ và điều
khiển tự nhiên xung quanh, tìm hiểu những lời giải thích hợp lí cho những
30
ngữ trong giao tiếp, để biểu lộ những ý kiến riêng của mình và trao đổi thông
hiện tượng thiên nhiên qua khoa học, tôn giáo, tâm lý và thần thoại. Bản năng tò mò đó đã giúp con người tạo ra những công cụ và học được những kĩ năng
mới. Trong giới tự nhiên, con người là loài duy nhất có thể tạo ra lửa, nấu
thức ăn, tự may quần áo, và sử dụng các công nghệ kỹ thuật trong đời sống.
Thực tế khoa học và đời sống đã chứng minh rằng con người hoàn toàn có
khả năng ching phục thiên nhiên. Các công trình thủy điện của Việt Nam, nhất là công trình thủy điện Hòa Bình chính là thành công của con người
trong việc chinh phục, chế ngự thiên nhiên. Công trình thủy điện Hòa Bình
góp phần quan trọng vào việc phòng chống lũ lụt cho vùng đồng bằng châu
thổ sông Hồng trong đó có thủ đô Hà Nội. Nhà máy thủy điện Hòa Bình là nguồn cung cấp điện chủ lực của toàn bộ hệ thống điện Việt Nam. Năm 1994,
cùng với việc khánh thành nhà máy và tiến hành xây dựng đường dây 500KV
Bắc - Nam từ Hòa Bình tới trạm Phú Lâm (Thành phố Hồ Chí Minh) hình
thành một mạng lưới điện quốc gia. Công trình này góp phần đắc lực trong việc cung cấp nguồn điện cho miền Nam và miền trung Việt Nam. Hơn nữa,
đập thủy điện Hòa Bình đóng vai trò quan trọng vào việc cung cấp nước tưới
cho sản xuất nông nghiệp ở vùng hạ lưu trong đó có đồng bằng sông Hồng,
nhất là trong mùa khô; điều tiết mực nước sông đồng thời đẩy nước mặn ra xa các cửa sông. Đồng thời, thủy điện sông Đà còn giúp chúng ta cải thiện việc
đi lại bằng đường thủy ở cả thượng lưu và hạ lưu. Năm 2004 công trình tượng
đài chiến thắng Điện Biên Phủ được vận chuyển chủ yếu bằng con đường
này.
Tiến bộ khoa học cùng với việc phát minh các công nghệ mới trong thế kỷ XX đã cho ra đời nhiều ứng dụng hầu thỏa mãn nhu cầu mà con người cần
mới, tìm thêm nhu cầu mới, dù cần thiết hay không cần thiết cho cuộc sống.
Cuộc chạy đua do chính con người đặt ra dường như không có điểm
đến! Và hơn nữa, cuộc đua này càng kích thích thêm tham vọng ngự trị của
con người. Với các khả năng khoa học hiện có, con người hầu như làm chủ
thiên nhiên trong việc chế tạo các sản phẩm mới để tăng thêm nhu cầu và thị
hiếu của nhân loại. Song đôi khi những nhu cầu đó có lẽ không cần thiết và vô
ích, nếu không nói là làm thoái hóa thêm quá trình phát triển của con người
cũng như huỷ hoại tài nguyên thiên nhiên và công sức con người một cách phí
phạm.
31
đến hay nghĩ đến. Con người ngày càng chìm đắm trong những khám phá
Sự cân bằng của vạn vật đã được sắp xếp theo một thứ tự nào đó của thiên nhiên. Từ ngàn năm trước nếu nhìn lại, khi khoa học chưa phát triển
nhiều và con người có một hiểu biết rất hạn chế, thiên nhiên vẫn ưu đãi và tạo
dựng ra một đời sống tương đối an lành cho con người. Số mầm bệnh không
nhiều so với hiện tại, và sự xuất hiện những mầm bệnh mới chính là sản phẩm
mặt trái của khoa học và con người. Con người đã lạm dụng khoa học, và với mặc cảm tự tôn, họ tin rằng sẽ chiến thắng được thiên nhiên, kiểm soát thiên
nhiên, và luôn cố gắng thỏa mãn lòng kiêu hãnh của mình qua việc chinh
phục thiên nhiên.
Tuy nhiên, chúng ta thấy sau cùng, thiên nhiên đã đáp lại rằng, hãy còn quá nhiều ẩn số mà con người chưa thể giải đáp được! Thiên nhiên đã vận
hành tuần hoàn, có chu kỳ thời tiết mưa, nắng, bão, lụt...cho từng khu vực
trước kia; nhưng hôm nay, con người đã làm đão lộn các chu kỳ trên một cách
không kiểm soát nổi, và hiện tượng hâm nóng toàn cầu và hiệu ứng nhà kính là hai hậu quả trước mắt mà con người phải gánh chịu qua suy nghĩ làm chủ
thiên nhiên của mình. Hiện tựơng hạn hán, bão lụt xảy ra thường xuyên hơn
không còn theo một chu kỳ tuần hoàn nào có thể tiên liệu như trước kia cách
đây vài thập niên nữa. Bầu khí quyển tiếp tục nóng dần và có khuynh hướng tăng trưởng nhanh hơn theo thời gian. El Nino là hiện tượng nước biển bị hâm
nóng theo chu kỳ tự nhiên khoảng tám đến mười năm vào các thập niên trước;
nay chu kỳ trên đã bị thu ngắn lại còn khoảng 4- 5 năm và không có những
dấu hiệu báo trước rõ ràng như xưa nữa. Tóm lại, con người càng thách thức
thiên nhiên càng phải gánh thêm nhiều hậu quả không thể lường trước đựơc!
Có thể nói, cuộc thách thức giữa con người và thiên nhiên ngày càng gay
đi hiện nay, chúng ta có thể sẽ đi vào ngõ cụt. Vì thiên nhiên hay môi trường
sống của con người tự nó đã được sắp xếp theo một hợp lý nào đó và còn quá
nhiều ẩn số mà con người chưa đủ khả năng để lý giải thì làm sao có khả năng
để hàng phục thiên nhiên được. Do đó, càng vận dụng khả năng và trí thông
minh của mình để thách đố, khiêu khích thiên nhiên, con người càng không
thể tìm lối ra trong an bình được. Đúng như Các-Mác nói: càng chinh phục
thiên nhiên thì thiên nhiên càng trả thù, ngày nay, con người đang đi gần đến
chỗ bế tắc hơn nữa khi tìm cách giải quyết những vấn nạn môi sinh trên thế
giới do chính con người tạo ra như : bầu khí quyển bị ô nhiễm đến mức báo
động; nguồn nước sinh hoạt bắt đầu cạn kiệt về lượng cũng như không còn
32
gắt, và nếu không kịp điều chỉnh đúng mức và như con đường chúng ta đang
trong lành về phẩm như xưa nữa; và vùng đất sinh sống của con người ngày ngày càng bị thu hẹp do ô nhiễm, sa mạc hóa, sự chai đất v.v..
Tuy nhiên, nếu chúng ta cùng nhìn vào một bước tích cực, chúng ta vẫn
còn có lối ra hay một giải pháp nếu chúng ta biết suy nghĩ lại. Do đó, ngày
nay , chúng ta nên hiểu cho đúng về vấn đề chinh phục thiên nhiên. Công
việc này quả là một nan đề cho bất cứ nhà khoa học nào có lương tâm và có một tầm nhìn đúng đắn về dự phóng tương lai. Trong thiên niên kỷ thứ ba
này, nhiệm vụ chính yếu của các nhà làm khoa học trên thế giới là: tập trung
trí tuệ để bảo vệ và tái tạo sự tuần hoàn nguyên thủy của thiên nhiên, như hạn
chế việc thiết lập thêm và phá huỷ các đập thuỷ điện hiện có để duy trì hệ sinh thái thiên nhiên trong vùng; nghiên cứu những công nghệ sạch để thay thế
nguồn các năng lượng đang xử dụng hiện tại, như dùng năng lượng tái tạo hay
năng lượng mặt trời, gió, hoặc biến cải năng lượng từ than nhiệt điện bằng
phương pháp biến than đá thành khí và từ đó tạo ra năng lượng; truy tìm các giải pháp thiên nhiên để giải quyết vấn nạn ô nhiễm trên thế giới như dùng
cây cỏ để hấp thụ hoá chất độc hại do con người thải ra trong đất và nước do
Nếu ý thức được những bổn phận và trách nhiệm trên mỗi người trong chúng ta sẽ biết gìn giữ và bảo vệ môi trường sống chung quanh mình, đó là
phát triển kỹ nghệ.
một phương cách an toàn và nhân bản nhất để có một cuộc hành trình tốt đẹp
và an bình nhất trong thiên kỷ thứ ba. Và hơn nữa, có làm được như thế,
chúng ta mới hoàn trả lại một phần nào món nợ mà chúng ta đã vay mượn
trước của các thế hệ sau do việc đã làm suy thoái môi trường và phí phạm tài nguyên trong quá trình phát triển kỹ nghệ để giải quyết nhu cầu của con người
Mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên và công cuộc chinh phục
thiên nhiên của loài người sẽ luôn là vấn đề để chúng ta quan tâm, suy ngẫm
và tìm cách giải quyết hợp lí, hiệu quả.
……………………………………..
33
trong suốt thời gian qua…
Sản phẩm của nhóm 4 Câu hỏi: Sưu tầm tranh ảnh về Sông Đà Trả lời:
C¶nh S«ng §µ
Cảnh bờ sông hùng vĩ, hiểm trở.
34
…………………………………………………………………………………
Ghềnh sông dữ dội
Thác nước hung dữ.
35
§Ëp thuû ®iÖn s«ng §µ, Hoµ B×nh
Thuû ®iÖn Hoµ B×nh
Người soạn: Nguyễn Thị Hồng Liên Tổ Ngữ văn- Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy- Ninh Bình.
36
BÁO CÁO TÓM TẮT SÁNG KIẾN NĂM HỌC 2013-2014
Tác giả Giải pháp cũ Hiệu quả giảng dạy
thường làm Giải pháp mới cải tiến Khả năng áp dụng Tên sáng kiến
Đối tượng áp Trước đây, khi Bài dạy có sự tích Qua bài học, HS sẽ
hướng dẫn HS hợp kiến thức liên hiểu về đặc trưng của dụng là HS
tìm hiểu trích môn. GV tổ chức giờ thể, rèn luyện kĩ năng THPT, lớp đoạn tùy bút dạy theo sự kết hợp tìm hiểu một văn bản 12, lớp học này, vì chưa chú giữa các phương tùy bút; biết vận có khoảng từ tới 30 đến 35 em ý tính đặc trưng về thể loại; pháp: đọc tái hiện, nêu vấn đề, gợi tìm, dụng sáng tạo những kiến thức, kĩ năng đã
Các em có đồng thời chưa đàm thoại, trao đổi học vào thực tiễn
chú ý vận dụng thảo luận nhón, kết cuộc sống, trong niềm say mê,
kết hợp kiến hợp với diễn giảng nhiều tình huống mà yêu thích học
Nguyễn Thị Hồng Liên, Tổ Ngữ Văn , Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy, Ninh Bình. môn học, có thức các của môn học, ngành thuyết trình. Qua bài học, giúp HS nắm các em sẽ gặp sau này;có những nhận hứng thú học khác nên được: Vài nét về tác thức sâu sắc về hiện khám phá vẻ hạn chế của bài giả Nguyễn Tuân và thực cuộc sống, biết
đẹp của tác
phẩm văn học là chúng tôi chưa giúp HS: tùy bút Người lái đò Sông Đà. Vận dụng yêu, bảo vệ và chung sống hòa bình với
Biết vận dụng kiến thức đa ngành, thiên nhiên có thái độ chương . HS
sáng tạo những bằng câu chữ điêu thân thiện với tự đã được trang
phú, có hệ
sống,
trong
chiều tài hoa, uyên
huy được năng lực
thống ở nhiều
nhiều tình huống mà các em sẽ
bác…, Nguyễn Tuân làm hiện hình đã
vận dụng kiến thức liên môn, tích hợp
môn khoa
gặp sau này;có
Sông Đà vừa hung
kiến thức để khám
học khác
những nhận thức
bạo vừa trữ tình; có
phá chiều
sâu
tư
nhau, đủ khả
sâu sắc về hiện
lúc tưởng như mang
tưởng và vẻ đẹp của
năng để tiếp
nhận dự án
thực cuộc sống, biết yêu, bảo vệ
diện mạo, tâm địa của một thứ kẻ thù số một
một tác phẩm văn chương, kết hợp tri
dạy học.
và chung sống
với con người nhưng
thức của nhiều lĩnh
bị vốn kiến kiến thức, kĩ năng đã học vào luyện, nghệ thuật nhân hóa, so sánh, nhiên, không khai thác cạn kiệt dẫn đến thức phong thực tiễn cuộc mạch liên tưởng đa tàn phá tự nhiên; phát
37
Tích hợp liên môn Ngữ văn, Lịch sử, Địa lí, Văn hóa học, Sinh thái học trong bài đọc- hiểu văn bản Người lái đò Sông Đà ( trích) của Nguyễn Tuân.
Ngoài các tiết hòa bình với thực ra lại luôn hòa vực khác nhau nhằm
thiên nhiên; có hợp trong mối quan giải quyết những vấn học theo
thái độ thân hệ với con người. Từ đề mang tính phức Phân phối thiện với tự đó HS thấy được nét hợp. Trong tiết Tự chương trình,
HS có thêm nhiên, khai không thác cạn đặc sắc chủ yếu trong nghệ thuật tùy bút chọn, GV tổ chức kiểm tra đánh giá kết tiết học Tự kiệt dẫn đến tàn của Nguyễn Tuân; quả học tập của
chọn, đó là phá tự nhiên. biết vận dụng sáng HS.HS đã thực hiện
một thuận lợi
tạo những kiến thức, kĩ năng đã học vào tốtcác bài tập nhằm phát triển năng lực, để GV và HS
thực tiễn cuộc sống, định hướng năng lực có thể thực trong nhiều tình xã hội, năng lực cá hiện các bài huống mà các em sẽ thể, các em đã được tập nhằm
phát triển có sau này; gặp những nhận thức sâu trang bị kĩ hơn nhiều kiến thức về văn học;
năng lực, sắc về hiện thực cuộc có khả năng tiếp nhận
sống, biết yêu, bảo vệ những vấn đề sâu sắc, định hướng
năng lực xã và chung sống hòa bình với thiên nhiên; có ý nghĩa về cuộc sống, con người và hội, năng lực có thái độ thân thiện nghệ thuật; có năng cá thể. với tự nhiên, không lực, kĩ năng đọc -
khai thác cạn kiệt dẫn đến tàn phá tự nhiên; hiểu các văn bản văn chương. Trong các
lực vận dụng kiến
về trích đoạn này, đa
thức
liên môn để
số các em đều đạt yêu
khám phá chiều sâu
cầu, có nhiều bài đạt
tư tưởng và vẻ đẹp
điểm khá, giỏi, có
của một tác phẩm văn
những bài viết rất
chương, kết hợp tri
sáng tạo, giàu cảm
thức của nhiều lĩnh
xúc.
vực nhằm giải quyết
những vấn đề mang
tính phức hợp.
38
phát huy được năng bài kiểm tra, tôi ra đề
39