SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO QUẢNG BÌNH
CHUYÊN ĐỀ 1 KỸ NĂNG LÀM VIỆC VỚI CỘNG ĐỒNG (NỘI DUNG 2 - BDTX NĂM HỌC 2016 - 2017)
Quảng Bình, tháng 10 năm 2016
ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ sau khi Luật Giáo dục (2005) được ban hành, Giáo dục thường xuyên (GDTX) trở thành một bộ phận trong hệ thống giáo dục quốc dân. Các cơ sở của GDTX có mặt ở hầu khắp các vùng miền của cả nước, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người dân có cơ hội được học tập thường xuyên, học tập suốt đời. Chỉ tính riêng loại hình Trung tâm học tập cộng đồng (TTHTCĐ), tại thời điểm tháng 6 năm 2016, cả nước đã có 11.057 trung tâm học tập cộng đồng (đạt tỷ lệ 99,33% số xã phường có TTHTCĐ), trong đó có 4650 TTHTCĐ kết hơ ̣p vớ i nhà VHTT cấp xã ( đạt tỷ lệ 42%). Ở tỉnh ta, đến thời điểm này có 159/159 số xã, phường, thị trấn thành lập TTHTCĐ, trong đó, có 39 TTHTCĐ đã kết hợp với nhà VHTT cấp xã trong việc tận dụng cơ sở vật chất, phối hợp để tổ chức các hoạt động ở cộng đồng. Dù mới được thành lập và phát triển nhưng TTHTCĐ đã bước đầu chứng tỏ là một mô hình giáo dục hữu hiệu trong việc tạo cơ hội học tập suốt đời cho người dân. Qua đó, góp phần nâng cao chất luợng cuộc sống người dân và phát triển cộng đồng bền vững.
TTGD-DN là cơ sở giáo dục duy nhất trên địa bàn của huyện, thị, thành phố làm công tác GDTX. TTGD-DN có đội ngũ cán bộ, giáo viên có trình độ chuyên môn và am hiểu về GDTX, về TTHTCĐ.Vì vậy, không thể ai khác, các TTGD-DN cần và có khả năng trở thành các trung tâm nguồn để hỗ trợ, tư vấn và làm việc với cộng đồng ở các huyện, thị, thành phố.
Để đạt kết quả cao trong công tác GD-DN, giáo viên cần phải có các
kĩ năng làm việc với cộng đồng.
Chuyên đề này sẽ giúp cho giáo viên GD-DN xác định được các kĩ năng chủ yếu và hình thành các kỹ năng cần thiết để làm việc với cộng đồng.
Có được các kỹ năng nói trên, giáo viên GD-DN sẽ biết cách lựa chọn, sử dụng những kĩ năng phù hợp, hiệu quả và có nhiều thuận lợi hơn khi tiếp cận cộng đồng và kết quả làm việc với cộng đồng sẽ cao hơn.
Vì vậy, chuyên đề này có các nội dung chủ yếu sau: 1. Cộng đồng và các đặc điểm của cộng đồng; 2. Vấn đề cộng đồng và phương pháp tiếp cận giải quyết vấn đề cộng đồng; 3. Những kĩ năng cần thiết để giáo viên GDTX làm việc với cộng đồng. Như vậy, sau khi học xong chuyên đề này, cán bộ/GV các TTGD-DN sẽ có một số hiểu biết về cộng đồng, các phương pháp tiếp cận giải quyết vấn đề cộng đồng và những kiến thức, kĩ năng cơ bản, cần thiết để làm việc với cộng đồng, đồng thời biết tiến hành những công việc cần thiết để thực hiện các nhiệm vụ khi làm việc với cộng đồng.
1
- Xác định được lí do và sự cần thiết làm việc với cộng đồng. - Phân tích và thực hành được các kĩ năng cơ bản khi làm việc với cộng đồng.
- Xác định được lí do, trình bày được sự cần thiết của làm việc với cộng đồng. - Xác định được các vấn dề của cộng đồng và phương pháp tiếp cận giải
A. MỤC TIÊU I. MỤC TIÊU CHUNG II. MỤC TIÊU CỤ THỂ 1. Về kiến thức quyết vấn đề cộng đồng. 2. Về kĩ năng
- Nêu được đặc điểm của cộng đồng. - Nêu được một số kĩ năng cần thiết để làm việc với cộng đồng. - Vận dụng được kĩ năng cần thiết để làm việc với cộng đồng.
3. Về thái độ
Có thái độ tích cực và có ý thức trách nhiệm khi làm việc với cộng đồng.
2
B. NỘI DUNG Nội dung 1 CỘNG ĐỒNG VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA CỘNG ĐỒNG Ở VIỆT NAM I. KHÁI NIỆM CỘNG ĐỒNG 1. Khái niệm cộng đồng Cộng đồng (comimmity) được hiểu chung nhất là: “một cơ thể sống/cơ quan/tổ chức nơi sinh sống và tương tác giữa cái này với cái khác”. Trong khái niệm này, điều đáng chú ý, được nhấn mạnh: cộng đồng là “cơ thể sống”, “có sự tương tác” của các thành viên. Cộng đồng người có tính đa dạng, tính phức tạp hơn nhiều so với các hoạt động của sinh vật khác. Trong đời sống xã hội, khái niệm cộng đồng có nhiều tuyến nghĩa khác nhau. Cộng đồng cũng là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau như Xã hội học, Dân tộc học, Y học...
Khi nói tới cộng đồng, người ta thường nhắc đến những “nhóm xã hội" có một hay nhiều đặc điểm cơ bản nào đó, nhấn mạnh đến đặc điểm chung của những thành viên trong cộng đồng.
Theo quan điểm mácxít, cộng đồng là mối quan hệ qua lại giữa các cá nhân, được quyết định bởi sự cộng đồng hoá lợi ích giống nhau của các thành viên, về các điều kiện tồn tại và hoạt động của những người hợp thành cộng đồng đó, bao gồm các hoạt động sản xuất vật chất và các hoạt động khác của họ, sự gần gũi giữa các cá nhân về tư tưởng, tín ngưỡng, hệ giá trị chuẩn mực cũng như các quan niệm chủ quan của họ về các mục tiêu và phương tiện hoạt động.
Quan niệm về cộng đồng theo quan điểm mácxít là quan niệm rất rộng, có tính khái quát cao, mang đặc thù của kinh tế - chính trị. Dấu hiệu đặc trưng chung của nhóm người trong cộng đồng này chính là “điều kiện tồn tại và hoạt động”', là “lợi ích” chung, là “tư tưởng”, “giá trị” chung... Thực chất đó là cộng đồng mang tính giai cấp, ý thức hệ.
Dấu hiệu/đặc điểm để phân biệt cộng đồng này với cộng đồng khác có thể là điều gì đó thuộc về con người và xã hội loài người: màu da, đức tin, tôn giáo, lứa tuổi, nhu cầu, sở thích, nghề nghiệp... Nhưng cũng có thể là vị trí địa lí của khu vực (địa vực), nơi sinh sống của nhóm người đó như làng, xã, quận huyện, quốc gia, châu lục... Những dấu hiệu này chính là những ranh giới để phân chia cộng đồng.
Số lượng thành viên của cộng đồng có thể là vài chục người, hàng trăm
người, cũng có thể là hàng triệu người, tỉ người.
Cộng đồng những người dân cùng sống chung trong một thôn, xóm, làng, xã, một quổc gia, và có thể là toàn thế giới, cùng chia sẻ với nhau mảnh
3
đất sinh sống gọi là cộng đồng thể. Có nhiều cộng đồng người, tuy không cùng sống chung một địa vực, nhưng lại có chung những đặc điểm, sở thích, nhu cầu... nào đó thì loại cộng đồng đó được coi là cộng đồng tính.
Mỗi người, cùng một lúc có thể thuộc nhiều cộng đồng khác nhau: vừa là thành viên của cộng đồng phường, xã thuộc cộng đồng người Việt Nam (sống trên đất Việt Nam), đồng thời là thành viên của cộng đồng những người da vàng, cộng đồng yêu chuộng hoà bình, đấu tranh vì hoà bình...
Tóm lại, trong đời sống xã hội, cộng đồng là danh từ chung chỉ một tập hợp người nhất định nào đó, với hai dấu hiệu quan trọng: 1) họ cùng tương tác, chia sẻ với nhau; 2) có chung với nhau một hoặc vài đặc điểm vật chất hay tinh thần nào đó.
2. Cá nhân trong cộng đồng Khi xem xét cộng đồng, không thể không kể đến cá nhân, cá nhân và cộng đồng là hai mặt của vấn đề: không có cá nhân thì không thể có cộng đồng, ngược lại, không có cộng đồng thì không có những cá nhân. Con người với bản chất xã hội của nó là tương tác: tương tác với tự nhiên, với xã hội và với chính mình để tồn tại và phát triển.
Về mối quan hệ của cá nhân với cộng đồng, M. Scott Peck đã diễn đạt một cách hình tượng như sau: “Không có rủi ro nào không gây ra sự tổn thương; không có cộng đồng nào không có sự tổn thương, và suy ra, không có sự sống nào nằm ngoài cộng đồng”. Điều này khẳng định rằng mối quan hệ cá nhân với cộng đồng là mối quan hệ tất yếu, không thể thiếu được, như cá cần nước, như người cần không khí. Mỗi cá nhân đều thuộc về một cộng đồng nhất định nào đó và mỗi cá nhân đều mang một “dấu ấn" cộng đồng nào đó.
Trong phát triển cộng đồng, người ta nghiên cứu, đề cập đến cá nhân cả hai khía cạnh. Khía cạnh thứ nhất cá nhân trong cộng đồng chính là thành viên của cộng đồng; chỉ thông qua sự tương tác của cá nhân trong cộng đồng mới tạo ra cộng đồng”. Sự tương tác đó không chỉ tạo ra ý thức cộng đồng trong mỗi cá nhân, mà những hành vi tốt trong quá trình tương tác sẽ được cộng đồng khuyến khích, tích lũy qua thời gian trở thành phong tục, tập quán của cộng đồng, góp phần làm nên truyền thống văn hoá cộng đồng. Người ta cùng nghiên cứu vai trò của một số cá nhân trong quá trình tương tác với các thành viên khác trong cộng đồng. Khía cạnh thứ hai, trong phát triển cộng đồng, khi nói tới “vấn đề” của cộng đồng, người ta không chỉ đề cập đến “vấn đề của một tổ chức/cơ quan/một “thực thể" chung, mà người ta còn đề cập đến vấn đề của một số cá nhân/thành viên trong cộng đồng.
4
3. Sự khác biệt giữa “cộng đồng” và “xã hội” Theo quan niệm của nhà xã hội học James M. Henslin, “xã hội” là “tập
hợp người cùng chia sẻ với nhau về văn hoá và địa lí”.
“Cộng đồng” cũng là những tập hợp người và cũng có thể chia sẻ với nhau địa vực hoặc chia sẻ với nhau những đặc tính, giá trị khác, trong đó có văn hoá.
Một điều quan trọng là phải tìm ra được sự khác nhau giữa cộng đồng và xã hội. Chỉ khi nào nhận ra được sự khác biệt giữa cộng đồng với xã hội chúng ta mới có cái nhìn thấu đáo về quan điểm phát triển cộng đồng.
Thuật ngữ “cộng đồng" và thuật ngữ “xã hội" gần nghĩa với nhau, bởi chúng có nhiều điểm giống nhau, giao thoa với nhau, nhiều nhóm xã hội trong một cộng đồng, nhiều cộng đồng trong một xã hội.
Số lượng người, quy mô của “cộng đồng”, “xã hội” không phải là dấu hiệu chỉ ra sự khác biệt của các phạm trù này. Sự khác biệt của các phạm trù này chính là dấu hiệu thứ hai, đó là mức độ/độ đậm đặc trong “sự tương tác/tác động qua lại”. Theo nhà xã hội học người Đức Ferdinand Tonnies, sự khác nhau cơ bản của phạm trù này chính là “sự liên kết giữa các thành viên". Theo ông, giữa cộng đồng và xã hội có một sự cách biệt nhất định. Xã hội là khái niệm rộng lớn hơn, cộng đồng nằm trong xã hội, nhung cộng đồng có sự gắn kết chặt chẽ hơn, bền vững hơn. Thành viên cộng đồng thường thống nhất với nhau bởi ý chí, nguyện vọng (unity of will).
*
*
*
4. Phân loại cộng đồng Tuỳ theo mục đích nghiên cứu mà người ta phân loại cộng đồng theo những dấu hiệu khác nhau. Trong một số tài liệu, người ta chia cộng đồng theo ba nhóm như sau:
Nhóm cộng đồng theo địa vực: thôn xóm, làng bản, khu dân cư, phường xã, quận huyện, thị xã, thành phố, khu vực, châu thổ hoặc toàn cầu. Theo quy mô tỉnh, thành phố thì nước ta hiện có 64 tỉnh, thành phố. Theo quy mô xã phường thì tỉnh ta có 159 xã, phường, thị trấn. Theo quy mô thôn xóm, khu dân cư (nhỏ hơn xã phường) thì chúng ta có hàng trăm ngàn cộng đồng. Nhóm cộng đồng theo nền văn hoá: Nhóm này bao gồm cộng đồng theo hệ tư tưởng, văn hoá, tiểu văn hoá, đa sắc tộc, dân độc thiểu số... Nhóm này cũng có thể bao gồm cả cộng đồng theo nhu cầu và bản sắc, như cộng đồng người khuyết tật, cộng đồng người cao tuổi... Nhóm cộng đồng theo tổ chức: được phân loại từ các tổ chức không chính thức như tổ chức gia đình, dòng tộc, hội... cho đến những tổ chức
5
chính thức chặt chẽ hơn như các tổ chức đoàn thể, các tổ chức chính trị, tổ chức hành chính nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức hiệp hội nghề nghiệp, xã hội... Từ phạm vi nhỏ là một đơn vị hoặc trong phạm vi quốc gia, cho đến phạm vi quốc tế. Có thể phân loại cộng đồng theo đặc điểm khác biệt về kinh tế - xã hội:
cộng đồng khu vực đô thị; cộng đồng nông thôn...
Trong “phát triển cộng đồng” người ta thường không hạn chế khái niệm cộng đồng, về mặt nguyên lí, phương pháp phát triển cộng đồng đều giống nhau, tuy nhiên, cách áp dụng các phương pháp này có thể khác nhau, phụ thuộc nhiều vào đặc điểm cấu kết cộng đồng. Trong chuyên đề này, “cộng đồng” được hiểu là tập hợp người dân cùng chung sống trên một vị trí địa lí cấp cơ sở, có quan hệ với nhau, gắn kết với nhau bằng tình làng nghĩa xóm, chia sẻ với nhau những nhu cầu chung, những mối quan tâm chung.
Trong bối cảnh Việt Nam, cộng đồng được hiểu là một chỉnh thể thống nhất bao gồm những người dân sinh sống trong đơn vị hành chính cơ sở (dân cư): xã/phường hay đơn vị hành chính dưới xã/phường là thôn/làng/bản và tổ dân cư/khu dân cư... cùng với hệ thống các đoàn thể, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức nghề nghiệp... mà những người dân đó là thành viên, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lí của Nhà nước.
Theo khái niệm này, cộng đồng là một đơn vị hành chính, kinh tế- xã hội có tính độc lập tương đối so với các cộng đồng khác trong một quốc gia. Trong mỗi cộng đồng có các thành viên cộng đồng là cá nhân hoặc gia đình đang sinh sống trên địa bàn, có những tổ chức hành chính nhà nước, tổ chức xã hội mà các thành viên cộng đồng tham gia sinh hoạt trên địa bàn dân cư; các tổ chức kinh tế, dịch vụ mà thành viên cộng đồng tham gia làm việc (cũng có thể có những thành viên không làm việc ở đó).
Ở Việt Nam hiện nay, các tổ chức chính trị-xã hội đó có thể là các tổ chức trong khối Mặt trận Tổ quốc xã phường: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hổ Chí Minh phường/ xã; Hội/ chi hội Phụ nữ; Hội/ chi hội Nguời cao tuổi; Hội/ chi hội Cựu chiến binh; Hội Nông dân (ở địa bàn nông thôn); tổ chức tôn giáo (nếu có)... Tổ chức chính quyền: Ủy ban nhân dân; Hội đồng nhân dân; một sổ tổ chức kinh tế địa phương... Các đơn vị sự nghiệp trên địa bàn như trạm y tế xã/ phường, trường tiểu học, THCS, nhà mẫu giáo, nhà trẻ...; Đảng bộ; chi bộ Đảng.
Khi nói đến sức mạnh cộng đồng là nói tới sức mạnh của người dân và
của các tổ chức, các thiết chế có trong cộng đồng, theo một thể thống nhất. II. VAI TRÒ CÙA CỘNG ĐỒNG
6
1. Đối với mỗi cá nhân Cộng đồng là đơn vị xã hội gần gũi nhất của con người. Cộng đồng để lại “dấu ấn" trong mỗi thành viên của nó: Ngoài gia đình, con người cần có môi trường xã hội để giao tiếp, tiếp nhận kiến thức, kinh nghiệm và áp dụng nó trong đời sống xã hội. Cộng đồng là môi trường gần nhất với mỗi người, từ khi đứa trẻ rời khỏi mái nhà, đi mẫu giáo trong khu dân cư, rồi đi học ờ trường tiểu học, THCS ở địa phương...; những dấu ấn về cha mẹ, về bạn bè, về những người thân, về cây đa, mái đình.... Cơ sở của tình yêu quê hương, đất nước chính là tình yêu cộng đồng. Tình cảm cộng đồng được hình thành trong thời gian này. Nhiều người được may mắn, sinh ra và lớn lên, trưởng thành, đi học và sau khi được đào tạo đã trở về làm việc, cống hiến ở ngay địa phương quê hương.
Cộng đồng là nơi mà mỗi con nguòi, mỗi công dân thể hiện mình như một cá thể và như một thành viên xã hội. Mỗi người là một thành viên của một hoặc nhiều tổ chức nào đó trong cộng đồng: là hội viên Hội Phụ nữ, hội viên Hội Nông dân, xã viên hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp. Với các tổ chức đó, các thành viên có quyền bầu cử, ứng cử vào các cấp lãnh đạo, có quyền tham gia ý kiến, đồng ý hay không đồng ý về một vấn đề gì đó. Các thành viên được gia nhập và tham gia hoạt động theo sở thích ở cộng đồng, được đóng góp khả năng của mình cho sự phát triển chung của cộng đồng mà không bị coi rẻ, bị phân biệt, bị lãng quên. Thông qua hoạt động tương tác trong cộng đồng mà mỗi cá thể hình thành và phát triển năng lực, tính cách, đạo đức của một người công dân.
Cộng đổng là nơi nuôi dưỡng ước mơ, hi vọng của con người và là nơi thực hiện ước mơ, hi vọng đó. Đồng thời cộng đồng là nơi đáp ứng những nhu cầu, mong muốn của con người. Ước mơ, mong muốn, nhu cầu xuất hiện ở mỗi người trong quá trình người đó tương tác với tự nhiên, với xã hột với chính cuộc sống của mình. Cộng đồng là môi trường làm nảy sinh những mong muốn, nhu cầu từ sự tương tác với xã hội, với tự nhiên, với công việc diễn ra hàng ngày tại cộng đồng. Cộng đồng nâng đỡ và hiện thực hoá những ước mơ, nhu cầu đó tuỳ vào tính tích cực và năng lực thực tế của mỗi người. Với những người có khó khăn, cộng đồng tạo điều kiện không chỉ bằng tinh thần mà bằng cả vật chất. Ví dụ, hiện nay ở Việt Nam, mỗi cộng đồng đều có quỹ “khuyến học, khuyến tài'" nhằm khen thưởng, động viên những học sinh học tốt và trợ giúp cho những học sinh nghèo vượt khó vươn lên. Đây là một hình thức rất thiết thực để giúp đỡ những tài năng của đất nuớc.
Cộng đồng là nơi chở che, bảo vệ thành viên của nó khỏi những tệ nạn xã hội và là nơi con người luôn được tha thứ, được đón nhận trở lại khi người
7
nào đó lầm đường, lạc lối trở về. Không có nơi nào tốt hơn gia đình, những người thân thích, cộng đồng bảo vệ lẫn nhau trước những nguy cơ hiểm họa , những rủi ro bất thường trong cuộc sống. Cũng tương tự như vậy, khi con nguời có những lỗi lầm nào đó, nơi đầu tiên người ta có thể trở về để mong được tha thứ, đó chính là gia đình và cộng đồng. Người Việt Nam có câu “Đánh kẻ chạy đi chứ không ai đánh người quay lại”. Điều này nói lên lòng vị tha của cộng đồng, có những người mắc tệ nạn xã hội hoặc phải vào tù, nhưng khi ra tù được gia đình và cộng đồng giúp đỡ đã hối cải và tái hoà nhập cộng đồng.
2. Đối với đất nƣớc - quốc gia Mỗi cộng đồng là một tế bào của đất nước, làm ra của cải vật chất, đóng góp chung vào sự phát triển kinh tế chung của xã hội. Không có cộng đồng, không có đất nuớc; cộng đồng không lành mạnh, không thể có đất nước mạnh.
Về khía cạnh kinh tế, cộng đồng là đơn vị kinh tế tổng hợp, có thể là nông nghiệp, dịch vụ, công nghiệp... Kinh tế cộng đồng đóng góp chung vào nền kinh tế - xã hội nuôi sống con người. Cộng đồng là thị trường tiêu thụ hàng hoá, sản phẩm, dịch vụ..., sự tiêu dùng đó là động lực, là sự kích thích để sản xuất.
Về khía cạnh văn hoá xã hội, mỗi cộng đồng mang một bản sắc văn hoá riêng. Những đặc thù và cốt cách của cộng đồng này không hoàn toàn trùng lặp với các cộng đổng khác. Sự khác biệt đó làm nên tính đa dạng trong văn hoá của đất nước, “đa dạng trong thống nhất”.
Về khía cạnh hành chính nhà nước, an ninh quốc phòng, cộng đồng là đơn vị hành chính công (cấp dịch vụ công: cho nhân dân, bảo vệ trật tự, trị an cho dân, đồng thời là đơn vị cung cấp các nguồn lực, đảm bảo an ninh quốc gia, bảo vệ đất nước khi cần thiết. III. CÁC YẾU TỒ TẠO THÀNH CỘNG ĐỒNG
Cộng đồng được hình thành dưới tác động của nhiều yếu tố, bao gồm:
địa vực cư trú; kinh tế và văn hoá.
1. Yếu tố địa vực Nói đến cộng đồng là nói đến một tập hợp người định cư trên một vùng đất nhất định, đó là yếu tố địa vực. Yếu tố địa vực bao gồm yếu tố vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên của khu vực. Đây cũng là yếu tố có giá trị tinh thần và tạo nên sự gắn kết tập thể. Yếu tố địa vực được xác định trong quá trình lịch sử, là cơ sở để ta phân biệt cộng đồng này với cộng đồng khác. Đường phân chia ranh giới thường lấy một số mốc của tự nhiên như sông núi, đường sá. Tuy nhiên, trên thực tế cũng có nhiều nơi đường phân chia ranh giới chỉ là đường vô hình được các cộng đồng thoả thuận và chấp nhận. Ý thức về địa vực là một trong những ý thức sâu sắc và lâu bền của con người trong lịch sử, là một
8
hạt nhân tạo nên tâm thức chung của cộng đồng, chẳng hạn, tình cảm đồng hương của những người đã từng sinh ra và chung sống trong một địa vực nhất định thường rất sâu nặng, dù họ có còn ở đó hay đã rời đến một nơi ở mới nhưng họ vẫn rất dễ gần với nhau trong quan hệ.
Xuất phát từ sự khác biệt đa dạng về nghề nghiệp giữa cộng đồng nông thôn và cộng đồng đô thị nên yếu tố địa vực của hai dạng cộng đồng này là khác nhau. Ở nông thôn, do cuộc sống gắn liền với thiên nhiên, ruộng đất, sông, núi, nên ý thức về địa vực rất sâu sắc. Trong khi đó, các hoạt động phi nông nghiệp ở các cộng đồng thành thị không tạo nên sự gắn kết chặt chẽ giữa các thành viên trong cộng đồng với các địa vực cư trú.
2. Yếu tố kinh tế Yếu tố kinh tế ở đây chủ yếu nói tới các hoạt động kinh tế hay nghề nghiệp. Nó không chỉ tạo ra cho cộng đồng một sự bảo đảm về vật chất để mọi nguời cùng nhau tồn tại mà còn có các ý nghĩa khác sau:
Việc có cùng một nghề hay vài nghề chính trong cộng đồng sẽ liên quan đến sự tương đồng về yếu tố địa vị kinh tế, sở hữu, cách thức làm ăn, thị trường nguyên liệu, sản phẩm tiêu thụ chung, cho đến việc cùng thờ chung một ông tổ làng nghề đã đưa đến cho cộng dồng một lớp vỏ liên kết về tinh thần. Các làng nghề tiểu thủ công nghiệp trong xã hội nông thôn nước ta, các phường hội trong các đô thị cổ là những kiểu liên kết cộng đồng dựa trên cơ sở kinh tế.
Khi có chung nghề nghiệp thì lợi ích kinh tế được gắn chặt trong hệ thống sản xuất, vốn, sức lao động, tư liệu sản xuất. Các yếu tố này đã gắn chặt các thành viên trong cộng đồng với nhau. Yếu tố nghề nghiệp ở nông thôn biểu hiện sự gắn kết cộng đồng rõ rệt hơn ở thành thị. Ở thành thị, sự gắn kết theo nghề nghiệp là không chặt chẽ vì nghề nghiệp đa dạng, sự chuyển nghề cũng dễ dàng. Do đó, sự liên kết hầu như chỉ xảy ra ở các nhóm có cùng công việc.
3. Yếu tố văn hoá, xã hội Yếu tố văn hoá cộng đồng gồm ba yếu tố chính: tộc người, tôn giáo -
tín ngưỡng và hệ giá trị chuẩn mực.
Tộc người gồm tộc người chủ thể trong một quốc gia và các tộc người thiểu số. Nhóm tộc người chủ thể không chỉ đóng vai trò liên kết trong tộc người đó, mà còn phải thể hiện vai trò liên kết các tộc người thiểu số khác nhau và với chính họ. Chẳng hạn, ở Việt Nam, người Kinh (Việt) chiếm đa số, ngoài việc tạo mối liên kết trong nhóm người Kinh thì việc tạo mối liên kết giữa người Kinh và người thuộc các dân tộc thiểu số khác và mối liên kết giữa các dân tộc thiểu số với nhau luôn được chú trọng và tạo ra mối liên kết cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam.
9
Trên bình diện quốc gia, hệ tư tưởng, các giá trị chuẩn mực và các nghi lễ là văn hoá của tộc người chủ thể. Các dân tộc thiểu số khác, một mặt họ có ý thức theo nghi lễ chung nhưng mặt khác họ vẫn giữ các nghi lễ riêng của họ, đó là bản sắc văn hoá riêng.
Quá trình di dân trong lịch sử đã chia thành nhiều tộc người sinh sống trên các khu vực địa lí khác nhau, mỗi tộc người có điều kiện sinh thái, kinh tế, xã hội khác nhau cho dù họ cùng xuất thân từ một nguồn gốc chủng tộc hay nguồn gốc văn hoá. Đặc trưng văn hoá thực sự là những yếu tố liên kết cộng đồng được biểu hiện qua ngôn ngữ, phong tục, tập quán, nghi lễ của các tộc người. Môi trường xã hội ít có biến đổi thì các yếu tố trên lại càng có vị trí quan trọng và góp phần vào quá trình củng cố, đoàn kết xã hội trong cộng đồng.
Một số nét trong bản sắc văn hoá không mang ý nghĩa tích cực cho sự phát triển thì chúng dần bị mai một. Những yếu tố bản sắc của dân tộc không làm cản trở đến sự phát triển thì sẽ được duy trì, thừa kế. Đây cũng là một trong những căn cứ để trong thập kỷ văn hóa (1937- 1997), UNESCO đã phát động các quốc gia thành viên coi trọng yếu tố văn hoá truyền thống (tộc người) trong sự phát triển.
Tôn giáo, tín ngưỡng: Đây là yếu tố củng cố sự liên kết cộng đồng trên cơ sở niềm tin. Thực tế lịch sử cho thấy đây là một yếu tố có tính chất bền vững cho sự tồn tại của các cộng đồng dân cư. Bởi vì, khi có chung một niềm tin và tín ngưỡng thì con người dễ chia sẻ được những ước nguyện về mặt tinh thần với nhau.
Các tổ chức tôn giáo cũng là các tổ chức tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội. Các hoạt động xây dựng đạo lí hướng thiện, tu thân của nhiều tôn giáo đã góp phần vào nhiều hoạt động xã hội của cộng đồng bằng các thái độ tự nguyện, dấn thân và không vụ lợi. Các hoạt động xã hội của các tổ chức tôn giáo được thiết lập trên cơ sở tín ngưỡng, góp phần củng cố sự liên kết trong cộng đồng. Hệ giá trị, chuẩn mực: Mỗi cộng đồng xác định cho mình một hệ giá trị, chuẩn mục riêng với tinh chất là các định chế xã hội quy định các nhận thức và hành vi của các thành viên trong cộng đồng (luật bất thành văn). Nó quy định cụ thể các thành viên trong cộng đồng phải làm gì, làm như thế nào, các quy chế khen thưởng, xử phạt ra sao.
Khi các thành viên tuân theo các giá trị chuẩn mực của cộng đồng thì
sẽ bảo đảm sự thống nhất và đoàn kết trong cộng đồng.
Hệ giá trị chuẩn mực của cộng đồng được xây dựng trên cơ sở nhận thức, quan niệm và tập quán của từng cộng đồng. Vì vậy, có những quan
10
niệm mà cộng đồng này chấp nhận và tuân theo, nhưng ở cộng đồng khác lại thấy không thể chấp nhận được.
IV. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ HỘI NHẬP CỦA
CỘNG ĐỒNG
Sự hội nhập của cộng đồng ở đây được hiểu là sự gắn kết của các con người riêng biệt lại với nhau để tạo nên một “thực thể thống nhất” hay một “tổng thể bền chặt”.
Những yếu tố địa vực tự nhiên, kinh tế và văn hoá đã là những điều kiện tác động để hình thành cộng đồng. Những yếu tố đó là rất cơ bản, rất quan trọng nhưng trong một chừng mực nhất định, mang tính vĩ mô, mang tính lịch sử chúng ta có thể và cần thiết phải xem xét ở các khía cạnh khác như khía cạnh “tâm lí xã hội” để nhìn nhận thấu đáo cơ chế hình thành sự kết dính của cộng đồng, hay là sự “hội nhập" của cộng đồng, tức tác động đến sự liên kết bền chặt của những người dân với nhau để tạo sức mạnh cho họ, để từ đó làm căn cứ phát triển phương pháp phát triển cộng đồng.
Cộng đồng là một tổng thể, các bộ phận của nó quan hệ với nhau, tác động qua lại với nhau, phụ thuộc lẫn nhau. Không dễ dàng tách một bộ phận nào của cộng đồng và coi đó là nguyên nhân gây ra những vấn đề của cộng đồng. Khó có thể nói đâu là nguyên nhân, đâu là hậu quả của bất cứ một vấn đề nào nảy sinh trong cộng đồng. Các nhà khoa học xã hội, đặc biệt là tâm lí học xã hội đã chỉ ra một số yếu tố sau đây tạo tác động đến sự cấu kết của nhóm xã hội mà cộng đồng là một nhóm xã hội.
1. Đoàn kết cộng đồng và ý thức cộng đồng Đoàn kết cộng đồng là sự gắn kết giữa các thành viên cộng đồng với nhau, giữa các thành viên với lãnh dạo, giữa các tổ chức với thành viên của mình, giữa các tổ chức với nhau vì một mục đích chung nào đó.
Đoàn kết cộng đồng luôn được các nhà nghiên cứu cộng đồng coi là đặc tính hàng đầu của mỗi cộng đồng. Đây cũng là những mục tiêu mà các cộng đồng mong muốn đạt được và duy trì.
Ý thức cộng đồng là ý chí và tình cảm của những thành viên cộng đồng có những mối liên hệ về mặt huyết thống hoặc mối liên hệ láng giềng. Quá trình tổ chức đời sống xã hội bởi các thiết chế xã hội lại càng thống nhất ý thức cộng đồng qua một số giá trị, chuẩn mực và biểu tượng riêng.
Ý thức cộng đồng được hình thành và phát triển thông qua nhiều con đường, trong đó có con đường kế thừa truyền thống và quá trình tương tác, giao lưu giữa mọi người với nhau. Trong quá trình trưởng thành của con người, mỗi người đều gặp và trải nghiệm, có quan hệ với nhiều người khác.
11
Một đứa trẻ khi mới sinh ra có quan hệ đầu tiên với người mẹ, với gia đình mình, tiếp theo đó là cộng đồng bạn bè trong nhà trẻ, nhà mẫu giáo, lớp học, trường học..., những người bạn sống cùng nhau trong địa phương nhỏ như làng xã, thôn xóm. Thông qua sự tương tác trong quá trình cùng học, cùng chơi, cùng làm việc, cùng sinh sống, chia ngọt sẻ bùi, lúc vui vẻ cùng như lúc khó khăn làm cho con người gắn bó với nhau bởi trải nghiệm cộng đồng. Con người càng trưởng thành, sự tương tác càng nhiều thì ý thức cộng đồng càng được hun đúc, sự gắn bó càng bền chặt bấy nhiêu. Cùng với sự trưởng thành, nhận thức về xã hội, về giá trị, về văn hoá, trải nghiệm cộng đồng phát triển dần lên thì ý thức cộng đồng cùng phát triển lớn dần lên về bề rộng và sâu sắc hơn về mức độ. Con người trưởng thành biết mình gắn với cộng đồng. Từ cảm giác trực thuộc đó, họ mong muốn mình làm được điều gì đó cho cái cộng đồng mà mình là một bộ phận và đó chính là tình cảm cộng đồng. Người ta cho rằng, ý thức cộng đồng bao gồm bốn yếu tố: - Tính thành viên; - Tính tác động, ảnh hưởng lẫn nhau; - Tính tích hợp, thống nhất trong nhu cầu và đáp ứng nhu cầu; - Tính chia sẻ, gắn kết tình cảm.
Để đo lường mức độ gắn kết của cộng đồng, các nhà xã hội đã đưa ra
“chỉ số” ý thức cộng đồng.
Ý thức cộng đồng và đoàn kết cộng đồng là hai yếu tố gắn chặt với nhau, bổ trợ cho nhau. Nếu người dân có ý thức cộng đồng thì không thể không có sự đoàn kết cộng đồng. Chỉ khi cộng đồng có đoàn kết tốt thì họ mới giáo dục được ý thức cộng đồng.
Các lệch chuẩn xã hội xuất hiện trong cộng đồng là do mất ý thức cộng đồng, mất đoàn kết xã hội. Đi kèm theo sự mất đoàn kết cộng đồng, mất ý thức cộng đồng là sự mất ý thức và nhân cách cá nhân. Ngược lại, khi các cá nhân đồng nhất với cộng đồng, hoà mình trong cộng đồng sẽ làm tăng tính đoàn kết xã hội đồng thời cũng làm tăng ý thức và nhân cách cá nhân.
Cộng đồng tồn tại được là do thành viên trong các nhóm thành viên của cộng đồng có tiếng nói thống nhất trong các hành động/hoạt động tập thể. Khi không còn tâm thức chung thì cộng đồng đó bắt đầu lụi tàn. Ví dụ, ở Việt Nam, mỗi khu vực dân cư, nông thôn cũng như thành thị đều có các tổ chức như Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân... Mỗi khi các thành viên của các nhóm xã hội này có cùng tiếng nói và ý chí thì sức mạnh của các nhóm này tăng lên, các nhóm thành viên đều hướng tới sự lãnh
12
đạo của Đảng, chính quyền địa phương thì sức mạnh đoàn kết trong cộng đồng được cũng cố và trở thành khu vục dân cư cộng đồng mạnh.
2. Nhu cầu của cộng đồng Giống như là mỗi cá nhân, nhu cầu của cộng đồng là một trong những nguồn gốc nội tại căn bản thúc đẩy hoạt động của cộng đồng, nảy sinh ra tính tích cực của cộng đồng. Nhu cầu của cộng đồng không phải là nhu cầu của cá nhân/thành viên của cộng đồng. Nhu cầu cộng đồng là trạng thái tâm linh tồn tại ở những người cụ thể đã đồng nhất bản thân mình với cộng đồng mà họ là thành viên. Trạng thái tâm lí này xuất hiện khi các thành viên của cộng đồng cảm thấy cần có những điều kiện vật chất hay tinh thần nào đó để cộng đồng có thể tồn tại và phát triển.
Không thể đồng nhất nhu cầu của cộng đồng với nhu cầu của cá nhân. Mỗi cá nhân có nhiều loại nhu cầu khác nhau về ăn, mặc, ở, đi lại..., các nhu cầu tinh thần, thẩm mĩ, đạo đức... Mỗi người đều có các loại nhu cầu đó với mức độ đòi hỏi và đáp ứng khác nhau, tuỳ vào điều kiện và hoàn cảnh khách quan và chủ quan cụ thể. Nhu cầu của cộng đồng không phải là tổng thể các nhu cầu của các thành viên. Mỗi cộng đồng có nhu cầu, mục đích riêng phục vụ cho nhu cầu và lợi ích chung của các thành viên cộng đồng. Nhu cầu của cộng đồng không tách rời nhu cầu của cá nhân. Đây là sự biện chứng giữa cái chung với cái riêng. Nhu cầu của cộng đồng và nhu cầu của cá nhân giao thoa với nhau ở một khu vực nhất định nào đó. Khu vực giao thoa chung càng lớn thì tinh kết dính của các thành viên cộng đồng càng bền chặt.
Nhu cầu của cộng đồng, cũng giống như nhu cầu của cá nhân, bao gồm nhu cầu về vật chất và nhu cầu về tinh thần. Nhu cầu vật chất là điều kiện vật chất cần thiết để cộng đồng có thể tồn tại và phát triển như một thực thể độc lập, bao gồm điều kiện tự nhiên, môi trường để người dân trong cộng đồng đi lại, sinh hoạt chung, chúng ta vẫn thường gọi là “cơ sở hạ tầng" của cộng đồng như điện dân dụng, điện thoại, đường giao thông, trường học, trạm y tế, chợ, nước sạch... Nhu cầu về tinh thần của cộng đồng và nhu cầu về tinh thần của cá nhân là rất lớn, rất đa dạng. Những nhu cầu tinh thần cơ bản có thể thấy là hoà bình, dân chủ, công bằng, bác ái, tự do đi lại, tự do làm ăn cư trú, hội họp, được tôn trọng ngôn ngữ, bản sắc văn hoá, truyền thống văn hoá, không tệ nạn xã hội...
Nhu cầu của cộng đồng được hình thành thông qua hai con đường chủ yếu: Thứ nhất, các thành viên trong cộng đồng cùng có chung một hoặc vài nhu cầu nào đó. Nhu cầu chung của nhiều thành viên trong cộng đồng trở thành nhu cầu của cộng đồng. Thứ hai, một số thành viên “tiên phong", “nòng cốt" nào đó nhận ra nhũng nhu cầu cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của cộng đồng
13
mình. Ví dụ như đại bộ phận các thành viên “tiên phong” đó phải tuyên truyền, vận động, thuyết phục, giúp những người khác nhận ra nhu cầu đó. Biến những nhu cầu của một bộ phận trở thành nhu cầu chung, có sự đồng thuận của cả cộng đồng.
Phát triển nhu cầu cộng đồng, đáp ứng nhu cầu và đoàn kết cộng đồng là những yếu tố gắn kết chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau và thúc đẩy nhau phát triển. Nhu cầu cộng đồng càng bức xúc thì cộng đồng càng có động lực để hành động chung, càng hành động chung với nhau thì ý thức cộng đồng, tình cảm cộng đồng, đoàn kết cộng đồng càng được củng cố. Ngược lại, khi một cộng đồng yếu, không có nhu cầu chung, không giao tiếp chung thì cấu kết cộng đồng sẽ lỏng lẻo.
Phát triển cộng đồng khai thác ở khía cạnh nhu cầu này bằng cách tạo nên nhiều cơ hội để người dân nhận ra nhu cầu chung và hành động cùng nhau để đạt được/thỏa mãn được những nhu cầu chung đó.
3. Các thiết chế và thể chế cộng đồng Cộng đồng có bền vững hay không còn phụ thuộc rất nhiều tới thiết thế và thể chế của cộng đồng, hay nói cách khác là phụ thuộc vào cấu trúc và các quy định của cộng đồng.
Các thiết chế cộng đồng bao gồm gia đình, dòng họ, các tổ chức chính thức và không chính thức của cộng đồng, cụ thể là các tổ chức hành chính, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, tổ chức nghề nghiệp, sở thích... Các tổ chức trong cộng đồng càng phát triển và hoạt động càng hiệu quả bao nhiêu thì sự gắn bó của các thành viên đó với tổ chức và gián tiếp với cộng đồng càng bền vững bấy nhiêu.
Cộng đồng tồn tại và phát triển có sự quản lí chặt chẽ nhờ có tình thần cộng đồng, nhờ có nhu cầu và hoạt động thoả mãn nhu cầu cộng đồng. Một khi không có những giá trị chung, không có những nhu cầu, định hướng để quy tụ nhau hoặc không có những quy tắc ứng xử giữa các thành viên trong cộng đồng thì không có cơ sở xã hội để tạo thành cộng đồng. Những nhu cầu, những định hướng, những quy tắc này đuợc hình thành trong các đoàn thể/tổ chức của cộng đồng. Chẳng hạn như các hương ước, nội quy, quy chế do làng xã đặt ra. Quá trình thể chế hoá giá trị, chuẩn mực trong các tổ chức xã hội tương đương là các bước quan trọng để các liên kết xã hội trong cộng đồng đuợc bền vững và có giá trị đổi với tất cả mọi người, tạo nên sức mạnh của cộng đồng.
Phương pháp phát triển cộng đồng khuyến khích mọi người, tăng cường năng lực và tạo quyền cho mọi người, nhưng không thể hành động một cách tuỳ tiện, mà một mặt phải tiếp tục bảo vệ và phát triển các thiết chế cộng đồng theo chiều hướng tích cực, mặt khác phải tôn trọng tất cả những thể chế,
14
định chế, những quy định, những chính sách của mọi cộng đồng, những chính sách chung của quốc gia, mà cộng đồng đó là thành viên.
4. Quản lí, lãnh đạo cộng đồng Quản lí, lãnh đạo là một quá trình tác động có mục đích của người lãnh đạo nhằm động viên, khuyến khích và tạo không khí hoà thuận, đoàn kết, sẵn sàng thực hiện các mục tiêu đề ra với hiệu quả cao nhất.
Trong các lĩnh vực quản lí, lãnh đạo thì lĩnh vực quàn lí, lãnh đạo cộng đồng là một lĩnh vực khó. Cũng như lãnh đạo xã hội nói chung, lãnh đạo cộng đồng tác động đến xã hội thu nhỏ, nhằm mục đích duy trì những đặc điểm về chất, điều chỉnh, hoàn thiện và phát triển những đặc điểm đó của cộng đồng/xã hội.
Người lãnh đạo, quản lí cộng đồng là những người có uy tín, được nhân dân trong cộng đồng tín nhiệm cử làm đại diện trong một hoặc một số vấn đề nhất định nào đó. Lãnh đạo cộng đồng có thể trùng hợp nhưng cũng có thể không trùng hợp với lãnh tụ/thủ lĩnh cộng đồng, về mặt nguyên tắc, người lãnh đạo là người được nhân dân lựa chọn, bầu ra và được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, công nhận như một chức danh chính thức của cộng đồng. Trong thực tế, có nhiều người có uy tín nhưng không muốn nhận chức danh chính thức vì nhiều lí do, trong đó có thể là lí do trách nhiệm. Ngược lại, trong thực tế, cũng có những người tuy không được dân tín nhiệm, bầu chọn nhưng họ lại đuợc “cấp trên” cử về quản lí lãnh đạo cộng đồng. Trong cả hai trường hợp trên đều sẽ có những khó khăn khi lãnh đạo nhân dân.
Lãnh đạo cộng đồng thực ra cũng là một danh từ chung chung vì trên thực tế, có rất nhiều chức danh cụ thể trên lĩnh vực cụ thể, trong một phạm vi cụ thể: lãnh đạo về chính trị, kinh tế, hành chính, văn hoá, xã hội..., lãnh đạo chung, lãnh đạo một số tổ chức của dân trong cộng đồng...
Người lãnh đạo cộng đồng giỏi là người biết sử dụng tình cảm cộng đồng, tinh thần cộng đồng, truyền thống cộng đồng kết hợp với hệ thống luật pháp để vận động, phát huy dân chủ, tài năng của người dân để đáp ứng nhu cầu của cộng đồng, thực hiện tốt trách nhiệm là đơn vị kinh tế- xã hội của đất nước, làm cho cộng đồng phát triển và đất nước phát triển, thực hiện mục tiêu của cách mạng Việt Nam là “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Lãnh đạo cộng đồng và lãnh đạo các nhóm/ tổ chức trong cộng đồng đóng
vai trò quan trọng tạo sự hội nhập / đánh giá mức độ hội nhập của cộng đồng.
Một nhóm lãnh đạo tối ưu bao gồm những người có trình độ, có bản lĩnh; những người tham gia hoạt động cộng đồng theo sở thích của mình, của bạn mình hoặc do tính chất nghề nghiệp; những người có tín nhiệm cao và là đại diện thực sự của nhóm kinh tế - xã hội nào đó; với một tỉ lệ cân đối, phù
15
hợp giữa những người chính cư, người ngụ cư; những người có quan hệ rộng rãi với nhiều tầng lớp dân cư khác nhau và có khá năng thuyết phục/thu phục để nguời dân hiểu quan điểm của mình; những người tương đồng/ăn ý với nhau nhưng không phải theo kiểu “kéo bè, kéo cánh"; những người nhận thức được tầm quan trọng của những nỗ lực và của những tổ chức không đích thực trong việc vượt qua tính thờ ơ/ lãnh cảm với xã hội, hướng tới những vấn đề của xã hội. Mối quan hệ giữa lãnh đạo cộng đồng với thành viên cộng đồng và giữa các thành viên cộng đồng với nhau là mối quan hệ sống còn, đảm bảo sức mạnh của cộng đồng. Nếu không có sức mạnh này sẽ không có sự phát triển cộng đồng. Trong phương pháp phát triển cộng đồng, phát hiện, bồi dưỡng và đưa lãnh đạo cộng đồng vào tiến trình phát triển cộng đồng là một yếu tố cần thiết, không thể thiếu. V. CỘNG ĐỒNG Ở VIỆT NAM
Nghiên cứu về cộng đồng và phát triển cộng đồng là nghiên cứu những nguyên lí, nguyên tắc, nội dung, tiến trình chung nhất cho mọi quốc gia, mọi cộng đồng. Để đưa được những lí luận đó vào thực tiễn và để thực tiễn đó tồn tại được một cách bền vững thì nhà tổ chức phải nắm được từng cộng đồng cụ thể. Để áp dụng phương pháp phát triển cộng đó vào Việt Nam, phải biết đặc điểm cộng đồng Việt Nam và những quan điểm, những chính sách hiện hành của Nhà nước Việt Nam về phát huy những bản sắc văn hoá, dân chủ hoá đời sống xã hội...
Ở Việt Nam, trong quá khứ cũng như trong thời đại hiện nay, trong ngôn ngữ dân gian, thuật ngữ “cộng đồng" để chỉ tập hợp người, ít được sử dụng một cách rộng rãi, phổ biến. Thuật ngữ “cộng đồng" được dùng phổ biến để chỉ tính chất “cố kết" của người dân. Với bản chất của “cộng đồng" theo cách hiểu là sự liên kết giữa những cư dân cùng sống trong một vị trí địa lí (quần cư), thì đây là nội dung chủ yếu mà mỗi người dân đều hiểu nếu nhắc tới “làng - xóm; thôn - xóm; làng - bản..”. Khi nhắc tới những “hàng- xóm”... người ta không chỉ nghĩ đến một vị trí địa lí cụ thể nào đó, mà người ta còn nghỉ ngày đến “tình làng, nghĩa xóm”, đến truyền thống văn hoá, những phong tục, tập quán mà những nhóm người này cùng chia sẻ, cùng vun đáp, cùng phải thực hiện (tính cộng đồng trong làng xã).
Như vậy, có thể thấy rằng, để tìm hiểu “cộng đồng” ở Việt Nam phục vụ cho phát triển cộng đồng thì phải tìm hiểu về làng, xã, khu dân cư. Do những đặc điểm rất khác nhau về điều kiện kinh tế-xã hội ở nông thôn và thành thị nên việc tìm hiểu cộng đồng ở Việt Nam cũng cần tìm hiểu về cộng đồng nông thôn và cộng đồng thành thị.
16
Cộng đồng là toàn thể những người cùng sống, có những quan điểm giống nhau, gắn bó thành một khối trong sinh hoạt xã hội. Có thể phân loại thành cộng đồng ngôn ngữ, cộng đồng tộc người, cộng đồng dân cư.
Cộng đồng ngôn ngữ bao gồm những người cùng nói một ngôn ngữ nào đó
như cộng đồng người nói tiếp Pháp, cộng đồng người nói Ọuổc tế ngữ...
Cộng đồng tộc người chỉ những người có đặc trưng về tên gọi, ngôn ngữ, văn hoá... giống nhau, có thể gồm một hay nhiều tộc người thân thuộc như: cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, cộng đồng dân tộc Dao, Mường, Thái, Hmông.
Cộng đồng dân cư là tập hợp những cá nhân được gắn kết bởi nhiều mối quan hệ về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, dân số, môi trường... trong một địa giới nhất định, nhằm duy trì sự tồn tại, phát triển của từng thành viên và của cả cộng đồng. Nhiều cá nhân hợp lại thành cộng đồng, các cộng đồng tồn tại bên nhau, hoặc ở trong nhau tạo thành cộng đồng lớn hơn như cộng đồng xóm ấp, cộng đồng làng xã, khu phố, cộng đồng địa phương, cộng đồng quốc gia, cộng đồng khu vực, cộng đồng quốc tế.
Trong tài liệu này, từ cộng đồng đứng riêng biệt được hiểu là cộng đồng dân cư. Trong cộng đồng dân cư, người ta còn đưa ra khái niệm cộng đồng nông thôn và cộng đồng đô thị. Cộng đồng nông thôn là cộng đồng dân cư sinh sống ở khu vục nông thôn. Đây là loại cộng đồng tương đối đơn giản và thuần nhất về mặt xã hội, hoạt động kinh tế chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp. Cộng đồng đô thị là cộng đồng dân cư sống ở đô thị. Đây là loại cộng đồng không thuần nhất về mặt xã hội, hoạt động kinh tế chủ yếu dựa trên sản xuất công nghiệp và thương mại, dịch vụ.
1. Một số đặc điểm của cộng đồng nông thôn việt Nam 1.1. Cách tổ chức của cộng đồng Cuộc sống nông nghiệp phụ thuộc vào tự nhiên, người nông dân phải liên kết với nhau, dựa vào nhau mà sống, vì vậy “đặc trưng số một của làng - xã Việt Nam là tính cộng đồng”. Cộng đồng nông thôn Việt Nam được tổ chức rất chặt chẽ. Theo Giáo sư Trần Ngọc Thêm, làng xã Việt Nam đuợc tổ chức theo nhiều “nguyên tắc" khác nhau, cụ thể:
Tổ chức nông thôn theo huyết thống: gia đình và gia tộc. Đối với người Việt Nam, gia tộc trở thành một cộng đồng gắn bó với vai trò quan trọng, thậm chí còn hơn cả gia đình. Họ rất coi trọng các khái niệm liên quan đến gia tộc như trưởng họ, tộc trưởng, nhà thờ họ, từ đường, gia phả, ruộng kị, giỗ họ, giỗ tổ, mừng thọ... Không phải ngẫu nhiên mà trong tiếng Việt, khái niệm truyền thống của Việt Nam là “làng nước”, còn nhà nuớc chỉ là sao
17
phòng khái niệm “quốc gia” của Trung Hoa. Ở Việt Nam, làng và gia tộc nhiều khi đồng nhất với nhau. Dấu vết hiện tượng “làng là nơi ở của một họ” còn lưu lại trong hàng loạt tên làng: Đặng Xá, Ngó Xá... Trong làng, người Việt cho đến giờ vẫn thích sống theo lối “đại gia đình". Nền kinh tế nông nghiệp đã gắn chặt con người với ruộng đất, với làng - xã. Làng - xã là nơi người nông dân nói chung và nông dân đồng bằng Bắc Bộ nói riêng sinh ra, lớn lên, sống quây quần cùng ông bà, cha mẹ, anh chị em, họ hàng ruột thịt... Làng - xã, tổ tiên là nơi cả dòng họ đời này qua đời khác sinh sống và góp phần xây dựng nên tình cảm gắn bó với quê hương. Tổ chức làng xã theo dòng họ này là theo tôn ti. Sức mạnh gia tộc thể hiện ở tinh thần đùm bọc, thương yêu nhau. Người trong họ có trách nhiệm cưu mang nhau về vật chất, hỗ trợ nhau về trí tuệ, tinh thần.
Tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú xóm và làng: Những người sống gần nhau có xu hướng liên kết chặt chẽ với nhau. Sản phẩm của mối liên kết này là khái niệm làng và xóm... Khi công xã thị tộc tan rã và chuyển thành công xã nông thôn thì các thành viên của làng không chỉ gắn bó với nhau bằng các quan hệ máu mủ mà còn gắn bó bằng những quan hệ sản xuất. Tuy nhiên, những quan hệ sản xuất này ở Việt Nam cũng khác hẳn vói phương Tây. Ở phương Tây, các gia đình sống gần nhau cũng có quan hệ với nhau, nhưng họ sống theo kiểu trang trại, quan hệ lỏng lẻo, phần nhiều mang tính chất xã giao. Ở Việt Nam thì khác, người Việt Nam liên kết với nhau chặt chẽ tới mức “bán anh em xa, mua láng giềng gần”. Nguyên tắc này bổ sung cho nguyên tắc “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”: Nguời Việt Nam không thể thiếu được anh em họ hàng nhưng đồng thời cũng không thể thiếu được “bà con hàng xóm”. Cách tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú dựa trên quan hệ hàng ngang, theo không gian, là nguồn gốc của tính dân chủ, bởi lẽ muốn giúp đỡ nhau, muốn có quan hệ lâu dài thì phải tôn trọng, bình đẳng với nhau. Đó là hình thức dân chủ sơ khai, dân chủ làng mạc. Trong lịch sử, nền dân chủ này có trước nền dân chủ của phương Tây...
Tổ chức nông thôn theo nghề nghiệp và sở thích: Phường hội Trong một làng, phần lớn người dân làm nông nghiệp. Tuy nhiên, trong nhiều làng có một bộ phận dân cư sinh sống bằng nghề khác. Những người này cùng liên hệ chặt chẽ với nhau khiến cho nông thôn Việt Nam có thêm một nguyên tắc tổ chức thứ ba, theo nghề nghiệp, tạo thêm đơn vị gọi là phường ở nông thôn, để liên kết những người cùng sở thích. Những người này tập hợp với nhau thành các hội. Cũng như tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú, tổ chức theo nghề nghiệp và sở thích, đây là sự liên kết theo chiều ngang, cho nên “đặc
18
trưng của phường hội là tính dân chủ- những người cùng hội có trách nhiệm tương trợ, giúp đỡ nhau”.
Đặc trưng cơ bản của cộng đồng nông thôn Việt Nam là “tính cộng
đồng và tính tự trị".
1.2. Tính cộng đồng Việc tổ chức nông thôn đồng thời theo nhiều nguyên tắc khác nhau tạo nên tính cộng đồng làng xã. Tính cộng đồng nhấn mạnh vào sự đồng nhất. “Do đồng nhất nên người Việt Nam sẵn sàng đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, coi mọi nguời trong cộng đồng như anh chị em trong nhà. Cũng do đồng nhất nên người Việt Nam luôn có tính tập thể rất cao, hòa đồng vào cuộc sống chung. Sự đồng nhất (giống nhau) cũng chính là ngọn nguồn của nếp sống dân chủ - bình đẳng, bộc lộ trong các nguyên tắc tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú, theo nghề nghiệp...”.
Bên cạnh mặt tích cực cần phát huy, tính đồng nhất còn những mặt hạn chế nhất định, ảnh hưởng tới cách suy nghĩ cũng như hành vi của người Việt, tính dựa dẫm, ỉ lại vào tập thể: “Nước trôi thuyền trôi, nước nổi thì thuyền nổi”. Tệ hại hơn là tình trạng “Cha chung không ai khóc" hoặc “Lắm sãi không ai đóng cửa chùa”. Cùng với thói dựa dẫm, ỉ lại là tư tưởng cầu an (an phận thủ thường) và cả nể. Một đặc điểm trầm trọng khác nữa là thói cào bằng, đố kị, không muốn cho ai hơn mình: “xấu đều còn hơn tốt lõi”; “Khôn độc không bằng ngốc đàn”; “Chết một đống còn hơn sống một người”.
1.3. Tính tự trị Nông thôn Việt Nam được tổ chức theo kiểu biệt lập, khép kín, kể cả về vị trí đất đai cho đến sự quản lí xã hội. Mọi hoạt động đều diễn ra sau bụi tre làng, làng nào biết làng ấy. Mỗi làng là một vuơng quốc nhỏ khép kín với luật pháp riêng (mà các làng gọi là hương ước). Sự biệt lập đó tạo nên truyền thống “phép vua thua lệ làng”. Tình trạng này thể hiện quan hệ dân chủ đặc biệt. Biểu tượng của tính tự trị là lũy tre. Rặng tre bao kín quanh làng, trở thành một thứ thành lũy kiên cố bất khả xâm phạm: đốt không cháy, trèo không được, đào đường hầm thì vướng rễ không qua. Tính tự trị chú trọng nhấn mạnh vào sự khác biệt. Sự khác biệt giữa làng này với làng khác. Sự khác biệt là cơ sở của tính tự trị, tạo nên tinh thần tự lập cộng đồng: mỗi làng, mỗi tập thể phải tự liệu lấy mọi việc. Vì phải tự lo liệu nên người Việt Nam có truyền thống cần cù, đầu tắt mặt tối, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Nó cũng tạo nên nếp sống tự cấp tự túc, mỗi làng, tự đáp ứng mọi nhu cầu cho cuộc sống của làng mình, mỗi nhà có vườn rau, chuồng gà, ao cá, tự đảm bảo nhu cầu về ăn; có bụi tre; rặng xoan, gốc mít, tự đảm bảo nhu cầu về ở.
19
Khía cạnh tiêu cực có nguồn gốc từ tính tự trị cao nhấn mạnh vào sự khác biệt, cơ sở của tính tự trị là óc tư hữu, ích kỷ “bè ai người nấy chống, ruộng ai người nấy đắp bờ, ai có thân người ấy lo, ai có bò người ấy giữ”, “thân trâu, trâu lo, thân bò, bò liệu”... Biểu hiện tiêu cực khác của tính tự trị là óc bè phái, địa phương, cục bộ, làng nào biết làng nấy, chỉ lo vun vén cho địa phương mình: “trống làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”, “trâu ta ăn cỏ đồng ta”, “ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”. Một biểu hiện khác của tính khác biệt là óc gia trưởng, tôn ti: “Tính tôn ti là sản phẩm của nguyên tắc tổ chức cộng đồng nông thôn theo huyết thống, tự thân nó không phải là xấu, nhưng khi gắn liền với óc gia trưởng, tạo nên tâm lí quyền huynh thế phụ, áp đặt ý muốn của mình cho người khác, tạo nên tư tưởng thứ bậc vô lí, sống lâu lên lão làng, thì nó trở thành một lực cản đáng sợ cho sự phát triển của xã hội”.
Tính cộng đồng và tính tự trị là hai đặc trưng cơ bản, chúng là nguồn gốc sản sinh ra hàng loạt ưu điểm và nhược điểm trong tính cách của nguời Việt Nam. Tính cộng đồng Tính tự trị
Chức năng Liên kết các thành viên
Bản chất Biểu tượng
Hệ quả tốt
Hệ quả xấu
Dương tính, hướng ngoại Sân đình, giếng nước, cây đa - Tinh thần đoàn kết, tương trợ - Tinh thần tập thể, hoà đồng - Nếp sống dân chủ, bình đẳng - Sự thủ tiêu vai trò cá nhân - Thói dựa dẫm, ỉ lại - Thói cào bằng, đố kị Xác định sự độc lập của làng Âm tính, hướng nội Lũy tre - Tinh thần tự lập - Tính cần cù - Nếp sống tự cấp, tự túc - Óc tư hữu, ích kỷ - Óc bè phái, địa phương - Óc gia trưởng, tôn ti
2. Đặc điểm của cộng đồng thành thị Việt Nam Ở Việt Nam, nếu như nông thôn làng xã là một tổ chức tự trị vững mạnh thì ngược lại, đô thị trong lịch sử Việt Nam rất kém phát triển, yếu ớt và lệ thuộc. Điều này trái ngược hoàn toàn với phương Tây. Ở phương Tây, làng, xã rất rời rạc, còn đô thị là một tổ chức tự trị vững mạnh. Xét về nguồn gốc, phần lớn đô thị Việt Nam do nhà nước sản sinh ra, mang tính quy luật tất yếu do sự khác biệt của hai loại hình văn hóa quy định ở nền văn hoá Việt Nam. Nông nghiệp được coi trọng, làng xã là trung tâm, cho nên làng xã có quyền tự trị. Còn ở châu Âu, do sớm phát triển thương mại và công nghiệp 20
nên đô thị tự trị và có quyền uy. Để xem xét đặc điểm đó thì Việt Nam cần xem xét ở hai khía cạnh: đô thị trong quan hệ với quốc gia và trong quan hệ với nông thôn.
Trong quan hệ với quốc gia, đô thị Việt Nam có ba đặc điểm: - Xét về nguồn gốc, phần lớn các đô thị Việt Nam do nhà nước sinh ra. Các đô thị lớn nhỏ ra đời ở các giai đoạn khác nhau như Văn Lang, cổ Loa, Thăng Long, Phú Xuân... đều hình thành theo con đường như thế.
Về chức năng, đô thị Việt Nam thực hiện chức năng hành chính là chủ yếu, trong đô thị có bộ phận làm quản lí và bộ phận làm kinh tế. Thường thì bộ phận quản lí hình thành trước, dần dần bộ phận làm kinh tế mới được hình thành một cách tự phát.
Về mặt quản lí, đô thị Việt Nam đều do nhà nước quản lí. Nhà nước đặt ra đô thị thì nhà nước phải quản lí và khai thác, đó là điều dễ hiểu. Thậm chí, những đô thị hình thành tự phát ở vào những địa điểm giao thông buôn bán thuận tiện như Phố Hiến, Hội An... thì ngay sau khi hình thành, Nhà nước cùng lập tức đặt một bộ máy cai trị để nắm trọn quyền kiểm soát và khai thác. Ba đặc điểm trên chính là nguyên nhân làm cho đô thị Việt Nam có
diện mạo trái ngược hẳn với đô thị phương Tây đã nói trên đây.
Về mối quan hệ giữa đô thị Việt Nam với nông thôn, do sức mạnh của truyền thống văn hoá nông nghiệp, nông thôn không tự chuyển thành đô thị, nên ở Việt Nam, có những làng xã nông thôn thực hiện chức năng kinh tế của đô thị, đó là làng công thương như làng Bát Tràng, làng Bưởi... Nếu ở phương Tây thì những làng như vậy sẽ phát triển dần lên, mở rộng và tự phát chuyển thành đô thị. Nhưng ở Việt Nam, chúng không trở thành đô thị được, mọi sinh hoạt vẫn giống như một làng nông nghiệp thông thường. Sở dĩ như vậy vì cả làng cùng làm một nghề, có cùng sản phẩm, không buôn bán cho ai trong làng được. Mà không có trao đổi hàng hoá nội bộ thì không trở thành đô thị được. Mặt khác, do tính tự trị, dân cư sống tự cấp, tự túc, khép kín, không có nhu cầu buôn bán, giao lưu, đó là lí do thứ hai khiến các làng công thương không thể trở thành đô thị được.
Nông thôn Việt Nam không chỉ bị kìm giữ không thể phát triển thành đô thị mà chi phối cả đô thị, khiến đô thị chịu ảnh hưởng của nông thôn và mang đặc tính nông thôn rất đậm nét. Tổ chức hành chính của đô thị Việt Nam được sao phỏng theo tổ chức nông thôn. Hậu quả sự chi phối của nông thôn với đô thị cho tới ngày nay vẫn còn sót lại ngay trong lòng các đô thị.
Sự chi phối mạnh của nông thôn đối với đô thị khiến cho đô thị Việt Nam truyền thống luôn có nguy cơ bị nông thôn hoá. Trong lịch sử, các đô thị
21
khi không còn được thực hiện chức năng là trung tâm hành chính nữa thì nó thường bị thu hẹp, dần trở lại nguyên hình là nông thôn. Tuy là dân thành thị nhưng họ vẫn mang bản chất và tính cách của người nông thôn, nên mỗi khi có điều kiện là họ bộc lộ.
Ngày nay, do tác động của kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, giao lưu văn hoá..., cùng với nhiều chính sách phát triển kinh tế, giáo dục, văn hoá, tư tưởng... bộ mặt cộng đồng nông thôn và cộng đồng thành thị, đời sống kinh tế, tâm lí, xã hội của người dân ở cả nông thôn và thành thị đã thay đổi nhiều, đã chuyển biến theo hướng phát huy truyền thống văn hoá tích cực, dần khắc phục được những hạn chế. Tuy nhiên, sự thay đổi đó đã và sẽ tiếp diễn trong một thời gian dài nữa.
Cộng đồng là một thực thể sống/một xã hội thu nhỏ phức tạp được kết cấu bền vững bởi nền tảng văn hoá, truyền thống chung, có gốc rễ sâu xa, bởi nhu cầu, tình cảm và ý thức của những người dân. Quá trình tương tác giữa người dân trong cộng đồng là cơ sở nẩy sinh ý thức cộng đồng, nhu cầu cộng đồng và đồng thời cũng là để đáp ứng yêu cầu có một cuộc sống tốt đẹp hơn cho mỗi thành viên cộng đồng, cấu trúc cộng đồng gồm các thành viên là cá nhân, là gia đình, dòng họ, là các tổ chức đại diện của người dân, tổ chức chính quyền... Cộng đồng chịu sự tác động từ phía ngoài, chính sách vĩ mô chung của Nhà nước, quốc gia và chịu tác động từ bản thân các mối quan hệ nội tại bên trong cộng đồng.
22
Nội dung 2 ________________________________________ VẤN ĐỀ CỘNG ĐỒNG VÀ PHƢƠNG PHÁP TIỂP CẬN GIẢI QUYỂT VẤN ĐỀ CỘNG ĐỒNG I. VẤN ĐỀ CỘNG ĐỒNG
1. Khái niệm về vấn đề cộng đồng Vấn đề cộng đồng là những khó khăn, trở ngại, những rào cản trong tiến trình thực hiện nhu cầu chính đáng, hợp pháp ở các lĩnh vực đời sống kinh tế, văn hoá, quản lí, xã hội..., ngăn cản quá trình phát triển của cộng đồng.
Xuất phát từ tính tổng thể của cộng đồng, giống như nhu cầu cộng đồng, vấn đề cộng đồng là khó khăn, trở ngại, rào cản... của một chỉnh thể thống nhất chứ không phải là khó khăn của một hoặc một vài thành viên cộng đồng. Vấn đề cộng đồng có thể là vấn đề quản lí điều hành, cũng có thể là vấn đề liên quan đến sự tồn vong, sống còn của cộng đồng, có thể là vấn đề uy tín của cộng đồng.
Tuy nhiên, chúng ta biết rằng, không thể nói đến cộng đồng mà không nói đến thành viên cộng đồng, tức là nói đến từng cá nhân, từng gia đình sống trong cộng đồng đó. Cũng giống như nhu cầu, vấn đề cộng đồng có thể là vấn đề chung mà đại bộ phận người dân trong cộng đồng cùng gặp phải. Có những vấn đề cộng đồng, ban đầu chỉ là vấn đề của một vài cá nhân, nhưng có nguy cơ lây lan ra toàn cộng đồng. Từ công tác truyền thông, mọi người nhận thấy những vấn đề đó có nguy cơ lan rộng trong cộng đồng, để rồi thừa nhận nó là vấn đề chung của cộng đồng.
Tóm lại, vấn đề cộng đồng là những khó khăn mang tính xã hội mà
cộng đồng đang phải đối mặt, cản trở sự phát triển của cộng đồng.
2. Nguồn gốc của vấn đề cộng đồng Cộng đồng là một xã hội thu nhỏ, trong cộng đồng có thành viên là những cư dân trong cộng đồng, những gia đình, dòng họ, những tổ chức kinh tế, chính trị - xã hội, tổ chức của người dân... vấn đề cộng đồng thực chất là vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình tương tác giữa các thành viên trong cộng đồng với nhau, giữa cá nhân với tổ chức, giữa các tổ chức với nhau, giữa người quản lí với người bị quản lí... liên quan đến môi trường sống, việc phân phối sản phẩm xã hội, điều kiện phát triển của người dân trong cộng đồng...
Những bất bình đẳng trong quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, sự thiếu dân chủ trong đời sống xã hội là nguyên nhân sâu xa của nhiều vấn đề cộng đồng.
3. Tính cục bộ và tính thời đại của vấn đề cộng đồng Vấn đề của cộng đồng có tính chất tương đối, cục bộ, không nhất thiết cũng phải là vấn đề của cộng đồng khác. Tính cục bộ ở đây có nghĩa là tính
23
địa phương của vấn đề. Tính cục bộ không mâu thuẫn với tính xã hội. Tính xã hội là “xã hội" trong phạm vi cộng đồng.
Với các nước khác nhau, ở các giai đoạn lịch sử khác nhau thì vấn đề cộng đồng được đặt ra rất khác nhau. Ví dụ, nếu như trong thời kì đầu của chủ nghĩa tư bản, các nước phương Tây và Bắc Mĩ phải đối đầu với nạn bần cùng hoá, nghèo đói, bệnh tật, tệ nạn xã hội tràn lan trong cộng đồng, thì ngày nay, mối quan tâm của nhiều cộng đồng phương Tây là vấn đề liên quan đến sự thiếu hụt nguồn lao động trẻ bổ sung do tỉ lệ sinh thấp, tuổi thọ cao hoặc vấn đề an toàn cuộc sống trong bối cảnh khủng bố toàn cầu... Với các nước nghèo, các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, mối quan tâm của toàn xã hội nói chung, của cộng đồng nói riêng là vấn đề phát triển kinh tế, phát triển xã hội, phát triển con người, trong đó có những vấn đề nổi bật đe doạ tới an sinh của người dân như nghèo đói, thiên tai, vấn đề tai nạn, thương tích, vấn đề di dân, đô thị hoá và một số tệ nạn xã hội như cờ bạc, rượu chè, bạo lực gia đình, ma tuý, mại dâm...
Tính thời đại của vấn đề cộng đồng tức là tính toàn cầu. Ví dụ, vấn đề thay đổi khí hậu, sự nóng lên của trái đất, đại dịch HIV/AIDS... Đó là vấn đề toàn cầu, đe doạ tất cả mọi cộng đồng. Vì thế, tất cả các cộng đồng, không kể nước giàu hay nước nghèo, nước đang phát triển hay đã phát triển, đều phải quan tâm bảo vệ môi trường, phòng chống HIV/AIDS. II. PHÂN LOẠI VẤN ĐỀ CỘNG ĐỒNG Vấn đề cộng đồng có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau, theo bản chất vấn đề, theo quy mô tác động của vấn đề hay theo tính pháp lí của vấn đề. Cộng đồng càng nhỏ thì vấn đề càng cụ thể. Trong phát triển cộng đồng, người ta thường hay phân loại vấn đề theo những biểu hiện sau đây.
1. Nhóm vấn đề cộng đồng liên quan đến quan hệ giữa ngƣời với ngƣời Sự thờ ơ, lạnh nhạt trong mối quan hệ giữa người với người, sự thiếu hiệu quả trong giao tiếp giữa các thành viên trong cộng đồng với nhau, giữa thành viên cộng đồng với bộ máy hành chính cơ quan công quyền... Tình trạng mất đoàn kết, thiếu tổ chức, cảnh “việc nhà ai nhà ấy làm, đèn nhà ai nhà ấy rạng” hoặc “kêu trời thì trời xa, kêu đất thì đất dày” làm cho con người cảm thấy cô độc, bị xa lánh, vô vọng. Thành viên trong cộng đồng không được tổ chức lại hoặc tổ chức một cách hình thức, rời rạc, không chặt chẽ... làm giảm khả năng đề kháng, thiếu kĩ năng, mất đoàn kết, không cùng chung hành động mà “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”. Đây là vấn đề nẩy sinh trong xã hội công nghiệp, đô thị hoá cao. Công nghiệp hoá và đô thị hoá làm mất đi tình cảm của con người về cội nguồn, gốc rể. Con người trong
24
cộng đồng công nghiệp hoá, đô thị hoá cao dường như không bị ràng buộc bởi những giá trị chung, cơ sở tạo nên sự kết dính, sự liên kết giữa người với người. Ví dụ về những vấn đề thuộc nhóm này là bệnh tâm thần, tội phạm vị thành niên, tự tử tập thể, tệ nạn trộm cắp, mất trật tự an ninh, thiếu cơ sở vật chất chăm sóc gia đình, dòng họ, thiếu điều kiện thông tin...
Ở Việt Nam, những vấn đề cộng đồng trong nhóm này cũng có sự khác biệt so với một số nước khác trên thế giới ở một vài khía cạnh và có biểu hiện khác nhau giữa cộng đồng nông thôn và cộng đồng thành thị. Tuy đã thay đổi nhiều so với những nước khác, nhưng do truyền thống phương Đông ăn sâu vào tiềm thức người dân nên mỗi người, nhìn chung, vẫn còn bị ràng buộc nhiều với gia đình, dòng họ, với cộng đồng. Lối sống vị kỉ, sùng bái tự do cá nhân tuy đã xuất hiện nhưng nền nếp gia phong gia đình vẫn còn là một sự kết dính quan trọng gắn kết người Việt trong gia đình, đại gia đình, trong dòng tộc. Các bệnh tâm thần, trầm cảm, tìm cuộc sống lặng lẽ, có độc, tự vẫn tập thể... do chán ghét xã hội tuy đã có, nhưng chưa nhiều, chưa trở thành “bệnh lí" chung của cộng đồng. Người Việt Nam, sống trọng tình nhiều hơn nên thường “mềm dẻo, uyển chuyển” trong cách ứng xử giữa người với người. Truyền thống “thương người như thể thương thân”, “một miếng khi đói bằng một gói khi no” nhìn chung vẫn được phát huy trong việc giúp đỡ đồng bào gặp khó khán, hoạn nạn, gặp cảnh đời bất hạnh.
Cộng đồng Việt Nam nhìn chung được tổ chức chặt chẽ, các tổ chức quần chúng được hình thành rộng khắp ở tất cả các cấp. Trong chỉ đạo, lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn coi “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân”. Truyền thống đại đoàn kết dân tộc là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước của cộng đồng người Việt. Truyền thống này đã được phát huy cao độ, trở thành nguyên lí “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Đó cũng là nguyên nhân thành công của dân tộc Việt Nam trong các cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Khối đại đoàn kết đó chính là sự lãnh đạo của Đảng, quản lí chính quyền và sự tham gia của các đoàn thể, tổ chức quần chúng, tổ chức xã hội. Trong sự nghiệp đổi mới, đại đoàn kết toàn dân dựa trên cơ sở phát huy sự năng động, sáng tạo của các tầng lớp nhân dân, các thành phần kinh tế, thống nhất mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Đễ đạt được mục tiêu đó, ở cộng đồng, trong những năm qua chính quyền cơ sở cùng các đoàn thể chính trị, các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp, tổ chức từ thiện... như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Phụ nữ, Hội
25
Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên, Hội Nông dân..., được quan tâm thích đáng, hoạt động thiết thực hơn và tiếng nói có hiệu lực hơn, nhất là từ khi có quy định về dân chủ cơ sở. Bên cạnh những mặt mạnh, mặt tích cực kể trên, cộng đồng ở Việt Nam còn có một số vấn đề như sau:
Một mặt do phải trải qua chiến tranh lâu dài và quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, mặt khác, trong điều kiện phát triển kinh tế nhiều thành phần, trong xã hội nói chung, trong cộng đồng nói riêng “còn tồn tại những mâu thuẫn về lợi ích giữa các giai cấp và các tầng lớp dân cư”, nên ở một số cộng đồng còn nảy sinh những vấn đề tranh chấp quyền lợi; có một bộ phận dân cư còn “mặc cảm về nhiều mặt”, chưa hoà nhập hoàn toàn vào công cuộc phát triển cộng đồng. Một số vấn đề về lợi ích, một số mặc cảm, định kiến phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần xã hội.... chính là rào cản cho việc hội nhập hoàn toàn. Chính vì thế, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kêu gọi người dân xây dựng trên tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, hướng tới tương lai.
Do trình độ dân trí còn thấp nên thiếu năng lực cần thiết để phát huy tính làm chủ của công dân. Chính quyền cơ sở ở một số nơi và một số đoàn thể, tổ chức xã hội đã bị hành chính hoá, xa rời dân, chưa thục sự vì quyền lợi của nhân dân. Ở cộng đồng thành thị, dưới sức ép của công việc, người dân chỏ mải miết làm ăn mà quên đi nhiều trách nhiệm cộng đồng của mình, thiếu tình làng, nghĩa xóm.
Những cư dân từ nông thôn mới về thành phố lập nghiệp, do còn nặng nề tư tưởng mình là dân ngụ cư nên chưa coi trọng khu dân cư mình đang sinh sống là quê hương thứ hai, chưa tích cực đóng góp vào việc phát triển cộng đồng. Nhiều người dường như chỉ coi cộng đồng mình đang sinh sống là nơi trú ngụ hàng ngày, ít tham gia vào hoạt động của địa phương.
Tại những khu đô thị mới, ở các chung cư cao tầng, người dân sống
cách biệt, ít giao tiếp... Đây cũng là vấn đề lớn trong nhũng khu đô thị mới.
2. Nhóm vấn đề của cộng đồng liên quan đến điều kiện cở sở hạ
tầng thấp kém, thiếu các dịch vụ xã hội cơ bản
Hậu quả của việc nhiều người dân phải sống trong các khu nhà ổ chuột, chật chội, vệ sinh mối trường ô nhiễm, thiếu trường học, chợ, y tế, nuớc sạch, nghèo đói, không có việc làm đã phát sinh nhiều tệ nạn xã hội như tội phạm, bạo lực, mại dâm, ma túy, lang thang... Những vấn đề này không phải chỉ tồn tại ở các cộng đồng nghèo của các nước đang phát triển mà cả ở một số nước phát triển, do sự phân hoá giàu nghèo quá lớn, nhiều cộng đồng, đặc biệt là cộng đồng có nhiều dân cư từ nơi khác, nước khác đến, do không được đầu tư thích đáng nên môi trường sống cũng hết sức ô nhiễm, bần cùng.
26
Ở Việt Nam, sau hơn 20 năm đổi mới, với việc “thực hiện có hiệu quả các chính sách xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tốt công bằng xã hội... đổi mới cơ chế quản lí và phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng theo nguyên tắc Nhà nước tập trung đầu tư cho các chương trình mục tiêu quốc gia về vấn đề xã hội; đồng thời phát huy tiềm năng, trí tuệ và các nguồn lực trong nhân dân, của toàn xã hội...” thì những vấn đề xã hội của cộng đồng nghèo đã được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, hiện nay nói chung, ở thành phố nào cũng còn một vài cộng đồng nghèo. Đó là những khu lao động, khu tập thể nghèo, khu dân “nhảy dù” sống gần bãi rác, gần bãi tha ma, gần chợ đầu mối, khu dân ven đô... Nghề nghiệp của dân cư thuộc các cộng đồng này thường là lao động giản đơn, kiếm ăn hàng ngày xung quanh bãi rác, buôn bán nhỏ, làm nghề lái xe xích lô... Người dân thuộc những cộng đồng này thường là dân di cư từ nông thôn vào thành phố kiếm sống hoặc dân lao động nghèo qua nhiều thế hệ. Cộng đồng nông thôn thuộc xã nghèo, xã vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa, vùng chậm phát triển... Ở đó còn những vấn đề về nghèo đói, kinh tế chậm phát triển, thiếu cơ sở hạ tầng, điện, đường xá, cơ sở trường học, y tế nghèo nàn, không có nước sạch...
3. Nhóm vấn đề của cộng đồng liên quan đến bất bình đẳng xã hội
và quyền lực
Đây là loại vấn đề liên quan đến quyền được tiếp cận các nguồn lực, trong đó có quyền tiếp cận nguồn lực kinh tế, chính trị xã hội, vấn đề mất dân chủ trong sinh hoạt cộng đồng, vấn đề phân biệt đối xử với người tàn tật, người nhiễm HIV/AIDS, phân biệt tôn giáo, màu da, dân tộc...
Báo cáo chính trị tại Đại hội XII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ghi rõ: “Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, dân tộc, tôn giáo để giải quyết các vấn đề xã hội. Nhận thức của toàn xã hội về tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội được nâng lên... Mặc dù vậy, quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội còn nhiều hạn chế, khuyết điểm. Sự phát triển các lĩnh vực, các vùng, miền thiếu đồng bộ. Việc giải quyết một số vấn đề xã hội chưa hiệu quả; mục tiêu xây dựng quan hệ hài hòa giữa các lĩnh vực, ngành nghề, vùng, miền chưa đạt yêu cầu; giảm nghèo chưa bền vững, chênh lệch giàu - nghèo và bất bình đẳng có xu hướng gia tăng. Chưa nhận thức đầy đủ vai trò của phát triển xã hội hài hòa, chưa có chính sách, giải pháp kịp thời, hiệu quả đối với vấn đề biến đổi cơ cấu, phân hóa giàu - nghèo, phân tầng xã hội, kiểm soát rủi ro, giải quyết mâu thuẫn xã hội, bảo đảm an toàn xã hội, an
27
ninh cho con người. Nhiều lĩnh vực của phát triển bền vững chưa được nghiên cứu đầy đủ. Quản lý phát triển xã hội chưa xác định rõ định hướng và những nhiệm vụ mang tính tổng thể, đồng bộ, liên vùng, liên ngành, liên lĩnh vực, còn bị chia cắt theo địa giới hành chính, lĩnh vực quản lý...”
III. NHÌN NHẬN CÁCH GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ CỘNG ĐỒNG
Mặt khác, ở khía cạnh xã hội, do nhận thức chưa đầy đủ nên ở đâu đó, ở một vài lĩnh vực nào đó vẫn có một bộ phận dân cư chưa thật sự được hưởng đầy đủ quyền bình đẳng xã hội. Người dân tộc thiểu số, người nghèo, người khuyết tật, người nhiễm HIV/AIDS chưa có đầy đủ cơ hội để phát triển, trong số đó, có một bộ phận bị đứng ngoài lề của sự phát triển. Và đây là vấn đề mà cộng đồng ở Việt Nam đang phải đối mặt để tăng cường cơ hội bình đẳng cho nhóm đối tượng thiệt thòi, yếu thế, giúp họ hoà nhập cộng đồng và góp phần phát triển đất nước. TỪ MỘT SỐ GÓC ĐỘ
Cộng đồng, trong quá trình tồn tại và phát triển của mình luôn phải đối mặt với những thử thách, những khó khăn cần giải quyết. Những vấn đề của cộng đồng phần lớn nảy sinh do sự mâu thuẫn giữa nhu cầu và khả năng đáp ứng nhu cầu của cộng đồng trước những đòi hỏi của phát triển, của người dân sống trong cộng đồng.
Giải quyết vấn đề cộng đồng tức là giải quyết những khó khăn, mâu thuẫn, những thách thức đặt ra, tạo nên sự ổn định, sự cân đối, hài hoà như nó vốn có. Giải quyết vấn đề của cộng đồng không phải là dễ và không phải lúc nào cũng có một đáp số chung. Mỗi vấn đề có một cách giải quyết khác nhau, và mỗi cách giải quyết lại bao gồm trong nó nhiều cách cụ thể khác nhau nữa. Xuất phát từ tính phức tạp, tính tổng thể của cộng đồng, những biện pháp, những chiến lựợc tác động, can thiệp, làm thay đổi cách suy nghĩ, cách hành động của cộng đồng phải dựa trên cơ sở khoa học, khách quan, phù hợp với quy luật xã hội cũng như phù hợp với điều kiện cụ thể của mọi cộng đồng.
Trong xã hội, có rất nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân coi đối tượng cộng đồng là đối tượng nghiên cứu, đối tượng tác động, đối tượng làm việc chuyên nghiệp của mình. Đó có thể là cán bộ của Chính phủ, có thể là các tổ chức kinh tế, tổ chức tôn giáo, tổ chức từ thiện... Hoạt động của các tổ chức này thường khác nhau về độ dài thời gian, về tính chất mục đích và phương pháp thực hiện. Tuy nhiên, nếu xem xét một cách tổng thể thì những mục đích, những phương pháp đó, về cơ bản chỉ khác nhau ở tính chất công việc và mức độ tác động lên con người mà thôi. Sau đây là một số cách tiếp cận cộng đồng.
28
1.Tiếp cận theo chiều cạnh thời gian Bất cứ hoạt động can thiệp nào vào cộng đồng cũng đòi hỏi có thời gian. Thời gian cần thiết có thể một vài tuần, có thể kéo dài trong nhiều tháng, thậm chí nhiều năm. Trên thang đo về thời gian (hình dưới) có thể thấy, đầu mút bên trái được bắt đầu bằng những hành động khẩn cấp, công việc đặt ra phải được thực hiện trong một khoảng thời gian rất ngắn, càng ngắn càng tốt. Những hoạt động nằm trong khoảng bắt đầu này là nhũng hoạt động cứu trợ nhân dân, cứu trợ tài sản cùng như mùa màng khi thiên tai, địch hoạ xẩy ra ở cộng đồng. Trong một khoảng thời gian ngắn nhất phải khắc phục được hậu quả thiệt hại do thiên tai, địch hoạ gây ra. Những hoạt động khác cần nhiều thời gian hơn nhưng không phải là nhiều lắm như những hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng, tổ chức các dịch vụ xã hội mới: xây dựng nhà trẻ, mở lớp học cho trẻ em... Đầu cuối của thang đo này là những hoạt động đòi hỏi nhiều, thậm chí rất nhiều thời gian để hoàn thành, ví dụ, việc tạo cho người dân có thói quen, có kiến thức và kĩ năng cùng làm việc với nhau trên cơ sở giải quyết một vấn đề cụ thể nào đó. Quá trình thực hiện hay thời gian đòi hỏi ở đây phải được tính đủ, không kéo dài quá mức cần thiết, cũng như không được rút ngắn một cách cố ý. Các bước đi phù hợp, thoái mái và không phải chịu sức ép về thời gian.
Thang đo thời gian
Các hoạt động bị giới hạn về thời gian
Các hoạt động có thời gian kéo dài nới lỏng vừa đủ
2. Tiếp cận theo chiêu cạnh mục đích/ mục tiêu
Tác giả Muray, trong tác phẩm Tổ chức cộng đồng, lí thuyết nguyên tắc và thực hành cho rằng, mục tiêu của hoạt động can thiệp vào cộng đồng thường bao gồm ba bộ phận khác nhau, hay nói cách khác là khi xem xét mục tiêu can thiệp cộng đồng phải xem xét ở ba khía cạnh khác nhau. Ba bộ phận của mục tiêu đó là: 1) Mục tiêu cụ thể/ “Nội dung cụ thể” của mục tiêu (“general content” objective; 2) Mục tiêu tổng thể hay “Nội dung tổng thể”; và 3) Mục đích/ “Nội dung tiến trình/ quá trình” của mục tiêu (“process” objective). * Mục tiêu cụ thể hay “Nội dung cụ thể” của mục tiêu chính là phần “kĩ thuật”, phần “vật chất” mà một hành động nào đó đặt ra. Ví dụ, khi một
29
cá nhân, một cơ quan hay một tổ chức nào đó nhìn thấy/nhận ra cần phải cải cách/thay đổi một vấn đề gì đó của một cộng đồng nào đó và xây dựng một dự án/một chương trình để thục hiện kế hoạch cải cách đó (Ví dụ xây dựng một nhà trẻ của cộng đồng). Sau một thời gian thuyết phục chính quyền địa phương, cơ quan tài chính cũng như nhiều cách huy động nguồn lực khác, những người khởi xướng ý tưởng đã có đủ tiền cần thiết để thực hiện dự án/chương trình đề ra. Mục tiêu được đặt ra và là mục tiêu duy nhất của dự án rất cụ thể: cải cách một vấn đề gì đó trong cộng đồng (với ví dụ nêu trên thì xây dựng nhà trẻ của làng là “nội dung cụ thể” của một mục tiêu). Thời gian là một yếu tố tối quan trọng, vì thế, những người khởi xướng dự án đặt ra mục tiêu thực hiện sự cải cách càng nhanh càng tốt với một cách thức càng đơn giản càng tốt. Tuỳ thuộc vào tính chất, nội dung và yêu cầu của dự án/chương trình mà những người khởi xướng này có thể phải dùng một, một vài, thậm chí rất nhiều phương pháp khác nhau để đạt đuợc mục tiêu cải cách đã đặt ra. Trong một số trường hợp, họ chỉ cần làm việc, thuyết phục chính quyền địa phương hoặc một nhóm đối tượng nào đó; trong nhiều trường hợp khác họ có thể phải vận động, thuyết phục nhiều tổ chức khác nhau và nhiều người dân trong cộng đồng. Nhưng dù có sử dụng bao nhiêu phương pháp đi nữa thì mục tiêu duy nhất đặt ra trong đầu những người khởi xướng này là mục tiêu mà họ dự kiến cải cách, những phương pháp được áp dụng chẳng qua chỉ là điều kiện ở khía cạnh lương tâm và chuẩn mực đạo đức của nhóm khởi xướng mà thôi. Kết quả của tiến trình này thường được đo lường theo mức độ, kết quả của sự cải cách đã được dự kiến. Nếu dự án thành công thì tiến trình diễn ra trong một chừng mực nhất định là bài học tốt, có ích cho cộng đồng, nhưng nếu dự án không thành công thì khó có thể nói gì về kinh nghiệm thu được. Bên cạnh kết quả các thành công hay thất bại của dự án, luôn có một số hệ quả đi kèm: những cá nhân/cơ quan/tổ chức khởi xướng dự án có thể gắn chặt hơn với cộng đồng hay cách xa hơn lúc ban đầu. Người dân trong cộng đồng có thể rất tự hào về kết quả dự án nhưng cũng có thể rất thất vọng về dự án. Tiếng tăm của cộng đồng vì thế mà có thể tăng lên hoặc giảm đi. Thái độ tin tưởng hay hoài nghi vào người ngoài cũng là những hệ quả đi kèm với kết quả thành công hay thất bại của dự án. Tuy nhiên, do mục tiêu của dự án chỉ là sự cải cách nên người ta thường không đánh giá, không nút ra những bài học thành công hay thất bại của những hệ quả đi kèm, mà đó chính là vấn đề hết sức quan trọng.
Mục tiêu tổng thể hay “Nội dung tổng thể”của mục tiêu: Là kết quả đạt được của một hoạt động nhất định nào đó đòi hòi phải có sự tham gia của một
30
số đối tượng khác. Ví dụ, một nhóm người, một hiệp hội hay một cơ quan nào đó, xuất phát từ yêu cầu công việc của mình, đặt ra mục tiêu phối hợp hoạt động giữa các đơn vị cung cấp một loại dịch vụ nhất định nào đó ở một cộng đồng cụ thể nào đó (ví dụ hội đồng phúc lợi xã hội ở cộng đồng muốn phối hợp hoạt động giữa các đơn vị cung cấp dịch vụ an sinh xã hội hiện có, nâng cao chất lượng dịch vụ, mở rộng hoạt động đối tượng và bổ sung những dịch vụ khác chưa có)... Mục tiêu này không mang tính cải cách đơn thuần mà có tính tổng thể hơn, phải lập kế hoạch phối hợp, lồng ghép và vận hành một cách hiệu quả của một nhóm người hoặc một nhóm các dịch vụ ở cộng đồng. Phối hợp hoạt động giữa các đơn vị/cơ quan/tổ chức độc lập này không thể mang tính áp đặt/bắt buộc, vì thế, các đơn vị/cơ quan/tổ chức này phải tham gia, trong một chừng mực nhất định vào quá trình lập kế hoạch phối hợp, lồng ghép và quá trình ra quyết định về những vấn đề liên quan đến sự phối hợp. Ngoài ra, vì hoạt động này thực hiện trong khuôn khổ của cộng đồng nên cần được sự ủng hộ của những người có trách nhiệm, có quyền uy ở địa phương, thường là có sự tham gia của “các bộ phận quyền lực” vào tiến trình quy hoạch phối hợp, lồng ghép. Mục tiêu, trong trường hợp này đòi hỏi phải có sự tham gia của một số nhóm khác nhau, những người có liên quan và những người có ảnh hưởng trong cộng đồng trong quá trình lập kế hoạch, tìm cách phối hợp... Nếu không có sự tham gia của họ ngay từ khi lập kế hoạch thì sẽ không có một kế hoạch thống nhất. Để đạt được sự thống nhất giữa nhiều cơ quan/tổ chức/nhiều người đại diện cho nhiều quyền lợi khác nhau sẽ là một vấn đề không dễ, vì thế, thời gian để đạt được mục tiêu này không thể định được một cách nhanh chóng nữa.
Kết quả thu được từ cách tiếp cận này là sự cải cách, phát triển trong một lĩnh vực nào đó của cuộc sống cộng đồng là khá ổn định, đó là mục đích thứ nhất; mục đích thứ hai là phát triển được nhóm những công dân có mong muốn, có hiểu biết về nhu cầu của cộng đồng về phúc lợi xã hội. Ở đây cũng sẽ có những hệ quả khác đi kèm nhưng ít nhất mục tiêu thứ nhất và mục tiêu thứ hai đã được công bố.
Ở phương pháp tiếp cận thứ hai này, người ta quan tâm đến cả việc xây dựng kế hoạch và việc phát triển quyền lực để thực hiện kế hoạch đó. Đây là điểm khác biệt với cách tiếp cận thứ nhất. * Mục đích hay là “tiến trình”của mục tiêu. Mục đích hoạt động của một cộng đồng không mang tính chất “nội dung” như hai mục tiêu trên đây mà nó là sự tiếp diễn của một quá trình dài hạn. Mục đích này không phải là nội dung kiểu như cơ quan, tổ chức, dịch vụ về một lĩnh vực cụ thể nào mà từ
31
việc khởi xướng, nuôi dưỡng do người dân cộng đồng trực tiếp tham gia hoặc gián tiếp thông qua những người đại diện của họ, từ việc xác định cho đến việc tổ chức hành động giải quyết một vấn đề gì đó của cộng đồng. Ở đây, người ta nhấn mạnh tới sự hợp tác và sự đoàn kết giữa tất cả các nhóm khác nhau trong cộng đồng. Đến lúc, người dân có đủ năng lực làm việc cùng nhau để giải quyết mọi vấn đề nảy sinh trong cộng đồng. Động cơ, trách nhiệm và kĩ năng trong công việc nhìn nhận vấn đề cùng nhau giải quyết vấn đề của người dân được tăng lên và trở thành khát vọng, khát vọng đổi mới cộng đồng. Mục tiêu không phải là giải quyết một vấn đề cụ thể nhưng kết quả là phát triển năng lực và sự hội nhập của cộng đồng như một đơn vị thống nhất để giải quyết vấn đề chung nào đó của cộng đồng.
Phương pháp tiếp cận này chú trọng nhiều tới sự tham gia của đại diện các nhóm trong cộng đồng thông qua việc chấp nhận những người lãnh đạo của các nhóm này, dần dần phát hiện những vấn đề chung mà cộng đồng đang phải đối mặt và phát triển những chương trình để mọi người cùng chia sẻ. Ở đây, thời gian không phải là yếu tố tiên quyết, không thể giục giã, thúc bách sự hình thành mối quan hệ làm việc giữa các nhóm khác nhau, điều quan trọng là lãnh đạo các nhóm cảm thấy các bước đi thích hợp, thoái mái.
Kết quả tìm thấy ở phương pháp này là, thứ nhất, năng lực của một bộ phận lớn người dân trong cộng đồng hợp tác giải quyết vấn đề chung được nâng lên rõ rệt. Mục tiêu tiếp theo là những hành động hướng tới vấn đề chung nào đó và dần dần các vấn đề được giải quyết tận gốc. Lúc này tồn tại một giả thuyết rằng, khi quá trình hợp tác và đoàn kết giữa mọi người dân trong cộng đồng diễn ra một cách tích cực, cộng đồng sẽ dần dần tìm thấy sức mạnh và nguồn lực để giải quyết những nhu cầu cải cách trong cộng đồng.
Thang đo về mục tiêu được biểu diễn một cách trực quan ở hình dưới đây. Đầu bên trái của thước đo mục tiêu là những mục tiêu cụ thể, là một kế hoạch, một dự án cải cách cụ thể nào đó. Mục tiêu cụ thể này có thể là xây dựng nhà tình thương, có thể là lớp học tình thương cho trẻ em bỏ học sớm, cũng có thể là việc đề cử những người xứng đáng cho cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân xã/ phường... Bắt đầu là từ những dự kiến/ dự án/ kế hoạch. Sau đó là các hoạt động/ chương trình cụ thể. Và cuối cùng là sự thay đổi hành vi/ tập tục xã hội nào đó. Đầu cuối (đầu bên phải) của thang đo mục tiêu này là trị liệu xã hội. Mục tiêu của trị liệu xã hội là nâng cao sự tự nhận thức, sự liên kết và năng lực phối hợp hành động của cộng đồng hướng tới giải quyết những vấn đề của cộng đồng thông qua tiến trình thực hiện những sáng kiến, những khởi xướng của người dân. Mục tiêu ở đây không liên quan trực tiếp
32
tới việc đạt được một nội dung cụ thể như xây dụng nhà tình thương, xây lớp học cho trẻ em lang thang hay đề cử đại biểu mà chú tâm đến tiến trình tự nhận thức và sự hội nhập có thể sẽ đạt được, cũng giống như các thang đo khác, tuỳ thuộc vào cách tiếp cận khác nhau đã miêu tả trên đây mà xác định hiện mình đang ở vị trí nào.
Thang đo mục tiêu mục đích
Thực hiện một công việc/ kế hoạch cụ thể nội dung Thay đổi một hành vi, một tập tục xã hội nào đó (quá trình)
3. Tiếp cận từ góc độ phƣơng pháp Phương pháp được xem xét ở đây chỉ liên quan đến cách thức mà một cơ quan/ tổ chức hay một nhóm người nào đó từ bên ngoài đối xử với cộng đồng. Đó có thể là phương pháp hành chính, áp đặt coi việc lấy ý kiến của người dân như một ý kiến tham khảo hay tệ hơn chỉ là để lấy lòng “người dân địa phương”, hoặc là cách gợi ý để người dân toàn quyền quyết định họ muốn gì, làm gì và làm thế nào. Vai trò của những người ngoài ở đây chỉ là vai trò “xúc tác”.
Trên thang đo về phương pháp (hình thức), đầu mút bên trái của thang đo phương pháp là sự áp đặt. Tại vị trí này, một cá nhân hay một nhóm người nào đó như: nhà tuyên huấn, người truyền bá phương pháp hay một chính trị gia đến thuyết giáo áp đặt cho cộng đồng chấp nhận một ý tưởng có sẵn, một kế hoạch, một dịch vụ hay một công nghệ nào đó mà họ cho là cần thiết đối với cộng đồng. (Hiện nay, ở các nước đang phát triển có một số chuyên gia nước ngoài của các tổ chức quốc tế đến từ các nuớc phát triển mang đến những dự án xây dựng bệnh viện, thuyết phục người dân ở các nước này thay đổi tập quán trồng trọt, chăn nuôi, cung cấp nước sạch, xoá đói giảm nghèo... theo kiểu này). Đầu mút phải của thang phương pháp là phương pháp mà một nguời nào đó đến với cộng đồng, khuyến khích cộng đồng để họ tự nhận thấy và tự quyết định điều gì là quan trọng phải hành động và hành động thế nào cho phù hợp. Ở đây, các chuyên gia quốc tế khuyến khích những người dân ở các nước đang phát triển xác định những vấn đề của mình và hành động theo những quan điểm và nhu cầu của chính họ. Khoảng giữa của hai thái cực điểm mút này là những vị trí, tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể và vấn đề cụ thể mà mỗi cá nhân hay tổ chức nào đó có thể vận dụng một cách thích hợp.
33
Thang đo phương pháp
Dùng phương pháp áp đặt, mệnh lệch, hành chính Dùng phương pháp để người dân tự quyết cho phù hợp
Qua ba cách tiếp cận giải quyết vấn đề của cộng đồng trình bày trên đây, có thể rút ra kết luận chung là: Để xem xét sự can thiệp, giải quyết một vấn đề của một cơ quan/ tổ chức nào đó đến cộng đồng, cần thiết phải xem xét nó, cùng một lúc ở ba góc độ/ chiều cạnh khác nhau. Hay nói cách khác, ba câu hỏi cần trả lời: 1) Thời gian diễn ra hoạt động đó trong bao lâu? (Viện trợ khẩn cấp hay hoạt động kéo dài); 2) Mục tiêu/ mục đích của hoạt động đó là gì? (Chỉ làm một công việc cụ thể, độc lập nào đó hay phải phối hợp với mục tiêu tổng thể, dài hạn để thay đổi hành động, tập quán nào đó của người dân); 3) Phương pháp thực hiện hoạt động đó như thế nào? (là sự áp đặt hay khuyến khích người dân tự quyết).
IV. BA MÔ HÌNH GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ CỘNG ĐỒNG Trên cơ sở lí luận đã được trình bày ở các phần trên về cộng đồng, về những nhóm vấn đề mà cộng đồng thường phải đối mặt và về những yếu tố cần thiết phải xem xét khi can thiệp giúp cộng đồng giải quyết vấn đề, có thể đưa ra ba mô hình giải quyết vấn đề cộng đồng như sau:
1. Mô hình giải quyết vấn đề cộng đồng bằng phƣơng pháp hành chính Phương pháp hành chính ở đây có thể do cơ quan hành chính nhà nước thực hiện nhưng cũng có thể do các doanh nghiệp, các tổ chức phi chính phủ thực hiện theo “hợp đồng”, theo “chương trình/ dự án”.
Tuỳ theo mức độ quan tâm nhiều ít nhưng phần lớn nhà nước nào cũng có những chính sách xã hội đáp ứng một phần nhu cầu phát triển xã hội, phát triển cộng đồng. Trong đó, đáng kể đến là các chính sách giáo dục, y tế, chính sách an sinh xã hội, chính sách dân số gia đình, trẻ em, chính sách phát triển nhà ở, xoá đói giảm nghèo, chính sách phòng chống ma tuý, mại dâm, phòng chống tội phạm... Để tổ chức thực hiện tốt các chính sách này, một mặt nhà nước phải hoàn thiện bộ máy hành chính của mình từ trung ương đến địa phương, mặt khác, tạo điều kiện mở rộng mạng lưới các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức tư nhân để thực hiện các chính sách đó. Ở đây thực chất là mở rộng sự tham gia của người dân vào giải quyết vấn đề của cộng đồng. Với phương pháp tiếp cận này, bộ máy công chức nhà nước thực thi nhiệm vụ
34
đúng như phạm vi quyền hạn và trách nhiệm của mình, đúng chính sách pháp luật quy định. Những vấn đề xã hội nổi cộm của mọi quốc gia thường cũng xuất phát từ nhũng vấn đề nảy sinh từ các cộng đồng nào đó không được hưởng lợi từ các chính sách xã hội của nhà nuớc.
Ưu điểm cơ bản của phương pháp này là nhanh gọn, bộ máy nhân viên tinh nhuệ, chuyên nghiệp, có nguồn lực từ ngân sách nhà nước. Nhược điểm của phương pháp này là cứng nhắc, nhiều khi máy móc. Nhiều lĩnh vực của cộng đồng nếu Nhà nước không có chính sách thì không có con nguời cũng như nguồn tài chính để thực hiện.
Ví dụ, ở ven thành phố Huế có một bộ phận người dân sống ở khu ổ chuột. Bằng phương pháp hành chính, thành phố đã từng có dự án hỗ trợ người dân tái định cư bằng cách cấp đất, cấp nhà để họ di chuyển. Người dân, ban dầu nhận nhà, nhận đất rất nhanh, tưởng như giải quyết được vấn đề nhanh gọn trong một khoảng thời gian tương đối ngắn. Nhưng sau một thời gian rất ngắn, người dân lại lục tục kéo về sống ở khu ổ chuột ven bờ thành. Bởi vì vị trí bờ thành khá gần trung tâm, gần chợ Đông Ba, rất tiện cho người dân ngày đi buôn bán làm thuê kiếm tiền, tối về khu ổ chuột ngủ. Tuy nhà nước cấp nhà/ cấp đất nhưng ở xa, họ không thể ngồi nhà để chết đói, vậy nên họ lại bán nhà/ bán đất về lại cộng đồng “ổ chuột" cũ.
2. Mô hình giải quyết vấn đề cộng đồng bằng biện pháp kinh tế Trong điều kiện kinh tế thị trường, các dịch vụ xã hội được phát triển sâu rộng ở tất cả các khía cạnh đời sống con người, ở tất cả các khu vực, kể cả vùng sâu vùng xa, vùng nông thôn, miền núi. Bên cạnh những dịch vụ xã hội truyền thống do nhà nước cung cấp như y tế, giáo dục, an sinh xã hội, hệ thống dịch vụ do tư nhân, do thị trường cung cấp mở ra nhiều cơ hội để đáp ứng nhu cầu rộng rãi của các tầng lớp dân cư. Các dịch vụ phòng khám tư nhân, bệnh viện tư nhân, vệ sinh môi trường, cung cấp nước sạch, vườn trẻ, nhà mẫu giáo, trường học tư thục, tổ chức chăm sóc trẻ em tại nhà, lau dọn nhà cửa cho đến các dịch vụ tư vấn tâm lí, chăm sóc người cao tuổi... đều được thực hiện một cách chu đáo, nếu cộng đồng/khách hàng có tiền để trang trải.
Ưu điểm của hệ thống dịch vụ này có nhiều. Trong đó không thể không đề cập đến là tính chuyên nghiệp cao, tiện lợi, không tốn nhiều thời gian, thủ tục hành chính, chất lượng dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng. Nhược điểm cơ bản của các giải pháp này chính là khía cạnh tài chính. Với người có tiền thì đây là loại dịch vụ thuận tiện nhất, với người không có tiền thì đây là sự bất bình đẳng xã hội trong tiếp cận các dịch vụ, là sự cám dỗ với một số
35
người cần phải làm mọi cách, kể cả bất hợp pháp để kiếm tiền phục vụ cho nhu cầu của mình.
3. Mô hình giải quyết vấn đề của cộng đồng bằng “phát triển cộng đồng” Bên cạnh những cách giải quyết cộng đồng theo hình thức hành chính, theo cách của thị trường, còn có một cách khác, đó là cách nâng cao năng lực của người dân, giúp người dân biết đoàn kết lại để giải quyết vấn đề của mình. Phương pháp này dựa trên một gia thuyết khoa học quan trọng: nếu người dân có năng lực, nếu họ muốn thay đổi và họ được tập hợp đoàn kết lại với nhau thì họ sẽ tìm thấy sức mạnh và nguồn lực cần thiết để giải quyết vấn đề cộng đồng, thay đổi bộ mặt cộng đồng. “Phương pháp phát triển cộng đồng được hình thành tạo ra những cái thiện về kinh tế và xã hội cho cộng đồng, nhấn mạnh tầm quan trọng của sự tham gia của quần chúng, biết định hướng nhu cầu, tự lực nâng cao ý thức, phương pháp phát triển từ cơ sở và tăng quyền lực cho cộng đồng. Trọng tâm của phương pháp này là sự hội nhập và tính bền vững”. Phương pháp phát triển cộng đồng đặt nền móng trên giả định rằng phát triển bắt đầu ở cấp thấp nhất. Sáng kiến, sự sáng tạo và năng lực của quần chúng được sử dụng để cải thiện chính cuộc sống của họ thông qua những tiến trình dân chủ và những nỗ lực tự nguyện.
Phương pháp phát triển cộng đồng bao hàm việc nâng cao ý thức quần chúng ở cấp thấp nhất để đánh thức nhận thức và năng lực của nhóm đối tượng này cho tới việc mọi thành viên của cộng đồng được tổ chức lại một cách dân chủ để: 1) Xác định những nhu cầu, những vấn đề, những khỏ khăn của cộng đồng mình; 2) Tìm ra những cách thức, những chiến lược để đáp ứng nhu cầu; 3) Thực hiện những kế hoạch, chiến lược với sự tham gia tối đa của cộng đồng để đạt được mục tiêu đề ra.
Quay trở lại câu chuyện của xóm ổ chuột ở tường thành của thành phố Huế. Nếu để người dân tham gia bàn bạc trước khi xây dựng dự án, người dân sẽ nói họ cần gì, làm thế nào để môi trường sống của cộng đồng được cái thiện, bộ mặt thành phố đẹp hơn, mà nhà nước không tốn nhiều tiền hơn số tiền đã chi thì công việc ắt đã tốt hơn nhiều.
V. PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG Trong những phương pháp tiếp cận để giải quyết các vấn đề của cộng đồng có một phương pháp tiếp cận đuợc Liên hợp quốc cũng như nhiều tổ chức quốc tế đã và đang quan tâm phát triển, vận dụng một cách có hiệu quả ở những nước đang phát triển, đặc biệt là những nước nghèo, khi đòi hỏi của phát triển là một thách thức lớn trong khi các điều kiện xã hội còn thấp kém, trình độ dân trí chưa đáp ứng nhu cầu, sự tham gia của người dân chưa thật
36
tích cực, chưa được rộng rãi, dân chủ chưa mở rộng..., đó là phương pháp phát triển cộng đồng. Nội dung dưới đây sẽ làm rõ tất cả các khía cạnh có liên quan đến phát triển cộng đồng và phương pháp phát triển cộng đồng.
1. Khái niệm về phát triển cộng đồng Có rất nhiều khái niệm về phát triển cộng đồng. Theo Từ điển bách khoa toàn thư Wikipedia thì: “Phát triển cộng đồng” hay nói một cách khái quát/ không chính thức “xây dựng cộng đồng” là một khái niệm rộng/ áp dụng trong thực tiễn hoặc trong chương trình đào tạo những người lãnh đạo dân sự, những “tích cực viên” làm việc với người dân và các nhà chuyên môn để cải thiện các lĩnh vực cộng đồng địa phương”. “Phát triển cộng đồng” là tiến trình tạo dựng/ trao quyền (empower) cho cá nhân và nhóm người bằng cách cung cấp những kĩ năng cần thiết để họ có thể thay đổi cộng đồng của chính mình”.
Theo Flo Frank và Anne Smith, trong Sổ tay Phát triển cộng đồng (The community development handbook) thì: “Phát triển cộng đồng là sự chuyển biến/ thay đổi theo chiều hướng tốt lên một cách có kế hoạch mọi mặt của đời sống cộng đồng (kinh tế, xã hội, môi trường và văn hoá). Phát triển cộng đồng là một tiến trình mà ở đó mọi thành viên cộng đồng cùng nhau thực hiện công việc tập thể và cùng nhau đưa ra những giải pháp cho những vấn đề chung. Phạm vi của phát triển cộng đồng rất đa dạng, từ những sáng kiến nhỏ trong những nhóm nhỏ nhất cho tới những sáng kiến lớn, thu hút cả cộng đồng”.
Theo Liên hợp quốc, trong Tiến bộ xã hội thông qua phát triển cộng đồng (1955) thì “Phát triển cộng đồng” có thể định nghĩa “là tiến trình tạo dựng điều kiện cho sự tiến bộ về kinh tế và xã hội của cộng đồng với sự tham gia tích cực và với lòng tin tuyệt đối của các tầng lớp dân cư trong cộng đồng”. (Các tầng lớp dân cư ở đây là bao gồm tất cả người dân và tổ chức tự nguyện của dân - TG).
Trong tài liệu khác của Liên hợp quốc có viết như sau: “Thuật ngữ “Phát triển cộng đồng” được sử dụng để chỉ một chương trình theo phương pháp tiếp cận và kĩ thuật dựa vào cộng đồng sở tại như một đơn vị hành động nhằm kết hợp sự trợ giúp từ bên ngoài với những nỗ lực, quyền tự quyết/ tự xác định được tổ chức lại và từ đó, khuấy động/ khuyến khích sáng kiến và sự lãnh đạo của địa phương, coi đó như công cụ tiên quyết để thay đổi... Với các nước nông nghiệp và các khu vực chậm phát triển thì trọng tâm chủ yếu đặt vào các hoạt động cải thiện điều kiện sống cơ bản của cộng đồng, bao gồm cả việc thoả mãn một số nhu cầu phi vật chất của cộng đồng”.
Alison Gilchris trong bài tham luận Some thoughts on the value of the values-base for communiiy development (Một số về giá và hệ giá trị của cộng
37
đồng) có đề cập: “Phát triển cộng đồng là tiến trình tăng cường mối quan hệ trong cộng đồng và giữa cộng đồng với các tổ chức để củng cố cơ sở cho các hành động tập thể và hoạt động đối tác. Điều này bao gồm cả việc thay đổi mối quan hệ quyền lực cũng như mở rộng tầm với của mạng lưới các nhóm xã hội”.
Tiến sĩ Mark A. Brennan - PGS. Trường Đại học Tổng hợp Florida (Mĩ) trong tài liệu Toward a Consistent Definition of Community Development (Hướng tới môt khái niệm nhất quán về phát triển cộng đồng) nêu ý kiến: “Duới góc độ tương tác, phát triển cộng đồng, được nhìn nhận nhu tiến trình năng động có sự tham gia của nhiều nhóm xã hội”. Theo tác giả này thì trong mỗi cộng đồng có nhiều nhóm người khác nhau, những người này hành động thông qua nhóm để đạt được những quyền lợi và mục đích khác nhau. Tìm kiếm nhu cầu chung của tất cả các nhóm đó và liên kết họ lại với nhau chính là trọng tâm của phát triển cộng đồng. Đáp ứng nhu cầu chung của các nhóm đó, một mặt, làm cho tổng thể cộng đồng phát triển hơn, mặt khác để củng cố các thiết chế của cộng đồng. Hơn thế nữa, mỗi nhóm có vô số những kinh nghiệm, những kỉ năng và phương pháp xác định nhu cầu và vấn đề. Liên kết được những tài nguyên đó lại với nhau tức là huy động tối đa nguồn lực địa phương cho các chương trình phát triển, ông cũng nói thêm: “Khi ở một nơi nào đó, có một dự án cụ thể nào đó đeo đuổi mục đích xây dựng mối quan hệ xã hội và mạng lưới giao tiếp thì ở đó sẽ có phát triển cộng đồng”.
Các khái niệm trên đây có những ranh giới khác biệt, rộng hẹp khác nhau tùy vào quan điểm tiếp cận, mục đích sử dụng của các tác giả. Tuy có sự khác biệt đó, nhưng những khái niệm trên cũng có những điểm rất chung.
Để có một khái niệm làm cơ sở sử dụng thống nhất, trong tài liệu này,
chúng ta sẽ thống nhất khái niệm phát triển cộng đồng như sau:
Phát triển cộng đồng là tiến trình giải quyết một số vấn đề, khó khăn để đáp ứng nhu cầu của cộng đồng, hướng tới sự phát triển không ngừng về đời sống vật chất, tinh thần của người dân thông qua việc nâng cao năng lực, tăng cường sự tham gia đoàn kết, phối họp chặt chẽ giữa, người dân với nhau, giữa người dân với các tổ chức và giữa các tổ chức với nhau trong khuôn khổ lao động.
Với khái niệm phát triển cộng đồng như trên, có thể coi phát triển cộng
đồng như:
1/ Một chương trình hoạt động xã hội; 2/ Một phong trào hoạt động xã hội; 3/ Một phương pháp hoạt động xã hội; 4/ Một quá trình xã hội;
38
5/ Một lĩnh vực nghiên cứu; 6/ Một quan điểm/triết lí xã hội; 7/ Một hệ thống lí luận.
2. Bản chất của phát triển cộng đồng Từ khái niệm phát triển cộng đồng đã nêu trên, có thể thấy phát triển cộng đồng là rất rộng, có nhiều cách hiểu khác nhau. Thực tế phát triển cộng đồng diễn ra ở nhiều nước cũng rất khác nhau.
Để hiểu đúng khái niệm trên đây, góp phần làm rõ bản chất của phát triển cộng đồng, đặc biệt là bản chất của phạm trù này trong bối cảnh của Việt Nam, chúng ta lần lượt làm sáng từ một số điểm mấu chốt sau.
2.1. Mục đích/ mục tiêu của phát triển cộng đồng Đây là một vấn đề đã được bàn cãi, tranh luận nhiều. Các khái niệm đã trích dẫn trên cho thấy có sự khác biệt trong mục tiêu đặt ra của phát triển cộng đồng. Một số khái niệm đề cập rất cụ thể mục tiêu hướng tới của phát triển cộng đồng là làm thay đổi bộ mặt cộng đồng, thay đổi mọi mặt của cuộc sống: kinh tế, xã hội, môi trường..., của cộng đồng. Tuy nhiên, cũng có nhiều khái niệm đặt mục tiêu rộng lớn hơn, dài hạn hơn. Như trong khái niệm của Liên hợp quốc thì mục tiêu phát triển cộng đồng là “tạo dựng/chuẩn bị các điều kiện cho sự thay đổi” chứ chưa phải là sự thay đổi.
Bản chất của các cuộc tranh luận về mục đích của phát triển cộng đồng chính là điểm này: mục tiêu của phát triển cộng đồng là để nâng cao năng lực/ tạo quyền cho người dân để sau đó họ tự thay đổi cuộc sống của chính mình hay mục tiêu của nó chỉ cần thay đổi cuộc sống của người dân bằng bất cứ cách nào?
Sỡ dĩ có sự tranh luận này vì có nhiều người vẫn cho rằng, để giải quyết một vấn đề gì đó trong cộng đồng hoặc đáp ứng một số nhu cầu nào đó của cộng đồng thì chỉ cần tìm được một đối tác/ một cơ quan/ một tổ chức cung cấp dịch vụ trong lĩnh vực phù hợp xây dựng dự án, thậm chí có sự tham khảo, sự tham gia rộng rãi của người dân và rồi thực hiện dự án đó, chuyển giao công nghệ hoặc bàn giao sử dụng cho cộng đồng là vấn đề được giải quyết hoặc nhu cầu đáp ứng mà không cần tới việc nâng cao năng lực hoặc tạo/trao quyền gì khác cho người dân.
Những cuộc tranh luận như trên đã dần dần làm sáng tỏ một chân lí
rằng, con người - thành viên cộng đồng là trung tâm phát triển cộng đồng.
Phát triển cộng đồng là phát triển con người và vì con người. Thước đo của sự phát triển là sự thể hiện ở tiềm năng và khả năng làm chủ môi trường của con người.
39
Mục tiêu của sự phát triển cộng đồng trước hết là mục tiêu con người chứ không phải là những tiến bộ về vật chất. Những tiến bộ về vật chất mà không đi cùng với sự phát triển khả năng của con người và định chế của xã hội thì đó là sự phát triển hời hợt và tạm bợ.
- Cải thiện, cân bằng về vật chất và tinh thần của con người thông qua
- Củng cố thiết chế về vật chất xã hội để tạo điều kiện thuận lợi cho
Dựa trên quan điểm này, kết hợp với căn cứ khoa học đã nêu trong thang đo về mục tiêu, trong mục tiêu của phát triển cộng đồng, chúng ta có: 1) Mục tiêu cụ thể/ “mục tiêu nội dung”: những cái tốt/những thay đổi tức thì mà phát triển cộng đồng phải đạt được; 2) Mục tiêu tổng thể: những thay đổi có tính hệ thống chúng ta cần đạt được trong quá trình “Phát triển cộng đồng”; 3) Mục tiêu chiến lược/ “mục tiêu quá trình”. Đây là đích cuối cùng mà “quá trình” phát triển cộng đồng đem lại cho mỗi thành viên, mỗi người dân. Với cách cấu trúc như vậy thì mục đích chung của phát triển cộng đồng là: những chuyển biến, tiến bộ, phát triển xã hội. chuyển biến xã hội và sự tăng trưởng. - Bảo đảm sự tham gia tối đa của người dân vào tiến trình phát triển. - Đẩy mạnh công bằng xã hội bằng cách tạo điều kiện cho các nhóm thiệt thòi nhất nói lên nguyện vọng của mình và tham gia vào các hoạt động phát triển.
2.2. Tiến trình thực hiện phát triển cộng đồng Với mục đích chung như trên, giống như sự nghiệp cách mạng là một sự nghiệp lâu dài, là cuộc đẩu tranh bền bỉ, sự nghiệp phát triển cộng đồng là sự nghiệp lâu dài, thuờng xuyên, mãi mãi. Phát triển cộng đồng không phải là một sự kiện, một hành động/ hoạt động đơn lẻ hay một nhóm các hoạt động ngắn hạn mà nó là một tiến trình/ lộ trình kéo dài đủ để nhiều hoạt động được thực hiện theo kế hoạch, từng bước từng bước phù hợp với điều kiện thực tế của mỗi nước mà cộng đồng là thành viên. Điều kiện thực tế ở đây bao gồm nhận thức, kinh nghiệm của người dân, môi trường kinh tế, chính trị-xã hội và truyền thống văn hoá của đất nước, như dân gian thường nói, sự thay đổi xảy ra khi hội tụ đủ “thiên thời, địa lợi, nhân hoà”. Tiến trình đưa cộng đồng từ yếu kém, thức tỉnh để hành động cho đến phát triển và phát triển bền vững. Trong tiến trình của phát triển cộng đồng có yếu tố xúc tác, tác động từ bên ngoài như xu thế phát triển chung, chính sách phát triển kinh tế vĩ mô, như môi trường dân chủ, tác viên cộng đồng... là cần thiết. Nhưng điều kiện nội tại quan trọng nhất. Bản thân người dân trong cộng đồng, chủ thể của mọi hành động phải nhận thức được sự cần thiết phải thay đổi cuộc sống theo chiều hướng tổt hơn, bình đẳng hơn, tiến bộ hơn, cần tham gia tích cực vào
40
thực tiễn công việc của cộng đồng. Phải tập hợp, tổ chức người dân trong đội ngũ có lãnh đạo, chỉ đạo, có sự phối hợp hành động, có các lãnh đạo giỏi, có đủ bản lĩnh, đủ kiến thức để dẫn dắt nhân dân.
Tiến trình phát triển cộng đồng trong điều kiện, bối cảnh nước ta hiện nay chính là đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa, ước mơ của người dân chính là tiến trình làm cho người dân thực sự làm chủ, bộ máy nhà nước phải thực sự là “của dân”, “do dân” và “vì dân”. Các đoàn thể, tổ chức xã hội phải thực sự là tổ chức hành động của người dân, là trường học, là nơi thể hiện quyền làm chủ thực sự của người dân.
2.3. Chiến lược/ phương pháp phát triển cộng đồng Khác với nhiều phương pháp can thiệp phía ngoài như phương pháp hành chính, phương pháp kinh tế, phương pháp phát triển cộng đồng tập trung vào việc tạo quyền/trao quyền cho người dân bằng cách cung cấp cho họ những kiến thức, những kĩ năng cần thiết để họ tham gia, quyết định và hành động, tăng cường mối quan hệ, sự tương tác giữa người dân với người dân; giữa người dân với các tổ chức; tăng cường sự tham gia của người dân trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội.
Bản chất của phương pháp phát triển cộng đồng là phương pháp chuyển hoá những tư tưởng về phát triển cộng đồng thành những hành động, biến những nguyên tắc, yêu cầu của phát triển cộng đồng thành nhu cầu của người dân.
2.4. Chủ thể của phát triển cộng đồng Một trong những nguyên lí của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”. Chủ thể của cách mạng xã hội là liên minh giai cấp công nhân, nông dân, trí thức và tất cà mọi người lao động yêu nước. Chủ thể của phát triển cộng đồng chính là các tầng lớp nhân dân, thành viên cộng đồng. Dân là nguồn sức mạnh vô tận và vô địch. Cần quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, “chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”, “khổ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
Khi nói đến các tầng lớp nhân dân trong phát triển cộng đồng, cũng cần lưu ý đặc biệt đến nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương, nhóm người thường phải chịu thiệt thòi do bất bình đẳng trong xã hội.
41
Nội dung 3 ________________________________________ CÁC KĨ NĂNG CẦN THIẾT ĐỐI VỚI GIÁO VIÊN CÁC TRUNG TÂM GIÁO DỤC - DẠY NGHỀ ĐỂ LÀM VIỆC VỚI CỘNG ĐỒNG I. NHÓM KĨ NĂNG CƠ BẢN
1. Kĩ năng sử dụng công nghệ thông tin Ngày nay, sự phát triển của công nghệ thông tin đã mang đến cho con người những thành quả vô cùng to lớn. Công nghệ thông tin đã thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống con người. Vì thế, giáo viên không chỉ cần có kĩ năng biết chữ mà còn phải biết sử dụng các phương tiện hữu ích của công nghệ thông tin như vi tính... Điều này sẽ giúp cho giáo viên được giải phóng sức lao động và ngày càng hoàn thiện bản thân hơn.
2. Kĩ năng sử dụng ngoại ngữ Trong xu thế hội nhập ngày nay, ngoại ngữ là công cụ, phương tiện giao tiếp, là những nhịp cầu nối giúp cho con người ở các vùng miền, quốc gia, các nền văn hoá khác nhau hiểu biết nhau hơn, gần gũi nhau hơn. Ngoại ngữ còn tạo cơ hội cho mọi người và đặc biệt là những người làm công tác GDTX vuợt ra khỏi tầm nhìn hạn hẹp trong một cộng đồng, một quốc gia, một dân tộc để có thể vươn cao, vươn xa hoà nhập với các cộng đồng quốc tế. II. NHÓM KĨ NĂNG MỀM
1. Các kĩ năng nhận biết và sống với chính mình 1.1. Tự nhận thức Trước hết, con người, mà đặc biệt là giáo viên các TTGD-DN cần nhận biết và hiểu rõ bản thân, những tiềm năng, tình cảm cũng như những mặt mạnh, mặt yếu, vị trí của mình trong xã hội. Giáo viên cũng cần phải có sự hiểu biết rõ ràng về cội nguồn, về bản sắc dân tộc và nền văn hoá nơi mình đã được sinh ra và lớn lên. Khi con người càng nhận thức được khả năng sử dụng các kĩ năng sống khác một cách có hiệu quả thì càng có khả năng lựa chọn những gì phù hợp với các điều kiện sẵn có với bản thân, với xã hội mà họ sống.
1.2. Tự trọng Sự tự nhận thức đưa đến sự tự trọng khi giáo viên nhận thức được năng lực tiềm tàng của bản thân và vị trí của mình trong cộng đồng, và kiên định giữ gìn những giá trị có ý nghĩa đối với mình trong các tình huống phải lựa chọn giá trị.
1.3. Xác định giá trị Kĩ năng xác định giá trị là khả năng xác định được những gì mà mình cho là quan trọng, là đúng đắn, là có ý nghĩa đối với bản thân, có tác dụng định hướng cho suy nghĩ, tình cảm, niềm tin, thái độ, chính kiến, hành động của bản thân trong cuộc sống. Giá trị ảnh hưởng đến quá trình ra quyết định của mọi người.
42
1.4. Kiên định Kiên định có nghĩa là nhận biết được những gì mình muốn hoặc không muốn trong những hoàn cảnh cụ thể. Tuy nhiên, kiên định còn bao hàm cả khả năng dung hoà được giữa quyền và nhu cầu của mình với quyền và nhu cầu của người khác. Biết cách thể hiện tính kiên định trong mọi hoàn cảnh là quan trọng, bởi lẽ đối với từng đối tượng khác nhau thì có cách thể hiện sự kiên định khác nhau.
1.5. Đương đầu với cảm xúc Trong cuộc sống, con người vẫn thường trải qua những cảm xúc như sợ hãi, phẫn nộ, yêu thương và mong muốn được thừa nhận. Những cảm xúc này hoàn toàn mang tính chủ quan và con người thường hành động/ phản ứng để đáp ứng một cách tức thời đối với tình huống. Chính vì thế mà những hành động/phản ứng đó không thể đoán trước được, có thể dẫn đến những hành động/phản ứng không dựa trên suy luận, logic. Do vậy, cảm xúc có thể dễ dàng đưa con người đến những hành vi nóng vội mà sau này họ phải hối tiếc. Do vậy, kĩ năng đương đầu với cảm xúc là khả năng xác định, nhận biết được những cảm xúc của mình với những nguyên nhân cụ thể của chúng và có những quyết định không để cho những cảm xúc này chi phối.
1.6. Ứng phó với căng thẳng Căng thẳng là một phần hiển nhiên của cuộc sống. Những mối quan hệ bị đổ vỡ, mất người thân, thi cử, những vấn đề của gia đình... là những ví dụ của tình huống gây căng thẳng trong cuộc sống con người. Ở một mức độ nào đó, khi một cá nhân có khả năng đương đầu với sự căng thẳng thì căng thẳng lại có thể là một nhân tố tích cực bởi vì chính những sức ép đó sẽ buộc cá nhân phải tập trung vào công việc của mình và ứng phó một cách thích hợp. Tuy nhiên, sự căng thẳng còn có một sức mạnh huỷ diệt cuộc sống cá nhân nếu sự căng thẳng đó quá lớn và không giải toả nổi. Do đó, cũng như cảm xúc, giáo viên cần phải có khả năng nhận biết sự căng thẳng, nguyên nhân, hậu quả cũng như biết cách ứng phó nó.
1.7. Đạt mục tiêu Mục tiêu là điều mà chúng ta muốn thực hiện, muốn đạt tới. Mục tiêu có thể là sự hiểu biết (muốn biết về một cái gì đó), là một hành vi (làm được cái gì đó), hay là một sự thay đổi về thái độ. Tuy nhiên, nói về một mục tiêu thì dễ hơn nhiều so vói việc thực hiện được mục tiêu. Vì vậy, một mục tiêu có tính khả thi phải đảm bảo các yêu cầu sau: - Cụ thể, có thể đo, đếm được; - Thực tế, không quá khó, có thể đạt được;
43
- Có mức độ, thời hạn; - Có định hướng hành động. 2. Các kĩ năng nhận biết và sống với ngƣời khác 2.1. Giao tiếp có hiệu quả Giao tiếp là bản chất của các mối quan hệ của con người. Do vậy, một trong những kĩ năng sống quan trọng nhất là có khả năng giao tiếp có hiệu quả với mọi người. Giao tiếp có hiệu quả bao gồm: lắng nghe tốt để hiểu đúng người khác và khả năng truyền đạt một cách rõ ràng để người khác hiểu mình. Trong một số trường hợp cần cả khả năng truyền đạt cảm xúc của bản thân, có nghĩa là diễn tả được cảm xúc của bản thân về một sự vật, sự việc, hiện tượng hoặc về một người nào đó. 2.2. Cảm thông với người khác Bày tỏ sự cảm thông bằng cách tự đặt mình vào vị trí người khác, đặc biệt khi phải đương đầu với những vấn đề nghiêm trọng do hoàn cảnh hoặc do hành động của chính những người đó gây ra. Cảm thông có nghĩa là hiểu và coi trọng hoàn cảnh của người khác như của chính mình và tìm cách chia sẻ, giảm bớt gánh nặng với người đó. Cảm thông cũng đồng nghĩa với việc hỗ trợ người đó để họ có thể tự quyết định và đứng vững trên đôi chân của mình một cách nhanh chóng nhất.
2.3. Đứng vững trước áp lực tiêu cực của người khác (biết từ chối) Đứng vững trước áp lực tiêu cực của người khác có nghĩa là bảo vệ những giá trị niềm tin của bản thân nếu phải đương đầu với những ý nghĩ hoặc việc làm trái ngược của người khác. Trường hợp người thân hoặc bạn bè, đồng nghiệp đưa ra những đề xuất không thể chấp nhận được, giáo viên phải dừng ngay những việc mà họ tin là sai hoặc phải có khả năng bảo vệ quyết định của mình dù điều đó sẽ làm cho họ gặp sự đe doạ, chế nhạo hoặc ghẻ lạnh của người khác. 2.4. Tự bảo vệ Trong cuộc sống, có rất nhiều tình huống chứa đựng những rủi ro hoặc cám dỗ, nếu không có kĩ năng tự bảo vệ, giáo viên có thể bị tổn thương về danh dự, nhân phẩm, thân thể, sức khoẻ, tính mạng. Để tự bảo vệ mình, giáo viên cần phải nhận dạng được các tình huống có nguy cơ và biết ứng phó khi bị lợi dụng hoặc xâm hại. 2.5. Thương lượng Thương lượng là một kĩ năng quan trọng trong mối liên hệ giữa các cá nhân với nhau. Nó liên quan đến tính kiên định, sự cảm thông cũng như khả năng thoả hiệp những vấn đề không có tính nguyên tắc của bản thân. Nó còn
44
liên quan đến khả năng đương đầu với những hoàn cảnh đe doạ hoặc rủi ro tiềm tàng trong các mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau, kể cả sức ép của người thân, bạn bè. 2.6. Hợp tác Kĩ năng hợp tác giúp giáo viên có khả năng chia sẻ trách nhiệm, biết cam kết và cùng làm việc với những thành viên khác trong nhóm (có thể là nhóm nhỏ gồm hai hoặc ba người, cũng có thể là nhóm lớn: một tập thể cơ quan, một cộng đồng hay một quốc gia). Ngoài ra, kĩ năng hợp tác còn giúp cá nhân đạt được sự hài hoà và tránh được xung đột với người khác. Mỗi cá nhân đều có những mặt mạnh, mặt yếu riêng. Sự hợp tác trong nhóm giúp giáo viên đóng góp năng lực sở trường riêng đối với các hoạt động chung của nhóm, đồng thời lại có thể được học tập và chia sẻ kinh nghiệm từ các thành viên khác.
3. Các kĩ năng ra quyết định một cách hiệu quả 3.1. Tư duy phê phán Trong thời đại ngày nay, con người phải đối mặt với nhiều vấn đề, nhiều thông tin đa dạng, phức tạp, nhiều chiều... Do vậy, để đưa ra được những quyết định phù hợp, con người (đặc biệt là giáo viên GD-DN) cần có khả năng phân tích, phê phán các vấn đề, các thông tin phức tạp mà môi trường sống đưa tới.
3.2. Tư duy sáng tạo Tiếp cận với các sự việc mới, ý tưởng mới, cách sắp xếp và tổ chức mới được gọi là tư duy sáng tạo. Tư duy sáng tạo là kĩ năng sống quan trọng bởi vì con người thường bị đặt vào những hoàn cảnh bất ngờ và không bình thường, trong hoàn cảnh đó đòi hỏi con người phải có tư duy sáng tạo để đáp ứng một cách phù hợp.
3.3. Ra quyết định Hằng ngày, mỗi người đều phải ra quyết định, có những quyết định tương đối đơn giản có thể không ảnh hưởng đến sức khoẻ, định hướng cuộc sống, nhưng cũng có thể có những quyết định nghiêm túc liên quan đến các mối quan hệ, công việc, tương lai... hoặc trong một tình huống có nhiều lựa chọn, để ra một quyết định đồng thời cũng phải ý thức được các tình huống có thể xẩy ra do sự lựa chọn của mình. Do vậy, điều quan trọng là phải lường được những hậu quả trước khi đưa ra quyết định.
3.4. Giải quyết vấn đề Giải quyết vấn đề liên quan tới kĩ năng ra quyết định và cần nhiều kĩ năng khác tương tự, nhưng chỉ có qua thực hành việc ra quyết định và giải
45
quyết vấn đề thì giáo viên mới có thể có những lựa chọn tốt nhất trong bất kì hoàn cảnh nào mà họ gặp phải trong cuộc sống.
3.5. Giải quyết mâu thuẫn Kĩ năng giải quyết mâu thuẫn sẽ giúp giáo viên nhận thức được vấn đề nảy sinh mâu thuẫn và giải quyết những mâu thuẫn đó với thái độ tích cực, không dùng bạo lực. Kĩ năng giải quyết mâu thuẫn khác với kĩ năng giải quyết vấn đề ở chỗ nó vừa phải thoả mãn nhu cầu, yêu cầu và quyền lợi đôi bên, vừa giải quyết được cả mối quan hệ giữa các bên một cách hoà bình.
Lưu ý, trên thực tế các kĩ năng sống này thường không hoàn toàn tách rời nhau mà trái lại có liên quan chặt chẽ đến nhau, ví dụ, khi cần ra quyết định một cách đúng đắn thì những kĩ năng sau thường được vận dụng kết hợp với nhau: tự nhận thức; thu thập thông tin; tư duy phê phán; tư duy sáng tạo; xác định giá trị.
Để giao tiếp một cách có hiệu quả cần phối hợp những kĩ năng sau: tự
nhận thức; tư duy phê phán; chia sẻ / cảm thông; thương lượng.
Trong học tập GDTX có sử dụng phương pháp tiếp cận cùng tham gia, sự tập trung chủ yếu là hướng vào việc học tập của học viên chứ không phải tập trung vào việc dạy của giáo viên. Trong dạy học cùng tham gia, mọi người đều có thể là một nguồn thông tin, vai trò chủ yếu của giáo viên là tổ chức, động viên, hướng dẫn, gợi ý, hỗ trợ người học tìm ra nguồn thông tin thích hợp và tự khám phá, tự phát triển và giải quyết vấn đề. Dạy học cùng tham gia tạo nên sự tin tưởng, tôn trọng người học, đề cao kinh nghiệm và hiểu biết đã có của người học. Người học được tham gia tích cực vào các hoạt động học tập do giáo viên thiết kế dựa trên mục tiêu, nội dung, tính chất của chủ đề học tập.
Các hoạt động giáo dục kĩ năng sống rất phong phú, đa dạng, có thể là thảo luận, xử lí tình huống, phân tích trường hợp điển hình, đóng vai, chơi trò chơi, bày tỏ ý kiến, thái độ về các vấn đề có liên quan. Điều quan trọng là làm như thế nào để học viên có thể tham gia một cách thoái mái, tự tin. Giáo viên cần xây dựng bầu không khí cởi mở, thân thiện, hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau trong lớp học, cần tăng cường khen ngợi, động viên khích lệ học viên và tránh thái độ phê phán, coi thường, không quan tâm chú ý đến ý kiến của học viên.
Cần sử dụng tốt các phương pháp tạo sự tương tác và vai trò tham gia của học viên trong việc học và thực hành kĩ năng sống, cần lưu ý vận dụng nguyên tắc lấy người học làm trung tâm, dựa vào kinh nghiệm sống và nhu cầu của học viên, với mục đích là nhằm nâng cao nhận thức của người học đễ họ có được kĩ năng quyết định và xử lí vấn đề đạt hiệu quả.
46
Tuy nhiên, khi tiến hành giáo dục kĩ năng sống cho học viên là phụ nữ và trẻ em gái cần lưu ý những khó khăn của họ, bởi vì phụ nữ và trẻ em gái thường là những người thiệt thòi trong cộng đồng nên họ thường có những khó khăn riêng trong học tập. Nguyên nhân là do:
- Bận bịu hơn với công việc nội trợ gia đình, chăm sóc bố mẹ, chồng,
con cái; ít giao tiếp, ít tham gia các hoạt động xã hội; - Dễ mặc cảm, tự ti, ngại ngùng, xấu hổ; - Phụ thuộc vào chồng và gia đình nhà chồng; - Dễ mệt mỏi; - Ít thời gian nhàn rỗi. Khi tiến hành giáo dục kĩ năng sống cho học viên cần chú ý một số vấn
đề sau:
- Cần tôn trọng họ với tư cách là học viên người lớn đã có những kinh
nghiệm và hiểu biết thực tế về cuộc sống, sản xuất.
- Cần phải thông cảm, chia sẻ với hoàn cảnh khó khăn của họ, giúp họ
giải quyết những khó khăn, vướng mắc, cản trở việc học tập của họ.
- Cần cung cấp cho họ những nội dung học tập thiết thực, những kiến thức, kĩ năng sống cần thiết để họ đảm đương tốt vai trò của mình trong thời đại ngày nay.
- Cần tạo điều kiện tối đa cho họ được tham gia, được phát biểu, được
trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm.
- Cần tạo không khí học tập vui vẻ, nhẹ nhàng, thường xuyên động
viên khuyến khích họ.
Giáo dục kĩ năng sống cho học viên ở các TTGD-DN không phải là dạy những kĩ năng riêng biệt mà phải lồng ghép vào các nội dung giáo dục khác nhau như các chuyên đề về nuôi dạy con cái, dinh dưỡng, chăm sóc sức khoẻ, bảo vệ môi trường, sản xuất tăng thu nhập, làm kinh tế, nghề phụ... Vì vậy, hình thức giáo dục kĩ năng sống cho học viên GDTX phải rất linh hoạt, đa dạng, có thể là: - Lớp tập huấn, chuyển giao khoa học kĩ thuật; - Lớp học chuyên đề, học đầu bờ; - Câu lạc bộ; - Sinh hoạt nhóm, sinh hoạt tập thể; - Sinh hoạt văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao; - Tham quan, thực tế; - Thi biểu diễn văn nghệ, tiểu phẩm, thi nấu ăn, cắm hoa...
47
Một số phương pháp có thể giúp học viên GDTX chủ động tham gia một cách tích cực vào học tập và thực hành kĩ năng sống là: thảo luận nhóm; động não, đóng vai, nghiên cứu tình huống, tranh luận, dùng phiếu thăm dò, kể chuyện, trò chơi... Mỗi phương pháp đều có những tác động riêng. Do vậy, khi sử dụng các phương pháp này cần chú ý phối kết hợp các phương pháp. Có như vậy, việc học tập và thực hành các kĩ năng sống mới thực sự có hiệu quả.
Nếu sử dụng đúng cách, đúng lúc, các phương pháp trên trong giáo dục kĩ năng sống thì từng phương pháp sẽ mang lại nhiều tác dụng. Sau đây xin giới thiệu tác dụng của một số phương pháp /hình thức:
* Tổ chức thảo luận nhóm - Giúp mọi học viên tham gia một cách chủ động vào học và thực hành
- Tạo điều kiện kích thích phản ứng dây truyền trong tư duy, ý nghĩ của
- Giúp học viên hiểu vấn đề một cách sâu sắc, tác động mạnh tới thay
kĩ năng sống. - Tạo điều kiện để học viên được phát biểu, được chia sẻ kinh nghiệm, suy nghĩ của mình, được học hỏi lẫn nhau, rèn luyện kĩ năng ra quyết định cho học viên. học viên này kích thích ý nghĩ của học viên khác. đổi hành vi, thái độ của học viên.
- Giúp học viên dễ hiểu, dễ nhớ và nhớ lâu hơn. Giáo dục học viên có tính độc lập, tính năng động, tư duy phê phán,
nâng cao lòng tự tin.
* Tổ chức hoạt động động não - Có thể tập hợp nhiều ý kiến khác nhau trong một thời gian ngắn. - Tạo không khí học tập sôi nổi, học viên tham gia tích cực, không ngại
ngùng. Rèn luyện tính tự chủ, độc lập cho học viên.
- Tôn trọng ý kiến, kinh nghiệm của tất cả mọi học viên. Tạo điều kiện cho mọi người phát biểu mà không sợ bị phê phán hay chê cuời. Giúp học viên phấn khởi, tự tin hơn.
- Tạo cho học viên có cảm giác bài học viên tự xây dựng nên chứ
không phải do giáo viên áp đặt hay cho sẵn.
- Giúp học viên so sánh, đối chiếu những hiểu biết, kinh nghiệm đã có với ý kiến của người khác và tự nhận ra cái chưa đúng, chưa chính xác trong kinh nghiệm của mình.
* Tổ chức hoạt động đóng vai - Giúp học viên thực hành những kí năng ứng xử, giao tiếp trong một tình huống giả định, được giám sát trước khi xây ra các tình huống thực. Từ
48
đó, giúp học viên chủ động, linh hoạt xử lí những vấn đề phát sinh trong thực tiễn.
- Tạo điều kiện nảy sinh trí tưởng tượng, tư duy sáng tạo, khả năng ra
quyết định và giải quyết vấn đề của học viên.
- Gây ấn tượng, tác động trực tiếp tới người học thông qua lời nói,
hành động sống động của các vai diễn. Học viên dễ hình dung, dễ tiếp thu.
- Học viên dễ nắm tốt cách xử lí tình huống thông qua vai diễn của người khác, khích lệ sự thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi của học viên theo hướng tích cực.
- Gây được hứng thú của học viên, tạo không khí học tập vui vẻ, nhẹ
nhàng, thoải mái.
* Tổ chức hoạt động nghiên cứu tình huống - Giảm lối học thụ động, sách vở, tăng cường khả năng vận dụng lí thuyết vào thực tế, khuyến khích học viên tích cực tham gia xem xét, thảo luận về một tình huống, một câu chuyện, một nhân vật có thật trong thực tế... - Học viên không phải tiếp nhận những lí thuyết trừu tượng mà đi
thẳng vào giải quyết những vấn đề thực tế.
- Tăng cường khả năng suy nghĩ độc lập, kiên định khi tiếp cận một
tình huống dưới nhiều góc độ.
- Phát triển kĩ năng phân tích và lập luận của học viên. Tăng cường tính sáng tạo để tìm giải pháp cho vấn đề, kĩ năng và đánh giá kết quả các giải pháp đã lựa chọn.
- Phát triển các kĩ năng giao tiếp, ứng xử, tinh thần tập thể, tính trách
nhiệm và tự khẳng định mình của học viên.
- Nâng cao lòng tin vào khả năng giải quyết vấn đề trong tương lai. * Tổ chức hoạt động tranh luận - Có tác dụng tích cực trong việc lôi cuốn người học tham gia bảo vệ ý kiến của mình, của nhóm mình. Qua đó rèn tính kiên định, tư duy phê phán và khả năng giao tiếp có hiệu quả cho học viên.
- Kích thích người học suy nghĩ để có lập luận chăt chẽ, có dẫn chứng
thuyết phục.
- Buộc mọi người phải chăm chú theo dõi ý kiến của người khác để
tranh luận, đồng tình hoặc phản bác.
* Tổ chức hoạt động dùng phiếu thăm dò - Thu nhận được nhiều ý kiến đa dạng khác nhau. - Tất cả mọi người đều được tham gia, chia sẻ ý kiến của mình.
49
- Đối với học viên rụt rè, mặc cảm, không dám phát biểu ý kiến trước lớp, phương pháp này tạo cho học viên quen dần với sự chia sẻ ý kiến với tập thể lớp và dần dần nâng cao lòng tự tin cho học viên, rèn luyện kĩ năng tự nhận thức cho học viên.
* Tổ chức hoạt động kể chuyện - Hấp dẫn, lôi cuốn được sự tập trung chú ý của học viên. - Gây ấn tượng, tác động trực tiếp tới suy nghĩ, cảm xúc của người học thông qua lời kể chuyện. Qua đó, rèn luyện kĩ năng xác định giá trị, cảm thông với người khác của học viên.
- Học viên tiếp nhận vấn đề dễ dàng mà vẫn nhớ lâu thông qua các tình
tiết, tình huống của chuyện.
* Tổ chức hoạt động trò chơi - Học viên có cơ hội thể nghiệm những thái độ, hành vi. Chính nhờ sự thể nghiệm này sẽ hình thành được ở họ niềm tin vào những thái độ, hành vi tích cực, tạo ra động cơ bên trong cho những hành vi ứng xử trong cuộc sống. - Người học sẽ rèn luyện khả năng quyết định, lựa chọn cho mình một
cách ứng xử đúng đắn, phù hợp trong mọi tình huống.
- Học viên được hình thành năng lực quan sát, được rèn luyện kĩ năng
nhận xét, đánh giá hành vi.
- Bằng trò chơi, việc học tập đuợc tiến hành một cách nhẹ nhàng, sinh động, không khô khan, nhàm chán. Học viên được lôi cuốn vào quá trình học tập tự nhiên, hứng thú, giảm được những mệt mỏi, căng thẳng trong học tập. - Giúp tăng cường kĩ năng giao tiếp, tạo sự gần gũi, gắn bó giữa học viên với học viên, giữa học viên với giáo viên, tạo không khí vui vẻ, cởi mở trong lớp học.
50
2. Thực hành kỹ năng giao tiếp có hiệu quả khi vận động người dân
Nội dung 4 HOẠT ĐỘNG THỰC HÀNH, KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ I. Thực hành 1. Dựa vào thông tin nguồn, điều kiện, khả năng của bản thân và nhu cầu của cộng đồng, thầy (cô) xây dựng khung “Hành động phát triển” tham gia làm việc với cộng đồng... tham gia vệ sinh thôn xóm (xây dựng và giải quyết tình huống). II. Kiểm tra đánh giá
TT Nội dung kiểm tra đánh giá Điểm đánh giá (100 điểm)
1 10
2 20
3 20
4 50
Tại sao giáo viên GD-DN phải có kĩ năng làm việc với cộng đồng? Anh/chị hãy trình bày khái niệm cộng đồng và các đặc điểm của cộng đồng ở Việt Nam. Anh/chị hãy phân tích vấn đề cộng đồng và phương pháp tiếp cận giải quyết vấn đề cộng đồng. Anh/chị nhận thấy những kĩ năng nào cần thiết đối với giáo viên GD-DN để làm việc với cộng đồng? Tại sao? Thực hành kỹ năng đó.
51
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu huấn luyện của APPEAL cho cán bộ giáo dục thường xuyên, tập 8, Sổ tay về phát triển các trung tâm học tập cộng đồng, Văn phòng UNESCO, khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Băng Cốc, 1995.
2. Vụ Giáo dục thường xuyên, Bộ Giáo dục và Đào tạo và Hiệp hội Quốc gia các tổ chức UNESCO Nhật Bản (NFUAJ), Phát triển trung tâm học tập cộng đồng, 2004.
3. Viện Chiến lược và Chương trình Giáo dục, Bộ Giáo dục và Đào tạo, UNESCO Hà Nội, Hướng dẫn giáo dục kĩ năng sống ở Trung tâm học tập cộng đồng, Hà Nội, 2006.
4. Viện Chiến lược và Chucmg trình Giáo dục, Bộ Giáo dục và Đào tạo, UNESCO Hà Nội, Giáo dục kĩ năng sống cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006.
5. Viện Chiến lược và Chương trình Giáo dục, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Kết quả điều, tra thực trạng giáo dục kĩ năng sống ở Trung tâm học tập cộng đồng, Đề tài cấp Bộ, mã số 2005-80-28.
6. Nguyễn Trường, sổ tay huớng dẫn viên để hưởng dẫn học tập hiệu
quả, Hiệp hội Quốc gia các tổ chức UNESCO Nhật Bản (NFUAJ), 2003.
7. Bế Hồng Hạnh, Quan niệm về chất lượng và hiệu quả giáo dục kĩ
năng sống ở Trung tâm học tập cộng đồng, Đề tài nghiên cứu cá nhân, 2009.
8. Nguyễn Mai Hà, Bước đầu am hiểu một số đặc điểm tâm lí-xã hội của học viên người lớn trong các Trung tâm học tập cộng đồng, Đề tài nghiên cứu cá nhân, 2009.
9. Lê Thị Dung, Bài giảng hoạt động thông tin tuyên truyên tại cơ sở,
NXB Lao động- Xã hội, 2003.
10. Nguyễn Thị Thái Lan, Giáo trình công tác xã hội nhóm, NXB Lao
động - Xã hội, 2008.
11. Nguyễn Thị Thái Lan, Bùi Thị Xuân Mai. Giáo trình công tác xã
hội cá nhân và gia đình, NXB Lao động- Xã hội, 20II.
12. Nguyễn Thị Kim Liên, Giáo trình phát triển cộng đồng, NXB Lao
động- Xã hội, 2010. 13. Nguyễn Mai Hà, Giáo dục kĩ năng sống trong giáo dục không chính quy tại một số nước vùng châu Á - Thái Bình Dương, Tạp chí Thông tin khoa học, số 112/2004.
14. Thái Xuân Đào, Giáo dục kĩ năng sống trong giáo dục không chính
quy, Tạp chí Thông tin khoa học, số 112/2005.