SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO LẠNG SƠN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM LẠNG SƠN
BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN
XÂY DỰNG BÀI TẬP TRONG GIẢNG DẠY KỸ NĂNG TỰ NHẬN THỨC CHO SINH VIÊN KHỐI GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP - TRƯỜNG CĐSP LẠNG SƠN
Lĩnh vực sáng kiến: Khoa học giáo dục
Tác giả: TẠ THỊ THU HẰNG
Trình độ chuyên môn: ThS. Giáo dục học
Chức vụ: Giảng viên chính
Nơi công tác: Khoa Các bộ môn chung
Điện thoại liên hệ: 0914. 347.368.
Địa chỉ thư điện tử: tahang.c10@moet.edu.vn
Đề nghị công nhận sáng kiến cấp: cơ sở (CSTĐ)
Lạng Sơn, năm 2023
MỤC LỤC Trang
I – MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn sáng kiến
2. Mục tiêu của sáng kiến 2
3. Phạm vi sáng kiến 2
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN, CƠ SỞ THỰC TIỄN 2
1. Cơ sở lý luận 3
1.1. Quan niệm về bài tập trong dạy; bài tập trong giảng dạy kỹ năng
mèm, kỹ năng tự nhận thức bản thân
1.1.1. Quan niệm về bài tập trong dạy 3
1.1.2. Quan niệm về bài tập trong giảng dạy kỹ năng tự nhận thức 5
1.2. Vai trò, các dạng bài tập trong giảng dạy kỹ năng tự nhận thức 6
1.2.1. Vai trò của bài tập trong dạy học 6
1.2.2. Các dạng bài tập trong giảng dạy kỹ năng tự nhận thức 7
2. Cơ sở thực tiễn 8
2.1. Vài nét về học phần kỹ năng mềm và chuyên đề Kỹ năng tự nhận thức
2.2. Thực trạng bài tập trong giảng dạy kỹ năng tự nhận thức cho SV 10
III – NỘI DUNG SÁNG KIẾN 12
1. Xây dựng bài tập trong giảng dạy kỹ năng tự nhận thức cho sinh viên
khối giáo dục nghề nghiệp trường CĐSP Lạng Sơn
1.1. Quy trình xây dựng bài tập 12
1.2. Xây dựng bài tập trong giảng dạy kỹ năng tự nhận thức bản thân 12
1.2.1. Bài tập dạng A - Dạng nêu vấn đề, củng cố lý thuyết, phát triển các 13
thao tác tư duy (tư duy lý luận), kích thích tính tích cực học tập, liên hệ
thực tiễn
1.2.2. Bài tập dạng B - dạng “Yêu cầu làm” 16
1.2.3. Bài tập dạng C – dạng trắc nghiệm trả lời nhanh, kiểm tra, ôn tập 18
1.3. Sử dụng bài tập trong giảng dạy kỹ năng tự nhận thức cho sinh viên 18
CĐSP Lạng Sơn
1.3.1. Sử dụng bài tập dạng A - Dạng nêu vấn đề, củng cố lý thuyết, phát 18
triển các thao tác tư duy (tư duy lý luận), kích thích tính tích cực học tập,
liên hệ thực tiễn
1.3.2. Sử dụng Bài tập dạng B - dạng “Yêu cầu làm” 21
1.3.3. Sử dụng dạng C – dạng trắc nghiệm trả lời nhanh, kiểm tra, ôn tập 31
2. Đánh giá kết quả thu được 32
2.1. Tính mới, tính sáng tạo 32
2.2. Khả năng áp dụng và mang lại lợi ích thiết thực của sáng kiến: 33
2.2.1. Khả năng áp dụng hoặc áp dụng thử, nhân rộng: 33
2.2.2. Khả năng mang lại lợi ích thiết thực 33
IV- KẾT LUẬN 36
1. Kết luận 36
2. Kiến nghị 37
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ----------------
Tôi là: Tạ Thị Thu Hằng. Sinh ngày 14 tháng 07 năm 1978
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN Kính gửi: Sở Giáo dục & Đào tạo Lạng Sơn
Nơi công tác: Khoa Các bộ môn chung - Trường Cao đẳng Sư phạm Lạng Sơn
Chức danh: Giảng viên CĐSP chính.
Trình độ chuyên môn: Thạc sỹ Tâm lý học – Giáo dục học
Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: “Xây dựng bài tập trong giảng dạy
kỹ năng tự nhận thức cho sinh viên khối Giáo dục nghề nghiệp - Trường CĐSP Lạng
Sơn”.
- Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Tạ Thị Thu Hằng
- Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Khoa học giáo dục
- Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Tháng 10, năm học
2022-2023 (Học kỳ I)
- Mô tả bản chất của sáng kiến: Sáng kiến tập trung vào nghiên cứu lý luận,
thực tiễn về bài tập, kỹ năng tự nhận thức; vai trò của bài tập rèn kỹ năng tự nhận
thức… từ đó xây dựng bài tập và sử dụng trong giảng dạy, góp phần nâng cao hiệu
quả giảng dạy Kỹ năng tự nhận thức cho sinh viên Khối Cao đẳng Giáo dục nghề
nghiệp ở Trường CĐSP Lạng Sơn nói riêng; nâng cao giá trị thực tiễn, ứng dụng của
học phần Kỹ năng mềm nói chung.
- Những thông tin cần được bảo mật: Không
- Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Các Trường Cao đẳng có đào
tạo nghề đang giảng dạy môn Giáo dục kỹ năng mềm.
- Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến
theo ý kiến của tác giả:
+ Sáng kiến đã làm sáng tỏ nội dung lý luận về bài tập; vai trò của bài tập
trong dạy học nói chung, bài tập trong giảng dạy kỹ năng mềm, kỹ năng tự nhận thức
nói riêng; Chỉ rõ khái niệm, bản chất, vai trò của kỹ năng tự nhận thức; các tình
huống mà SV có thể gặp phải, trải nghiệm sau này trong cuộc sống, công việc; kỹ
năng gắn với kỹ năng nghề nghiệp mà SV có thể đảm nhiệm, có khả năng, nhu cầu
đảm nhận. Sáng kiến đã đưa ra quy trình xây dựng bài tập, nội dung, hệ thống bài tập,
cách thức khai thác, giúp sinh viên có kiến thức, kỹ năng tự nhận thức bản thân; kỹ
năng nghề nghiệp gần gũi liên quan ngành các em đang theo học; giúp các em phát
triển kỹ năng giao tiếp ứng xử, hình thành và phát triển kỹ năng giải quyết vấn đề,
xử lý tình huống hiệu quả, tránh ảo tưởng hoặc tự ti về năng lực bản thân; căng
thẳng; tổn thương; mâu thuẫn bất động; tăng cường tính thực tiễn, ứng dụng học để
làm; gắn học với hành, góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy bộ môn.
+ Sáng kiến đã xây dựng và sử dụng bài tập trong giảng dạy; đánh giá kết quả
áp dụng khả thi với SV khối Giáo dục nghề nghiệp; giúp các giảng viên giảng dạy
Kỹ năng mềm có thể sử dụng làm tài liệu giảng dạy.
+ Sáng kiến đem lại hiệu quả giáo dục qua việc SV hứng thú, tích cực học tập;
thực hành trải nghiệm, rèn luyện kỹ năng tự nhận thức bản thân; kỹ năng mềm không
tốn kinh phí. SV được học tập, rèn luyện nhiều hơn, tích cực tự học, nâng cao giá trị
ứng dụng của học phần; giúp SV chủ động rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp gắn với
năng lực bản thân, hứng thú, nâng cao kết quả học tập. Việc áp dụng sáng kiến có
tác động đến chất lượng học tập của SV; tính thực tiễn ứng dụng của học phần; góp
phần vào công tác giáo dục toàn diện của nhà trường.
- Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến
theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp
dụng thử (nếu có):
+ Sáng kiến có thể áp dụng trong giảng dạy các học phần Kỹ năng mềm; học
phần Tâm lý học cho SV các hệ trong các trường Cao đẳng nghề; Trường CĐSP
Lạng Sơn nói riêng; trong giảng dạy giáo dục hướng nghiệp cho học sinh cuối trung
học phổ thông toàn Tỉnh nói chung.
+ Với các trường thiếu phương tiện đồ dùng dạy học hiện đại vẫn có thể sử
dụng; bài tập có thể sử dụng trong mọi khâu, mọi hoạt động của quá trình dạy học;
đặc biệt với học phần thực hành kỹ năng mềm.
+ Nếu được triển khai rộng rãi, sáng kiến sẽ là nguồn tư liệu tham khảo cho
công tác giảng dạy; giúp mọi người nhận thức đúng đắn, sâu sắc về vị trí vai trò, ý
nghĩa của kỹ năng tự nhận thức với cuộc sống và hoạt động nghề nghiệp; đặc biệt là
việc rèn luyện hoàn thiện bản thân. SV hứng thú, hăng hái, tích cực chủ động hơn
trong giờ học, thực hiện nhiệm vụ giảng viên giao; tích cực tự học, tự nghiên cứu,
rèn luyện hoàn thiện bản thân.
Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn và Bản mô tả sáng kiến (kèm theo
đơn) là trung thực, đúng sự thật và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Lạng Sơn, ngày 27 tháng 03 năm 2023
Người nộp đơn
PL2
Tạ Thị Thu Hằng
TÓM TẮT SÁNG KIẾN
Học phần kỹ năng mềm, Kỹ năng tự nhận thức mới được đưa vào giảng dạy
cho SV khối giáo dục nghề nghiệp hiểu biết được những vấn đề cơ bản về kỹ năng
tự nhận thức; nguyên nhân, hệ lụy của việc thiếu, yếu những kỹ năng này. Rèn luyện
được kỹ năng tự nhận thức đúng bản thân để tự tin, phát triển tốt bản thân; không ảo
tưởng, tự ty, biết đặc điểm bản thân để lựa chọn ngành nghề, vị trí việc làm phù hợp;
phát huy thế mạnh trong tìm kiếm việc làm; được làm việc mình có nhiều khả năng,
yêu thích, xã hội cần... Hình thành và phát triển tổ hợp nhiều phẩm chất, năng lực
cho người học tuy nhiên học phần mới đưa vào giảng dạy, chưa có nhiều bài tập để
SV thực hành rèn luyện. Do đó, việc xây dựng và đưa vào sử dụng các bài tập để SV
thực hành là việc làm tất yếu và vô cùng cần thiết.
Sáng kiến “Xây dựng bài tập trong giảng dạy kỹ năng tự nhận thức cho sinh
viên khối Giáo dục nghề nghiệp - Trường CĐSP Lạng Sơn” đã xây dựng được hệ
thống bài tập mang tính thực tiễn trong giảng dạy học phần; giúp SV trải nghiệm tự
nhận thức bản thân cụ thể, sâu sắc hơn; hiểu về bản thân, người khác, trải nghiệm
các tình huống bất như ý sát với thực tiễn công việc, vị trí việc làm, nghề nghiệp
tương lai.
Việc áp dụng mang lại hiệu quả rõ rệt ở kết quả học tập, thể hiện ở sự hiểu biết,
biểu hiện kỹ năng tự nhận thức của SV. Sinh viên hứng thú học tập trong mỗi giờ
học; tích cực, chủ động tham gia vào các hoạt động học tập trên lớp; tự học ở nhà;
rèn kỹ năng tự học, tự nghiên cứu cho SV; tăng hiệu quả ứng dụng hình thành kiến
thức, kỹ năng vào lao động, cuộc sống sau này; tránh những sai lầm đáng tiếc xảy
ra. Việc xây dựng và sử dụng các bài tập không tốn kém về mặt kinh tế; thể hiện tính
mới, tính sáng tạo, tâm huyết trí tuệ của người lao động sư phạm, sứ maanhj của nhà
giáo đối với việc giáo dục thế hệ trẻ trong xã hội hiện đại; sáng kiến mang lại hiệu
quả giáo dục, lợi ích xã hội; khả năng áp dụng nhân rộng cho nhiều người dạy, người
học có thể hưởng lợi...
I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn sáng kiến
Xã hội hiện đại bên cạnh xu hướng phát triển, tồn tại hiện tượng mất cân
bằng trong tâm lý con người, thiếu hoặc hạn chế kỹ năng mềm... dẫn tới những
hành vi không phù hợp hủy hoại bản thân, môi trường, gia đình, xã hội... Hiện tượng
mất cân bằng tâm lý xảy ra ngày càng nhiều trong xã hội, người lao động mới đi
làm, một số người lao động chưa thật sự hạnh phúc, bình yên trong công việc cuộc
sống dù họ được học và làm nghề mình đã chọn. Có người phải bỏ việc giữa chừng,
có người buồn bã, chán nản, thất vọng, bị stress, trầm cảm vì không vượt qua được
những áp lực tinh thần khi gặp phải những tình huống ngoài ý muốn… Làm sao để
lao động trẻ có thể vượt qua những vấp váp, trải nghiệm đầu đời với tuổi nghề còn
hạn chế, đứng vững trước những khó khăn, thách thức, những tình huống phải đối
mặt của công việc, cuộc sống. Để khắc phục tình trạng này, theo chúng tôi bên cạnh
việc cần phải đẩy mạnh hơn nữa công tác giáo dục kỹ năng mềm, giá trị sống thì
cần phải đẩy mạnh hơn nữa chất lượng đào tạo kỹ năng mềm, giá trị sống cho SV
bằng việc thiết kế các bài tập rèn luyện kỹ năng hiệu quả.
Học phần Kỹ năng mềm được tổ bộ môn Tâm lý học nghiên cứu đưa vào giảng
dạy quy định cụ thể về mục tiêu, nội dung kiến thức, thời gian học lý thuyết và thực
hành của từng chương. Tuy nhiên, chưa có nhiều bài tập sát thực tiễn nghề nghiệp
của SV để tổ chức cho các em trải nghiệm, rèn luyện. Giảng viên đã, đang cụ thể
hoá nhiệm vụ thực hành cho SV bằng việc sưu tầm, biên soạn các bài tập thực hành
nhưng còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế trong khâu xây dựng các bài tập sát với thực
tiễn vì cả giảng viên và SV chưa có nhiều thực tế trong lĩnh vực hoạt động nghề
nghiệp của SV tốt nghiệp ngành Tiếng Trung Quốc. Là một giảng viên nghiên cứu
và giảng dạy Tâm lý học, chuyên đề kỹ năng quản lý cảm xúc, kỹ năng tự nhận thức
cho SV, tôi xác định: Bài tập cần giúp SV hình dung các tình huống có thể gặp phải
trong thực tế hoạt động nghề nghiệp ở nhiều cương vị, tình huống khác nhau, biết
cách thực hành rèn luyện kỹ năng theo yêu cầu thực tiễn nghề. Nhận thấy sứ mệnh
của mình giảng dạy kỹ kỹ năng tự nhận thức sao đây để sinh viên thấy việc học tập,
1
nghiên cứu học phần hữu hiệu với cuộc sống, hoạt động nghề nghiệp; hình thành
được năng lực, thích ứng với sự đổi thay của xã hội, có cuộc sống an toàn, chất
lượng.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi tiến hành: “Xây dựng bài tập trong giảng
dạy Kỹ năng tự nhận thức cho sinh viên khối giáo dục nghề nghiệp –Trường CĐSP
Lạng Sơn”.
2. Mục tiêu của sáng kiến
Nghiên cứu lý luận, thực tiễn về bài tập rèn luyện kỹ năng tự nhận thức từ đó
xây dựng bài tập trong giảng dạy, góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy Kỹ năng
tự nhận thức cho sinh viên ngành Tiếng Trung Quốc nói riêng; nâng cao giá trị thực
tiễn, ứng dụng của học phần nói chung.
3. Phạm vi của sáng kiến
Sáng kiến tập trung nghiên cứu việc thiết kế bài tập trong giảng dạy chương 4 Kỹ
năng tự nhận thức (học phần Kỹ năng mềm) cho SV ngành Tiếng Trung Quốc (lớp
K18TV1; K18TV2; K18TV3; K18TV5; K18TV6) – Khối giáo dục nghề nghiệp –
Trường CĐSP Lạng Sơn – năm học 2022 – 2023.
II – CƠ SỞ LÝ LUẬN, CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lý luận
1.1. Quan niệm về bài tập; bài tập trong giảng dạy kỹ năng mèm, kỹ năng tự
nhận thức bản thân
1.1.1. Quan niệm “bài tập” trong dạy học
Theo nghĩa chung nhất, thuật ngữ “làm bài tập” dùng để chỉ một hoạt động nhằm
rèn luyện về thể chất và tinh thần (trí tuệ): bài tập thể dục, bài tập xướng âm…
Theo từ điển Tiếng Việt, thuật ngữ “bài tập” có nghĩa là bài ra cho học sinh làm
để tập vận dụng những điều đã học, ví dụ: Bài tập đại số, ra bài tập, làm bài tập ở lớp,
bài tập miệng. Những định nghĩa trên chỉ giải thích về mặt ngữ nghĩa.
2
Trong từ điển Giáo dục học: Bài tập là dạng bài mô phỏng lại kiến thức và
thao tác thực hành đã được giới thiệu nhằm mục đích rèn luyện khả năng vận dụng,
củng cố để nắm vững lý thuyết và hình thành kỹ năng cần thiết theo chương trình
môn học. Mỗi môn học có những kiểu bài tập đặc trưng riêng: bài tập toán, bài tập
vẽ, bài tập đọc, bài tập làm văn, bài tập thể dục.v.v. Có loại bài tập cho tập thể cùng
làm, có loại dùng riêng cho cá nhân thực hiện tại lớp hoặc ở nhà. Định nghĩa này đã
nêu lên được tầm quan trọng của bài tập và coi bài tập như là một bài học của học
sinh, yêu cầu bắt buộc học sinh phải thực hiện.
Có những tài liệu cho rằng bài tập là một dạng bài gồm những bài toán, những
câu hỏi hay đồng thời cả bài toán và câu hỏi, mà khi hoàn thành chúng học sinh hiểu
được một tri thức hay thực hiện được một kỹ năng nhất định. Tác giả Trung Quốc,
Tiêu Vệ cho rằng: những đề bài tập đó là một dạng bắt chước những vấn đề trong
cuộc sống thực tế, chỉ yêu cầu chúng ta có thể làm ra được theo hình thức làm bằng
giấy hay giải bằng mồm là được. Làm bài tập là một hình thức đặc biệt để vận dụng
kiến thức, là sự chuẩn bị cho việc vận dụng kiến thức để giải quyết các vấn đề thực
tế trong tương lai. Bây giờ làm bài tập tốt, sau này ra công tác có thể giải quyết các
vấn đề thực tế tốt hơn.
Trên cơ sở tổng hợp, khái quát những định nghĩa, những quan niệm về bài tập
nêu trên chúng tôi thấy bài tập cần được xem xét là một trong những nội dung học tập
quan trọng của người học, bao gồm những thông tin khoa học, những hiện tượng, sự
kiện và những yêu cầu được đưa ra trong quá trình dạy học, đòi hỏi chủ thể nhận thức
phải tích cực, chủ động huy động vốn hiểu biết của mình, sử dụng những tri thức lý
thuyết đã học, những thao tác trí tuệ hay những thao tác tay chân để thực hiện nhằm
chiếm lĩnh tri thức mới, củng cố, nắm vững kiến thức đã học và hình thành những kỹ
năng liên quan đến kiến thức đó.
1.1.2. Quan niệm bài tập trong giảng dạy kỹ năng năng tự nhận thức
Kỹ năng mềm nói chung, kỹ năng tự nhận thức nói riêng có ý nghĩa quan
trọng với tất cả mọi người trong các lĩnh vực nghề nghiệp của cuộc sống, học phần
này được giảng dạy cho sinh viên theo học nhiều lĩnh vực, nghề nghiệp khác nhau,
3
do đó bài tập có ý nghĩa thực tiễn với người học các nghề khác nhau cũng khác nhau.
Trong giới hạn của sáng kiến, chúng tôi chỉ đề cập tới tính thực tiễn của bài tập khi
giảng dạy kỹ năng tự nhận thức cho SV ngành Cao đẳng Tiếng Trung Quốc - Trường
Cao đẳng Sư phạm Lạng Sơn.
Kỹ năng tự nhận thức bản thân là khả năng con người nhận biết đúng đắn
mình là ai; sống trong hoàn cảnh nào; tình cảm, sở thích, thói quen, điểm mạnh, điểm
yếu, nhu cầu của bản thân ra sao; vị trí của mình trong mối quan hệ với người khác
như thế nào; luôn ý thức được mình đang làm gì hoặc mình có thể thành công ở
những lĩnh vực nào. Quan tâm và luôn ý thức được mình đang làm gì, kể cả nhận ra
lúc bản thân đang cảm thấy căng thẳng.
Một người có khả năng tự nhận thức là người biết được bản thân giỏi gì và còn
thiếu sót gì. Nhận thức được bản thân còn phải học hỏi rất nhiều. Sẵn sàng thừa nhận
rằng bản thân không biết đáp án hoặc chưa có giải pháp cho một vấn đề của mình.
Mắc lỗi, nhận ra lỗi và sửa lỗi. Thực sự lắng nghe trong các cuộc trò chuyện và biết
hỏi những câu hỏi đúng và cần thiết. Nghĩ trước khi làm, xem xét việc làm của bản
thân sẽ ảnh hưởng đến người khác như thế nào. Có khả năng nhận thức được những
biểu hiện hoặc cử chỉ tinh tế không bằng lời của người khác trong giao tiếp xã hội.
Vai trò của kỹ năng tự nhận thức:
Nhận thức sai về bản thân dẫn đến đánh giá không đúng về mình, nhận thức sai
về bản thân dẫn đến chọn sai ngành, sai trường, ảnh hưởng đến chất lược công việc,
cuộc sống, tương lai.
Tự nhận thức bản thân giúp quản trị bản thân; giúp ứng xử, hành động phù hợp
đắn, điều chỉnh mục tiêu phù hợp và khả thi. Sự lựa chọn đúng trở thành sức mạnh nội tại
với điều kiện, hoàn cảnh của bản thân theo hướng tích cực; có quyết định, lựa chọn đúng
cho cá nhân.
Tự nhận thức cho phép ta hiểu về người khác; là cơ sở - nền tảng - hỗ trợ các
năng lực tư duy. Tự nhận thức phải phát triển đầu tiên, bởi nếu không hiểu bản thân,
cá nhân không thể biết và hiểu người khác cảm xúc như thế nào.
4
Hiểu biết về bản thân giúp kiểm soát được cảm xúc, biết được những đòi hỏi
của bản thân, khả năng chịu đựng để sẵn sàng vượt qua khó khăn, thử thách.
Khả năng tự nhận thức liên kết mạnh mẽ với hiệu suất công việc. Nhận thức
được điểm mạnh, yếu của mình sẽ phát huy được thế mạnh để làm việc hiệu quả
hơn. Khi nhận thức được những gì mình không biết, ta trở nên khiêm nhường và sẵn
sàng tiếp nhận sự giúp đỡ từ người khác. Tự nhận thức giúp cá nhân biết được cái
gì thúc đẩy, cản trở mình và mình say mê/ không thích cái gì. Hướng cá nhân đến
những công việc yêu thích, khiến bản thân làm việc vui vẻ, hiệu quả; dẫn đến cuộc
sống chân thật hơn, bản thân hài lòng hơn.
Càng hiểu rõ bản thân, cá nhân càng có thể kiểm soát và lựa chọn hành vi muốn
biểu hiện; cá nhân hiểu mình đang ở đâu, muốn đi đâu để sẵn sàng thay đổi nhằm
đến được nơi cần đến. Tự nhận thức là bước đầu trong quá trình tạo ra một cuộc
sống mà con người mong muốn. Mặt khác của tự nhận thức là ta cần hiểu rõ về trí
óc và cơ thể mà tạo hóa đã ban tặng cho mỗi người cũng như phương pháp vận hành
của chúng.
Kỹ năng tự nhận thức giúp hiểu rõ về bản thân mình, tự tin với những điểm
mạnh và cố gắng khắc phục điểm yếu; là cơ sở quan trọng giúp việc giao tiếp có
hiệu quả và có tinh thần trách nhiệm đối với người khác (biết mình biết người).
Tóm lại, tự nhận thức giúp cá nhân: Tự tin đối diện với bất cứ chuyện gì xảy ra
trong cuộc sống; biết được lợi thế cạnh tranh của chính mình; tăng sự bền bỉ; sức tập
trung chú ý; sự sáng tạo… tự tin và sống hạnh phúc hơn.
Trong sáng kiến này, chúng tôi quan niệm: Bài tập trong giảng dạy kỹ năng
tự nhận thức là những tình huống giả định hay những yêu cầu do giáo viên đặt ra
phản ánh những hiện tượng, đặc điểm, tình huống diễn ra trong cuộc sống, trong
hoạt động lao động, đòi hỏi sinh viên tích cực huy động kinh nghiệm, vận dụng tri
thức kỹ năng tự nhận thức để giải quyết nhằm nhận biết đúng đắn điểm mạnh, điểm
yếu của bản thân; sự phù hợp với ngành học, công việc mình đang, đã và sẽ làm…
trên cơ sở đó phát huy thế mạnh, khắc phục điểm hạn chế trong học tập, lao động,
cuộc sống.
5
Cụ thể bài tập phải thoả mãn các tính chất: Thuộc lĩnh vực môn học; xuất phát
từ cái quen thuộc; không quá khó, không quá dễ; không mang tính chất tái hiện đơn
thuần; mâu thuẫn chủ chốt của bài tập phải làm nảy sinh tình huống có vấn đề ở sinh
viên, kích thich sự tìm tòi, phát hiện, liên hệ thực tế của người học.
1.2. Vai trò, các dạng bài tập trong giảng dạy kỹ năng tự nhận thức
1.2.1. Vai trò của bài tập trong dạy học
- Bài tập giúp hoàn thiện lý thuyết, củng cố và mở rộng kiến thức cho người
học. Kiến thức mà người học tiếp thu mang tính khái quát, trừu tượng rất cao, khó
hiểu nên cần phải có một hệ thống bài tập, tình huống minh hoạ, làm sáng tỏ những
kiến thức lý luận ấy. Quá trinh giải bài tập đòi hỏi chủ thể phải sử dụng vốn kinh
nghiệm, kiến thức đã học để lập luận, lý giải, phân tích, chứng minh những yêu cầu
của câu hỏi, bài tập, qua đó khắc sâu mức độ hiểu, nắm vững kiến thức lý luận. Đồng
thời có những câu hỏi, bài tập mang tính vấn đề mà khi giải quyết vấn đề đó, chủ thể
có thể tiếp thu, khám phá ra được những tri thức mới tiềm ẩn trong những yêu cầu
của bài tập. Vì vậy, có thể nói bài tập và lời giải của bài tập có tác dụng củng cố,
khắc sâu những tri thức đã học và chủ yếu hình thành kỹ năng cho SV.
- Bài tập là phương tiện chủ yếu để hình thành kỹ năng cho người học.
Không có bài tập, không có quá trình luyện tập thì kỹ năng sẽ không bao giờ được
hình thành. Học phần Kỹ năng mềm có nhiệm vụ trang bị cho SV những kiến thức
cơ bản về kỹ năng quản lý thời gian, lập kế hoạch, giao tiếp ứng xử, kỹ năng hợp
tác, giải quyết mâu thuẫn, xung đột. Những yêu cầu, đòi hỏi về mặt tâm lý, phẩm
chất, năng lực đối với người lao động nói chung, sinh viên ngành học Tiếng Trung
nói riêng... làm cơ sở cho rèn luyện kỹ năng giao tiếp, ứng xử, kỹ năng quản lý cảm
xúc sau này... Bài tập là con đường luyện tập để hình thành những kỹ năng nêu trên
cho SV. SV càng làm nhiều bài tập thì kỹ năng quản lý cảm xúc càng được rèn luyện
bấy nhiêu và bài tập càng trở nên có tính thiết thực đối với các em trong quá trình
học tập, rèn luyện nhân cách người lao động tương lai.
- Bài tập tạo điều kiện để phát triển các thao tác tư duy (tư duy lý luận)
6
Đặc trưng của kỹ năng mềm là phải tạo ra được các tình huống mang tính chất
thực tiễn. Khi sinh viên giải những bài tập tình huống trong giáo dục đòi hỏi họ phải
phân tích, tổng hợp, so sánh, phán đoán tức là phải sử dụng những thao tác tư duy
để giải quyết các tình huống đã đặt ra. Quá trình ấy làm cho khả năng tư duy của
sinh viên trở nên nhạy bén, sáng tạo hơn, giải quyết vấn đề nhanh hơn, thấu đáo hơn.
- Bài tập được lựa chọn một cách hợp lý, vừa sức có tác dụng kích thích
hứng thú học tập của sinh viên. Mỗi câu hỏi, bài tập khi SV giải quyết được mang
lại cho họ một thành công – đó là nguồn động viên khuyến khích họ, không chỉ tạo
nên tính tích cực học tập học phần mà quan trong hơn là tạo nên lòng say mê, tính
kiên trì vượt khó, khả năng độc lập suy nghĩ và quyết tâm không đầu hàng trước mọi
trở lực trong khoa học.
- Về mặt phương pháp giảng dạy, sử dụng bài tập là biện pháp có hiệu quả
để ôn tập, kiểm tra, hệ thống hoá kiến thức và là mối liên hệ ngược thường xuyên
giữa thầy và trò, giúp giảng viên điều khiển, điều chỉnh nội dung, phương pháp
dạy học. Kiểm tra bằng bài tập, giảng viên có thể đánh giá chính xác về khả năng
nhận thức của sinh viên, về các kỹ năng cần thiết. Các bài tập tình huống, trắc nghiệm
mang tính tổng hợp ra cho sinh viên sau mỗi phần, mỗi chương đòi hỏi họ phải vận
dụng đồng thời nhiều kiến thức đã học, biết cách thực hành, vận dụng các kiến thức
đó trong thực tế chứ không chỉ là hiểu, nhớ, khái quát kiến thức. Những thành công
hoặc thất bại của SV trong giải bài tập là tín hiệu ngược giúp giảng viên biết được
mức độ đạt mục tiêu của học phần chứ không chỉ căn cứ vào điểm số khi thi học
phần bằng các câu hỏi.
1.2.2. Các dạng bài tập trong giảng dạy kỹ năng tự nhận thức
Trên cơ sở nghiên cứu quan niệm, vai trò của bài tập nói chung; mục tiêu,
phương pháp dạy học; đặc thù học phần kỹ năng mềm, kỹ năng tự nhận thức nói
riêng; trong sáng kiến này chúng tôi tập trung 3 dạng bài tập
Một là, Bài tập dạng nêu vấn đề, củng cố lý thuyết, phát triển các thao tác tư
duy (tư duy lý luận), kích thích tính tích cực học tập, liên hệ thực tiễn
7
Hai là, Bài tập dạng “Yêu cầu làm”
Ba là, Bài tập dạng trắc nghiệm trả lời nhanh, kiểm tra, ôn tập.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Vài nét về học phần kỹ năng mềm và chuyên đề Kỹ năng tự nhận thức
bản thân
Học phần Giáo dục kỹ năng mềm với thời gian thực hiện 75 giờ; (Lý
thuyết: 15 giờ; Thực hành, thí nghiệm, thảo luận, bài tập: 58 giờ; Kiểm tra: 2 giờ).
Là môn học cơ sở, thuộc khoa học xã hội; mang tính thực hành về kỹ năng, dành
cho đối tượng SV Cao đẳng khối Giáo dục nghề nghiệp (Cao đẳng Tiếng Trung
Quốc; Kế toán) học ở Học kỳ 02 – năm thứ hai. Học phần tổ chức cho SV tìm hiểu
có nhận thức cơ bản và rèn luyện về các kỹ năng mềm như: kỹ năng xây dựng kế
hoạch; kỹ năng quản lý thời gian; kỹ năng giao tiếp; kỹ năng làm việc nhóm và giải
quyết xung đột; kỹ năng quản lý cảm xúc, kỹ năng tự nhận thức bản thân.
Với mục tiêu: Rèn luyện kỹ năng tư duy và tìm kiếm giải pháp phù hợp với
điều kiện và hoàn cảnh bản thân để từ đó xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch
học tập, kế hoạch thực hiện công việc phù hợp, hiệu quả. Xác định được thực trạng
sử dụng thời gian của bản thân và đề ra được phương pháp khắc phục. Thực hiện
được một số kỹ năng giao tiếp, kỹ năng làm việc nhóm, giải quyết xung đột. Nhận
thức cảm xúc của bản thân, của người khác trong các hoàn cảnh, tình huống của
cuộc sống, công việc; quản lý và làm chủ được cảm xúc trong mọi tình huống. Luyện
tập cách thức quản lý cảm xúc hiệu quả; tự nhận thức được điểm mạnh, điểm yếu,
năng lực, sở trường, giá trị của bản thân để có thể lựa chọn, ra quyết định phù hợp,
tự tin, vui vẻ, hạnh phúc, sáng tạo khẳng định bản thân.
Chương 4 là chuyên đề về Kỹ năng quản lý cảm xúc, kỹ năng tự nhận thức bản
thân với tổng số 15 tiết (4 LT, 10 TH, TL, 1 KT). SV học chương này hiểu biết được
những vấn đề cơ bản về cảm xúc của con người, kỹ năng quản lý cảm xúc, kỹ năng
tự nhận thức; Hiểu được nguyên nhân, hệ lụy của việc thiếu, yếu những kỹ năng này.
Rèn luyện được kỹ năng tự nhận thức đúng bản thân để tự tin, phát triển tốt bản thân;
8
không ảo tưởng, tự ty, biết đặc điểm bản thân để lựa chọn ngành nghề, vị trí việc
làm phù hợp; phát huy thế mạnh trong tìm kiếm việc làm; được làm việc mình có
nhiều khả năng, yêu thích, xã hội cần... Hình thành và phát triển năng lực tự nhận
thức; năng lực quản lý cảm xúc; năng lực tự học, tự nghiên cứu; giao tiếp, lắng nghe,
hợp tác… thái độ chủ động, tích cực, lạc quan; tôn trọng bản thân và mọi người.
Là học phần rèn kỹ năng thực hành, ứng dụng. SV học kỹ năng mềm để ứng
dụng vào lao động, cuộc sống sau này. Vì vậy, thiết kế bài tập; giảng dạy, tổ chức
thực hành rèn luyện để SV vận dụng một cách sáng tạo những kiến thức đã học vào
công tác là đòi hỏi thiết thực của môn học.
Với nhiệm vụ hướng dẫn SV kiến thức về tự nhận thức, kỹ năng tự nhận thức;
vai trò của kỹ năng này trong các mối quan hệ, hoạt động nghề nghiệp, từ khi hòa
nhập vào môi trường thực tập đến khi tham gia hoạt động nghề nghiệp sau này... tôi
nhận thấy giảng viên phải nghiên cứu, thiết kế, sưu tầm, lựa chọn những bài tập giúp
SV trải nghiệm tự nhận thức bản thân cụ thể, sâu sắc hơn; hiểu về bản thân, người
khác, trải nghiệm các tình huống bất như ý sát với thực tiễn công việc, vị trí việc
làm, nghề nghiệp tương lai. Tránh chỉ giải quyết tình huống cho xong mà không
quan tâm đến thái độ cảm xúc, căn nguyên sâu xa của những hành vi; tránh những
sai lầm đáng tiếc xảy ra; để SV học kỹ năng mềm thấy ý nghĩa thiết thực không chỉ
với công việc lao động mà còn vô cùng hữu ích với cuộc sống hàng ngày của mỗi
SV.
Học phần Giáo dục kỹ năng mềm không phải là lý luận bất biến, nó mang tính
thời đại, chịu ảnh hưởng, chi phối của các yếu tố xã hội, thời đại hoàn cảnh điều kiện
con người sống và hoạt động. Nội dung, tính chất kiến thức, kỹ năng, trong học phần
đều đòi hỏi tính thực tiễn, ứng dụng, cập nhật, làm mới cao.
Tổ bộ môn chúng tôi đã biên soạn tài liệu, xây dựng quy định cụ thể về mục tiêu,
thời gian học, câu hỏi ôn tập, bài tập nhưng khi biên soạn chưa có nhiều bài tập thực
hành cập nhật thực tế, gắn với vị trí việc làm, tính chất công việc của SV khối Giáo
dục nghề nghiệp sau khi ra trường. Xuất phát từ những trăn trở trên, tôi xây dựng và
9
cụ thể hoá nhiệm vụ học tập bằng việc sưu tầm, biên soạn, sử dụng các bài tập trong
giảng dạy kỹ năng tự nhận thức bản thân cho sinh viên ngành tiếng Trung Quốc.
2.2. Thực trạng bài tập trong giảng dạy kỹ năng tự nhận thức cho SV
Chuyên đề kỹ năng tự bản thân là một trong các chuyên đề của học phần Giáo
dục kỹ năng mềm là học phần đầu tiên do tổ Tâm lý học – Giáo dục học đảm nhiệm
đối với SV khối Giáo dục nghề nghiệp. Nếu như chuyên ngành khác của Trường Sư
phạm sinh viên đều được học Tâm lý học; Tâm lý học lứa tuổi thì SV khối GDNN
các em chưa được học những môn học này, SV có những hạn chế như: Nói đến phạm
trù nào trong tâm lý các em cũng chưa có hiểu biết đúng; trong hành động, lời nói
nhiều khi, nhiều SV chưa thể hiện sự tế nhị, từ tốn; chu đáo, khiêm tốn, kín kẽ như
SV sư phạm. Khảo sát nhanh qua nhiều SV cũng chưa hình dung ra mình sẽ làm
những công việc gì, với những yêu cầu cần có nào bên cạnh giỏi giao tiếp bằng Tiếng
Trung. Để đảm bảo chất lượng giảng dạy, mục tiêu học phần, GV tổ Tâm lý học –
Giáo dục học Trường CĐSP Lạng Sơn đã nỗ lực trong soạn, giảng, đổi mới phương
pháp dạy học và biên soạn những câu hỏi, bài tập sử dụng trong giảng dạy, tuy nhiên
do học phần mới đưa vào giảng dạy nên bài tập còn khiêm tốn về số lượng và tính
phù hợp. Bài tập là chung cho kỹ năng quản lý cảm xúc, kỹ năng tự nhận thức, chưa
có nhiều bài tập giúp rèn luyện các phương pháp, kỹ năng cụ thể, đa dạng của con
người trong các tình huống, chưa giúp SV tự nhận thức sâu sắc để biết thế mạnh,
hạn chế của mình để lựa chọn lĩnh vực công việc; trả lời phỏng vấn khi tìm kiếm
việc làm cũng như rèn luyện hoàn thiện bản thân.
Tình huống liên quan đến tự nhận thức trong lao động vốn phức tạp, đa dạng,
tình huống lao động trong xã hội hiện đại càng phong phú, phức tạp. Bài tập cho
sinh viên thấy việc sinh viên phải biết kiến thức đó có ý nghĩa gì với hoạt động nghề
nghiệp trong tương lai. Có bài tập đã yêu cầu sinh viên vừa nhận dạng vừa giải thích
nhưng vẫn chưa giúp sinh viên trải nghiệm cảm xúc, ý nghĩa ứng dụng của nó trong
hoạt động nghề nghiệp. Kiến thức chuyên đề có liên quan đến các phẩm chất, năng
lực, kỹ năng nghề nghiệp, việc rèn luyện hình thành uy tín, năng lực bản thân nên
10
bài tập cần khai thác, chuyển tải những vấn đề này để đảm bảo tính thực tiễn và phát
huy tính tích cực của người học.
Mặt khác, các mối quan hệ trong hoạt động lao động của SV Cao đẳng Tiếng
Trung Quốc có thể có nhiều vị trí khác nhau, chưa xác định được rõ ràng và chắc
chắn như SV sư phạm. SV Cao đẳng Tiếng Trung Quốc cũng không hẳn chỉ là phiên
dịch viên, giảng dạy ngoại ngữ như SV các trường Ngoại ngữ. Qua khảo sát, tìm
hiểu, trao đổi với các đồng nghiệp, cựu sinh viên Tiếng Trung, chúng tôi được biết
SV khối Cao đẳng Tiếng Trung Quốc của Trường CĐSP Lạng Sơn sau khi ra trường
có thể là phiên dịch, là trợ lý, là nhân viên kinh doanh, nhân viên văn phòng, quản
đốc phân xưởng, quản lý nhân sự, nhân viên kinh tế, hành chính tổng hợp; hướng
dẫn viên du lịch, quản lý kho bãi, xuất nhập khẩu ... Do đó, có thể có nhiều đặc điểm
tâm lý và yêu cầu phong phú của nghề nghiệp, vị trí việc làm, đa dạng, phức tạp
trong xã hội hiện đại. không phải lúc nào các em cũng dễ dàng nhận ra và nhanh
chóng có cách quản lý, giải quyết phù hợp hiệu quả. Bài tập kỹ năng tự nhận thức
phải bám sát thực tiễn giúp các em trải nghiệm tình huống nghề nghiệp; rèn luyện
kỹ năng tự nhận thức để SV có thể làm chủ được cuộc phỏng vấn tìm việc làm của
các nhà tuyển dụng gắn với thế mạnh các em có; làm chủ được cảm xúc để say mê,
kiên trì, sáng tạo, hạnh phúc trong công việc các em được đảm nhiệm ... vừa có cơ
hội rèn kỹ năng sống, kỹ năng nghề nghiệp cho bản thân. Sinh viên học Kỹ năng
mềm là người đang nghiên cứu tìm hiểu, rèn luyện vừa là để đáp ứng yêu cầu hoạt
động nghề nghiệp do thực tiễn phát triển xã hội đòi hỏi, vừa đáp ứng nguyện vọng
hoạt động, hoàn thiện bản thân của cá nhân. Do đó, hoạt động đào tạo cho sinh viên
phải luôn chú ý bám sát những yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn khách quan, có như vậy
mới đảm bảo thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động.
Xuất phát từ những cơ sở trên, chúng tôi thấy cần thiết phải xây dựng bài tập
giúp SV trải nghiệm, rèn luyện kỹ năng; kích thích tính tích cực, hiểu cách thực hành
từng kỹ năng nhỏ, có cơ hội vận dụng kiến thức học phần vào rèn luyện các kỹ năng
nền tảng, góp phần phát huy tác dụng của kỹ năng mềm với thực tiễn đào tạo nghề.
III- NỘI DUNG SÁNG KIẾN
11
1. Xây dựng bài tập trong giảng dạy kỹ năng tự nhận thức cho sinh viên khối
giáo dục nghề nghiệp trường CĐSP Lạng Sơn
1.1. Quy trình xây dựng bài tập
Với mục đích biên soạn những câu hỏi, bài tập đa dạng, kích thích tính tích
cực học tập của SV, có thể sử dụng được trong nhiều khâu của quá trình dạy học,
khi đọc đề bài, giải bài tập SV thấy vai trò, ý nghĩa của việc phải hiểu tri thức giáo
dục để áp dụng, có hình dung, liên hệ về hoạt động lao động trong xã hội hiện đại,
chúng tôi đã xây dựng bài tập theo quy trình sau:
Bước 1: Chuẩn bị: Nghiên cứu mục tiêu của chương, bài, nội dung kỹ năng, tài
liệu tham khảo, đặc điểm nhận thức, kinh nghiệm sống của SV để xác định vấn đề
cần thiết kế bài tập.
Bước 2: Thiết kế câu hỏi, bài tập mang tính thực tiễn.
Bước 3: Kiểm tra, lập kế hoạch sử dụng (dự kiến cách giải quyết từng bài tập,
dự kiến cách giải quyết của sinh viên, những sai lầm có thể có, dự kiến cách khắc
phục, dự kiến thời điểm và phương pháp sử dụng).
1.2. Xây dựng bài tập trong giảng dạy kỹ năng tự nhận thức bản thân
Theo quy trình trên đây, chúng tôi đã xây dựng bài tập trong giảng dạy Kỹ năng
tự nhận thức bản thân – đây là đóng góp cơ bản trong sáng kiến của tôi. Trong phần
này tôi đưa ra một số bài tập đại diện cho từng mục kiến thức, kỹ năng, thời điểm sử
dụng trong việc dạy học chuyên đề Kỹ năng tự nhận thức bản thân như sau:
1.2.1. Bài tập dạng A - Dạng nêu vấn đề, củng cố lý thuyết, phát triển các
thao tác tư duy (tư duy lý luận), kích thích tính tích cực học tập, liên hệ thực tiễn
có thể sử dụng để yêu cầu SV chuẩn bị trước khi học kiến thức mới hoặc sử dụng
cho SV thảo luận trong giờ học, tìm hiểu tri thức mới hoặc ôn tập. Ví dụ: Bài 1. Em
hãy đọc câu chuyện và trả lời câu hỏi
CON GÀ” ĐẠI BÀNG
12
Ngày xưa, bên sườn núi có một tổ chim đại bàng, với quả trứng lớn. Bổng xảy
ra trận động đất khiến quả trứng đại bàng lăn xuống núi và rơi vào chỗ gà mẹ đang
ấp. Gà mẹ ấp luôn cả quả trứng lớn ấy. Ổ trứng gà mẹ ấp ủ đã nở ra một đàn gà và
một chú đại bàng đáng yêu. Gà mẹ yêu thương và nuôi dạy đại bàng như con của
mình. Đại bàng yêu gia đình và ngôi nhà đang sống, nhưng tâm hồn nó vẫn khao
khát một điều gì đó cao xa hơn. Cho đến một ngày, nó nhìn thấy những chú chim có
hình dáng giống mình đang sải cánh bay cao trên bầu trời.
Đại bàng kêu lên: Ôi! Ước gì tôi có thể bay như những chú chim đó.
Đàn gà cười ầm lên: Anh không thể bay với những con chim đó được. Anh là
một con gà và gà không biết bay cao.
Đại bàng tiếp tục ngước nhìn gia đình thật sự của nó, mơ ước có thể bay cao
cùng họ. Mỗi lần đại bàng nói ra mơ ước của mình, bầy gà lại bảo đó là điều không
thể xảy ra. Cuối cùng đại bàng đã tin rằng là thật. Rồi đại bàng không mơ ước nữa
và tiếp tục sống như một con gà.
a. Vì sao "con gà" đại bàng không thực hiện được mong ước có thể bay như
những chú đại bàng?
b. Qua câu chuyện em rút ra bài học gì cho bản thân?
Bài 2. Câu nói “Biết mình biết ta, trăm trận trăm thắng” cho bạn lời khuyên
như thế nào trong việc tự nhận thức bản thân đối với công việc.
Bài 3. Lựa chọn câu nói bạn tâm đắc nhất trong số các câu sau và nêu cảm nghĩ
của mình về câu nói đó:
a. Hiểu người là khôn ngoan, hiểu mình là giác ngộ. (Lão Tử)
b. Hãy tin tưởng vào những kỹ năng của bản thân. Suy nghĩ tiêu cực có thể giết
chết giấc mơ trước khi người khác kịp làm việc đó. Sự nghi ngờ giết chết nhiều giấc
mơ hơn là thất bại. – Suzy Kassem
c. Người đòi hỏi ở cuộc đời không gì hơn là sự cải thiện chính bản thân mình…
ít bỏ lỡ và lãng phí cuộc đời mình hơn bất cứ ai. – Henri Frederic Amiel
13
d. Nhiệm vụ chính của con người trong cuộc sống là tự sinh thành chính mình,
trở thành những gì mình có tiềm năng. Sản phẩm quan trọng nhất cho nỗ lực đó là
tính cách của anh ta. – Erich Fromm
e. Nếu bạn không đang ở trong quá trình trở thành con người bạn muốn trở
thành, bạn tự động đi vào quá trình trở thành con người mình không mong muốn.
– Dale Carnegie
g. Tất cả chúng ta đều cần người khác nhận xét về mình. Đó là cách chúng ta
phát triển. – Bill Gates
h. Cho dù bạn là người thế nào, hay bạn đã là người thế nào, bạn vẫn có thể trở
thành con người mà bạn mong muốn. – W. Clement Stone
Bài 4. Xác định hậu quả của mỗi tình huống sau và cho biết cách nhận thức bản
thân một cách hiệu quả:
4.1. Trung đang là sinh viên năm thứ hai. Cậu thông minh nhưng không chăm
học lắm. Vì thế kết quả học tập của Trung không bằng anh khi anh còn đi học. Và
anh có nhiều tài lẻ anh có mà cậu không có. Cậu cũng rất tự hào về anh của mình.
Cậu thích bóng đá và rất thuộc tên của các cầu thủ, các đội cũng như tên của các sân
bóng của các đội. Cậu cũng rất nhớ các sự kiện lịch sử mà anh cậu lại không nhớ tốt.
Anh cậu hay phải hỏi cậu về những thông tin dạng này. Tuy nhiên, cậu luôn bị bà
ngoại mang ra so sánh với anh về sự cẩn thận, về ý thức tiết kiệm, về sự sạch sẽ và
cả về học tập. Cậu thấy vô cùng khó chịu khi bị so sánh như vậy nhưng cậu đã chấp
nhận sự ”thua thiệt” này và coi như là ”số phận” đã an bài.
a/ Có khi nào bạn ở vào hoàn cảnh của Trung chưa? Bạn đánh giá thế nào về
Trung? Nếu là địa vị của Trung bạn sẽ suy nghĩ và hành động như thế nào?
b/ Theo bạn khi tiếp nhận đánh giá, nhận xét của người khác về mình chúng
ta cần lưu ý gì?
4.2. Dù đã là SV năm cuối, gần tốt nghiệp đại học nhưng Quân vẫn chưa xác
định rõ mình có năng lực gì, phù hợp với ngành nghề nào. Bạn hãy tư vấn giúp Quân.
4.3. Đọc câu chuyện PHÂN VÂN
Giờ giải lao, Lan, Hùng và Oanh ngồi tán gẫu.
14
Đang ngồi trò chuyện, bỗng thấy Lan ngồi im suy nghĩ, Oanh hỏi: Có chuyện
gì vậy Lan?
Lan nhìn bạn, đắn đo một lúc rồi trả lời: Mình đang phân vân ... Mình định
bảo lưu kết quả học...
Nghe Lan nói, Hùng, Oanh sững sờ. Lan từ tốn giải thích: Mình không có
Không để Lan dứt lời, Hùng chen ngang: Dù sao cũng đã học đến năm thứ hai
rồi, giờ làm lại từ đầu không phải quá uổng phí sao? Cậu đã suy nghĩ kỹ chưa?
Oanh chen và: Mình nghĩ bạn nên cân nhắc kỹ hơn...
Mình hoàn toàn không muốn theo đuổi ngành học này, sau này ra trường mình
cũng không muốn làm việc trong lĩnh vực này. (Mỹ Hạnh)
Vì sao Lan muốn dừng việc học? Bạn có bao giờ rơi vào hoàn cảnh giống Lan
không? Để tránh gặp tình trạng trên cần phải làm gì trước khi quyết định lựa chọn
ngành học?
4.4. Nam - tốt nghiệp một trường đại học ở Hà Nội, hiện đang làm cho một
công ty của Mỹ tại Việt Nam. Công việc đòi hỏi Nam quản lý 8 nhân viên trong
phòng. Nam tâm sự: “Trong quá trình học tại Trường đại học, tôi thực sự chưa được
trang bị kiến thức và kỹ năng để đối mặt với những thách thức có thể gặp phải trong
quá trình làm việc. Việc lên kế hoạch làm việc với khách hàng cũng đủ làm cho tôi
đau đầu. Tôi đã phải nỗ lực rất nhiều để nhân viên trong phòng cảm thấy nơi làm
việc như gia đình nhỏ và tôi phải học cách tạo động lực làm việc cho nhân viên. Giờ
tôi thấy khâm phục các thầy cô giáo của mình”.
Câu chuyện của Nam giúp bạn nhận ra điều gì khi nghiên cứu kỹ năng tự nhận
thức?
1.2.2. Bài tập dạng B - dạng “Yêu cầu làm” sử dụng trong giờ thực hành,
sắm vai, trải nghiệm, tự trải nghiệm, rèn luyện, tự học ở nhà. (Sáng kiến tập trung
nhiều hơn vào dạng bài tập này). Ví dụ:
15
Bài 1. Thúy Hằng là sinh viên mới tốt nghiệp ngành quản trị kinh doanh. Bốn
năm học miệt mài, chăm chỉ đã đem về cho bạn tấm bằng loại giỏi. Tự tin về kết quả
học tập, Hằng nộp đơn vào vị trí giám sát bán hàng tại một công ty lớn. Khi phỏng
vấn, trưởng phòng nhân sự hỏi:
Vì sao em ứng tuyển vào vị trí này? Em nghĩ mình có phù hợp với yêu cầu
công việc không? Em đánh giá thế nào về khả năng của bản thân ở vị trí tuyển dụng?
Nghe nhà tuyển dụng đặt câu hỏi, Thúy Hằng ngẩn người.
Nếu là Thúy Hằng bạn sẽ đáp lời nhà tuyển dụng ra sao?
Bài 2. Nếu chọn một biểu tượng để nói về bản thân mình thì đó là biểu tượng gì?
Hãy vẽ một biểu tượng về bản thân mình và cho biết vì sao là biểu tượng đó.
Bài 3. Hãy liệt kê những điểm tôi thấy hài lòng về mình (Ví dụ: về sức khỏe, hình
dáng, gia đình, bạn bè, quê hương; năng khiếu, tình cảm; một số phẩm chất đạo
đức…)
Bài 4. TÔI LÀ AI? Trong 5’, hãy tìm những đặc điểm nổi bật nhất của mình ghi vào
bảng:
Đặc điểm nổi bật nhất của Điểm mạnh về các mặt Điểm còn phải cố gắng
bản thân.
Tôi rất thích hát; tôi thích Tôi là người dễ hòa đồng, Tôi còn nhút nhát; tôi còn
Mặc áo màu sáng, tôi hay tôi có nhiều bạn, tôi nấu hay bị phụ thuộc vào
cười… ăn ngon, tôi khỏe mạnh… người khác…
Bài 5. Trong 5’, hãy viết/ vẽ ra giấy chân dung bản thân và giới thiệu về mình.
Điều mà tôi ưa thích về mình.
Điều mà tôi không thích về mình
Điểm mạnh của tôi.
16
Điểm yếu / cần cố gắng của tôi.
Đặc điểm nổi bật nhất của tôi.
Bài 6. Tìm hiểu hình ảnh của mình trong mắt những người xung quanh.
Mọi người nghĩ gì về bạn? Trong mắt người khác, bạn có những
năng lực nào nổi trội?
Bài 7. BẠN LÀ AI?
Kỹ năng của bạn: Sự đam mê: Thế mạnh:
Năng lực, học vấn, kinh Sự đam mê và cá tính là Xác định thế mạnh để tạo
nghiệm chuyên môn mấu chốt tạo nên thương nên thành công.
hiệu mạnh.
Bài 8. Hãy chỉ ra các thế mạnh, hạn chế của bản thân, để xác định các công
việc phù hợp với bản thân (có thể làm tốt) sau khi ra trường. (Ví dụ: Phiên dịch viên;
hướng dẫn viên du lịch; nhân viên văn phòng của công ty liên doanh: nhân viên kế
hoạch/ nhận viên hành chính; nhân viên tổng; trợ lý; tổ trưởng sản xuất; nhân viên
hải quan: kho bãi, xuất nhập khẩu; giáo viên Tiếng Trung ...)
Bài 9. Vẽ sơ đồ hỉnh ảnh bản thân trong quá khứ trong thế so sánh với hiện
tại và tương lai.
Điểm mạnh Điểm mạnh
Điểm yếu Điểm yếu
BẢN THÂN Trước đây Hiện tại và tương lai.
Bài 10. Hãy đưa ra lời khuyên thích hợp trong những trường hợp dưới đây.
- Mình làm phiên dịch hay nhân viên văn phòng?
17
- Mình có nên mở shop thời trang Quảng Châu hay đi giao dịch bán hàng cho
các thương gia ở Chợ cửa khẩu hay làm nhân viên kho bãi cửa khẩu?
- Mình rất muốn trở thành hướng dẫn viên du lịch hay đi dạy Tiếng Trung?
- Mình rất muốn trở thành một người nổi tiếng. Thật ra mình có tố chất của
một người nổi tiếng.
Bài 11. Hãy chỉ ra càng nhiều càng tốt các cách để giúp bạn có khả năng hiểu
được giá trị của cơ thể mình.
Bài 12. Bạn đã có những kinh nghiệm thành công nào trong học tập trước
đây? Tại sao bạn lại thành công? Mục tiêu, nguyên tắc của bạn là gì? Bạn đã sử dụng
thời gian như thế nào để hoàn thành nó? Bạn đã làm gì để đạt được mục tiêu? Những
thành công nào trong học tập đã mang lại cho bạn những kinh nghiệm gì? Những kỹ
năng nào bạn cần hoàn thiện?
1.2.3. Bài tập dạng C – dạng trắc nghiệm trả lời nhanh, kiểm tra, ôn tập;
kích thích tính tích cực học tập của sinh viên - sử dụng trong các khâu của QTDH
(tuỳ mục đích và tiến trình giờ dạy, giáo viên có thể sử dụng nhanh); có dạng:
Bài 1. Kỹ năng tự nhận thức giúp bản thân mỗi người điều gì?
a. Cư xử đúng mực, quyết định và lựa chọn đúng đắn.
b. Giúp quản trị bản thân, tự tin và hạnh phúc hơn.
c. Hiểu đúng bản thân, không ảo tưởng.
d. Tất cả các phương án trên.
Cụ thể một số bài tập khác – (Xem phụ lục)
1.3. Sử dụng bài tập trong giảng dạy kỹ năng tự nhận thức cho sinh viên
CĐSP Lạng Sơn (Giảng dạy cho SV lớp K18TV1; 2; 3; 5; 6 - Khoa Ngoại ngữ –
CĐSP Lạng Sơn)
1.3.1. Việc thiết kế và sử dụng các bài tập dạng A giúp SV tích cực để ý quan
sát, tìm tòi, liên tưởng đến các hiện tượng trong thực tế, huy động vốn kinh nghiệm
của bản thân về chủ đề bài học. Việc thiết kế và sử dụng bài tập giúp SV tích cực
18
tìm tòi, suy nghĩ, củng cố lý thuyết, phát triển các thao tác tư duy (tư duy lý luận),
kích thích tính tích cực học tập, liên hệ thực tiễn.
Các bài tập của mục này thực chất giúp SV tìm hiểu khái niệm; đặc điểm, vai
trò của kỹ năng tự nhận thức, hệ lụy của thiếu hiểu biết về chính bản thân, rút ra kết
luận cho bản thân. Tuy nhiên, với cách hỏi thông thường, chỉ đến khi sinh viên nào
phải trả lời mới tìm đến các đề mục có liên quan trong giáo trình để trả lời, SV không
thấy được ý nghĩa thực tiễn của việc học tập học phần này với đời sống, nghề nghiệp
tương lai, không thu hút sự chú ý, kích thích tính tích cực tư duy, học tập của sinh
viên.
Thay vì hỏi: Tại sao phải tự nhận thức, tại sao phải có kỹ năng tự nhận thức
bản thân? - Cách hỏi này người học sẽ chỉ trả lời chung theo ý hiểu khi SV nào được
hỏi. Giảng viên (GV) sử dụng bài tập kiểu khai thác kinh nghiệm thực tiễn của SV
(Xác định hậu quả của mỗi tình huống sau và cho biết cách nhận thức bản thân một
cách hiệu quả) - để nêu vấn đề trong bài dạy, việc sử dụng bài tập dạng này đặt SV
vào tình huống phải thực sự tìm hiểu, suy nghĩ và đưa ra ý kiến, lập luận của bản
thân chứ không phải thụ động mở tìm câu trả lời.
Bài tập này, GV có thể giao trước khi học bài mới, để SV tự học; tự tìm kiếm,
ý thức nhiệm vụ học tập. Dạng bài tập và thời điểm sử dụng vừa giúp kích thích tính
tích cực, rèn luyện sự chủ động; vừa khích lệ người học liên hệ thực tiễn, đưa ra
chính kiến khoa học của mình, luyện tập kỹ năng phân tích, tổng hợp, trình bày, giải
thích, thuyết phục– đặc trưng của giờ dạy thực hành.
Thiết kế bài tập dạng này, chúng tôi cố gắng dựa trên những câu chuyện tình
huống thực tế gần gũi với SV, là biểu hiện của những thanh niên SV chạc tuổi các
em; cựu SV đã trưởng thành; những câu chuyện đời thường mà có thể ai cũng trải
qua… Được trao đổi, thảo luận, tìm hiểu bằng những tình huống thực tiễn sinh động,
SV hào hứng, nỗ lực, tích cực suy nghĩ, thực hành hơn trong giờ học.
Ví dụ với bài tập tình huống 4.1. – Dạng A. Câu trả lời của rất nhiều SV các
lớp là đã từng trải qua, có em bảo cũng chấp nhận như Trung, có em bảo rất khó
chịu, ấm ức, không muốn nói gì nữa... Các em được gợi ý trả lời thêm các câu hỏi
phụ và SV đã biết chỉ ra nếu các em chỉ ấm ức, chấp như Trung sẽ dẫn đến mất tự 19
tin, mất kết nối (thực tế em đã không muốn nói với người thân mà thích nói chuyện
với bạn bè hoặc em chơi ván games cho thoải mái... ); có những SV trả lời: ”Như
thế Trung có thể gián tiếp ghét anh”; ”Em khi bị so sánh em hay cãi lại bố mẹ mang
con nhà người ta về mà nuôi và hậm hực, khó chịu chứ không giải thích”. Đa số SV
cứ chung sống trong tổn thương cảm xúc, bị so sánh, dẫn đến thiếu tự tin hoặc mất
kết nối với người thân như thế mà không hề hiểu đó là kỹ năng tự nhận thức, mình
cần có hiểu biết để yêu thương và bảo vệ cảm xúc, sự tự tin của chính mình. Các em
đã biết trả lời ý b của câu hỏi là khi tiếp nhận đánh giá, nhận xét của người khác về
mình chúng ta cần khiêm tốn lắng nghe, vui vẻ tiếp nhận nhưng cũng cần bình tĩnh,
hóm hỉnh chỉ ra điểm tích cực của bản thân trong tình huống đó để người nói cẩn
trọng hơn và bản thân đỡ mất cân bằng cảm xúc, bị bắt nạt, bị mặc định, mất tự tin...
Các bài tập 4.2; 4.3; 4.4 – dạng A khi dạy ở các lớp, SV đều cho biết là có rất
nhiều trong thực tế, thậm chí bản thân đang gặp phải; SV hầu như chỉ trả lời là tốn
kém tiền bạc của bố mẹ, thời gian của bản thân mà không; chưa hiểu vai trò của kỹ
năng tự nhận thức, để giải quyết vấn đề này tận gốc các em cần và phải có kỹ năng
tự nhận thức bản thân.
Thiết kế bài tập này có thêm lợi thế là cùng một tình huống có thể sử dụng
khai thác cho một số nội dung bài, (GV) chỉ cần đưa thêm câu hỏi, cách khai thác
theo dụng ý sử dụng của mình. Ví dụ, bài tập 4.2; 4.3; 4.4 –dạng A, SV đã được yêu
cầu trên lớp trực tiếp vào vai phân tích đặc điểm tính cách, năng lực, sở trường của
bản thân gắn với yêu cầu đòi hỏi của nghề để quyết định. SV phải huy động tri thức
hiểu biết về nghề sâu sắc hơn; nghiêm túc quay vào bên trong nhận thức về mình để
thấy mình có nhiều ưu điểm, hạn chế gì… để quyết định hành động. SV các lớp đã
nhập vai và chỉ ra em cần học tốt để làm nhân viên hành chính/ nhân viên mua bán/
nhân viên kế hoạch/ hướng dẫn viên du lịch/ nhận viên hải quan; kho bãi, xuất nhập
cảnh/ tuyển dụng nhân sự/ giáo viên Tiếng Trung … thì phù hợp với em và sẽ vui
vẻ sáng tạo hơn.
Thực hành tình huống này, cho thấy thực trạng nhiều SV còn hạn chế ngay
trong nhận thức về nghề. SV chăm chỉ học Tiếng Trung, một số SV ý thức chủ động
học văn bằng 2 là kế toán để có nhiều văn bằng, nhiều cơ hội tìm việc sau khi ra 20
trường nhưng SV thực sự chưa có hiểu biết về những năng lực, phẩm chất cần có
của người lao động trong nghề đó, về đặc điểm, giá trị nghề nghiệp. Điều này, chúng
tôi giải thích là có thể do 2 nhóm lý do: Một là, SV chỉ tự tìm hiểu, lựa chọn, qua tư
vấn của người thân, anh chị khóa trên; mạng internet chứ không được học tìm hiểu
và thực hành một cách hệ thống, bài bản về phẩm chất nghề nghiệp. (Một số SV cho
biết: “Anh, chị ở chỗ em bảo tiện Trường mình có thể học 2 ngành, học phí thấp thì
học luôn kế toán đi để có nhiều cơ hội, sau ra đỡ phải đi học, chứ em cũng chưa biết
mình có phù hợp với nghề kế toán hay không.”). Hai là, SV học ngành ngôn ngữ
Tiếng Trung là cơ sở, ra trường các em có thể làm ở nhiều vị trí việc làm, công việc
có và cần sử dụng ngoại ngữ; hiện tại các em chưa được học các học phần thực hành
về các kỹ năng nghề nghiệp, vị trí việc làm đó; không giống như các bạn SV sư
phạm khi chọn học trong Trường sư phạm là các bạn đã xác định xu hướng học để
làm giáo viên; vào Trường được học các học phần nghiệp vụ của giáo viên; yêu cầu
về phẩm chất, năng lực, đặc điểm, đối tượng; quan hệ nghề nghiệp của người giáo
viên luôn; SV học kế toán là đã xác định và được học về nghiệp vụ kế toán, môi
trường, điều kiện làm việc. của người kế toán... SV Tiếng Trung ở Lạng Sơn thường
nghĩ học Tiếng Trung giao tiếp, dịch thuật thương mại… các em đa số học ngoại
ngữ và hình dung làm một phiên dịch viên; chưa được học sâu, vào một vị trí việc
làm, hay nghề nghiệp cụ thể. Điều này vừa là cơ hội rộng mở, vừa là hạn chế của
SV ngành Tiếng Trung Quốc.
1.3.2. Việc sử dụng các bài tập dạng B là dạng bài tập “Yêu cầu làm” sử dụng
trong giờ thực hành, giúp người học trải nghiệm, rèn luyện kỹ năng tự nhận thức bản
thân một cách nghiêm túc hơn; không chỉ là sắm vai nữa mà phải trung thực chỉ ra
tất cả các đặc điểm của mình dù là ưu là nhược hoặc tự học ở nhà ... Mục đích thiết
kế và sử dụng bài tập dạng này yêu cầu người học đặt mình vào trải nghiệm, thực
hành. GV yêu cầu SV tự mình viết ra giấy; không ai nhìn ai, có thể chia sẻ nếu muốn;
có điều không muốn chia sẻ trước lớp không cần chia sẻ trước lớp. GV đi quan sát
từng em, trao đổỉ hỏi thêm chủ yếu để SV biết cách tự nhận thức đúng,
21
Một số SV tự nhận thức rất sơ sài – (xem phụ lục)
Tổ chức cho SV làm những bài này, GV sử dụng các cách làm khác nhau ở
các lớp khác nhau và rút ra được thực tế là: Các SV trong các lớp Cao đẳng Tiếng
Trung năm thứ 2 có sự tự nhận thức, nét tính cách, đặc điểm học tập rất khác nhau.
Lần đầu được yêu cầu làm bài tập dạng này, có những em không viết gì bảo “Em
không biết, em chưa thấy, chưa biết mình có khả năng gì”; có em chỉ ra được rất ít,
đa số SV chỉ vẽ biểu tượng cỏ 3 lá và bảo em mong vui vẻ, bình an – một xu hướng
của tuổi trẻ truyền nhau trên mạng xã hội; có những em rất nghiêm túc chỉ ra được
rất nhiều; có em nghiêm túc chỉ ra nhưng được ít và trung thực khẳng định “Em thực
sự nhiều khi vẫn chưa biết mình muốn gì, thích gì”… GV đều khích lệ động viên
như vậy là các em đã và đang ý thức và biết tìm hiểu về chính mình. Kỹ năng này
nghe đơn giản nhưng tại sao rất khó để rèn luyện khả năng tự nhận thức bản thân
khách quan, chính xác? Do chúng ta thường “không ở đó” để chú ý quan sát điều gì
đang diễn ra bên trong bản thân. Hai nhà tâm lý học Matthew Killingsworth và
Daniel T. Gilbert cho rằng phân nửa thời gian trong ngày con người nằm trong “chế
độ lái tự động”, hay còn gọi là tình trạng phát sinh suy nghĩ, cảm xúc và hành động
một cách vô thức. Do thực tế kỹ năng đòi hỏi phải thực hành nhiều, thực hành nghiêm
túc, thường xuyên hàng ngày… Việc mà mọi người đều biết nhưng không phải ai,
lúc nào cũng nghiêm túc thực hiện hoặc biết cách thực hiện đúng. Về cách thức, con
đường rèn luyện kỹ năng tự nhận thức có 2 con đường chính (tự khám phá bản thân
và thông qua đánh giá của người khác); cũng có thể chia nhỏ thành nhiều cách tự
nhận thức cụ thể. Sau đó, GV hướng dẫn SV các cách thức, kỹ thuật rèn luyện tự
22
nhận thức như: Phác thảo chân dung tâm lý; Tự vấn; Tự bộc lộ mình; Lắng nghe
người khác (Lấy thông tin phản hồi); Trải nghiệm; Làm Trắc nghiệm … Các SV các
lớp đã nghiêm túc bắt tay vào khám phá chính bản thân mình một cách bài bản.
SV làm bài tập tự nhận thức bản thân
Chẳng hạn: Trước tiên bản thân phải phác thảo chân dung tâm lý chính mình;
biểu tượng của bản thân mình bằng hình ảnh; câu từ ngắn gọn, vẽ cây bản thân…
GV hướng dẫn SV cách thức phác thảo Chân dung tâm lý bao gồm: Hình ảnh cơ thể
của bản thân; Cái tôi chủ quan; Cái tôi lý tưởng; Hình ảnh tâm lý theo định hướng
của vị trí, vai trò và nhiệm vụ xã hội mình đang đảm nhận. SV thực hành làm bài tập
1/ Vẽ chân dung bản thân. 2/ Chọn một biểu tượng để nói về bản thân mình. (vẽ và
giải thích vì sao là biểu tượng này?) 3/ Bạn hiểu về chính bản thân mình bao nhiêu
%?... SV trả lời rất khác nhau và thực tế chưa nói được biểu tượng ngắn gọn về bản
thân. Nhiều em đã nói được là đẹp trai; hơi gầy; chăm chỉ; mơ mộng; vui vẻ… nhưng
nhiều em cùng chỉ vẽ biểu tượng cỏ 3 lá và bảo em mong may mắn…
GV sử dụng bài tập tình huống trả lời phỏng vấn, (Vì sao em ứng tuyển vào
vị trí này? Em nghĩ mình có phù hợp với yêu cầu công việc không? Em đánh giá thế
nào về khả năng của bản thân ở vị trí tuyển dụng?
Nghe nhà tuyển dụng đặt câu hỏi, Thúy Hằng ngẩn người.
Nếu là Thúy Hằng bạn sẽ đáp lời nhà tuyển dụng ra sao?) ban đầu SV không
hề biết trả lời gắn với kỹ năng tự nhận thức để thuyết phục cũng như đó là thực tế
mà mỗi người lao động luôn phải quan tâm. SV thường chỉ trả rất đơn giản là em
23
học đúng ngành, có bằng giỏi, em tin là mình sẽ làm tốt, mà không chỉ ra được điểm
thuyết phục từ chính năng lực, sở trường của bản thân gắn với yêu cầu của nghề
nghiệp. Bạn Thúy Hằng ở đây ngẩn người vì đã chưa chú ý tới điều đó, câu hỏi
không khó nhưng nếu không quen nhận thức, ý thức về bản thân với công việc có
thể các em chỉ trả lời rất đơn giản như trẻ nhỏ, không thuyết phục được nhà tuyển
dụng vì rõ ràng là em có văn bàng chứng chỉ đúng chuyên ngành mới được nộp hồ
sơ ứng tuyển, nhưng họ tuyển vào từng vị trí việc làm, đòi hỏi em phải có am hiểu
về vị trí công việc đó cũng như em có những thế mạnh, sở trường hay hạn chế nào
khi thực hiện việc đó để họ quyết định lựa chọn em hay không.
24
SV thực hành sắm vai giải quyết bài tập
Đa số SV thực hành đều trả lời rất đơn giản là: “Em thấy công ty mình tuyển,
em được học và có bằng chuyên môn phù hợp nên tham gia dự tuyển, em tin rằng
mình có thể đảm nhiệm công việc này, em có bằng giỏi...” mà chưa hiểu gì về việc
phải nhận thức những năng lực sở trưởng của mình gắn với những yêu cầu đòi hỏi
của công việc, vị trí tuyển dụng. GV phải hướng dẫn, gợi ý cụ thể việc trả lời phỏng
vấn phải gắn với am hiểu công việc, hiểu chính mình, chỉ ra lợi thế của mình phù
hợp với công việc đó như thế nào, mình còn có thể có hạn chế nào nếu đảm nhận
nhiệm vụ này. Được hướng dẫn, SV đã dần chú ý tìm hiểu, phân tích đặc điểm nghề
nghiệp, điểm mạnh, yếu của bản thân và mới biết gắn kỹ năng tự nhận thức vào trong
việc trả lời phỏng vấn. Các em đã tích cực tìm ra những đặc điểm, yêu cầu đòi hỏi
của vị trí giám sát bán hàng gắn với bản thân em như: Em nhanh nhẹn; có khả năng
bao quát, quan sát nhanh, trung thực, có óc thẩm mỹ, giao tiếp cởi mở, có khả năng
lắng nghe, thuyết phục, có kinh nghiệm bán hàng, có đặc điểm tận tâm phục vụ...
Dần dần ở các nhóm khác SV đã tự nhận thức và chỉ ra được nhiều đặc điểm hơn
như: “Em có khả năng thu thập và phân tích thông tin về thị trường; cập nhật, nắm
bắt tình hình các chiến dịch bán hàng; Có khả năng theo dõi, quản lý kho và trưng
bày sản phẩm; dám chịu trách nhiệm; Có khả năng xây dựng mối quan hệ với khách
hàng, sẵn sàng tư vấn, giải quyết các thắc mắc… Tuy nhiên em còn chưa có kinh
nghiệm nhiều, em nghĩ em còn hạn chế về kỹ năng lãnh đạo; kỹ năng giao tiếp…”.
Các SV trong một lớp đều có cơ hội có thể đảm nhiệm, làm việc ở nhiều
ngành nghề, vị trí việc làm khác nhau; các em buộc phải tự học, tự nghiên cứu, rèn
luyện hoặc sau đó học thêm sâu vào một vị trí việc làm như làm nhân viên văn
25
phòng; làm việc ở bộ phận nhân sự thì có các vị trí tuyển dụng; tiền lương; đào tạo
văn hóa doanh nghiệp; phát triển tổ chức; ở bộ phận hành chính thì có các cương vị
hành chính, hậu cần; các vị trí hành chính khác; bộ phận kinh doanh có nhân viên
mua bán, mua bán toàn cầu; chăm sóc khách hàng; quản đốc phân xưởng của công
ty liên doanh nước ngoài có sử dụng Tiếng Trung; làm việc ở vị trí nhân viên hải
quan: phòng xuất nhập cảnh; kho bãi cửa khẩu; phiên dịch, trợ lý giám đốc; làm
hướng dẫn viên du lịch; đi dạy Tiếng Trung, làm kế toán doanh nghiệp; kinh doanh
riêng. Tất cả đều cần sử dụng thông thạo ngoại ngữ Tiếng Trung Quốc các kỹ năng
nghe – nói - đọc -viết… Nếu các em không được hướng dẫn để chủ động tự học, tự
nghiên cứu về kỹ năng tự nhận thức bản thân gắn với các vị trí việc làm, yêu cầu
công việc nghề nghiệp sẽ làm trong tương lai các em sẽ bỡ ngỡ, mất nhiều thời gian
làm quen; khó phát huy được năng lực, sở trường của bản thân; khó tìm thấy niềm
vui, sự sáng tạo trong công việc vì làm việc không đúng sở trường, tính cách, giá trị
của bản thân. Chẳng hạn có SV chia sẻ: “Nay học bài này em thấy em thích di chuyển,
giao tiếp, khám phá điều mới lạ, em nghĩ sẽ phù hợp làm hướng dẫn viên du lịch
hơn nếu em đến công ty liên doanh làm nhận viên văn phòng, hành chính”.
GV hướng dẫn SV tự nhận thức đặc điểm một số nghề nghiệp, công việc mà
các em có thể làm sau khi học xong Tiếng Trung; tự nhận thức về năng lực, sở
trường, tính cách, ưu nhược điểm của bản thân so với những vị trí, việc làm, ngành
nghề mà các em có thể làm sau này. Nhiều SV chia sẻ: “Em đi học Tiếng Trung vì
thấy mình học ngoại ngữ cũng được” hay “Do thấy giờ nhiều anh chị học ra dễ có
việc làm, lương cao”; “Em cũng từng nản không muốn học tiếp do khó”… Sau khi
trải nghiệm các bài tập tự nhận thức TÔI LÀ AI để tự nhận thức các khả năng thế
mạnh, hạn chế của mình, SV đã hiểu mình, hiểu nghề; nhận thức sâu, nghiêm túc
hơn nhu cầu, nguyện vọng của bản thân và sự phù hợp với công việc, lĩnh vực, các
kỹ năng cơ bản cần có. SV ý thức hơn về việc học tập, rèn luyện, trau dồi chuẩn bị
hành trang gắn với công việc mình có khả năng làm tốt hơn. SV đã thay đổi tư duy,
nhận thức trong cách sắm vai trả lời phỏng vấn.
GV hướng dẫn SV phương pháp Tự vấn - một trong những phương pháp cơ
bản nhất. Cá nhân đứng trước gương quan sát bản thân từ trên xuống dưới, trong ra
26
ngoài để trả lời những câu hỏi: Tôi là ai? Tôi hài lòng những điểm nào về bản thân
mình; những điểm nào tôi thường không hài lòng về tôi. Ngồi xuống lắng nghe bản
thân, tập trung để liệt kê ra giấy càng nhiều càng tốt những ưu, nhược điểm của bản
thân; phương pháp, cách thức phát huy ưu điểm, cụ thể cách khắc phục dần nhược
điểm của mình. Lưu ý liệt kê cụ thể cách khắc phục nhược điểm, phát huy ưu điểm.
Bài tập này các em có thể làm trên lớp, hoặc tiếp tục làm ở nhà thường xuyên, liên
tục, không ảnh hưởng, tốn kém, khó khăn gì, chỉ có thể giúp các em nhận thức, khám
phá ra mình ngày càng đầy đủ hơn.
SV đã rất nghiêm túc và dễ dàng hơn khi làm những bài tập dạng Liệt kê ưu,
nhược điểm của bản thân; phương pháp, cách thức phát huy ưu điểm, cụ thể cách
khắc phục dần nhược điểm của bản thân. Các em đã chỉ ra được những điều khó nói,
dễ nói về mình đó là thành công quan trọng của bài tập thực hành KN tự nhận thức.
SV đã biết chỉ ra đặc điểm của bản thân; vị trí việc muốn làm và sự phù hợp
với bản thân – (xem phụ lục)
27
Học kỹ thuật tự bộc lộ; cửa sổ Joharry, GV thiết kế và đưa các bài tập cũng
giúp SV tích cực làm và tự nhận thức về mình; thông tin thu được qua chia sẻ, thảo
luận, tự bạch với mọi người. Sau 1 tuần, các em về thực hành tự bạch với mọi người
các em tin tưởng, SV đã chia sẻ được Nội dung tự bạch; Câu trả lời của bản thân; Ý
kiến của người mình đã bộc bạch (người thân, bạn bè, thầy cô, đồng nghiệp – bạn
cùng nhóm; bạn cùng làm thêm)… SV chia sẻ được những thông tin đánh giá của
người khác về mình mà mình nghe được sau khi nhờ họ cho ý kiến; điều tự nhận
thức thêm được về bản thân mình; điều giúp mình tự tin phát huy; điều cần xem xét
khắc phục… SV đã sẵn sàng Ghi ra những biểu hiện của mình khi nhận phản hồi
(nét mặt, ánh mắt, cử chỉ, cảm giác cơ thể; sự ghi nhớ; điều nào thích và không
thích…) khi nghe nhận xét, đánh giá của người khác với mình…
SV cũng đã chỉ ra được suy nghĩ về cách giao tiếp với người khác, đã làm gì
thực sự tốt, những gì có thể làm tốt hơn khi làm bài tập tự nhận thức bằng phương
pháp làm trắc nghiệm SV. Liệt kê được phẩm chất /nét tính cách nghĩ ra trong thời
gian ngắn; Làm trắc nghiệm tính cách MBTI và thấy mình thuộc nhóm tính cách phù
hợp với những công việc nghề nghiệp nào hơn… SV rất hào hứng và chia sẻ nhiều
điều thú vị. Các em nói trước đây thường nghĩ làm trắc nghiệm tâm lý cho vui thôi
chứ không biết cách này giúp tự nhận thức mình. SV ngày nay có điện thoại, máy
tính nối mạng thuận tiện rất nhiều cho việc làm trắc nghiệm để tự nhận thức. SV S:
“Trước đây, em thường chỉ hay thầm nghĩ là mình có đặc điểm là; mình không thể
chịu được nếu, tính mình nó thế… chứ chả bao giờ em ngồi kiểm kỹ mình như này.
28
Nhưng qua việc cô yêu cầu chỉ rõ như này em thấy rất hay, em thấy tự tin hơn vì hóa
ra em cũng có khá nhiều thứ.,,”
SV TT chia sẻ: “Em mơ ước làm nghề này nhưng giờ tìm hiểu thấy mình còn
phải rèn nhiều phẩm chất cô ạ!” Những chia sẻ của các em là thành công của bài tập
thực hành; là niềm vui, động lực để GV đầu tư, cố gắng nỗ lực hơn trong dạy và học.
Dẫu biết giữa lý thuyết và thực tiễn là khoảng cách nhưng những bài tập GV
đưa ra để SV thực hành giúp SV ý thức sâu sắc hơn về bản thân, đặc điểm riêng về
tính cách, nhu cầu, hứng thú, năng lực, mục tiêu, giá trị sống để trải nghiệm, hình
dung trước, rèn luyện cho bản thân trở thành người lao động có tri thức chuyên môn
nghiệp vụ, yêu nghề, sáng tạo, thành công, hạnh phúc trong nghề nghiệp và cuộc
sống.
Làm những bài tập dạng này giúp SV có ý thức liên hệ thực tế, học để làm,
chuẩn bị hành trang cho hoạt động nghề trong tương lai.
Một lợi thế khác của việc thiết kế, sử dụng các bài tập này là chúng tôi có thể
thực hiện một mũi tên trúng 2 đích. Đó là vừa rèn luyện kỹ năng tự nhận thức bản
thân cho SV vừa giảng dạy kiến thức tâm lý; giáo dục đạo đức, nhân cách; tạo cơ
hội cho các em trải nghiệm các kỹ năng mềm của bản thân để các em tích cực trau
dồi rèn luyện hoàn thiện mình.
Như vậy, với những bài tập dạng “Yêu cầu làm” trải nghiệm sắm vai không chỉ
giúp SV rèn luyện kỹ năng mềm như kỹ năng tự nhận thức bản thân , người khác mà
còn giúp khích lệ SV chủ động học tập, trau dồi, rèn luyện nhiều kỹ năng nghề
nghiệp khác mà các em chưa biết, sẽ tránh được những hạn chế, bỡ ngỡ sau này khi
ra trường. SV không chỉ học hỏi qua việc thảo luận, sắm vai của các nhóm khác nhau
mà từ đây, sau khi thực hiện những bài tập này, SV có thể chủ động tự học, tự rèn
luyện thêm để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, bổ khuyết cho bản thân.
Thực tế giảng dạy cho thấy nhiều SV còn rất hạn chế trong những kỹ
năng mềm này, nên khi sắm vai trải nghiệm những bài tập này SV vừa thấy
khó vừa thích, hào hứng. SV đã nghiêm túc làm bài tập; nhiều SV tích cực
gửi bài qua zalo cho GV, yêu cầu cô góp ý cho phần thực hành của mình và
gửi kèm theo những tâm sự như “Em thấy sau khi học môn kỹ năng mềm này 29
bản thân em được bổ sung thêm nhiều điều bổ ích. Cách giải quyết vấn đề
luôn cần kiểm soát cảm xúc, trả lời phỏng vấn cần trả lời bằng sự hiểu chính
bản thân. Trước đây em chưa biết và nghĩ tới. Em rất thích môn học này cô
ạ 😍” – SV TTTH chia sẻ.
SV không chỉ nhận thức được tầm quan trọng của biết cách hiểu mình,
hiểu người để giao tiếp ứng xử phù hợp, tự tin mà đặc biệt các em đã nhận ra và
khẳng đinh: Nhận thức sai về bản thân dẫn đến đánh giá không đúng về mình, dẫn
đến chọn sai ngành, sai vị trí việc làm; ảnh hưởng đến chất lược công việc, cuộc
sống, tương lai, tốn kém tiền bạc, công sức bản thân, gia đình. Khi tự nhận thức được
mục tiêu hoạt động phù hợp và khả thi; phát huy ưu điểm, khắc phục điểm yếu của
bản thân (Hiểu đúng về mình), SV có thể có những quyết định, lựa chọn đúng đắn, điều chỉnh
mình; điều chỉnh cảm xúc, suy nghĩ của mình theo hướng tích cực; tạo nên sức mạnh
nội tại cho cá nhân.
SV đã khẳng định: Tự nhận thức cho phép ta hiểu về người khác, cách họ cảm
nhận về mình cũng như thái độ và phản hồi của mình; giúp mình biết được cái gì
thúc đẩy mình, cản trở mình và mình say mê cái gì, mình không thích cái gì; hướng
mình đến những công việc yêu thích, khiến bản thân làm việc vui vẻ, hiệu quả; hài
lòng hơn. SV chia sẻ: ”Em thấy làm bài tập này giúp em hiểu em đang ở đâu, muốn
đi đâu để sẵn sàng thay đổi. Nếu không tự nhận thức, bản thân có thể trở thành người
mà mình không muốn”. SV K18TV2: “Lần đầu tiên em biết về cửa sổ Joharry em
thấy: Khi nhận thức được những gì mình không biết, ta trở nên khiêm nhường và
sẵn sàng tiếp nhận sự giúp đỡ từ người khác, suy nghĩ đúng đắn và thông minh hơn”.
Tự nhận thức là bước đầu trong quá trình tạo ra một cuộc sống mà con người
mong muốn; là cơ sở giúp biết mình biết người; là nền tảng giúp con người sống
nhân ái, cư xử đúng mực; quyết định và lựa chọn đúng đắn; tránh ảo tưởng giúp cá
nhân tự tin và sống hạnh phúc hơn. Cảm nhận sự chủ động, những thay đổi dù còn
nhỏ của SV giúp chúng tôi thêm động lực dày công đầu tư, tìm tòi, sáng tạo trong
dạy học.
30
1.3.3. Việc sử dụng các bài tập dạng C – dạng trắc nghiệm trả lời nhanh giúp
ôn tập, kiểm tra, có tính cơ động cao. GV có thể sử dụng nhanh trong các khâu của
quá trình dạy học, tuỳ mục đích và tiến trình giờ dạy. Dạng trắc nghiệm trả lời nhanh
với các loại câu phong phú, cho phép thấy kết quả nhanh, phù hợp với tâm lý SV–
những người trẻ phản ứng nhanh nên thu hút hứng thú, tính tích cực của họ. Tuy
nhiên, trong học phần này, bài tập này chỉ kiểm tra, ôn tâp, kích thích tính tích cực
nhận thức chứ chưa giúp trải nghiệm rèn kỹ năng nhiều nên chúng tôi không tập
trung vào bài tập dạng này nhiều.
Tóm lại, bài tập trong giảng dạy KN tự nhận thức chúng tôi thiết kế có thể sử
dụng ở mọi khâu của quá trình dạy học. Từ trò chơi khởi động: (Yêu cầu SV trong
3’ viết, vẽ biểu tượng của mình) đến khám phá; kết nối (sử dụng các câu chuyện;
tình huống, SV chia sẻ, nhận xét, kết luận về khái niệm, vai trò, biểu hiện của kỹ
năng) đến thực hành (cách tự nhận thức qua những bài tập thực hành trải nghiệm
trong phần thực hành Yêu cầu làm); trắc nghiệm trả lời nhanh vận dụng trong hoạt
động tổng kết; cam kết hành động tự học, tự rèn luyện; (Dựa trên các thế mạnh của
bản thân hãy nêu các công việc bạn có thể làm tốt. Ví dụ: Hướng dẫn viên du lịch,
phiên dịch viên, nhân viên văn phòng, nhân viên toorngr vụ, thống kê…). Bài tập
giúp SV học hiểu, thực hành kỹ năng đúng quy trình tâm lý của việc dạy học rèn
luyện, hình thành kỹ năng.
Dẫu biết giữa lý thuyết và thực tế là khoảng cách nhưng trải nghiệm những
bài tập này giúp cho SV Tiếng Trung, chưa được học những học phần như thực hành
kỹ năng nghề nghiệp, Tâm lý học lao động có thêm hiểu biết về bản thanan gắn với
yêu cầu các vị trí nghề, hình dung được những tình huống có thể sẽ trải qua trong
hoạt động, cuộc sống, những kỹ năng mềm cần rèn luyện; giúp các em hoàn thiện
hơn về lối sống, đạo đức, nhân cách để thành công hạnh phúc, sáng tạo trong tương
lai.
2. Đánh giá kết quả thu được
2.1. Tính mới, tính sáng tạo
31
- Sáng kiến đã làm sáng tỏ nội dung lý luận về việc xây dựng và sử dụng bài
tập trong giảng dạy kỹ năng tự nhận thức bản thân cho SV trong giảng dạy kỹ năng
mềm. Chỉ rõ khái niệm, bản chất, vai trò của kỹ năng tự nhận thức; các tình huống
mà SV có thể gặp phải, trải nghiệm sau này trong cuộc sống, công việc; kỹ năng gắn
với kỹ năng nghề nghiệp mà SV có thể đảm nhiệm, có khả năng, nhu cầu đảm nhận.
Sáng kiến đã đưa ra quy trình xây dựng bài tập, nội dung, hệ thống bài tập, cách thức
khai thác, giúp sinh viên có kiến thức, kỹ năng tự nhận thức bản thân; kỹ năng nghề
nghiệp gần gũi liên quan ngành các em đang theo học; giúp các em phát triển kỹ
năng giao tiếp ứng xử, hình thành và phát triển kỹ năng giải quyết vấn đề, xử lý tình
huống hiệu quả, tránh ảo tưởng hoặc tự ti về năng lực bản thân; căng thẳng; tổn
thương; mâu thuẫn bất động; tăng cường tính thực tiễn, ứng dụng học để làm; gắn
học với hành, góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy bộ môn.
- Việc giảng dạy kỹ năng tự nhận thức cho SV ngành Tiếng Trung mới được
đưa vào chương trình, SV ra trường có thể làm nhiều vị trí việc làm khác nhau; chưa
được học thực hành nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp. Sáng kiến đã đưa ra các bài
tập “Yêu cầu làm” cho SV trải nghiệm, rèn luyện không chỉ kỹ năng tự nhận thức
bản thân mà còn hiểu biết yêu cầu của nhiều ngành nghề, vị trí việc làm khác các em
có thể đảm nhận sau này. SV bớt bỡ ngỡ; biết cách tìm hiều; có động lực tìm hiểu
các yêu cầu nghề nghiệp và rèn luyện thêm nhiều các kỹ năng khác như giải quyết
vấn đề, lắng nghe; phản hồi, thấu cảm... giúp SV học tập bộ môn thiết thực, vui vẻ,
hứng thú; hiệu quả, giảng viên hăng say, tâm huyết, sáng tạo.
2.2. Khả năng áp dụng và mang lại lợi ích thiết thực của sáng kiến:
2.2.1. Khả năng áp dụng hoặc áp dụng thử, nhân rộng:
- Nội dung, quy trình, các bài tập biên soạn sử dụng giảng dạy thực hành rèn
luyện từng kỹ năng cho SV K18TV1; 2; 3; 5; 6 trong chương 4 học phần Kỹ năng
mềm - năm học 2022 – 2023 và SV các khóa, các năm học sau.
- Sáng kiến có thể áp dụng trong giảng dạy học phần Kỹ năng mềm; học phần
Tâm lý học cho sinh viên các hệ trong nhà trường; các bài tập có thể sử dụng trong
tổ chức hướng nghiệp cho học sinh cuối trung học phổ thông…
32
2.2.2. Khả năng mang lại lợi ích thiết thực
- Mang lại hiệu quả kinh tế: Việc biên soạn các bài tập cho SV thực hành trải
nghiệm, rèn luyện kỹ năng tự nhận thức bản thân trong giảng dạy học phần Kỹ năng
mềm không tốn kinh phí, sinh viên được học tập, rèn luyện nhiều hơn, tích cực tự
học, nâng cao giá trị ứng dụng của chuyên đề, của học phần kỹ năng mềm; giúp SV
chủ động rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp gắn với năng lực bản thân, hứng thú trong
học tập, nâng cao kết quả học tập. Đánh giá sinh viên khi học xong nội dung về:
+ Nhận thức: Nhận thức đúng đắn, sâu sắc về vị trí vai trò, ý nghĩa của tự
nhận thức, kỹ năng tự nhận thức với cuộc sống và hoạt động nghề nghiệp trong tương
lai; đặc biệt là việc rèn luyện hoàn thiện bản thân khi đã được học kỹ năng tự nhận
thức.
+ Thái độ, hành vi thể hiện kỹ năng tự nhận thức: SV hứng thú, hăng hái, tích
cực chủ động hơn trong giờ học, thực hiện nhiệm vụ giảng viên giao và quan trọng
hơn cả là thái độ tích cực tự học, tự nghiên cứu, rèn luyện hoàn thiện bản thân. Sinh
viên H D chia sẻ: “Trước đây em cứ nghĩ mình luôn vui vẻ, khả năng giao tiếp cũng
tương đối, không quá lo khi đi phỏng vấn, miễn là học tốt nhưng giờ em thấy em
hiểu chưa đúng, em cần học tập, rèn luyện cụ thể hơn nhiều”. SV NT thì tâm sự:
“Em thấy em nhận thức được vai trò của kỹ năng giao tiếp nhưng chưa hiểu về vai
trò của tự nhận thức và cũng chưa chú ý tự nhận thức”. SV T: “Em ấn tượng và nhớ
nhất tình huống trả lời phỏng vấn của bạn Thúy Hằng”… Đó là một số lời tâm sự
của SV sau giờ học và trải nghiệm sắm vai các bài tập mà GV nhận được; SV đã
hăng hái chủ động hơn trong học tập từng nội dung. Đó là thái độ tích cực rất đáng
trân trọng, sẽ giúp người học tích cực hoàn thiện mình hơn, phát huy điểm mạnh vốn
có, tự giác tự học, tự nghiên cứu.
Đặc biệt một số hành vi thể hiện kỹ năng tự nhận thức bản thân của các em có
thay đổi rõ nét. Sinh viên bình tĩnh, nói lời tích cực, vui vẻ hơn khi giải quyết vấn
đề; có em thì khiêm tốn hơn. (SV khi làm bài tập vẽ biểu tượng bản thân, rất nhiều
SV Cao đẳng Tiếng Trung các lớp chỉ biết vẽ cỏ 3 lá và chia sẻ mong muốn may
mắn; các em không hiểu về bản thân; một số em nói mình hiểu được bản thân 80%;
33
90% nhưng sau đó vào những bài tập phải chỉ ra sâu hơn về thế mạnh năng lực, tính
cách, nhu cầu, nguyện vọng, các mối quan hệ của mình, sự phù hợp với ngành học,
công việc yêu thích… chính em lại không viết, chia sẻ được “Em cũng chưa biết!”.
Sau hệ thống bài tập trải nghiệm mới ngỡ ngàng nhận ra và thấy cần chủ động tìm
hiểu, học tập, rèn luyện nhiều hơn.). Các em đã bình tĩnh lắng nghe trong thảo luận
nhóm, trong xử lý tình huống; chú ý lời nói, việc làm trong cư xử hơn; không còn lo
lắng, sợ hãi không cần thiết, nói năng rõ ràng, bình tĩnh, tự nhiên hơn với bạn, với
cô.
Trong học kỳ 1 năm học 2022 – 2023, tôi giảng dạy 5 lớp K18TV; đã quan sát
thu thập biểu hiện khả năng tự nhận thức bản thân của SV qua thực hành làm bài
tập và thu được kết quả:
Bảng 1: Biểu hiện kỹ năng tự nhận thức trong thực hành làm bài tập
TT Biểu hiện SL %
1 171/184 92.93 Kể nhanh điểm mạnh, yếu, nổi bật của bản thân. (>3 điểm)
2 165/184 89.67
Kể nhanh được điểm hài lòng, vị trí của mình trong mối quan hệ của bản thân. (>3 điểm)
3 162/184 88.04
Kể được đặc điểm bản thân phù hợp với công việc muốn làm và hạn chế cần cố gắng.
Số liệu bảng 1 cho thấy: Dù chưa phải là tất cả nhưng SV đã có biểu hiện của
kỹ năng tự nhận thức bản thân. SV đã tự nhận thức bản thân; nhận biết đúng mình
là ai; sống trong hoàn cảnh nào; tình cảm, sở thích, thói quen, điểm mạnh, điểm yếu,
nhu cầu của bản thân (92.93% kể được từ 3 điểm trở lên); Kể nhanh được điểm hài
lòng, vị trí của mình trong mối quan hệ của bản thân, vị trí của mình trong mối quan
hệ với người khác (Từ 3 điểm trở lên là 89.67%); ý thức được mình có thể thành
công ở những lĩnh vực nào... 88.04% SV kể được đặc điểm bản thân phù hợp với
công việc muốn làm và hạn chế cần cố gắng. DDiieuf này làm chúng tôi vui vẻ và
hài lòng nhất khi xây dựng bài tập và đưa vào sử dụng trong giảng dạy. Ban đầu do
34
thói quen các em còn e dè; chưa sẵn sàng chia sẻ; sau đó với hệ thống bài tập và tình
huống đưa ra SV đã rất chủ động tích cực thực hành, chia sẻ, nghiêm túc khám phá
bản thân gắn với các công việc có thể làm trong tương lai và hướng hoàn thiện mình.
Dù còn có những điều các em tự tin chia sẻ, có điều một số SV chưa sẵn sàng. GV
yêu cầu có những điều các em viết ra chỉ để mình trải nghiệm, các bạn không ai nhìn
của ai; có điều cô sẽ đến xem, có điều cô cũng không xem, chỉ cần các em tự mình
nghiêm túc chỉ ra thật nhiều và định hướng sẽ phát huy hay hoàn thiện. Sau các tiết
học nhiều SV đã rất chủ động chia sẻ, gửi bài vào zalo cho GV để chia sẻ về tự nhận
thức bản thân; đề nghị GV giới thiệu thêm sách tâm lý; test về các công việc, nghề
nghiệp các em muốn và có thể làm.
+ Kết quả học tập học phần của SV
Kết quả học tập chương 4 các lớp tôi phụ trách thì 100% SV đạt kết quả khá
giỏi từ 4; 4,5 đến 5/5 điểm. Tổng hợp kết quả học phần cho thấy: 178/184 (96.73%)
SV có kết quả học tập ở mức khá, giỏi ở cả điểm hệ 10, hệ 4 và điểm chữ. Các SV
đã học, làm tốt các bài kiểm tra học trình, bài thi học phần. Đây là một kết quả tích
cực.
Điều này cho thấy, với những bài tập giúp SV thực hành trải nghiệm, gắn với
thực tiễn giúp SV nhận thức rõ hơn vai trò, ý nghĩa, chú ý chủ động rèn luyện và
biết cách rèn luyện kỹ năng mềm, hướng tới những mục tiêu cao hơn là chuẩn bị
hành trang cho cuộc sống hạnh phúc, bình an, thành công trong công việc sau này.
Đó là giá trị đích thực của giảng dạy và bài tập chúng tôi xây dựng. Có SV nói: “Cô
ơi, may mà học môn cô em đã tự tin hơn, thấy mình cũng có nhiều điểm mạnh, hài
lòng về mình hơn. Trước đây em hay tự ti, lo lắng…”
Kết quả thu được cũng cho thấy việc xây dựng và sử dụng những bài tập
trong giảng dạy kỹ năng tự nhận thức bản thân cho SV là có hiệu quả và hữu ích,
thiết thực. Điều đó càng giúp chúng tôi vui và tin tưởng vào việc mình làm; tin vào
sự đầu tư tâm huyết trong giảng dạy mang lại chất lượng, hiệu quả giảng dạy, hứng
thú, tích tích cực học tập, tự học, tự nghiên cứu, hiểu sâu, nhớ kỹ, vận dụng của SV.
35
- Lợi ích xã hội: SV không chỉ có kiến thức, kỹ năng tự nhận thức bản thân
mà còn được rèn luyện trải nghiệm nhiều các kỹ năng mềm khác, giúp SV trưởng
thành hơn – điều kiện thuận lợi để các em thành công, hạnh phúc trong cuộc sống,
công việc tương lai dù có làm nghề gì, lĩnh vực nào đi chăng nữa, hiểu tâm lý con
người, biết bình tĩnh, vui vẻ điều chỉnh; chấp nhận, đối diện; thấu cảm, biết mình
biết người chung sống hòa bình, hạnh phúc sẽ là lợi thế.
IV – KẾT LUẬN
1. Kết luận
Kỹ năng tự nhận thức bản thân là loại kỹ năng thiết yếu trong cuộc sống nói
chung, với sinh viên nói riêng; là một mảng quan trọng, cần thiết đặc biệt của người
lao động trong xã hội hiện đại. Việc rèn luyện kỹ năng tự nhận thức bản thân giúp
mỗi SV hiểu mình, hiểu người, để tránh những sai lầm, hậu quả đáng tiếc do thiếu
hiểu biết; luôn chủ động học tập rèn luyện đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp của xã hội
hiện đại. SV tìm thấy khả năng tiềm ẩn của mình; tự tin hơn vào bản thân dù đang
gặp khó khăn chưa biết cách giải quyết nhưng bình tĩnh nhìn sâu vào bên trong, yêu
thương thể chất, tinh thần của mình một cách có cơ sở khoa học giúp sinh viên dũng
cảm, tự tin đương đầu với tình huống là điều vô cùng ý nghĩa và trân quý. Xác định
những giá trị tốt đẹp để theo đuổi và những kỹ năng mình cần rèn luyện, hình thành…
để định hướng cho hoạt động và hành vi của bản thân. Thấy rõ ý nghĩa của việc rèn
luyên hình thành và phát triển kỹ năng mềm của bản thân và biết tôn trọng giá trị
của người khác.
SV là những người đang chuẩn bị bước vào tuổi lao động với rất nhiều yêu
cầu đòi hỏi của cuộc sống xã hội hiện đại, được học tập nhiều kiến thức, kỹ năng,
nhiều bộ môn khoa học nhưng việc rèn luyện kỹ năng mềm, kỹ năng nghề nghiệp
nếu chưa được quan tâm cập nhật, SV thiếu hiểu biết, phiến diện trong nhận thức,
xúc cảm, hành động sẽ là thiệt thòi lớn cho các em ngay trong hiện tại và tương lai.
Giảng viên Tâm lý – Giáo dục có lợi thế trong việc khai thác mở rộng ý nghĩa, tính
thực tiễn của các học phần Tâm lý học; Giáo dục học để tạo cơ hội hướng dẫn, rèn
36
luyện cho SV. Do đó, chúng ta cần đầu tư tâm huyết, trí tuệ, tình cảm để khai thác
lợi thế này, đóng góp sức lao động, giá trị của mình cho sự nghiệp trồng người.
2. Kiến nghị
Chúng tôi mạnh dạn đề xuất với nhà trường:
- Tăng cường khuyến khích giảng viên có chuyên môn phát huy trí tuệ, năng
lực, sở trường, tâm huyết sáng tạo, xây dựng, sử dụng bài tập rèn kỹ năng mềm, kỹ
năng nghề nghiệp cho SV. Tạo điều kiện để giảng viên Tâm lý giáo dục có thể tham
quan các công ty liên doanh, cơ quan tuyển dụng SV Tiếng Trung - khối giáo dục
nghề nghiệp làm việc; tham dự các buổi phỏng vấn tuyển dụng… để thêm nhiều dữ
liệu xây dựng bài tập phong phú.
- Liên kết với các tổ chức, các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường
mở ra các sân chơi để SV có cơ hội thể nghiệm, rèn luyện kỹ năng mềm, kỹ năng
nghề nghiệp.
Giảng viên giảng dạy các học phần thực hành cần chú trọng rèn kỹ năng nghề
nghiệp, những kỹ năng mềm mà người lao động hiện đại cần phải bồi dưỡng, rèn
luyện cho SV. Sử dụng các phương pháp dạy học tích cực phát huy tính chủ động
của người học; khuyến khích SV tích cực tham gia các hoạt động ngoại khóa, trải
nghiệm.
- Không quá đặt nặng vào tiến trình thời gian lên lớp; kiểm tra đánh giá hồ sơ
sổ sách của GV để giảng viên có thêm sự chủ động trong hướng dẫn rèn luyện thực
hành kỹ năng cho SV gắn với các bài tập tình huống linh hoạt.
- Tạo lập mối quan hệ tốt đẹp với SV, gần gũi, quan tâm, động viên, khuyến
khích, chia sẻ, yêu thương làm cho SV dễ giao tiếp, chia sẻ hơn.
Về phía sinh viên cần: - Nâng cao hơn nữa nhận thức, thái độ và thể hiện các
hành vi tích cực trong học tập, cuộc sống. Tích cực, tự giác, chủ động, tự tin trong
học tập rèn luyện kỹ năng mềm và các hoạt động khác.
37
- Tham gia tích cực các hoạt động xã hội, thiện nguyện để vun đắp và phát
huy những giá trị tốt đẹp của bản thân, trải nghiệm niềm vui, hình thành thói quen
cân bằng cảm xúc.
Với gia đình SV cần nêu gương tốt cho SV về tự nhận thức bản thân; tôn trong
đặc điểm riêng, năng lực, sở trường của mọi người; luôn chú ý tìm cách phát hiện
năng khiếu, sở trường của con em; phát huy điểm nổi bật, hạn chế điểm hạn chế của
con em; nêu gương tốt về thái độ, hành vi, cách ứng xử với các thành viên trong gia
đình và cộng đồng. Thường xuyên quan tâm giáo dục đạo đức song hành với giáo
dục tri thức, chú ý giúp SV tự nhận thức đúng và giáo dục kỹ năng mềm cho SV.
XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ CAM ĐOAN CỦA TÁC GIẢ
(Đối với CSTĐ, Bằng khen) VỀ SÁNG KIẾN
Tạ Thị Thu Hằng
38
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Dũng. Giáo trình Tâm lý học quản lý. NXB ĐHLĐXH. 2. Tạ Thị Hồng Hạnh. Hành vi Tổ chức. Trường Đại học Mở TP Hồ Chí Minh 2018. 3. Tạ Thị Thu Hằng. Giáo dục KNS cho học sinh THCS. Tài liệu BDTX GV THCS CĐSP Lạng Sơn 2017. 4. Tạ Thị Thu Hằng – Nguyễn Thị Hợi – Đinh Thị Tình - Dương Anh Tuân. (2020) Giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên. Tài liệu Lưu hành nội bộ CĐSP Lạng Sơn. 5. Hạt giống tâm hồn – Internet. 6. Nguyễn Hữu Lam (1998), Hành vi tổ chức, TP.HCM: Nhà xuất bản Giáo Dục 7. Nguyễn Thanh Lâm – Nguyễn Tú Phương. Rèn kỹ năng sống cho học sinh. NXB ĐHSP 2018. 8. Lương Văn Úc. Tâm lý học lao động. NXB ĐH Kinh tế Quốc Dân.2011.98. Nguyễn Hữu Thụ (2007)- Tâm lý học kinh doanh - NXB ĐH Quốc Gia. 9. Nguyễn Hữu Thụ - Tâm lý học du lịch - NXB ĐH Quốc Gia – 2009. 10. Đỗ Hoàng Toàn, Đỗ Thị Hải Hà. Giáo trình tâm lý kinh doanh. Nhà xuất bản: NXB Khoa học và kỹ thuật Nhà phát hành: NXB KHKT 11. Trung tâm Nghiên cứu - Tư vấn CTXH & PTCĐ. Dự án “Nâng cao năng lực cho Nhân viên Xã hội Cơ sở ở TP.HCM” 12.Trắc Nghiệm MBTI, Test Tính Cách chọn Nghề Nghiệp | MBTI.vn 13. Trắc nghiệm tính cách MBTI - Joboko 14. Huỳnh Văn Sơn (Chủ biên). Rèn luyện kỹ năng sống và kỹ năng mềm cho sinh viên. Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam 2019 15. Huỳnh Văn Sơn – Nguyễn Thị Mỹ Hạnh – Mai Mỹ Hạnh – Nguyễn Thanh Huân – Đỗ Tất Thiên – Nguyễn Huỳnh Ngọc Trâm. Thực hành Kỹ năng sống 10. NXB Giáo dục Việt Nam. 2019 16. Huỳnh Văn Sơn – Nguyễn Thị Mỹ Hạnh – Nguyễn Lê Bảo Hoàng - Nguyễn Thị Diễm My – Nguyễn Thị Xuân Phương – Nguyễn Huỳnh Ngọc Trâm. Thực hành Kỹ năng sống 11. NXB Giáo dục Việt Nam. 2019 17. Huỳnh Văn Sơn – Nguyễn Thị Mỹ Hạnh – Mai Mỹ Hạnh – Nguyễn Thị Diễm My – Bùi Hồng Quân – Huỳnh Tống Quyên. Thực hành Kỹ năng sống 12. NXB Giáo dục Việt Nam. 2019 18. https://tuvantamly.com.vn/su-tu-nhan-thuc-ban-than-thuc-su-la-gi-va-cach-de- ta-co-duoc-no/ 19.http://vuahocvalam.com/huong-nghiep/kha-nang-tu-nhan-thuc-danh-gia-ban- than-173.html 20.https://www.youtube.com/watch?v=DwKJNvGp4lQ 21.https://www.cet.edu.vn/ky-nang-tu-nhan-thuc-ban-than 22.https://hockynangsong.net/ky-nang-tu-duy/ky-nang-nhan-thuc/245-ky-nang-tu- nhan-thuc 22.https://purecoaching.vn/tu-nhan-thuc-va-5-phuong-phap-don-gian-de-cai-thien/ 24.https://kinhnghiemphongvan.net/ky-nang-giao-tiep/ky-nang-phi-ngon-tu/ky- nang-tu-nhan-thuc-va-danh-gia-ban-than
PHỤ LỤC
(Một số bài tập dạng C – dạng trắc nghiệm xây dựng, sử dụng trong giảng dạy kỹ năng tự
nhận thức)
1.2.3. Bài tập dạng C – dạng trắc nghiệm trả lời nhanh, kiểm tra, ôn tập; kích thích tính
tích cực học tập của sinh viên - sử dụng trong các khâu của QTDH (tuỳ mục đích và tiến trình giờ
dạy, giáo viên có thể sử dụng nhanh); có dạng:
1. Kỹ năng tự nhận thức giúp bản thân mỗi người điều gì?
a. Cư xử đúng mực, quyết định và lựa chọn đúng đắn.
b. Giúp quản trị bản thân, tự tin và hạnh phúc hơn.
c. Hiểu đúng bản thân, không ảo tưởng.
d. Tất cả các phương án trên.
2. Đâu là biểu hiện của kỹ năng tự nhận thức?
a. Tự tin với những điểm mạnh của mình và cố gắng khắc phục những điểm yếu.
b. Hiểu rõ bản thân để có thể kiên định với mục tiêu, tránh bị lợi dụng, tránh bị lợi dụng.
c. Nhận rõ thế mạnh của bản thân để đặt ra những mục tiêu phấn đấu phù hợp và thực tế.
d. Biết người biết ta để có thể giải quyết vấn đề và ra quyết định hiệu quả. e. Tất cả các
biểu hiện trên.
3. Có thể tự nhận thức bản thân thông qua những con đường nào?
a. Tự vấn, tự bộc lộ
b. Lắng nghe người khác, chấp nhận bản thân tư duy logic.
c. Trải nghiệm, làm trắc nghiệm.
d. Tất cả các phương án trên.
4. Làm thế nào để nâng cao kỹ năng tự nhận thức bản thân theo hướng khách quan?
a. Xác định những hiểu biết cụ thể (ưu, khuyết điểm) về bản thân bằng cách viết chúng ra
giấy.
b. Nghĩ về những điều khiến bạn tự hào, hoặc một tài năng nào đó khiến bạn trở nên nổi
bật hơn trong cuộc sống.
c. Nghĩ về tuổi thơ của bạn và những điều đã khiến bạn cảm thấy hạnh phúc khi đó. Điều
gì đã thay đổi, còn điều gì vẫn giữ nguyên? Vì sao những điều ấy lại thay đổi?
d. Thuyết phục mọi người xung quanh thật lòng nói ra suy nghĩ của họ về bạn, ghi nhớ
chúng thật kỹ.
e. Tất các các phương án trên.
5. Theo bạn, chúng ta cần lưu ý điều gì khi tiếp nhận đánh giá, nhận xét của người khác
về mình:
a. Bình tĩnh, sáng suốt xem xét ý kiến nào là khách quan, chân thực thì sẽ tiếp nhận, còn ý
kiến nào là khen quá lời, hay định kiến, thiếu khách quan chỉ nên để tham khảo.
b. Lời khen quá mức. (Vì những lời khen được ví như là nước hoa, chỉ nên để ngửi, chứ
không thể để uống được. Nếu say sưa với những lời khen có thể dẫn đến kiêu ngạo, tự cao tự đại,
không đánh giá đúng mình).
c. Lời nhận xét định kiến, hạ thấp có thể làm ta bi quan. Ta không nên thiếu tự tin trước
những lời nhận xét như vậy. Hãy tự khẳng định mình để chứng tỏ ta không như họ nghĩ.
d. Cả a, b và c.
6. Theo bạn, cách nào dưới đây giúp ta tự nhận thức/ đánh giá về mình đúng:
a. Luôn tự suy nghĩ/ tự phân tích bản thân mình, tự đánh giá mình qua kết quả của hoạt động/
hành động, từng tình huống ứng xử.
b. So sánh những nhận xét/ đánh giá của người khác về mình với tự nhận xét, tự đánh giá của
bản thân.
c. So sánh với chuẩn mực, yêu cầu chung so sánh với những gương những người tốt, việc tốt
để thấy mình cần phát huy và cần cố gắng gì.
d. Tách ý thức về mình để nhìn nhận bản thân một cách khách quan.
e. Tất cả các cách trên.
7. Theo bạn, đâu là kỹ thuật để phát triển sự tự nhận thức?
a. Ghi lại những hành vi và cảm xúc khi đối diện với tình huống căng thẳng.
b. Khi tương tác với những người bạn cảm thấy thoải mái, hãy hỏi họ những phản hồi về hành
vi và hành động của bạn.
c. Liệt kê ra các điểm mạnh và điểm cần cải thiện.
d. Tìm kiếm người bạn tin tưởng để giúp bạn phân tích khả năng của mình một cách khách
quan.
e. Tất cả các phương án trên.
8. Các luận điểm dưới đây đúng hay sai?
Các luận điểm
Đúng
Sai
Tự nhận thức bản thân là nhận ra những điểm tốt, chưa tốt của bản thân, so
sánh với người khác và điều chỉnh bản thân mình giống người khác.
Tự nhận thức bản thân là tự nhìn nhận, đánh giá về khả năng, thái độ, hành
vi, việc làm, điểm mạnh và điểm yếu … của bản thân.
Tự nhận thức bản thân là luôn hiểu rõ mình và tự tin tin với điểm mạnh của
mình.
9. Ý nghĩa của tự nhận thức bản thân là:
a. Có cái nhìn trung thực về ưu điểm, nhược điểm của mình thì chúng ta sẽ nhận ra được điểm
mạnh và điểm yếu của bản thân.
b. Xác định những việc cần làm để hoàn thiện bản thân, biết rõ mong muốn, những khả năng, khó
khăn thử thách để đặt ra miệu tiêu, ra quyết định phù hợp…
c. Dễ đồng cảm chia sẻ với người khác vì mỗi người có điểm mạnh điểm yếu khác nhau nên nếu
ai đó dù cố gắng nhưng công việc không đạt hiều quả cao ta cũng dễ đồng cảm, có cách ứng xử
phù hợp…
d. Có việc làm và cách ứng xử phù hợp với mọi người xung quanh vì biết rõ mong muốn của bản
thân, giúp giao tiếp và ứng xử phù hợp với người khác.
e. Tất cả các phương án trên.
10. Cách tự nhận thức bản thân:
a. Ghi lại những cảm xúc và hành vi khi đối diện với những khó khăn,… Đánh giá bản thân
qua thái độ, hành vi, kết quả trong từng hoạt động, tình huống cụ thể.
b. Liệt kê những điểm mạnh điểm yếu của mình để phát huy được điểm mạnh, và cố gắng
khắc phục những điểm yếu của mình, để chúng ta ngày càng hoàn thiện hơn.
c. Tích cực tham gia các hoạt động của trường, lớp và địa phương…
d. Thân thiện, cởi mở, biết lắng nghe người khác góp ý kiến cho mình.
e. Tất cả các phương án trên.
11. Tự nhận thức đúng về bản thân sẽ giúp em:
a. Nhận ra điểm mạnh của bản thân để phát huy, điểm yếu để khắc phục.
b. Biết rõ mong muốn, những khả năng, khó khăn, thách thức của bản thân để có thể đặt mục tiêu,
ra quyết định và giải quyết vấn đề phù hợp.
c. Cả a và b.
12. Để tự nhận thức đúng về bản thân, em cần:
a. Đánh giá bản thân qua thái độ, hành vi, kết quả trong từng hoạt động, tình huống cụ thể.
b. Quan sát phản ứng và lắng nghe nhận xét của người khác về mình.
c. So sánh những nhận xét đánh giá của người khác về mình với tự nhận xét, đánh giá của mình.
d. Thân thiện, cởi mở, tích cực tham gia các hoạt động để rèn luyện và phát triển bản thân.