
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn biện pháp
Những năm học trước đây, đa số các tiết học đều sử dụng phương pháp truyền thống,
hoạt động củng cố bài thường gây căng thẳng và nhàm chán, học sinh lười phát biểu, có
thói quen chờ giáo viên giảng rồi chép vào vở. Nhiều em học sinh đã trở nên thụ động, một
chiều và lơ là trong học tập, giáo viên không thể điều chỉnh và theo dõi quá trình học cho
từng em và không thể tương tác trực tiếp để hỗ trợ các em làm bài.
Để thành công trong việc giảng dạy và học môn hóa học cần rất nhiều yếu tố quyết
định như: chương trình, sách giáo khoa, kế hoạch giảng dạy, môi trường học tập, phương
pháp giảng dạy của giáo viên, ý thức, thái độ học tập của học trò. Trong đó, đổi mới phương
pháp dạy học đóng vai trò then chốt. Có thể khẳng định, đổi mới phương pháp giảng dạy
chính là việc làm cần thiết và cấp bách hiện nay. Người giáo viên dạy hóa học cần khôi
phục động lực học tập, khơi dậy niềm say mê, tình yêu hóa học của học sinh.
Chúng tôi luôn mong muốn làm thế nào để học sinh của mình năng động sáng tạo
hơn, hứng thú trong học tập, giờ học bớt căng thẳng, bớt áp lực, làm sao để các em có cảm
giác “mỗi ngày đến trường là một ngày vui”, để rồi thông qua mỗi giờ học hóa học các em
sẽ nhận được kĩ năng giải quyết một số vấn đề thực tế chứ không chỉ là những kiến thức
khô khan.
Thông qua thực tế giảng dạy, dự giờ học hỏi ở đồng nghiệp cộng với các đợt tập huấn
chuyên môn chúng tôi mạnh dạn áp dụng tổ chức một số hình thức củng cố bài trong giờ dạy
môn hóa học và thấy không khí của mỗi tiết học sôi nổi hẳn lên đến giờ học các em không
còn cảm thấy căng thẳng mà rất háo hức mong đợi, học sinh trong lớp hoạt động tích cực và
đồng đều, các em mạnh dạn trình bày ý kiến, nêu thắc mắc,… từ đó các em tự chiếm lĩnh
kiến thức và ghi nhớ một cách bền vững hơn do đó mà kết quả học tập cũng được nâng cao.
Vì vậy, chúng tôi đã chọn tìm hiểu vấn đề: “Vận dụng trò chơi để phát triển năng lực học
sinh trong hoạt động khởi động và củng cố bài học môn Hóa học” để báo cáo biện pháp
của mình.
Vừa học, vừa chơi sẽ giúp cho giờ học trở nên thực sự hấp dẫn. Qua đó thu
hút, lôi cuốn được học sinh vào vấn đề cần nghiên cứu, phát huy được sự năng động,
nhạy bén của các em, dập tắt được không khí căng thẳng như phần lớn các giờ học
trước đây. Học sinh sẽ chủ động hơn trong chuẩn bị, mạnh dạn hơn trong phát biểu
ý kiến, phát huy tính tư duy, sáng tạo, … Đây cũng chính là những ưu điểm mà sáng
kiến mang lại nên chúng tôi muốn chia sẻ để các thầy cô có thể tham khảo, áp dụng
vào các tiết dạy của mình.
2. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
2.1. Phạm vi nghiên cứu
Biện pháp tập trung ở môn Hóa học 10, 11, 12.