PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NAM TRỰC
TRƯỜNG TIỂU HỌC NAM LONG
BÁO CÁO SÁNG KIẾN
(DỰ THI CẤP TỈNH )
MỘT SỐ BIỆN PHÁP TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP
TRONG PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN LỚP 4
Tác giả: BÙI THỊ THU THỦY
Trình độ chuyên môn: Cao đẳng Sư phạm
Chức vụ: Giáo viên
Nơi công tác: Trường Tiểu học Nam Long
Xã Nam Thanh, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định
Nam Thanh, tháng 5 năm 2019
1
MỤC LỤC
4 I. Mô tả hoàn cảnh tạo ra sáng kiến
5 II. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
9 III. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
9 1. Vai trò của hứng thú học tập
2. Một số biện pháp bồi dưỡng hứng thú học tập cho học sinh 10
khi học Tập làm văn
10 Biện pháp 1: Làm cho học sinh biết được mục tiêu, lợi ích của bài
học
12 Biện pháp 2: Tạo ra hệ thống bài tập viết câu sinh động, giàu
cảm xúc
15 Biện pháp 3: Cung cấp kiến thức để giúp các em thấy được vẻ
đẹp và khả năng kì diệu của Tiếng việt
18 Biện pháp 4: Đổi mới cách ra đề Tập làm văn
20 Biện pháp 5: Vận dụng linh hoạt các phương pháp và hình thức
tổ chức dạy học
20 1. Phương pháp quan sát
22 2. Phương pháp trò chơi học tập
24 3. Vận dụng một số hình thức dạy học tích cực
24
3.1. Tổ chức dạy học theo nhóm
26
3.2. Tổ chức dạy học ngoài không gian lớp học
30
3.3. Tổ chức dạy học thông qua các hoạt động trải nghiệm
31
Biện pháp 6: Tích hợp các nội dung học tập từ các môn học khác
32
IV. Hiệu quả do sáng kiến đem lại
32
1. Hiệu quả về mặt kinh tế
32
2. Hiệu quả về mặt xã hội
35
V. Cam kết không sao chép hoặc vi phạm bản quyền
2
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Tên sáng kiến kinh nghiệm:
“Một số biện pháp tạo hứng thú học tập trong phân môn Tập làm
văn lớp 4 ”
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Đề tài nghiên cứu về “Một số biện pháp tạo hứng thú học tập trong
phân môn Tập làm văn lớp 4 ” nhằm mang lại hiệu quả cao trong dạy học
Tập làm văn lớp 4
3. Thời gian áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Từ tháng 11 năm 2017 đến tháng 5 năm 2019
4. Tác giả:
Họ và tên: Bùi Thị Thu Thủy
Năm sinh: 26/3/1996
Nơi thường trú: Nam Thanh - Nam Trực - Nam Định
Trình độ chuyên môn: Cao đẳng Sư phạm
Chức vụ công tác: Giáo viên
Nơi làm việc: Trường Tiểu học Nam Long
Địa chỉ liên hệ: Trường Tiểu học Nam Long
Xã Nam Thanh, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
Điện thoại: 0333581113
Tỉ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 100%
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Tên đơn vị: Trường Tiểu học Nam Long
Địa chỉ: Xã Nam Thanh, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định
3
Điện thoại: 0872582555
I. Mô tả hoàn cảnh tạo ra sáng kiến
Trong chương trình Tiểu học, Tiếng việt là một trong những bộ môn giữ
vai trò đặc biệt quan trọng, cung cấp cho học sinh kiến thức phổ thông về
ngôn ngữ - phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người. Đồng thời
ngôn ngữ cũng chính là phương tiện hữu hiệu nhất giúp học sinh học tập,
khám phá, tích lũy kiến thức, hình thành các kĩ năng cần thiết cho cuộc sống.
Có thể nói, Tiếng việt là công cụ số một, là chìa khóa mở đường cho học sinh
học tập các môn học khác. Bên cạnh đó, môn Tiếng việt trong bậc Tiểu học
còn giúp cho học sinh bước đầu hiểu được giá trị đặc sắc của nghệ thuật, biết
thưởng thức cái hay, cái đẹp và hình thành, phát triển cho học sinh những
phẩm chất tốt đẹp. Trong học tập Tiếng việt thì phân môn Tập làm văn là
phân môn nối tiếp một cách tự nhiên các bài học, mang tính chất thực hành
toàn diện, tổng hợp và sáng tạo nhằm giúp học sinh vận dụng vốn từ đã tích
lũy được để viết văn.
Vậy muốn học tốt phân môn Tập làm văn, trước hết mỗi học sinh cần phải
say mê, hứng thú với môn học. Thật vậy, hứng thú làm tăng hiệu quả của quá
trình nhận thức, phát triển sự sáng tạo nhờ đó mà kiến thức tiếp thu được vừa
mang tính tự nhiên lại được khắc sâu. Do vậy mỗi giáo viên phải không
ngừng học hỏi, suy nghĩ để tìm ra các phương thức, những con đường thuận
lợi để đạt được mục đích đó. Nhưng làm thế nào để tạo được hứng thú học tập
cho học sinh, đối với giáo viên Tiểu học điều đó khá khó khăn vì học sinh
tiểu học có nhiều đặc điểm về tâm sinh lí cũng như nhận thức của các em rất
khác nhau. Đặc biệt đối với học sinh lớp 4, hứng thú của các em mang tính
bền vững hơn thì bồi dưỡng hứng thú học tập nói chung và hứng thú trong
học Tập làm văn nói riêng là điều vô cùng quan trọng.
4
Qua thực tế trực tiếp giảng dạy và dự giờ thăm lớp của bạn bè đồng nghiệp
bản thân tôi rút ra được một số kinh nghiệm khi dạy học Tập làm văn cho học
sinh lớp 4 nên tôi mạnh dạn trình bày sáng kiến kinh nghiệm: “ Một số biện
pháp tạo hứng thú học tập trong phân môn Tập làm văn lớp 4”
II. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
Theo yêu cầu của chương trình, để giúp các em thực hành rèn luyện kĩ
năng nói, viết nhằm phục vụ tích cực cho việc học tập, giao tiếp, ứng xử thì
nội dung các bài học Tập làm văn ở lớp 4 sẽ hướng dẫn các em viết bài văn kể
chuyện, bài văn miêu tả hay giới thiệu địa phương hoặc điền vào giấy tờ in
sẵn. Trong phân môn Tập làm văn thì viết văn là yêu cầu cốt lõi. Nhờ viết bài
mà học sinh hiểu sâu sắc hơn bản chất của các tri thức được học từ phân môn
Tập làm văn đồng thời học sinh sẽ vận dụng vốn từ ngữ được học từ phân
môn Luyện từ và câu, vận dụng vốn sống thực tế, vốn kiến thức từ các môn
học khác của mình để viết bài. Bài văn đó chính là sản phẩm phản ánh rõ nét
nhất kiến thức học sinh nắm được và các kĩ năng khi sử dụng Tiếng việt của
học sinh.
Mục đích của việc dạy Tập làm văn ở lớp 4 là giúp học sinh có thói quen
quan sát, biết phát hiện những điều mới mẻ, thú vị về thế giới xung quanh;
biết truyền những rung cảm của mình vào đối tượng miêu tả; biết sử dụng
những từ ngữ có giá trị biểu cảm, những câu văn sáng rõ về nội dung, chân
thực về tình cảm. Một bài văn hay là một bài văn mà khi đọc, người đọc thấy
hiện ra trước mắt mình: con người, cảnh vật, đồ vật,…cụ thể, sống động như
nó vẫn tồn tại trong thực tế cuộc sống. Như vậy, có thể xem văn miêu tả là
một bức tranh về sự vật bằng ngôn từ. Và để làm tốt một bài văn miêu tả, đòi
hỏi học sinh phải vận dụng kiến thức tổng hợp của các môn học. Kiến thức
của các môn học này cộng với vốn sống thực tế sẽ giúp học sinh trình bày suy
nghĩ của mình một cách mạch lạc và sống động. Qua đó, bồi dưỡng cho các
em tình yêu quê hương đất nước, vốn sống, vốn ngôn ngữ và khả năng giao
tiếp.
5
Trên thực tế, việc dạy và học phân môn Tập làm văn ở tiểu học hiện nay
còn rất nhiều vấn đề bất cập. Đây quả là một phân môn khó, đòi hỏi học sinh
phải tổng hợp được kiến thức, phải thể hiện sự rung cảm cá nhân, phải biết
thể hiện Tiếng việt một cách trong sáng.
Về phía Giáo viên
- Khi dạy học phân môn Tập làm văn, giáo viên thường chỉ hướng dẫn học
sinh một cách chung chung và để học sinh tự mày mò, các hoạt động học
chưa được tổ chức linh hoạt, tạo được sự hấp dẫn với học sinh.
- Trong kiểm tra, đánh giá học sinh nhiều giáo viên còn quá khắt khe hay
thường nhắc đi nhắc lại sai lầm của học sinh làm cho các em trở nên rụt rè,
thiếu tự tin và mất đi hứng thú, thậm chí là ngại học môn Tiếng việt.
Về phía học sinh
- Khả năng diễn đạt thành lời của học sinh chưa tốt, vốn từ còn hạn chế và
đặc biệt các em không được tiếp xúc nhiều với các sự vật, hiện tượng trong
cuộc sống.
- Tính thụ động của học sinh còn cao, ở lớp 3 học sinh mới được thực hành
viết đoạn văn nhưng đến lớp 4 học sinh sẽ phải viết bài văn là chủ yếu. Chính
vì thế, nhiều em còn ngại viết.
- Nhiều học sinh bị ảnh hưởng của thiết bị công nghệ đến thói quen đọc
của mình. Việc đọc sách của các em hiện nay cũng đang bị xem nhẹ. Phần lớn
học sinh tiểu học ít quan tâm đến việc đọc và có đọc thường là truyện tranh,
thậm chí có những truyện tranh không mang tính giáo dục. Việc giao tiếp với
bố mẹ, với những người thân trong gia đình và cộng đồng cũng rất hạn chế.
Cho nên vốn liếng về cuộc sống, về Tiếng việt của các em tiểu còn ít. Chính
điều này đã tác động không nhỏ đến hứng thú học văn của học sinh.
- Khi viết bài văn học sinh thường mắc những lỗi cơ bản như sau:
1. Bài văn có lối mở bài và kết bài khuân mẫu
Ví dụ: Với đề bài “ Em hãy tả lại cây bàng trên sân trường.”
6
Học sinh thường mở bài và kết bài như sau:
Mở bài: “Trên sân trường có rất nhiều loài cây nhưng em thích nhất là cây
bàng.”
Kết bài: “Em rất thích cây bàng này. Em hứa sẽ chăm sóc nó thật cẩn
thận.”
Và nếu đề bài có thay đổi đối tượng miêu tả như cây ăn quả, hay một loài
hoa thì cây cam, cây bưởi hay cây hoa hồng hoặc hoa cúc,… sẽ trở thành loài
cây, loài hoa các em yêu thích nhất. Cách mở bài, kết bài này không chỉ được
áp dụng với bài văn miêu tả cây cối mà còn áp dụng cả với bài văn miêu tả đồ
vật, con vật.
Điều này cho thấy một lối mòn, một hình thức khuân mẫu trong cách viết
văn của học sinh. Cách mở bài, kết bài này có thể áp dụng đại trà và dễ dàng
cho học sinh tuy nhiên tính sáng tạo của học sinh là chưa có.
2. Bài văn của học sinh còn mang tính chất liệt kê
Khi viết văn học sinh có thói quen quan sát sự vật và viết lại theo cách liệt
kê, kể lại các bộ phận, hay các sự việc chưa thể hiện rõ nét nổi bật riêng của
vật, chưa thể hiện được xúc cảm của mình.
Ví dụ: Khi tả lại quyển sách của mình học sinh viết:
“ Quyển sách của em hình chữ nhật. Chiều dài 30cm, chiều rộng 18cm.
Bên ngoài có bìa màu vàng. Dày 180 trang.”
Hay khi tả cây bàng học sinh viết:
“ Cây bàng cao đến tầng hai. Thân cây to, nhiều cành. Tán lá xum xuê. Lá
cây màu xanh.”
Các câu văn trên rõ nghĩa, diễn đạt đúng ý. Nhưng nếu học sinh viết cả
một bài văn miêu tả với hình thức liệt kê các bộ phận của vật thì bài văn sẽ
khô khan, không hề có yếu tố miêu tả, không có cảm xúc của người viết. Như
vậy, người đọc cảm thấy bài văn có gì đó không ổn và cũng không cảm nhận
hết được nét riêng biệt, nét đẹp nổi bật của vật.
3. Lỗi đặt câu, cách dùng từ, diễn đạt câu học sinh
7
Trước khi có một bài văn hay thì trước hết bài văn đó phải trôi chảy,
không mắc lỗi diễn đạt câu hay lỗi hình ảnh nhưng trên thực tế thì không phải
học sinh nào cũng có thể diễn đạt hết ý của mình thành lời.
4. Lỗi ngữ pháp
Câu không có đủ thành phần:
- Những bông hoa trong vườn.
- Trên cánh đồng làng, chạy dọc theo con sông.
- Khi mùa xuân đến.
Câu thừa thành phần lặp lại thành phần không cần thiết:
- Nhà em nuôi rất nhiều con vật nhưng em vẫn thích chú mèo nhà em.
- Quyển sách Tiếng việt đối với em là một người bạn thân thiết của em.
Câu không phân định thành phần:
- Em phải giữ gìn chiếc bút thật cẩn thận đặt vào trong hộp.
- Em thấy rất có ích đọc câu chuyện này.
- Kỉ niệm về chú gấu bông bố đã tặng sinh nhật.
5. Lỗi về nghĩa
Câu sai về nghĩa:
- Con mèo nhà em to bằng chai coca gần 1 tạ.
Câu không có sự tương hợp về nghĩa:
- Chú chó có bốn chân cao, chắc khỏe nhưng nó chạy rất nhanh
- Từ nhà em đến trường không xa nhưng đó là một con đường xa đầy thơ
mộng.
6. Lỗi dùng từ:
- Mặt mẹ ướt đẫm mồ hôi.
- Chú Tư có một vầng trán rộng, lồi lên.
8
- Đầu của nó giống chiếc yên xe đạp. Hai tai của nó như hai chiếc lá. Đôi
mắt của nó màu đen. Râu của nó dài.
- Chú mèo nhà em bắt chuột rất giỏi. Nó bắt chuột để nhà em không còn
con chuột nào.
7. Lỗi hình ảnh:
- Chú chó hàm răng trắng muốt và có những chiếc răng nanh sắc nhọn
giống với một chiếc răng của em”
Từ thực trạng trên thì việc đưa ra “Một số biện pháp tạo hứng thú học
tập trong phân môn Tập làm văn lớp 4” là một việc làm vô cùng cần thiết
giúp các em hứng thú hơn trong học tập môn Tiếng việt nói chung và phân
môn Tập làm văn nói riêng.
III. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
1. Vai trò của hứng thú học tập
Để thực hiện được vấn đề trên thì ngoài nhiệm vụ cung cấp và hình thành
tri thức Tiếng việt thì cần phải tạo được hứng thú, niềm vui cho các em khi
học Tiếng việt nói chung và Tập làm văn nói riêng. Học sinh chỉ có thể viết
bài văn, sáng tạo hay sử dụng những hình ảnh đặc sắc, thú vị làm người đọc
cảm thấy chân thực, sống động khi học sinh thật sự cảm thấy thích thú. Chính
vì thế, việc tạo hứng thú cho học sinh khi viết văn là hết sức quan trọng
Hứng thú là một thuộc tính tâm lí - nhân cách của con người. Hứng thú có
vai trò rất quan trọng trong học tập và làm việc, không có việc gì người ta
không làm được dưới ảnh hưởng của hứng thú. M.Gorki từng nói: Thiên tài
nảy nở từ tình yêu đối với công việc. Cùng với tự giác, hứng thú làm nên tính
tích cực nhận thức, giúp học sinh học tập đạt kết quả cao, có khả năng khơi
dậy mạch nguồn của sự sáng tạo.Trong khi đó, việc khảo sát thực tế dạy học ở
trường tiểu học đã cho thấy nhiều học sinh không có hứng thú trong học tập.
Điều này được xem như là một biểu hiện cũng là nguyên nhân cơ bản làm cho
bài viết của học sinh rất khô khan và không có cảm xúc.
9
Khổng Tử từng nói: “Biết mà học, không bằng thích mà học, thích mà
học không bằng vui mà học.” Niềm vui và sự ham thích sẽ là một động lực
lớn giúp học sinh có lòng say mê văn học, có hứng thú với Tiếng việt, các em
yêu thích thơ ca, ham mê đọc sách, thích nghe kể chuyện và sẽ vượt qua khó
khăn để vươn lên trong học tập. Xuất phát từ những cơ sở đó, thầy cô giáo
phải có những nỗ lực để phát huy hết khả năng của mình. Trong mỗi giờ lên
lớp, các hoạt động dạy – học phải được tổ chức linh hoạt tạo sự hấp dẫn, thích
thú với học sinh để các em yêu thích, say mê môn học.
Phân môn Tập làm văn giúp các em mở rộng thêm vốn sống, rèn luyện tư
duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ và hình thành nhân cách cho học
sinh. Vậy nên việc bồi dưỡng hứng thú học tập cho học sinh khi học Tập làm
văn là một điều hết sức quan trọng góp phần nâng cao năng lực của học sinh.
2. Một số biện pháp bồi dưỡng hứng thú học tập cho học sinh khi học
Tập làm văn
Biện pháp 1: Làm cho học sinh biết được mục tiêu, lợi ích của bài học
Hứng thú học tập trước hết được tạo ra bằng cách làm cho học sinh ý thức
được lợi ích của việc học để tạo động cơ học tập. Mục tiêu này có thể được
trình bày một cách tường minh ngay trong tài liệu học tập (như cách trình bày
của tài liệu hướng dẫn học của dự án Mô hình trường học mới Việt Nam) hoặc
có thể trình bày thông qua các tình huống dạy học cụ thể.
Với mỗi bài học cụ thể, giáo viên cần giúp cho học sinh nhận ra tính lợi
ích của một nội dung nào đó. Chẳng hạn, sự cần thiết của dấu phẩy sẽ được
làm rõ khi chỉ ra sự khác nhau về nghĩa của hai câu: Đêm hôm, qua cầu
gãy và Đêm hôm qua, cầu gãy. Tính lợi ích của một nội dung dạy học cũng
được thể hiện rõ khi chúng ta đặt ra sự đối lập giữa “có nó” và “không có nó”,
ví dụ: Điều gì sẽ xảy ra khi chúng ta không có chữ viết? Chuyện gì sẽ xảy ra
10
khi chúng ta không có những từ đồng nghĩa, không có câu ghép, không có các
dấu câu?...
Khi dạy bài Luyện tập xây dựng mở bài trong bài văn miêu tả, giáo viên có
thể đi sâu vào phân tích lợi ích, tác dụng của cách mở bài gián tiếp so với
cách mở bài trực tiếp.
Ví dụ : Với đề bài: “Em hãy tả con vật mà em yêu thích nhất.”
Giáo viên đưa ra hai mở bài theo cách trực tiếp và gián tiếp để học sinh so
sánh và đánh giá:
Mở bài trực tiếp: “ Nhà em nuôi rất nhiều con vật nhưng em thích nhất là
chú gà trống.”
Mở bài gián tiếp: “ Phương đông vừa ửng hồng, không gian vẫn còn mở
ảo bởi màn sương đêm. Bỗng một tiếng gáy oai phong vang động xé tan
không khí tĩnh lặng của buổi sớm mai: Ò…ó…o…o…làm cho mọi vật bừng
tỉnh giấc. Đó chính là tiếng gáy của chú gà trống nhà em – một người bạn
đặc biệt đã gắn bó với em nửa năm nay.
Rõ ràng, cả hai cách mở bài đều giới thiệu chú gà trống. Tuy nhiên, với
cách mở bài thứ hai chú gà trống được giới thiệu ấn tượng hơn, tình cảm đối
với vật nuôi cũng được bộc lộ một cách gần gũi, thân thiết hơn. Vì thế, đoạn
văn trở nên hay hơn, và chắc chắn tạo được ấn tượng cho người đọc.
Qua ví dụ này, học sinh sẽ thấy rõ được tác dụng, lợi ích của việc mở bài
gián tiếp trong bài văn, từ đó có ý thức lựa chọn cách viết sao cho ấn tượng.
Như vậy, làm cho học sinh ý thức được lợi ích của việc học để tạo động cơ
học tập là một việc cần thiết giúp nâng cao hứng thú học tập cho các em.
11
Biện pháp 2: Tạo ra hệ thống bài tập viết câu sinh động, giàu cảm xúc
Trong văn miêu tả, thường xuất hiện các lớp từ có giá trị hình tượng, có
giá trị biểu cảm như từ láy, các tính từ. Chúng là thế mạnh đặc trưng của
Tiếng Việt và là phương tiện miêu tả hiệu quả. Từ láy luôn có giá trị gợi tả.
Khi dạy học sinh viết văn miêu tả, giáo viên cần hướng dẫn học sinh khai
thác và sử dụng có hiệu quả các từ tượng thanh như: tiếng gió vi vu, lao xao,
xào xạc,…; tiếng mưa lộp bộp, tí tách, long bong, …; tiếng nước chảy róc
rách, ào ào, tí tách,…và thế giới âm thanh xung quanh các em tiếng gà gáy,
tiếng chim hót, tiếng lợn ủn ỉn, tiếng bát đũa va vào nhau, tiếng người
cười nói,…
Đồng thời, giáo viên cần hướng dẫn học sinh vận dụng tốt các từ ngữ có
giá trị tượng hình như: đỏ chon chót, đỏ mọng, sâu hun hút, xanh ngăn ngắt,
sâu thăm thẳm, rộng mênh mông,…Các tính từ chỉ màu sắc như: vàng óng,
vàng hoe, vàng xuộm, vàng lịm, vàng ối,…; xanh um, xanh thẳm, xanh trong,
xanh lét,…; đỏ ối, đỏ chon chót, đỏ hoe,… tím ngắt, tím biếc, tím hoa
cà,… Các tính từ chỉ mùi vị: thơm ngát, thơm nức, thơm thoang thoảng, thơm
ngan ngát,…Thế giới âm thanh, hình tượng và màu sắc tạo cho bài văn miêu
tả của các em thật hơn, sinh động hơn, đóng góp một phần không nhỏ làm nên
vẻ đẹp bài văn.
Nội dung dạy học Tập làm văn được chia ra rất nhiều cấp độ. Để giúp học
sinh viết tốt, giáo viên phải giúp các em nắm vững các mạch kiến thức - kĩ
năng, các kiến thức về từ vựng ( từ đơn, từ ghép, từ láy hay các từ vựng liên
quan đến mỗi chủ điểm,…) cho đến câu, đoạn văn, bài văn. Vì vậy giáo viên
cần tạo ra một hệ thống bài tập viết câu giúp học sinh biết sử dụng từ ngữ
giàu hình ảnh để viết câu. Khi giáo viên tạo ra hệ thống bài tập cho học sinh
cần tăng dần mức độ từ đễ đến khó.
Bài tập 1: Chọn từ trong ngoặc đơn để điền vào chỗ trống sao cho thích
hợp
12
Dạo ấy là ………………. Nắng gay gắt. Cây cối thu
mình,……………..dưới sự hun đốt giận dữ của mặt trời. Thế mà Chuối con
vẫn xanh ……………… nhờ bầu sữa …………… của mẹ. Chẳng mấy chốc,
nó đã to lớn,…………..
( mơn mở, héo quắt, phông phao, ngọt lành, mùa hạ )
Bài tập 2: Trong những câu văn dưới đây có những lỗi sai, em hãy sửa lại
cho đúng.
a) Nàng xuân huy hoàng đã gõ cửa mỗi nhà.
b) Núi non tươi đẹp làm say đắm lòng người .
c) Những tia nắng xuân đầu tiên ấy như những ngón tay hồng nhanh nhẹn
gõ cửa đánh thức vạn vật, muôn loài bừng giấc.
d) Cây cối xanh mơn mởn xào xạc trước gió.
Bài tập 3: Viết tiếp từ ngữ hoặc câu văn vào chỗ trống để hoàn thành các
đoạn văn sau
a) Đàn gà trông thật……………………… Chúng kêu và chạy quanh
………………………….. Đôi mắt chúng …………………………….. Đôi
chân của những chú gà …………………………………………. Cái mỏ của
chúng giống như là ……………………………. Trông đàn gà còn bé bỏng,
tôi lại nghĩ ……………………………………………..
b) Nhìn từ xa, cây chuối như ………………………………….. Thân cây
cao hơn đầu người, mọc thẳng, không có cành, chung quanh là mấy cây con
đứng sát lại thành bụi trông như ………………………………….. Gốc cây
khá to, rễ bám chặt vào đất, thỉnh thoảng có mấy chiếc rễ con nổi lên, giống
như……………………………………………………
Bên cạnh đó, từ một ý cho trước hay từ một câu đơn (chỉ có một cụm chủ
ngữ, vị ngữ), giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tập mở rộng câu bằng cách
13
thêm các thành phần phụ cho câu như: trạng ngữ, bổ ngữ, động từ, tính từ, từ
láy, từ tượng hình, từ tượng thanh,…Sử dụng các hình ảnh, chi tiết sinh động
biểu cảm; các biện pháp nghệ thuật như: nhân hoá, so sánh, điệp từ, điệp ngữ,
hoán dụ, phóng đại,…làm cho cách diễn đạt câu văn, đoạn văn, thêm cụ thể,
sống động giúp người đọc như cùng cảm nhận với mình.
Bài tập luyện viết câu sẽ giúp học sinh có ý thức viết văn ngày càng chặt
chẽ về hình thức, ngữ pháp đến nội dung chính xác, sinh động, giàu xúc
cảm,… Sau đây là một số bài tập viết câu văn sinh động:
Bài tập 1: Từ những câu văn đã cho, viết lại cho sinh động, gợi cảm xúc
bằng cách thêm biện pháp nghệ thuật:
a) Gà mẹ xòe rộng đôi cánh ra
b) Chiếc bảng đen xinh xắn
c) Bông hoa xinh đẹp
d) Mặt biển trong xanh
e) Những đám mây trắng xóa
f) Mùa xuân đã đến
g) Hoa cau trắng muốt
h) Hoa bưởi ngát dịu
Bài tập 2: Viết tiếp đoạn mở bài cho bài văn
a) Khi tả lại một cây ăn quả mà em yêu thích nhất, một bạn học sinh đã
viết đoạn mở bài như sau:
Khu vườn nhà em không rộng lắm nhưng cũng hội tụ khá nhiều loại cây.
Cây nhãn là cây cao lớn nhất khu vườn. Tán nó xòe rộng, che mát cả một
khoảng vườn lớn. Đứng cạnh cây nhãn là cây hồng xiêm. Hồng xiêm lá xanh
um, quả ngọt lịm, […]
14
Em hãy giúp bạn hoàn thành đoạn mở bài trên.
b) Với đề bài: Tả lại một con vật nuôi trong nhà
Quanh ta mọi vật đều có ích. Chú gà trống gáy vang báo hiệu một ngày
mới bắt đầu. Chú chó là một người lính kiên trì và dũng cảm, […]
c) Đề bài: Tả lại một loài hoa trong vườn nhà em.
Mùa xuân đến, hoa trong vườn nhà em đua nhau khoe sắc. Hoa nào cũng
đẹp […]
Biện pháp 3: Cung cấp kiến thức để giúp các em thấy được vẻ đẹp và
khả năng kì diệu của cách dùng từ trong Tiếng việt.
Ngoài việc dạy học sinh cách dùng từ, cách viết câu thì trong giảng dạy
giáo viên cần cho học sinh nhận thấy vẻ đẹp của ngôn từ, sự phong phú của
Tiếng việt.
Không có con đường nào tốt hơn để làm nảy sinh và duy trì hứng thú của
học sinh với Tiếng Việt và văn học ngoài cách giúp các em thấy được sự thú
vị, vẻ đẹp và khả năng kì diệu của Tiếng việt. Hứng thú của học sinh cũng
được khơi dậy từ việc chỉ ra vẻ đẹp của một từ, cái hay của một tình tiết
truyện, chẳng hạn: Tiếng hót của chim chiền chiện không phải “ríu rít”,
“thánh thót” mà “ngọt ngào”, “long lanh”, “chan chứa” thì mới gây ấn tượng.
Hoa sầu riêng nở “tím ngát” chứ không phải chỉ “tím ngắt” hay “ngan ngát”.
Như thế cả màu hoa, hương hoa đều được thể hiện chỉ qua một từ ngữ.
Trong phân môn Tập làm văn, sự kì diệu của Tiếng việt thể hiện ở chỗ, với
cùng một nội dung thông báo, song mỗi cách viết lại có một cách hiểu khác
nhau.
Ví dụ: Giáo viên cho học sinh so sánh cách dùng từ
- Chim họa mi hót líu lo trong vườn. ( thể hiện sự thuần túy )
15
- Tiếng hót trong trẻo của chim họa mi làm rộn ràng không gian yên lặng
của khu vườn. ( thể hiện sự trong sáng, vui tươi )
Như vậy, ý của câu văn hoàn toàn phụ thuộc vào ngụ ý của người viết. Với
mỗi một cách diễn đạt khác nhau lại cho một giá trị biểu cảm khác nhau.
Trong các tiết Tập đọc, trước khi cho học sinh tìm hiểu nội dung bài giáo
viên sẽ tổ chức cho học sinh luyện đọc nhiều lần: đọc mẫu, luyện phát âm,
luyện đọc đoạn, đọc toàn bài, đọc diễn cảm qua việc tiếp xúc với tác phẩm
học sinh sẽ nhận thấy cái hay, cái đẹp trong cách dùng từ, cách miêu tả và
cảm nhận của tác giả.
Ví dụ 1: Trong bài Đường đi Sa Pa (TV4, tập 2)
Ở đoạn thứ ba nhà văn Nguyễn Phan Hách tả lại phong cảnh ở Sa Pa như
sau: Hôm sau chúng tôi đi Sa Pa. Phong cảnh ở đây thật đẹp. Thoắt cái, lá
vàng rơi trong khoảnh khắc mùa thu. Thoắt cái, trắng long lanh một cơn mưa
tuyết trên những cành đào, lê, mận. Thoắt cái, gió xuân hây hẩy nồng nàn với
những bông hoa lay ơn màu đen nhung hiếm quý.
Tác giả sử dụng biện pháp điệp từ “ Thoắt cái” để người đọc có thể cảm
nhận được hết như thay đổi nhanh chóng của thời tiết ở Sa Pa, cùng với đó là
biện pháp đảo ngữ được sử dụng để nhấn mạnh vẻ đẹp đặc biệt một ngày có
bốn mùa ở Sa Pa.
Ví dụ 2: Trong bài Tập đọc “Sầu riêng”
Hoa sầu riêng trổ vào cuối năm. Gió đưa hương thơm ngát như hương
cau, hương bưởi tỏa khắp khu vườn. Hoa đậu từng chùm, màu trắng ngà.
Cánh hoa nhỏ như vảy cá, hao hao giống cánh sen con, lác đác vài nhụy li ti
giữa những cánh hoa.
Tác giả quan sát và cảm nhận hết sức tinh tế. Mùi hương của hoa sầu riêng
ngan ngát tỏa khắp một khu vườn như là sự hòa quyện giữa hương cau và
16
hương bưởi vừa có sự dịu mát, ngọt ngào vừa có sự ngào ngạt quyến rũ hết
sức đặc biệt.
Hay trong giờ Tập làm văn, giáo viên có thể cho học sinh đọc những đoạn
văn hay.
Ví dụ 1: Khi cho học sinh ôn tập về tả cây cối, giáo viên có thể cho học
sinh đọc những đoạn văn hay tả các bộ phận của cây như đoạn văn tả cây
bàng của nhà văn Đoàn Giỏi:
“Có những cây mùa nào cũng đẹp như cây bàng. Mùa xuân, lá bàng mới
nảy trông như những ngọn lửa xanh. Sang hè, lá lên thật dày, ánh sáng xuyên
qua chỉ còn là màu ngọc bích. Khi lá bàng ngả sang màu lục, ấy là mùa thu.
Sang đến những ngày cuối đông, mùa của lá rụng, nó lại có vẻ đẹp riêng.
Những lá bàng mùa đông đỏ như đồng ấy, tôi có thể nhin cả ngày không
chán. Năm nào tôi cũng chọn lấy mấy lá thật đẹp về phủ một lớp dầu mỏng,
bày lên bàn viết. Bạn có biết nó gợi lên chất liệu gì không? Chất sơn mài …”
Ví dụ 2: Đoạn văn tả quả cà chua rất sinh động của nhà văn Ngô Văn
Phú:
“ Đêm huyền diệu đã rủ hoa cà chua lặn theo vòng thời gian chuyển vần.
Hoa biến đi để cây tạo ra những chùm quả nõn chung màu với cây với lá.
Cà chua ra quả, xum xuê, chi chít, quả lớn quả bé vui mắt như đàn gà mẹ
đông con. Quả một, quả chùm, quả sinh đôi, quả chùm ba, chùm bốn. Quả ở
thân, quả leo nghich ngợm lên ngọn làm ỏe cả những nhánh to nhất.
Nắng đến tạo vị thơm mát dịu dần trong quả. Mỗi quả cà chua chín là một
mặt trời nhỏ hiền dịu. Cà chua thắp đèn lồng trong lùm cây nhỏ bé, gọi người
đến hái. Màu đỏ là màu nhận ra sớm nhất. Những quả cà chua đầu mùa gieo
sự náo nức cho mọi người.”
17
Ra hoa rồi kết quả. Đây là một sự phát triển tự nhiên của cây cối nhưng
qua cái nhìn của nhà văn thì đây là một sự chuyển vần theo vòng thời gian hết
sức huyền diệu.
Việc thường xuyên cho học sinh tiếp xúc với những đoạn văn, bài văn hay,
những mẫu hình sử dụng ngôn từ chuẩn mực như vậy sẽ làm các em cảm
nhận được vẻ đẹp, sự phong phú muôn hình của Tiếng việt, sẽ học được cách
sử dụng từ ngữ, cách diễn đạt, cách quan sát và miêu tả các sự vật, hiện
tượng. Ngoài ra, các em còn cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên và tích
lũy được kiến thức về các sự vật, hiện tượng của cuộc sống vận dụng linh
hoạt khi tả hoặc kể. Từ đó, hình thành hứng thú học tập cho các em một cách
tự nhiên và bền vững.
Biện pháp 4: Đổi mới cách ra đề tập làm văn
Với phân môn Tập làm văn, để kích thích hứng thú, sự tò mò của học
sinh, ta có thể thay đổi cách ra đề. Bỏ cách ra đề chung chung, đơn điệu giáo
viên nên ra đề rõ ràng, gần gũi với học sinh có tính ứng dụng liên hệ thực tế
cao.
Ví dụ 1:Với văn miêu tả con vật.
Giáo viên có thể ra đề như sau:
“ Mèo con cuộn tròn lăn lông lốc rồi chạm bịch vào gốc cau. “Rì rào, rì
rào, con mèo nào mới về thế?” – Cây cau lắc lư chỏm lá tít trên cao hỏi
xuống. “ Rì rào, rì rào, chú bé leo lên đây nào!” Mèo con ôm lấy thân cau,
trèo nhanh thoăn thoắt. Nó ngứa vuốt cào cào thân cau sồn sột. “ Ấy, ấy! Chú
làm xước cả mình tôi rồi. Để vuốt sắc mà bắt chuột chứ.” Em hãy tả lại hoạt
động của chú mèo.
Ví dụ 2: Với đề bài “ Tả lại loài hoa sen”
GV có thể ra đề:
18
Sen hồng, sen trắng, sen vàng
Chung hương thơm ngát khẽ khàng vương vương
Lắng sây về chốn ngọn nguồn
Từ miền bùn tối ủ hương dâng đời
Từ ý thơ trên, em hãy tả lại hoa sen.
Ví dụ 3: Khi kể lại câu chuyện theo vai nhân vật, Giáo viên có thể thay
cách đề bài “Em hãy kể lại câu chuyện “Ở vương quốc Tương lai” theo nhân
vật Tin-tin hoặc Mi-tin bằng cách mở bài mang tính gợi ý như sau:
“Tin – tin và Mi – tin được một bà tiên giúp đỡ, đã vượt qua nhiều thử
thách, đến nhiều xứ sở để tìm con Chim Xanh về chữa bệnh cho một bạn hàng
xóm. Hai bạn đã tới được Vương quốc Tương lai – nơi có rất nhiều điều thú
vị và được trò chuyện với những người bạn sắp ra đời.
Em hãy đặt mình trong vai Tin – tin hoặc Mi - tin để kể lại câu chuyện
trên và nói lên cảm nghĩ của mình khi được khám phá Vương quốc Tương Lai
– nơi mà những ước mơ về cuộc sống tươi đẹp, hạnh phúc thành hiện thực”.
Ví dụ 4: Hay khi muốn yêu cầu học sinh tả lại tấm lịch treo tường, giáo
viên có thể ra đề:
“Vào dịp năm mới, mỗi gia đình đều mua một tấm lịch vừa để trang trí
nhà cửa, vừa để xem ngày tháng. Có nhiều tấm lịch treo tường khác nhau, mỗi
tấm lịch là một tác phẩm nghệ thuật. Có tấm lịch nhiều tờ, mỗi tờ là một bức
tranh đẹp: tranh phong cảnh, tranh hoa, tranh con vật, tranh tĩnh vật,… Có
tấm lịch bìa cứng màu đỏ tươi với những chữ Hán mạ vàng và cả hình ba ông
Phúc, Lộc, Thọ… Em hãy viết bài văn tả một tấm lịch treo tường mà em
thích nhất.”
19
Những đề Tập làm văn đã cung cấp một số thông tin cơ bản, có yêu cầu rõ
ràng sẽ giúp học sinh biết phải làm gì khi viết, không mơ hồ khi bắt tay vào
làm bài cũng làm cho học sinh cảm thấy thú vị và tò mò hơn.
Biện pháp 5: Vận dụng linh hoạt các phương pháp và hình thức tổ
chức dạy học
Ngoài việc khai thác sự lí thú trong chính nội dung dạy học, hứng thú của
học sinh còn được hình thành và phát triển nhờ các phương pháp, thủ pháp,
hình thức tổ chức dạy học phù hợp với sở thích của các em. Đó chính là cách
tổ chức dạy học dưới dạng các trò thi đố, các trò chơi, tổ chức hoạt động sắm
vai, tổ chức hoạt động học theo nhóm, tổ chức dạy học dự án, tổ chức dạy học
ngoài không gian lớp học...
1. Phương pháp quan sát
Phương pháp quan sát là phương pháp trong đó giáo viên tổ chức cho học
sinh sử dụng các giác quan để quan sát đối với các đối tượng.
Học sinh tiểu học thích trực quan, sinh động. Vì vậy, Khi vận dụng
phương pháp này học sinh sẽ được tri giác các vật có thật, các tranh ảnh minh
họa,... Điều này sẽ làm cho học sinh thích thú hơn khi được mắt thấy, tay sờ.
Ví dụ: Khi dạy học sinh miêu tả đồ vật giáo viên hướng dẫn học sinh
quan sát theo các bước:
Bước 1 : Lựa chọn đối tượng quan sát.
Giáo viên hướng dẫn học sinh lựa chọn đối tượng miêu tả ( có thể là
chiếc bàn học, quyển sách, quyển truyện hoặc là chiếc bút mực hay chú gấu
bông)
Bước 2 : Xác định mục đích quan sát.
Quan sát các đặc điểm nổi bật của đồ vật để tìm ra điểm riêng biệt.
Bước 3 : Tổ chức và hướng dẫn học sinh quan sát.
Có thể tổ chức cho học sinh quan sát cá nhân hoặc quan sát theo nhóm
20
- Quan sát tổng thể: hình dáng, màu sắc, kích thước,…rồi mới đi đến bộ
phận, chi tiết.
- Quan sát từ bên ngoài rồi mới đi vào bên trong.
- So sánh với các đối tượng cùng loại ( mà các em đã biết ) để tìm ra
những đặc điểm giống nhau và khác nhau.
Bước 4: Tổ chức cho học sinh báo cáo kết quả quan sát.
Trong văn miêu tả, quan sát rất quan trọng. Việc quan sát và vị trí quan
sát tốt: xa hay gần, trong hay ngoài, ban ngày hay ban đêm, mùa xuân hay
mùa hạ, … sẽ giúp ta nắm được điểm riêng biệt của đối tượng, cảm nhận đối
tượng một cách rõ ràng, cụ thể và tinh tế hơn.
Quan sát đối tượng không chỉ bằng thị giác như các em vẫn nghĩ, mà phải
biết huy động mọi giác quan: thính giác (nghe), khứu giác (ngửi), xúc giác
(sờ, nắm), vị giác (nếm). Những đoạn văn hay và hấp dẫn là những thành
công của tác giả trong việc dùng nhiều giác quan để quan sát.
Tuy nhiên, tuỳ từng kiểu bài ta có những cách quan sát khác nhau:
- Đối với kiểu bài tả đồ vật ta có thể quan sát theo trình tự:từ bao quát
bên ngoài: mắt nhìn, tay sờ đến các bộ phận, quan sát điểm nổi bật của đồ vật
- Nhưng đối với bài văn tả cây cối cần phải quan sát theo một trình tự: từ
xa đến gần, từ bao quát đến bộ phận ( gốc cây, rễ cây, thân, cành, lá,
hoa,….), quan sát nét khác biệt của cây đó với cây khác cùng loài
Có thể quan sát theo từng thời kì phát triển của cây: từ cây non đến khi
cây trưởng thành.
- Còn đối với bài văn tả loài vật ta quan sát: ngoại hình ( hình dáng, bộ
lông, màu sắc, những bộ phận nổi bật…) rồi mới đến những thói quen sinh
hoạt và những hoạt động của con vật.
Mỗi sự vật có một đặc điểm riêng, chỉ khi nào ta nắm được đặc điểm riêng
đó của sự vật thì khi viết ra mới có hình ảnh như thật. Thế nhưng, chỉ làm nổi
21
bật đặc điểm bên ngoài thôi chưa đủ, cần nêu được cái đặc sắc ẩn chứa bên
trong sự vật đó và phải đưa được cảm xúc của mình vào bài văn.
Quan sát luôn đi liền ghi chép. Phải ghi được những đặc điểm cơ bản:
hình dạng, màu sắc, hoạt động,… của đối tượng, hãy tìm ra và viết được
những điều mới lạ để bài viết của mình có cái riêng, cái độc đáo.
2. Một số trò chơi tạo hứng thú học tập trong tiết Tập làm văn cho
học sinh.
Trong dạy học giáo viên cần tăng cường các hoạt động thực hành, tổ chức
các trò chơi xem kẽ để củng cố, khắc sâu kiến thức cho các em. Trò chơi học
tập không chỉ thay đổi hình thức học tập trở thành một hoạt động vui, hấp dẫn
đối với học sinh, giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự giác, tích cực
mà còn giúp các em củng cố khắc sâu kiến thức đồng thời phát triển vốn kinh
nghiệm được tích lũy qua các hoạt động chơi.
a) Trò chơi Sắm vai
Khi học văn kể chuyện:
Giáo viên tổ chức cho học sinh trò chơi hoạt dộng sắm vai. Đây là một trò
chơi có nhiều lợi thế trong dạy các giờ Tập làm văn nói hay trong các bài văn
kể chuyện. Sắm vai trong dạy học là nhận một vai nhân vật nào đó nhằm thể
hiện đúng, sinh động nội dung học tập. Hình thức học tập này giúp không khí
của tiết học trở nên vui vẻ, thích thú nhờ những chi tiết hài hước, ngộ nghĩnh
do những diễn viên “bất đắc dĩ” tạo nên. Đồng thời nó giúp học sinh được
thực hành giao tiếp, được quan sát trực tiếp hoạt động nói với sự kết hợp sinh
động của phương tiện âm thanh và các yếu tố phi ngôn ngữ do chính các em
cảm nhận và thể hiện
Ví dụ: Khi yêu cầu học sinh kể lại câu chuyện “Gà Trống và Cáo” theo
lời của nhân vật Cáo.
22
Trước khi viết bài văn, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh sắm vai kể lại
đúng câu chuyện. Học sinh được nhập vai thành các nhân vật trong câu
chuyện để thể hiện lại câu chuyện như một vở kịch nhỏ với khả năng sáng tạo
của mình. Không những thế, khi được đặt vào hoàn cảnh của nhân vật các em
sẽ hiểu rõ hơn hành động và suy nghĩ của nhân vật đó. Trong câu chuyện Cáo
là nhân vật phản diện nhưng khi các em sắm vai Cáo các em lại hiểu được
tâm tư, nỗi lòng của nhân vật. Phải chăng do quá đói nên con vật này mới âm
mưu làm hại Gà Trống? Hay phải chăng Cáo cũng hết sức đáng thương khi bị
muôn loài trong rừng xa lánh? Một cách nhìn nhận hoàn toàn mới thể hiện
được sự đồng cảm. Không chỉ dừng lại là kể lại câu chuyện mà kiến thức còn
được mở rộng hơn tưởng tượng một cái kết có hậu cho câu chuyện.
b) Trò chơi “ Con số may mắn”
Khi dạy học sinh miêu tả con vật. Giáo viên tổ chức cho học sinh chơi trò
chơi Con số may mắn
Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị 6 bức tranh vẽ các con vật khác nhau. Sau
mỗi bức tranh vẽ con vật khác nhau sẽ đánh số thứ tự từ 1 đến 6.
Giáo viên chia lớp thành các nhóm học tập.
Luật chơi: Mỗi nhóm cử đại diện học sinh nên chọn một con số may mắn
cho nhóm của mình cũng là chọn con vật một cách ngẫu nhiên. Yêu cầu các
nhóm hãy miêu tả lại các hoạt động của con vật đó.
Thời gian : 8 phút
Kết thúc trò chơi giáo viên cho từng nhóm đọc đoạn văn của mình. Các
nhóm khác nghe và nhận xét, bình chọn nhóm có đoạn văn hay.
c) Trò chơi “ Mắt xích”
Khi yêu cầu học sinh hãy tưởng tượng và kể lại vắn tắt một câu chuyện có
ba nhân vật: bà mẹ bị ốm, người con bằng tuổi em và một bà tiên.
Giáo viên sẽ tổ chức cho học sinh chơi trò chơi này
23
Chuẩn bị: Một khổ giấy A3, bút dạ
Luật chơi: Mỗi học sinh tương ứng với mỗi mắt xích có nhiệm vụ viết một
câu trên khổ giấy đã chuẩn theo yêu cầu của bài tập. Người viết sau phải viết
làm sao cho logic với các câu đã được viết trước.
Kết thúc trò chơi giáo viên cho học sinh đọc lại bài văn. Đây sẽ là một
câu chuyện rất độc đáo và sáng tạo.
3. Vận dụng một số hình thức dạy học tích cực.
3.1 Tổ chức dạy học theo nhóm
Trong giờ học Tập làm văn, tổ chức cho học sinh hoạt động theo nhóm
sẽ tạo nên một môi trường giao tiếp tự nhiên, thuận lợi. Đó là hoạt động giao
tiếp nhằm trao đổi, chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, vốn hiểu biết của các em
về cuộc sống để giải quyết nhiệm vụ học tập
Với biện pháp này giáo viên có thể vận dụng các kĩ thuật dạy học tích
cực như: kĩ thuật khăn trải bàn, kĩ thuật các mảnh ghép, kĩ thuật bể cá, kĩ
thuật XYZ,…….
a. Kĩ thuật khăn trải bàn
Mô tả: Kĩ thuật khăn phủ bàn là kĩ thuật tổ chức hoạt động học tập mang
tính hợp tác kết hợp giữa hoạt động cá nhân và nhóm.
- Tiến trình sử dụng kĩ thuật khăn trải bàn như sau:
+ Chia HS thành các nhóm và phát cho HS một tờ giấy A0.
24
+ Trên giấy A0 chia thành các phần gồm phần chính giữa và các phần xung
quanh. Phần xung quanh được chia theo số thành viên của nhóm. Mỗi người
ngồi vào vị trí tương ứng với từng phần xung quanh.
+ Mỗi cá nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút, tập trung suy nghĩ trả
lời câu hỏi theo từng nhiệm vụ theo cách hỏi của riêng mình và viết vào phần
giấy của mình trên tờ A0.
+ Trên cơ sở ý kiến của mỗi cá nhân, HS thảo luận nhóm thống nhất ý kiến và
viết vào phần chính giữa của tờ giấy A0.
Ví dụ: Khi học bài Quan sát đồ vật
Giáo viên chia lớp thành các nhóm, mỗi nhóm 4 học sinh đều thực hiện
quan sát chú gấu bông.
Mỗi cá nhân sẽ quan sát theo cảm nhận của mình, viết vào phần giấy theo
lời văn của mình các bộ phận quan sát được.
Sau đó, nhóm sẽ thống nhất chọn lấy những đặc điểm nổi bật để viết vào
phần giấy chung.
Như vậy mỗi cá nhân đều được thể hiện mình, mỗi học sinh đều phải đưa
ra ý kiến của mình, không ỷ lại vào các bạn học khá, giỏi đồng thời sẽ thể
hiện khả năng tổng hợp, hệ thống hóa kiến thức của các em
b. Kĩ thuật "XYZ"
Kĩ thuật "XYZ" là một kỹ thuật nhằm phát huy tính tích cực trong thảo
luận nhóm. X là số người trong nhóm, Y là số ý kiến mỗi người cần đưa ra, Z
là phút dành cho mỗi người.
Ví dụ kỹ thuật 634 thực hiện như sau:
Mỗi nhóm 6 người, mỗi người viết 3 ý kiến trên một tờ giấy trong vòng
4 phút về cách giải quyết một vấn đề và chuyển cho người bên cạnh
25
Tiếp tục như vậy cho đến khi tất cả mọi người đều viết ý kiến của
Con số X-Y-Z có thể thay đổi;
Sau khi thu thập ý kiến thì tiến hành thảo luận, đánh giá các ý kiến.
mình, có thể lặp lại vòng khác;
3.2 Tổ chức dạy học ngoài không gian lớp học
Khi tham gia các tiết học ngoài không gian lớp học sẽ giúp học sinh tri
giác trực tiếp đối tượng, có điều kiện gần gũi, hiểu biết về thiên nhiên, từ đó
yêu thích và có ý thức bảo vệ thiên nhiên và môi trường sống xung quanh.
Đặc biệt, trong phân môn Tập làm văn nội dung học tập gắn liền với các đồ
vật, con vật xung quanh học sinh, gắn liền với môi trường địa phương nơi học
sinh đang sinh sống nên việc dạy học ngoài không gian lớp học sẽ làm cho
học sinh thích thú và hào hứng khi học phân môn này vì các em được hoà
mình với thiên nhiên, cỏ cây, hoa lá,….
Quy trình xây dựng một bài học ngoài không gian lớp học thường được
thực hiện theo các bước sau:
Bước 1: Xây dựng kế hoạch tổ chức bài dạy ngoài thiên nhiên
Hiệu quả của việc tổ chức hoạt động học tập ngoài thiên nhiên phụ thuộc
rất lớn vào công tác chuẩn bị. Vì vậy, trong bước này, giáo viên cần:
- Xác định rõ mục đích, yêu cầu bài dạy ngoài không gian lớp học
- Xây dựng nội dung dạy học ngoài không gian lớp học
- Địa điểm tổ chức giờ học có thể là sân trường, vườn trường, công
viên,…
- Xác định thời gian giảng dạy
- Phổ biến kế hoạch học tập ngoài không gian lớp học cho học sinh một
cách đầy đủ, rõ ràng ỏ tiết tập làm văn trước để học sinh có tâm thế tốt
và chuẩn bị đồ dùng cần thiết
- Dự kiến phương án thay thế khi điều kiện thời tiết không thuận lợi
26
Bước 2: Tiến hành dạy học ngoài không gian lớp học
Một tiết học ngoài không gian lớp học được tổ chức theo tiến trình sau:
- Giáo viên nêu vấn đề cho học sinh tri giác vật thật (Cây cối, đồ vật, con
vật,…) của bài học tại địa điểm dạy học.
- Giáo viên đặt câu hỏi gợi ý để học sinh có hướng suy nghĩ nhằm đưa ra
được những nhận xét về đối tượng quan sát
- Học sinh thảo luận nhóm, ghi chép những gì tận mắt thấy, sờ thấy hay
cảm nhận được.
- Học sinh báo cáo kết quả
- Các nhóm nhận xét, bổ sung và chốt kết luận đúng
Bước 3: Tổng kết
Ví dụ: Khi dạy Tập làm văn về miêu tả cây cối, cụ thể viết bài văn tả một
cây bóng mát mà em yêu thích
- Giáo viên tổ chức cho học sinh trực tiếp quan sát cây cối ngoài sân
trường.
- Giáo viên chia lớp thành các nhóm quan sát
- Giáo viên định hướng cho học sinh cần quan sát theo một trình tự quan
sát từ xa đến gần, có sự so sánh và có sự ghi chép đồng thời phải nắm được
đặc điểm, các bộ phận, những chi tiết nổi bật, vẻ đẹp của cành, lá, cánh hoa,
màu sắc …của cây.
- Giáo viên dưa ra hệ thống câu hỏi gợi ý cho các nhóm:
+ Từ xa nhìn lại, cây bóng mát đó như thế nào, giống với cái gì?
+ Đến gần quan sát, trực tiếp sờ vào thân cây, lá cây,… thì các bộ phận đó
có đặc điểm gì về hình dáng, kích thước, màu sắc,…
- Các nhóm học sinh quan sát theo hướng dẫn của giáo viên rồi ghi chép
lại những gì
- Học sinh báo cáo kết quả:
27
+ Đứng từ xa nhìn lại: có bạn thấy cây bàng như một cây nấm xanh khổng
lồ nhưng có bạn lại thấy cây bàng giống như một chiếc ô xanh che rợp một
khoảng sân rộng. Mỗi bạn sẽ có cái nhìn khác nhau về sự vật.
+ Đến gần: học sinh nhận ra ngay màu sắc đặc biệt của thân cây – màu
nâu mốc thể hiện sự từng trải qua thời gian với nắng, với mưa; được trực tiếp
sờ lên những cục bướu trông như những con mắt khổng lồ ở trên thân cây.
Dưới ánh mắt tinh nghịch của học sinh những chiếc rễ cây như đang nô
đùa. Có cái cẳm sâu xuống lòng đất nhưng cũng có những chiếc rễ tinh
nghịch hết cắm xuống lại ngoi lên trông như những con rắn đang trườn trên
mặt đất.
+ Khi quan sát cây phượng, học sinh được trực tiếp sờ vào những cánh hoa
và cảm thấy được sự mịn màng, mềm mại của nó. Từ đó sẽ có sự tưởng
tượng, so sánh với các vật giống hoặc gần giống: mềm mại như cánh bướm
non hay mịn màng như được phủ một lớp phấn mỏng.
+ Nếu chỉ dựa vào thời điểm quan sát thì học sinh chỉ quan sát được bộ
phận của cây vào một thời điểm nhất định. Vì thế, ngoài việc quan sát trực
tiếp học sinh cần vận dụng vốn hiểu của mình từ trước đó.
Ví dụ:
Văn miêu tả được học vào đầu kì II, vì thế khi miêu tả lá bàng chúng ta sẽ
miêu tả vào thời điểm quan sát. Đó là đầu mùa xuân.
+ Sang xuân, từ những cành cây khẳng khiu trơ trụi những mầm cây bắt
đầu đâm trồi trông như hàng ngàn ngọn nến xanh.
+ Dưới ánh nắng, những chiếc lá xanh bóng, mỡ màng.
Còn dựa vào vốn hiểu biết của mình, học sinh tự đưa ra ý kiến về đặc điểm
của lá bàng vào từng thời kì phát triển khác.
Để bài văn sinh động hơn, giáo viên hướng dẫn các em cần quan sát thêm
các yếu tố ngoại cảnh: quan sát bầu trời, lắng nghe âm thanh, cảm nhận về
mùi hương hoa trong gió, ong bướm bay lượn,…..
28
Chú ý: Trong trường hợp thời tiết không thuận lợi tiết học không thể thực
hiện ngoài sân trường thì giáo viên tiến hành theo phương án đã được dự kiến:
Ứng dụng công nghệ thông tin vào tiết học. Thay vì học sinh quan sát cây cối
trực tiếp thì học sinh được quan trên hình ảnh, video,…
Như vậy, việc đưa tiết học ra ngoài không gian lớp học đã giúp học sinh
thấy hứng thú hơn so với học trong lớp. Vì học sinh được trực tiếp tri giác vật
thật trong tự nhiên cùng với các yếu tố xung quanh nó. Từ đó, học sinh dễ
dàng viết được một bài văn miêu tả một cách chân thực nhưng cũng rất sinh
động, giàu hình ảnh và thể hiện rõ được cảm nhận của mình về sự vật. Ngoài
ra, khi học sinh hoạt động ngoài không gian lớp học, các em sẽ được rèn
luyện thêm các phẩm chất, năng lực cần thiết như: rèn luyện kĩ năng giao tiếp,
kĩ năng hợp tác, tình yêu thiên nhiên, ý thức bảo vệ môi trường,...
Học sinh quan sát cây trong vườn thực nghiệm
29
3.3 Tổ chức dạy học thông qua các hoạt động trải nghiệm sáng tạo
Hoạt động trải nghiệm là cơ hội để học sinh bộc lộ cá tính, năng khiếu, sở
trường, đồng thời có tác dụng hình thành thói quen hợp tác, tương trợ, học hỏi
lẫn nhau. Đặc thù lứa tuổi tiểu học chủ yếu tiếp thu kiến thức thông qua tư
duy trực quan sinh động. Vì vậy, việc cho các em tiếp xúc và trải nghiệm qua
các hoạt động thực tế là hết sức quan trọng
Ví dụ: Khi viết bài văn Kể lại một buổi em tham gia chăm sóc vườn thực
nghiệm
Trước khi viết bài giáo viên tổ chức cho các em tham gia trồng và chăm
sóc vườn trải nghiệm. Đây là một trong những hoạt động khá bổ ích vừa tạo
hứng thú học tập cho học sinh vừa cung cấp được cho học sinh những kiến
thức thực tế.
Bước 1: Cho học sinh trồng và chăm sóc rau tại vườn thực nghiệm theo
nhóm
Bước 2: Cho học sinh ghi chép lại những hoạt động và cảm xúc khi tham
gia trải nghiệm
Bước 3: Vận dụng những điều ghi chép được để viết bài văn.
30
Khi được trải nghiệm tại vườn trường, giờ học Tập làm văn của các em
Học sinh chăm sóc vườn trải nghiệm
trở nên sinh động, gần gũi hơn. Đặc biệt, những cây cối trong sân, vườn
trường gần gũi với các em qua từng ngày đến lớp, hoặc có thể là những cây,
những hoa do chính các em tự tay trồng và chăm sóc trong vườn cây thực
nghiệm. Điều đó tạo nên tình cảm đặc biệt cho học sinh với cây cối làm cảm
xúc trong bài văn của các e cũng được bộc lộ tự nhiên.Những quan sát và cảm
nhận thực tế sẽ có hiệu quả lớn hơn rất nhiều việc các em tiếp cận qua sách vở
hay phim ảnh.
Như vậy có thể thấy, việc tổ chức dạy học thông qua các hoạt động trải
nghiệm là một quá trình lâu dài, đòi hỏi các thầy cô giáo, các bậc làm cha mẹ
định hướng cho các em, tạo cho các em có cơ hội được hoà nhập với thế giới
thiên nhiên và những mối quan hệ xung quanh các em để bồi dưỡng và tích
lũy kiến thức. Mỗi ngày một ít, mỗi lúc một ít, mỗi nơi một ít sẽ làm giàu
thêm vốn sống, vốn liếng văn học cho các em.
Biện pháp 6: Tích hợp các nội dung học tập từ các môn học khác
Khi viết văn học sinh không chỉ sử dụng các kiến thức học được từ môn
Tiếng việt mà còn vận dụng kiến thức từ các môn học khác như khoa học, kĩ
thuật, mĩ thuật,…để viết bài. Các môn học khác cũng là nguồn cung cấp vốn
sống cũng như vốn từ khá phong phú.
Môn Khoa học cung cấp những kiến thức về cuộc sống xung quanh các
em, giúp các em tìm hiểu về con người, động vật và thực vật cùng với đó là
những hiện tượng thiên nhiên như nắng, gió, mây, mưa,… Từ những kiến
thức khô khan mang tính liệt kê của môn khoa học thì dưới mỗi cái nhìn, mỗi
giọng văn, mỗi cảm xúc khác nhau cùng với sự vận dụng ngôn từ khéo léo thì
mọi sự vật, hiện tượng về thiên nhiên, con người đều sẽ hiện ra một cách chân
thực mà sinh động.
31
Ví dụ: Khi viết bài văn miêu tả cây cối. Học sinh có thể vận dụng kiến
thức khoa học về các bộ phận của cây ở lớp 3 để miêu tả các bộ phận của cây
theo trình tự và có tính chính xác, khoa học; vận dụng kiến thức môn Tiếng
việt để biến hóa các thông tin mang tính chất liệt kê thành các câu văn giàu
cảm xúc, hình ảnh.
Trong môn Kĩ thuật học sinh sẽ nắm được các quy trình trồng và chăm
sóc cây rau. Hay trong môn Mĩ thuật những bức vẽ về đề tài con người, thiên
nhiên, về các sự vật, hiện tượng trong cuộc sống giúp HS rèn luyện kĩ năng
quan sát, trí tưởng tượng phong phú, sự cảm nhận tinh tế về màu sắc.
Việc vận dụng các kiến thức từ các môn học khác để làm văn không
những hình thành cho học sinh năng lực hệ thống hóa kiến thức mà còn làm
cho các em cảm thấy thích thú bởi đây là những môn học rất gần gũi với cuộc
sống xung quanh các em .
IV. Hiệu quả do sáng kiến đem lại
1. Hiệu quả về mặt kinh tế
Sáng kiến kinh nghiệm “ Một số biện pháp tạo hứng thú học tập trong
phân môn Tập làm văn lớp 4” không hề tốn kém nhiều về chi phí tổ chức các
hoạt động. Bởi các hoạt động này được tổ chức trong không gian lớp học với
các đồ dùng đơn giản, dễ làm và các hoạt động tổ chức ngoài không gian lớp
học hay hoạt động trải nghiệm được thực hiện với những điều kiện có sẵn.
2. Hiệu quả về mặt xã hội
Với việc áp dụng các biện pháp tạo hứng thứ học tập trong phân môn
Tập làm văn tôi đã đạt được kết quả đáng khích lệ. Cung cấp nội dung, kiến
thức của các bài học cho học sinh hoàn toàn đầy đủ và chính xác. Học sinh đã
tự mình thực hành, tự mình tìm ra tri thức cần thiết, phù hợp với sự đổi mới
hiện nay. Các biện pháp này giúp học sinh hứng thú học tập, nhớ lâu đặc biệt
là nó phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của học sinh Tiểu học : Hiếu động, tò
mò, ham hiểu biết, có niềm tin tuyệt đối vào những gì mình tận mắt chứng
32
kiến, tận tay làm ra và các em đã thể hiện xuất sắc trong quá trình viết bài của
mình không những thể hiện đúng yêu cầu mà rất sáng tạo đưa được cảm xúc
của mình vào trong văn bản. Đây là một trong những điều góp phần tạo nên
cái hay, nét riêng về cảm xúc của mỗi cá nhân học sinh.
Qua việc thực hiện giảng dạy bằng các biện pháp đã trình bày, tôi kiểm tra học sinh một bài tổng hợp để đánh giá chung. Qua khảo sát tôi thấy rằng chất lượng khi có áp dụng các biện pháp giảng dạy đã nêu đã góp phần nâng cao chất lượng đại trà của học sinh, chất lượng học tập của học sinh cũng đều hơn. Kết quả cụ thể như sau:
Chưa áp dụng sáng kiến Sau khi áp dụng sáng kiến
Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ
học sinh học sinh
Bài văn sáng tạo, 5/20 25% 16/20 80%
giàu hình ảnh
Bài văn bố cục rõ 10/20 50% 20/20 100%
ràng, đủ ý
Bài văn sơ sài, 12/20 60% 0/20 0
mắc lỗi diễn đạt
- Học sinh có thể tiếp cận thực sự với tìm tòi - nghiên cứu và cố gắng để
nắm bắt được những đặc điểm nổi bật của sự vật, hiện tượng. Vì vậy điều cần
thiết là học sinh phải hiểu rõ yêu cầu hay vấn đề đặt ra cần giải quyết trong
bài học
- Học sinh tích cực chuẩn bị bài, chuẩn bị tâm thế để lĩnh hội kiến thức
bài giảng. Biết rèn luyện kĩ năng và phương pháp học tập, khả năng tự tìm
hiểu, khám phá sáng tạo vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
- Học sinh trở nên mạnh dạn tự tin hơn đồng thời rèn luyện kĩ năng hoạt
động nhóm, có tinh thần hợp tác với thầy cô, bạn bè. Tập trung suy nghĩ, chủ
động thoát li sách giáo khoa để trả lời câu hỏi của thầy giáo. cô giáo.
33
- Học sinh tích cực rèn luyện, hứng thú say mê trong học tập, chủ động
tìm hiểu kiến thức, dưới sự dìu dắt của thầy, cô giáo. Tự đó, hình thành năng
lực tự học, tự đánh giá. Không ngừng vươn lên trong học tập.
Qua quá trình giảng dạy, tự học, tự bồi dưỡng, tôi rút ra những bài học
kinh nghiệm nhỏ như sau:
- Tạo tình huống để học sinh phát hiện ra vấn đề trong bài học, từ đó để
các em tự đưa ra các tình huống giải quyết vấn đề để đi đến kết quả, giúp tạo
lập cho học sinh thói quen làm việc như các nhà khoa học và niềm say mê
sáng tạo phát hiện, giải quyết vấn đề. Mục tiêu này rất quan trọng bởi trong
cuộc sống các em gặp phải rất nhiều vấn đề cần phải giải quyết.
- Giáo viên phải nghiên cứu kĩ bài dạy. Chuẩn bị bài chu đáo, xây dựng
hệ thống câu hỏi phù hợp, lôgic, trọng tâm, có kiến thức thực tế, sâu rộng và
các giải pháp liên hệ thực tế. Gắn kết chặt chẽ nội dung bài dạy với những vấn
đề thiết thực, gần gũi trong cuộc sống hàng ngày và thực tế địa phương
- Giáo viên cần bám sát chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình,
chuẩn bị đầy đủ đồ dùng, trang thiết bị dạy học, ứng dụng công nghệ thông tin
để phục vụ cho bài dạy nhằm lôi cuốn, hấp dẫn, học sinh dễ hiểu, dễ vận
dụng.
- Giáo viên nêu vấn đề hay câu hỏi xuất phát phù hợp là câu hỏi tương
thích với trình độ nhận thức của học sinh, gây mâu thuẫn nhận thức cho học
sinh, kích thích nhu cầu tìm tòi - nghiên cứu của học sinh. Giáo viên phải là
người hướng dẫn cho học sinh kĩ năng tự mình phát hiện và giải quyết vấn đề.
- Sáng tạo, linh hoạt trong việc tổ chức các hoạt động lên lớp, vận dụng
các phương pháp dạy học tích cực phù hợp với với nội dung bài dạy, kiểu bài
dạy, phù hợp với đặc thù bộ môn, tâm lí lứa tuổi học sinh.
34
IV. Cam kết không sao chép hoặc vi phạm bản quyền
Tôi đã nghiên cứu qua tài liệu và áp dụng thực tế ở lớp 4 trong trường tôi
và đã đạt được kết quả như trên từ đó tôi đã hoàn thành được sáng kiến của
mình. Kính mong các đồng chí đóng góp ý kiến để sáng kiến của tôi hoàn
thiện hơn.
CƠ QUAN ĐƠN VỊ TÁC GIẢ SÁNG KIẾN
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
( Xác nhận)
Bùi Thị Thu Thủy