LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là khóa luận nghiên cứu của chính bản thân
tôi, các số liệu trong bài hoàn toàn là sự thật, nếu có gì sai tôi xin hoàn
toàn chịu trách nhiệm.
Sinh viên
Nguyễn Thị Lan Hương
MỘT SỐ TỪ VIẾT TẮT
TỪ VIẾT TẮT
CTCK TCBL TCPH TTCK DNNN CTCP UBCKNN CSRC SEC HASTC OTC CPH VCBS BVSC CP NGUYÊN NGHĨA Công ty chứng khoán Tổ chức bảo lãnh Tổ chức phát hành Thị trường chứng khoán Doanh nghiệp Nhà nước Công ty cổ phần Uỷ ban chứng khoán Nhà nước Uỷ ban giám quản Trung Quốc Uỷ bản chứng khoán Mỹ Trung tâm giao dich chứng khoán Hà Nội Thị trường phi chính thức Cổ phần hoá Công ty chứng khoán NH Vietcombank Công ty chứng khoán Bảo Việt Cổ phiếu
LỜI MỞ ĐẦU
1.Sự cần thiết và ý nghĩa của đề tài
Sau 8 năm đi vào hoạt động, thị trường chứng khoán Việt Nam đã có
những bước tiến đáng kể, bước đầu thể hiện vai trò là kênh huy động vốn
quan trọng cho nền kinh tế, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại
hóa đất nước. Thông qua hoạt động phát hành chứng khoán, các chủ thể cần
vốn đã có thể huy động vốn để mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh.
Tuy vậy, phát hành chứng khoán là một hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro với
cả chủ thể phát hành và nhà đầu tư. Trước thực tế như vậy đòi hỏi phải có
biện pháp để giúp việc phát hành được thực hiện một cách chuyên nghiệp và
trôi chảy. Công ty chứng khoán và một số chủ thể khác với kinh nghiệm, kiến
thức và sức mạnh về vốn sẽ trở thành người dẫn dắt và thực hiện đợt bảo lãnh
với thành công lớn nhất có thể.
Như vậy có thể thấy, nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán thực
sự rất quan trọng và cần thiết, trước hết là đối với sự thành công của tổ chức
phát hành, uy tín của tổ chức bảo lãnh, niềm tin của nhà đầu tư và sau là tới
sự phát triển nói chung của toàn nền kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, không đi đôi
với sự lên xuống của thị trường chứng khoán, không giống như sự phát triển
của nghiệp vụ môi giới hay tự doanh, nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng
khoán tại Việt Nam dường như vẫn đang bước những bước chập chững nhất.
Như vậy khoảng cách của việc hoàn thiện dần các nghiệp vụ sẽ trở nên dài
hơn, và liệu rằng đến bao giờ rủi ro phát hành sẽ được khắc phục, đến bao giờ
thị trường chứng khoán mới được coi là hoàn thiện ?
Từ thực tế trên đòi hỏi chúng ta cần có cái nhìn đúng đắn sâu sắc hơn
về hoạt động bảo lãnh phát hành ở Việt Nam - một nghiệp vụ đòi hỏi sự sáng
tạo rất lớn. Do vậy, em đã chọn đề tài " Thực trạng và giải pháp mở rộng
và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán của các công ty
chứng khoán tại Việt Nam" làm khoá luận của mình.
2.Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài " Giải pháp mở rộng và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh phát hành
chứng khoán của các công ty chứng khoán tại Việt Nam " nghiên cứu một
cách chung nhất về lý luận của hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán ,
đồng thời đánh giá thực trạng hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán,
những tồn tại, nguyên nhân, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần
mở rộng và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán trên thị
trường chứng khoán Việt Nam.
3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài lấy đối tượng nghiên cứu là: nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng
khoán của các công ty chứng khoán tại Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu là các vấn đề lý luận, thực tiễn có liên quan trực
tiếp đến hoạt động bảo lãnh phát hành chứng của các công ty chứng khoán tại
Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu
khoa học để phân tích lý luận và luận giải thực tiễn như: phương pháp so
sánh, phương pháp duy vật biện chứng….
5. Kết cấu của đề tài
Chương I : Lý luận chung về nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán
Chương II: Thực trạng hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán của
các công ty chứng khoán tại Việt Nam
Chương III: Giải pháp mở rộng và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh phát
hành chứng khoán của các công ty chứng khoán tại Việt
Nam.
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ BẢO LÃNH PHÁT HÀNH CHỨNG
KHOÁN
1.1. Những vấn đề cơ bản về phát hành chứng khoán
1.1.1 Khái niệm phát hành chứng khoán
Phát hành chứng khoán là một trong những cách thức để huy động nguồn
vốn trung và dài hạn của các pháp nhân trong nền kinh tế. Theo đó chủ thể phát
hành thực hiện bán các chứng khoán trên thị trường sơ cấp cho các nhà đầu tư
bên trong hoặc bên ngoài pháp nhân đó để có nguồn tài chính thực hiện tạo lập
doanh nghiệp hoặc tăng vốn mở rộng sản xuất kinh doanh.
1.1.2.Phân loại phát hành chứng khoán
Căn cứ vào đợt phát hành:
* Phát hành chứng khoán lần đầu (IPO): Là việc phát hành trong đó cổ
phiếu của công ty lần đầu được bán rộng rãi cho công chúng đầu tư để trở thành
công ty đại chúng.
Phát hành lần đầu cổ phiếu mới ra công chúng để tăng vốn của công ty được
gọi là IPO sơ cấp.
Trường hợp công ty không tăng vốn mà chỉ bán một phần hoặc toàn bộ vốn
ra công chúng (như trường hợp cổ phần hoá một phần vốn của Nhà nước hoặc tư
nhân hoá toàn bộ công ty) được gọi là IPO thứ cấp.
* Phát hành các đợt tiếp theo (chào bán sơ cấp): Là đợt phát hành cổ phiếu bổ
sung của công ty đại chúng cho công chúng đầu tư. Việc phát hành được diễn ra
ở các công ty, các tổ chức kinh tế….đã có chứng khoán phát hành và được giao
dịch trên thị trường thứ cấp.
Trường hợp phát hành trái phiếu ra công chúng, việc phát hành phải được
thực hiện bằng một hình thức duy nhất đó là chào bán sơ cấp.
Căn cứ vào đối tượng mua bán chứng khoán
* Phát hành riêng lẻ: Là hình thức phát hành chứng khoán mà theo đó chứng
khoán được bán toàn bộ hoặc bán thẳngcho các tổ chức đầu tư hoặc một số cá
nhân bên ngoài.
Phát hành chứng khoán riêng lẻ chủ yếu tập trung vào các cá nhân và tổ
chức có quan hệ gần gũi với doanh nghiệp như: cổ đông sáng lập, người lao
động trong công ty, các định chế tài chính, các đối tác chiến lược…..Hình thức
phát hành này giúp doanh nghiệp huy động vốn một cách nhanh chóng mà vẫn
không gây ảnh hưởng lớn tới sự biến động giá chứng khoán.
Phát hành chứng khoán riêng lẻ thường áp dụng trong trường hợp:
• Tổ chức phát hành không cần phải đáp ứng yêu cầu về vốn tối thiểu ban đầu
khi phát hành.
• Không quy định về tỷ lệ % vốn cổ phần do công chúng nắm giữ và số lượng
công chúng tham gia
• Tổ chức phát hành có phương án khả thi về việc sử dụng nguồn vốn thu được.
• Công ty mới thành lập hoặc đã thành lập và hoạt động không kể thời gian nào.
• Hoạt động của công ty có thể có lãi cao hoặc thấp thậm chí chưa có lãi.
• Thoả mãn các yêu cầu khác tuỳ thuộc từng đợt phát hành cụ thể.
* Phát hành ra công chúng: Là việc phát hành trong đó chứng khoán được
bán rộng rãi ra công chúng cho một số lượng lớn nhà đầu tư nhất định(trong đó
phải dành một tỷ lệ nhất định cho nhà đầu tư nhỏ) và khối lượng phát hành phải
đạt một mức nhất định.
Phát hành ra công chúng phải thoả mãn một số điều kiện sau:
• Tổ chức phát hành phải có một mức vốn điều lệ tại thời điểm chào bán chứng
khoán tổi thiểu theo quy định cụ thể của từng nước.
• Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký phát hành phải có lãi.
• Có tình hình tài chính lành mạnh.
• Có quy định về việc nắm giữ tỷ lệ cố phiếu đối với cổ đông sáng lập.
• Tổ chức phát hành có phương án phát hành cụ thể và có phương án khả thi về
việc sử dụng vốn từ đợt phát hành được Đại hội đồng cổ đông thông qua.
Theo phương pháp định giá chứng khoán:
* Phát hành chứng khoán với giá cố định: Là phương pháp phát hành mà
chứng khoán được bán trực tiếp theo một giá cố định với nhà đầu tư hoặc gián
tiếp thông qua bảo lãnh.
* Phát hành thông qua phương pháp đấu giá: Là phương pháp phát hành mà
người phát hành hay người bảo lãnh phát hành sẽ ấn định giá tối thiểu và tổ chức
bán chứng khoán theo nguyên tắc ưu tiên về giá trên cơ sở các đơn đặt hàng. Có
hai hình thức đấu thầu : theo kiểu Mỹ và Hà Lan.
Theo phương thức phát hành:
* Phát hành trực tiếp (tự phát hành): Là phương thức phát hành mà tổ chức
phát hành tự mình bán chứng khoán ra công chúng. Cách phát hành này đòi hỏi
nhà phát hành phải am hiểu thị trường, có hệ thống bán khá ổn định, nhu cầu
bán không cấp bách.
* Phát hành gián tiếp (bảo lãnh phát hành): Là phương thức phát hành mà tổ
chức phát hành nhờ một tổ chức trung gian (Ngân hàng hay công ty chứng
khoán….) đứng ra thực hiện việc phát hành chứng khoán.
1.2. Những vấn đề cơ bản về bảo lãnh phát hành chứng khoán
1.2.1. Khái niệm về bảo lãnh phát hành chứng khoán
Theo quan điểm của các nước: bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc tổ chức
bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng
khoán, tổ chức phân phối chứng khoán và bình ổn giá chứng khoán giai đoạn đầu
sau khi phát hành. Như vậy, nội dung chính của nghiệp vụ bảo lãnh phát hành
chứng khoán là tư vấn trước khi phát hành, phân phối chứng khoán và bình ổn giá
chứng khoán.
Tổ chức phát hành chứng khoán là tổ chức thực hiện phát hành chứng khoán ra
công chúng.
Tổ chức bảo lãnh phát hành chứng khoán là công ty chứng khoán được phép
hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán và Ngân hàng thương mại được Uỷ ban
chứng khoán nhà nước chấp thuận bảo lãnh phát hành Trái phiếu theo điều kiện do
Bộ Tài Chính quy định.
1.2.2. Các hình thức bảo lãnh phát hành chứng khoán
Bảo lãnh với cam kết chắc chắn
Là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức bảo lãnh phát hành chứng khoán cam
kết sẽ mua toàn bộ số chứng khoán trong một đợt phát hành của tổ chức phát hành
chứng khoán theo một giá thương lượng, sau đó bán lại ra công chúng với một giá
cao hơn để hưởng hoa hồng chiết khấu cho dù tổ chức bảo lãnh có phân phối được
hết số chứng khoán hay không. Như vậy, với phương thức bảo lãnh này thì tổ chức
phát hành chắc chắn thu được lượng vốn cần huy động nhưng phải chấp nhận rủi ro
về giá khi ký kết hợp đồng bảo lãnh phát hành. Còn tổ chức bảo lãnh phát hành
phải chịu mọi rủi ro xảy ra trong quá trình phát hành.
Vì vậy, phương thức bảo lãnh này thường được áp dụng với tổ chức phát hành có
uy tín lớn và phí bảo lãnh thường cao hơn các phương thức khác.
Bảo lãnh với cố gắng cao nhất
Là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức bảo lãnh phát hành chứng khoán cam
kết sẽ cố gắng đến mức tối đa trong việc bán chứng khoán phát hành ra thị trường.
Trong trường hợp không bán hết sẽ trả lại cho tổ chức phát hành. Như vậy, bản
chất của phương pháp này là tổ chức bảo lãnh làm đại lý phân phối cho tổ chức
phát hành. Thông thường, phương thức này được áp dụng với các doanh nghiêp
mới thành lập chưa có uy tín trên thị trường. Mặt khác, đây là một phương thức
nhận bán ít mạo hiểm hơn so với phương thức trên do đó hoa hồng phí mà tổ chức
bảo lãnh thu được thấp.
Bảo lãnh theo phương thức tất cả hoặc không
Là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức phát hành chứng khoán yêu cầu tổ
chức bảo lãnh phát hành chứng khoán bán hết toàn bộ số chứng khoán Nếu không
bán được hết thì sẽ huỷ bỏ đợt phát hành, trong trường hợp này số vốn huy động
được do đã bán hết một phần số chứng khoán của đợt phát hành được hoàn trả lại
cho người mua.
Theo định nghĩa trên thì so với phương thức bảo lãnh với cố gắng cao nhất,
phương thức bảo lãnh tất cả hoặc không có điểm khác biệt rất lớn đó là nó đòi hỏi
toàn bộ số chứng khoán phát hành phải được bán hết thì đợt phát hành mới được
coi là thành công. Chính vì vậy mà phương thức bảo lãnh này được sử dụng khi
công ty muốn huy động một lượng vốn tối thiểu nào đó để đáp ứng nhu cầu kinh
doanh mà công ty không thể sử dụng một lượng vốn ít hơn thế.
Bảo lãnh tối thiểu
Là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức phát hành chứng khoán yêu cầu tổ
chức bảo lãnh phát hành chứng khoán bán tối thiểu một tỷ lệ nhất định chứng
khoán phát hành. Nếu lượng chứng khoán bán được đạt thấp hơn tỷ lệ yêu cầu thì
toàn bộ đợt phát hành này bị huỷ bỏ. Như vậy, có thể nói phương thức bảo lãnh này
là phương thức bão lãnh trung gian giữa phương thức bảo lãnh với cố gắng tối đa
và phương thức bảo lãnh tất cả hoặc không.
Bảo lãnh theo phương thức dự phòng
Đây là phương thức bảo lãnh được áp dụng khi một công ty đại chúng phát hành
thêm cổ phiếu. Trong trường hợp đó, công ty cần phải bảo vệ quyền lợi cho các cổ
đông hiện hữu, và như vậy công ty chào bán cổ phiếu bổ sung cho các cổ đông
trước khi chào bán ra công chúng bên ngoài. Trong trường hợp có một số cổ đông
không muốn mua thêm cổ phiếu của công ty, công ty cần có một tổ chức bảo lãnh
dự phòng sẵn sàng mua những quyền mua không được thực hiện và chuyển thành
những cổ phiếu để phân phối ra bên ngoài công chúng. Nói cách khác, bảo lãnh dự
phòng là việc tổ chức bảo lãnh phát hành cam kết sẽ mua nốt số chứng khoán còn
lại chưa phân phối hết của tổ chức phát hành chứng khoán và bán lại ra công
chúng. Ở những nước đang phát triển, tổ chức bảo lãnh phát hành chứng khoán còn
non trẻ và tiềm năng tài chính còn hạn chế thì phương thức bảo lãnh dự phòng khá
phổ biến.
1.2.3.Các chủ thể tham gia bảo lãnh phát hành chứng khoán
Hoạt động phát hành chứng khoán đòi hỏi có sự tham gia của rất nhiều chủ
thể bao gồm: Tổ chức phát hành, tổ chức bảo lãnh phát hành (có thể là một tổ chức
bảo lãnh hoặc một tổ hợp bảo lãnh bao gồm nhiều tổ chức cùng thực hiện bảo lãnh
trong đó có một tổ chức bảo lãnh chính), các đại lý phân phối, công chúng (nhà đầu
tư). Tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu, đề tài chỉ quan tâm tới chủ thể đó là tổ
chức bảo lãnh phát hành.
Tổ chức bảo lãnh phát hành (người bảo lãnh)
Sau khi tư vấn phát hành cho tổ chức phát hành, tổ chức bảo lãnh phát hành
chứng khoán sẽ là người mua toàn bộ hoặc một phần chứng khoán của tổ chức phát
hành nhằm đưa số chứng khoán đó chào bán ra công chúng đầu tư hoặc ký hợp
đồng với tổ chức phát hành để mua số chứng khoán còn lại chưa bán hết nếu
không có ai đăng ký mua thêm hoặc có thể tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào
đợt phát hành. Ở các quốc gia khác nhau thì tổ chức thực hiện bảo lãnh cũng có thể
khác nhau nhưng thường là các tổ chức kinh doanh chứng khoán (các CTCK), các
ngân hàng đầu tư, ngân hàng thương mại và các tổ chức có tiềm lực tài chính
mạnh. Tổ chức bảo lãnh có vai trò quan trọng trong việc giúp tổ chức phát hành
bán chứng khoán để huy động vốn nhanh chóng, hiệu quả. Tham gia vào quy trình
bảo lãnh, tổ chức bảo lãnh có nhiều tư cách khác nhau: là thành viên tổ hợp bảo
lãnh, là nhà bảo lãnh phát hành chính hoặc đóng vai trò là đại lý phân phối chứng
khoán.
Các tổ chức bảo lãnh sẽ lập ra tổ hợp bảo lãnh phát hành khi khối lượng vốn
cần huy động của tổ chức phát hành quá lớn mà một tổ chứ bảo lãnh không đủ
nguồn tài chính để thực hiện hoặc hạn chế theo quy định.
* Tổ chức bảo lãnh chính
Là người đại diện cho tổ chức bảo lãnh đứng ra ký kết hợp đồng bảo lãnh với tổ
chức phát hành. Thẩm quyền của tổ chức bảo lãnh chính được quy định trong hợp
đồng giữa các tổ chức bảo lãnh tham gia đợt phát hành. Thông thường, tổ chức bảo
lãnh chính có quyền:
• Lựa chọn và chỉ đạo các thành viên trong tổ hợp bảo lãnh, giữ chức năng "ghi sổ"
cho toàn bộ tổ hợp.
• Đưa ra quyết định cuối cùng về việc có tham gia bảo lãnh hay không: Sau khi tiếp
xúc với tổ chức hành, tổ chức bảo lãnh chính theo dõi, phân tích tình hình kinh
doanh và những điều kiện của tổ chức phát hành từ đó đánh giá tính khả thi của
việc thực hiện hợp đồng bảo lãnh và đi tới quyết định về việc có ký kết hợp đồng
bảo lãnh hay không.
• Phân phối và phân bổ số chứng khoán phát hành cho từng thành viên, quy định
phần giữ lại cho mỗi thành viên trong tổ hợp.
• Thay mặt tổ hợp bảo lãnh trong các cuộc đàm phán, ký kết, bảo vệ và duy trì lợi
ích của cả tổ hợp.
• Thành lập nhóm bán và tìm kiếm nhà tạo lập thị trường cho chứng khoán phát
hành.
• Tư vấn cho tổ chức phát hành về số lượng, chủng loại chứng khoán phát hành và
định giá doanh nghiệp phát hành.
* Thành viên của tổ hợp bảo lãnh
Có trách nhiệm cam kết với tổ chức bảo lãnh chính trong việc bán chứng khoán ra
công chúng. Đối với phương thức bảo lãnh với cam kết chắc chắn thì các thành
viên trong tổ hợp phải làm giấy cam kết bán hết số chứng khoán mà họ đã nhận
trong tổng số phát hành với tổ chức bảo lãnh chính. Ngoài ra, các thành viên của tổ
hợp bảo lãnh còn phải ký vào một bản thoả thuận tham gia vào tổ hợp bảo lãnh
trong đó quy định rõ trách nhiệm của từng thành viên, và việc phân chia lợi nhuận
của tổ hợp.
* Nhóm bán (đại lý phân phối)
Là tổ chức mua lại chứng khoán từ tổ chức bảo lãnh chính hoặc các thành viên của
tổ hợp bảo lãnh và thực hiện bán cho công chúng đầu tư tại cùng một mức giá
trong cùng một khoảng thời gian. Thông thường, đại lý phân phối là các công ty
chứng khoán được mời tham gia phân phối chứng khoán. Đại lý chứng khoán
không phải là người bảo lãnh phát hành do vậy họ không phải chịu rủi ro nếu đợt
phát hành không thành công, họ chỉ thực hiện khâu phân phối chứng khoán ra công
chúng đầu tư do đó khoản hoa hồng phí mà họ nhận được từ đợt phát hành không
nhiều như tổ chức bảo lãnh. Cần lưu ý một điểm rằng: Một tổ chức bảo lãnh vẫn có
thể đóng vai trò của một đại lý phân phối khi nó mua các chứng khoán từ các tổ
chức bảo lãnh khác hoặc các đại lý không phân phối hết và thực hiện bán lại ra
công chúng hoặc giữ lại cho chính tổ chức bảo lãnh đó.
Sơ đồ thể hiện mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia hoạt động phát hành
chứng khoán
Tổ chức phát hành
Tổ chức bảo lãnh phát hành chứng khoán
Tổ chức bảo lãnh chính
Nhóm bán
Nhóm bán
Nhóm bán
Nhóm bán
Nhóm bán
Nhóm bán
Thành viên bảo lãnh Thành viên bảo lãnh
Thành viên bảo lãnh
1.2.4. Quy trình bảo lãnh phát hành chứng khoán
Tiếp xúc khách hàng, thoả thuận xúc tiến BLPH
Phân tích, đánh giá doanh nghiệp và tư vấn tài chính
Lập hồ sơ và xin phép bảo lãnh
Phân phối chứng khoán và kết thúc
Giai đoạn 1: Tiếp xúc khách hàng, thoả thuận xúc tiến BLPH
* Khách hàng đặt yêu cầu bảo lãnh.
* Lựa chọn khách hàng có đủ tiêu chuẩn để xem xét xúc tiến bảo lãnh theo
quy trình hiện hành.
• Hình thức sở hữu của tổ chức phát hành- nhằm xác định xem đơn vị có được
phép phát hành chứng khoán hay không. Nếu được thì được phép phát hành
chứng khoán nào?
• Xác định các mối quan hệ với tổ chức phát hành.
• Hình thức phát hành và loại chứng khoán dự kiến phát hành.
* Tiếp xúc để tìm hiểu khách hàng.
• Tình hình sản xuất kinh doanh hiện tại.
• Chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh.
• Mục đích phát hành, quy mô phát hành dự kiến và kế hoạch sử dụng vốn huy
động.
* Ký kết hợp đồng tư vấn phân tích tài chính và xúc tiến bảo lãnh phát hành.
* Thể thức, nội dung hợp đồng và giới hạn trách nhiệm về mặt pháp lý.
* Kinh phí và mức kinh phí tư vấn.
* Yêu cầu cung cấp thông tin và hồ sơ tài liệu cần thiết nhằm đáp ứng yêu
cầu phân tích, đánh giá doanh nghiệp.
Giai đoạn 2: Phân tích, đánh giá doanh nghiệp và tư vấn tài chính
a) Phân tích và đánh giá doanh nghiệp
* Đánh giá chung về doanh nghiệp phát hành.
• Đánh giá về doanh nghiệp.
• Đánh giá về sản phẩm.
• Đánh giá về công nghệ sản xuất.
• Đánh giá về vị trí địa lý.
• Đánh giá về nguồn cung ứng.
• Đánh giá về nguồn nhân lực.
* Phân tích tài chính doanh nghiệp:
• Tình hình huy động và sử dụng vốn.
• Xem xét khả năng thanh toán.
• Xem xét năng lực hoạt động của tài sản.
• Xem xét khả năng sinh lời.
* Phân tích dự án sử dụng nguồn vốn huy động.
• Phân tích đánh giá tính khả thi của dự án đầu tư qua việc phân tích đánh giá
cho thấy sự đúng đắn trong định hướng đầu tư và sự phù hợp trong việc lựa
chọn hình thức đầu tư, tính thực tiễn trong các giải pháp kỹ thuật….bằng việc
tính toán tỷ suất sinh lời, điểm hoà vốn, NPV, IRR, thời gian hoàn vốn và tính
toán độ nhạy của dự án.
• Đánh giá tính thực tiễn của dự án về lĩnh vực đầu tư, quy mô đầu tư cũng như
các yếu tố ảnh hưởng, những yếu tố đảm bảo dự án.
• Đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội, hiệu quả tài chính của dự án bằng phương
pháp : chiết khấu và thời gian thu hồi vốn.
b) Tư vấn bảo lãnh
Sau khi nghiên cứu những nội dung trên, các nhà bảo lãnh thường ký kết với tổ
chức phát hành một hợp đồng tư vấn tài chính. Với tổ chức bảo lãnh thì đây là
một bước quan trọng để đi tới quyết định có thực hiện bảo lãnh hay không. Tiếp
theo việc thẩm định và xem xét các tài liệu liên quan tới đợt phát hành, tổ chức
bảo lãnh thường tư vấn về một số nội dung chủ yếu, trực tiếp quyết định đến sự
thành công của đợt phát hành. Đó là:
* Tư vấn tái đầu tư
Trên cơ sở những thông tin tìm hiểu được về tổ chức phát hành, tổ chức bảo
lãnh sẽ đưa ra những tư vấn cần thiết về việc tái cơ cấu lại công ty.
Trường hợp công ty là một doanh nghiệp nhà nước đang trong tiến trình cổ
phần hoá thì việc phát hành chứng khoán sẽ có ảnh hưởng như thế nào tới hoạt
động của công ty, quá trình cổ phần hoá sẽ diễn ra theo trình tự như thế nào?
Trường hợp công ty là công ty nhỏ muốn huy động nguồn vốn lớn nhưng
khả năng không cho phép thì việc sát nhập hay hợp nhất với một công ty khác sẽ
giúp việc huy động vốn thông qua hoạt động phát hành chứng khoán trở nên dễ
dàng hơn…Như vậy, tổ chức bảo lãnh chính là người tư vấn cho tổ chức phát
hành những khúc mắc trên. Trong nền kinh tế thị trường như hiện nay, việc
chuyển đổi hình thức công ty diễn ra thường xuyên và việc tìm một tổ chức bảo
lãnh phát hành để tư vấn tái đầu tư cơ cấu là hết sức cần thiết cho những bước
chuẩn bị tiếp theo để có thể phát hành chứng khoán ra công chúng.
* Tư vấn về loại chứng khoán phát hành
Trước khi thực hiện việc tư vấn về loại chứng khoán mà tổ chức phát hành
sẽ phát hành thì tổ chức bảo lãnh cần tìm hiểu những loại chứng khoán nào mà
tổ chức phát hành được phép phát hành.
Đối với loại hình công ty cổ phần thì công ty được phép phát hành cả cổ
phiếu và trái phiếu, còn với công ty trách nhiệm hữu hạn thì chỉ được phát hành
trái phiếu. Như vậy, việc tư vấn về loại chứng khoán phát hành chỉ diễn ra đối
với công ty cổ phần còn đối với công ty trách nhiệm hữu hạn thì tổ chức bảo
lãnh sẽ tư vấn cho họ nên phát hành loại trái phiếu nào với mệnh giá, lãi suất và
thời hạn là bao lâu để đợt phát hành mang lại hiệu quả cao, chi phí thấp nhất. Do
đó, tổ chức bảo lãnh phát hành phải tiến hành tìm hiểu cơ cấu vốn của công ty
thông qua các báo cáo tài chính và xem xét nguồn vốn cần huy động cho hoạt
động đầu tư cần sử dụng trong thời gian bao lâu, xem xét tình hình quản trị và
uy tín của công ty như thế nào để từ đó liên hệ với những ưu nhược điểm của
từng chứng khoán mà đưa ra những quyết định tư vấn thích hợp.
* Tư vấn về thời điểm phát hành chứng khoán
Là việc tổ chức bảo lãnh phát hành tư vấn cho tổ chức phát hành thời điểm
nào nên phát hành chứng khoán thì có lợi nhất và thích hợp nhất. Điều này rất
quan trọng vì nó ảnh hưởng đến chi phí phát hành, khối lượng vốn có thể huy
động và cả uy tín của tổ chức phát hành….
Thời điểm phát hành cổ phiếu, trái phiếu thích hợp nhất đối với tổ chức phát
hành là lúc tổ chức phát hành đang nổi tiếng( sản phẩm được ưu chuộng, thị
phần lớn, lợi nhuận cao….), giá bán chứng khoán sẽ có lợi có thể cao hơn rất
nhiều so với mệnh giá, chi phí phát hành sẽ thấp vì tổ chức bảo lãnh sẽ dễ dàng
chấp nhận với những điều kiện thuận lợi cho tổ chức phát hành. Bên cạnh đó,
một yếu tố có ảnh hưởng tới giá phát hành không thể không kể tới là mức độ sôi
động của thị trường chứng khoán.Nếu thị trường chứng khoán trầm lắng, số
lượng nhà đầu tư ít thì rủi ro về giá là rất lớn.Trong trường hợp này, tổ chức
phát hành có thể không bán được chứng khoán hoặc bán rất ít khiến đợt phát
hành bị thất bại. Hoặc khi thị trường biến động lớn về giá chứng khoán thì nhà
đầu tư có xu hướng mua trái phiếu nhiều hơn cổ phiếu. Điều này khiến cho việc
phát hành cổ phiếu là không có lợi. Ngược lại, khi thị trường chứng khoán đang
náo nhiệt và hấp dẫn, giá cổ phiếu bắt đầu tăng thì đây là thời điểm phát hành
chứng khoán thích hợp nhất.
* Tư vấn về giá phát hành chứng khoán
Khâu xác định giá phát hành chứng khoán là khâu quan trọng và khó khăn nhất
đối với tổ chức phát hành. Giá chứng khoán liên quan trực tiếp đến quyền lợi
của tổ chức phát hành, nhà đầu tư cũng như các bên có liên quan đến đợt phát
hành đồng thời nó cũng đảm bảo cho sự thành công của tổ chức phát hành. Có
rất nhiều phương pháp để xác định giá chứng khoán phát hành nhưng việc xác
định giá chứng khoán lại phụ thuộc vào tình hình cụ thể của từng công ty, môi
trường pháp lý và kinh tế của từng nước, và có sự khác nhau theo tính chất của
đợt phát hành (định giá cho chứng khoán đã giao dịch trên thị trường thứ cấp
khác với định giá cho chứng khoán mới phát hành lần đầu). Cụ thể :
+ Đối với cổ phiếu của công ty đã được giao dịch trên thị trường thứ cấp:
Giá cổ phiếu phát hành thêm được xác định rất đơn giản vì đã có sẵn giá của loại
chứng khoán đó trên thị trường thứ cấp.Việc xác định giá cổ phiếu sắp phát hành
dựa vào giá giao dịch trên thị trường của cổ phiếu đó trước thời điểm phát hành
mới. Thông thường giá phát hành được xác định dựa trên cơ sở giá đóng cửa của
ngày hôm trước hoặc giá thị trường bình quân của một số ngày trước ngày phát
hành.
+ Đối với cổ phiếu phát hành lần đầu ra công chúng :
Trên thực tế, có nhiều phương pháp để xác định giá chứng khoán phát hành lần
đầu ra công chúng. Một số phương pháp hiện nay :
• Phương pháp định giá cổ phiếu theo luồng cổ tức
Là phương pháp mà giá cổ phiếu được tính bằng tổng giá trị hiện tại của các
khoản cổ tức nhận được trong tương lai và giá trị hiện tại của cổ phiếu tại thời
điểm bán sau này. Cụ thể:
Tổng giá trị hiện tại Giá trị hiện tại của cổ
Giá cổ phiếu = của các khoản cổ tức + phiếu tại thời điểm bán
trong tương lai sau này
Trong trường hợp cổ phiếu được người đầu tư nắm giữ vô hạn thì các khoản cổ
tức nhận được sẽ tiến tới vô cùng. Khi đó giá trị hiện tại của vốn gốc sẽ tiến tới
0. Như vậy :
Giá CP = Tổng giá trị hiện tại của các khoản cổ tức nhận được
trong tương lai
• Phương pháp định giá cổ phiếu theo luồng thu nhập
Là phương pháp dựa trên một nguyên lý cơ bản là giá trị doanh nghiệp được xác
định bằng các luồng thu nhập mà doanh nghiệp nhận được trong tương lai quy
về hiện tại bằng cách chiết khấu chúng với một mức lãi suất chiết khấu phù hợp
với mức độ rủi ro của doanh nghiệp đó. Hai thông số cơ bản trong phương pháp
này cần được xác định là luồng thu nhập mà công ty nhận được trong tương lai
và mức lãi suất chiết khấu luồng thu nhập đó.
• Phương pháp xác định giá theo hệ số P/E
Giá CP = P/E * thu nhập ròng trên một cổ phiếu
Theo phương pháp này, người ta xác định giá chứng khoán dựa vào giá trị P/E
được công bố đối với loại cổ phiếu có cùng mức độ rủi ro với cổ phiếu chuẩn bị
được phát hành, sau đó lấy giá trị này nhân với thu nhập ròng trên một cổ phiếu
của tổ chức phát hành cổ phiếu đó để tìm ra giá cổ phiếu phát hành.
• Phương pháp xác định giá cổ phiếu theo giá trị tài sản
Đây là phương pháp mà giá trị cổ phiếu được xác định dựa trên giá trị tài sản
thực có của doanh nghiệp theo giá trị thị trường chứ không phải giá trị ghi sổ
trên sổ sách. Tuy nhiên khi định giá cổ phiếu theo phương pháp này cần có sự
điều chỉnh thêm giá trị lợi thế hoặc khả năng sinh lời của tổ chức phát hành cho
phù hợp. Như vậy, thực chất phương pháp này là sự kết hợp của tất cả các
phương pháp trên.
+ Đối với Trái phiếu
Trái phiếu là chứng khoán nợ nên có những đặc điểm khác mà cổ phiếu
không có như: lãi suất, thời gian đáo hạn, phương thức trả lãi. Việc xác định giá
Trái phiếu tuỳ thuộc vào đặc điểm cụ thể của từng loại trái phiếu phát hành.
Thông thường, khi phát hành trái phiếu ngưòi ta quan tâm tới việc xác định lãi
suất trái phiếu phát hành và đây là yếu tố quan trọng nhất để xác định giá bán.
• Trái phiếu chính phủ
Là loại trái phiếu có rủi ro thấp nhất. Lãi suất trái phiếu chính phủ là mức lãi
suất chuẩn cho các loại lãi suất khác trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Lãi
suất trái phiếu chính phủ thường được xác định thông qua bảo lãnh phát hành
hoặc đấu thầu giữa các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tàì chính. Các tổ
chức này thực hiện đấu thầu hoặc bảo lãnh phát hành trái phiếu Chính phủ xong
sẽ bán lại cho công chúng hoặc nắm giữ coi như phần đầu tư của mình. Giá bán
trái phiếu chính phủ có thể cao hơn, thấp hơn hoặc bằng mệnh giá tuỳ thuộc vào
phương thức trả lãi (trả sau, trả trước hoặc trả định kỳ)
• Trái phiếu công ty
Khi phát hành trái phiếu công ty, lãi suất được xác định trên cơ sở lãi suất trái
phiếu chính phủ có kỳ hạn tương đương và mức độ tín nhiệm của công ty là sự
nhận xét của một tổ chức định mức tín nhiệm về độ rủi ro của loại trái phiếu
được phát hành. Trái phiếu có mức độ tín nhiệm cao đưa lại một hình ảnh đẹp về
tổ chức phát hành, đây là nền tảng thuận lợi cho việc xác định giá trái phiếu phát
hành. Các tổ chức định mức tín nhiệm sẽ quyết định một định mức tín nhiệm
cho một công ty sau khi đã phân tích các nhân tố định lượng và định tính bao
gồm phân tích ngành, về hoạt động kinh doanh và phân tích tình hình tài chính
sau đó sẽ xếp loại từ định mức cao nhất đến định mức thấp nhất.
Giai đoạn 3: Lập hồ sơ và xin phép phát hành
Sau khi chấp nhận bảo lãnh phát hành, tổ chức bảo lãnh sẽ liên hệ với công ty tư
vấn và các tổ chức đại lý phân phối để thiết lập tổ hợp bảo lãnh nếu cần. Tổ
chức bảo lãnh phải ký cam kết bảo lãnh với tổ chức phát hành. Trường hợp bảo
lãnh phát hành theo tổ hợp thì cam kết bảo lãnh phát hành phải được ký giữa tổ
chức bảo lãnh chính và tổ chức phát hành. Việc lập, chuẩn bị hồ sơ xin phép
phát hành cùng được thực hiện và họ phải chịu trách nhiệm một phần về tính
trung thực của hồ sơ. Sau khi hoàn thành việc chuẩn bị hồ sơ, tổ chức bảo lãnh
chuyển hồ sơ xin phép phát hành cho công ty tư vấn luận để xem xét khía cạnh
pháp lý liên quan tới đợt phát hành đó. Đồng thời các bên liên quan đến đợt phát
hành như tổ chức phát hành, tổ chức bảo lãnh phát hành, công ty tư vấn cũng
tiến hành họp để phân định trách nhiệm lần cuối. Trong cuộc họp này các bên
phải rà soát lại các bước đã thực hiện đồng thời xác định rõ trách nhiệm của mỗi
bên tham gia. Các bên sẽ ký vào biên bản cuộc họp (đây là cơ sở pháp lý để giải
quyết các vấn đề kiện tụng phát sinh sau này nếu có). Sau khi kết thúc cuộc họp
nói trên, tổ chức bảo lãnh hoàn chỉnh hồ sơ xin phép phát hành lần cuối cùng và
nộp lên Uỷ ban chứng khoán. UBCKNN chấp nhận hồ sơ và định giá phát hành
chính thức.
Giai đoạn 4: Giai đoạn phân phối và kết thúc
* Tổ chức thực hiện việc thông báo phát hành theo quy định của pháp luật
sau khi được UBCKNN chấp thuận hồ sơ xin phép phát hành.
* Làm thủ tục báo cáo phát hành lên UBCKNN.
• Bản cáo bạch tóm tắt
• Thông báo phát hành
• Các tài liệu khác theo yêu cầu.
* Làm thủ tục đăng ký và đặt cọc mua chứng khoán với các nhà đầu tư
* Tổng hợp đăng ký và thông báo kết quả đặt mua chứng khoán đến các nhà
đầu tư.
* Thực hiện việc phân phối chứng khoán theo đăng ký
* Báo cáo kết quả của đợt phát hành lên UBCKNN và thực hiện các quy
định của UBCKNN về hoạt động sau phát hành.
1.2.5. Vai trò của nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán
Vai trò với thị trường sơ cấp và thứ cấp:
* Với thị trường sơ cấp:
Việc công ty chứng khoán thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành với một quy
trình chặt chẽ bao gồm sự kết hợp nhiều kỹ năng từ nghiên cứu tài chính công
ty, nghiên cứu thị trường, tư vấn cho khách hàng chào bán chứng khoán đến
bình ổn giá chứng khoán đã giúp cho quá trình gia tăng hàng hoá trên thị trường
sơ cấp diễn ra nhanh hơn và giảm thiểu rủi ro rất nhiều cho chủ thể phát hành
cũng như quyền lợi của người đầu tư chứng khoán được bảo vệ tốt hơn.
* Với thị trường thứ cấp :
Các công ty chứng khoán thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành trên thị trường
thứ cấp thông qua việc bình ổn giá chứng khoán sau khi phát hành và tạo tính
thanh khoản cho các chứng khoán. Điều này thúc đẩy sự phát triển của thị
trường thứ cấp, giúp thị trường thứ cấp hoạt động sôi động hơn.
Vai trò đối với nền kinh tế quốc dân:
Hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán giúp huy động vốn nhanh chóng và
hiệu quả phục vụ công cuộc đầu tư, phát triển kinh tế đồng thời tạo ra cơ hội đầu
tư cho những người có nguồn tích kiệm nhàn rỗi góp phần thúc đẩy quá trình
lưu thông tiền tệ diễn ra nhanh chóng hơn. Hơn nữa với việc cung cấp các dịch
vụ tư vấn tài chính chuyên nghiệp, nghiệp vụ bảo lãnh phát hành đã làm tăng
tính hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo môi trường kinh doanh
minh bạch, công khai hoá thông tin, hỗ trợ thị trường tài chính phát triển đẩy
nhanh quá trình hội nhập với thị trường tài chính khu vực và thế giới.
Vai trò đối với tổ chức phát hành:
* Với doanh nghiệp:
Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành rất quan trọng trong việc hướng dẫn và hỗ trợ
doanh nghiệp tiếp cận với các phương pháp quản lý khoa học, nâng cao hiệu quả
quản lý tài chính, cung cấp các dịch vụ, giải pháp tổng thể đảm bảo cho sự phát
triển của hoạt động kinh doanh, phát huy các ưu thế cạnh tranh và thích ứng
được với sự biến động của môi trường kinh doanh. Bảo lãnh phát hành còn là
một yếu tố đảm bảo cho sự thành công của đợt phát hành chứng khoán nhằm
đáp ứng nhu cầu về vốn của tổ chức phát hành với chi phí hợp lý và giảm thiểu
rủi ro.
* Với chính phủ :
Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành trái phiếu chính phủ đã thu hút được nguồn vốn
nhàn rỗi từ dân chúng nhằm bù đắp những thiếu hụt tạm thời của ngân sách Nhà
nước và nhu cầu chi tiêu của Chính phủ. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu của
việc phát hành thì kế hoạch phát hành phải được xây dựng một cách khoa học và
cụ thể, dựa trên chiến lược tổng thể về kinh tế - xã hội và mục tiêu của chính
sách tiền tệ quốc gia. Hoạt động bảo lãnh phát hành trái phiếu giúp chính phủ
xây dựng được dự toán Ngân sách trong từng thời kỳ trên cơ sở đó đưa ra kế
hoạch phát hành trái phiếu Chính phủ cùng với việc kết hợp với chính sách tiền
tệ, chính sách tài khoá trong quản lý và điều hành thị trường trái phiếu đáp ứng
nhu cầu đầu tư và phát triển xã hội. Thông thường, để bảo lãnh phát hành trái
phiếu Chính phủ phải cần tới một tổ hợp bảo lãnh vì khối lượng vốn huy động là
rất lớn. Tổ hợp bảo lãnh sẽ tiến hành phân phối số lượng trái phiếu Chính phủ
trên cơ sở đã được ấn định trước về số lượng, lãi suất, thời hạn. Theo đó, Chính
phủ có thể kiểm soát được số lượng, lãi suất, kỳ hạn trái phiếu.
Vai trò đối với nhà đầu tư:
Thông qua tổ chức bảo lãnh phát hành chứng khoán, nhà đầu tư có được sự phân
tích và những thông tin cần thiết về tổ chức phát hành như: tình hình tài chính,
ưu điểm và nhược điểm của cơ cấu tổ chức cũng như các thông tin khác có liên
quan tới sự biến động giá chứng khoán. Hơn nữa, nhà đầu tư còn biết được môi
trường kinh doanh hiện tại của tổ chức phát hành, cơ chế quản lý của Nhà nước
đối với hoạt động chứng khoán nói chung và hoạt động bảo lãnh phát hành nói
riêng, biết được các chuẩn mực quốc tế và sự thay đổi của chúng trong lĩnh vực
tài chính, kế toán, kiểm toán, tiền tệ nhằm giúp nhà đầu tư có được những thông
tin tổng thể và toàn diện khi tham gia vào thị trường chứng khoán.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động bảo lãnh phát hành chứng
khoán
1.3.1. Nhân tố khách quan
Môi trường kinh tế vĩ mô
Là nhân tố có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới hoạt động của thị trường
chứng khoán nói chung và nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán nói riêng.
Cụ thể :
* Tốc độ tăng trưởng kinh tế : Khi nền kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định
thì kích thích các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, nhu cầu vốn lớn, nhu cầu huy
động vốn tăng nhanh. Phương án huy động vốn bằng cách phát hành chứng
khoán sẽ được sử dụng nhiều hơn và nghiệp vụ bảo lãnh cũng vì thế có thể được
phát triển.
* Tỷ lệ lạm phát : Tỷ lệ lạm phát làm sói mòn thu nhập thực tế của nhà đầu
tư. Điều này có tác động không nhỏ tới mức độ tham gia của các nhà đầu tư
cũng như hoạt động của các công ty chứng khoán nói chung và nghiệp vụ bảo
lãnh nói riêng.
* Tỷ lệ thất nghiệp: Tỷ lệ thất nghiệp vừa phải thể hiện nền kinh tế đang
trong trạng thái toàn dụng nhân lực. Tại tỷ lệ thất nghiệp này, số lượng các chủ
thể trong nền kinh tế tham gia , tiếp cận với thị trường chứng khoán là lớn nhất.
Như vậy, có thể nói với một tỷ lệ thất nghiệp vừa phải thì thị trường chứng
khoán và nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán có điều kiện phát triển.
* Lãi suất: Lãi suất là giá cả của quyền sử dụng vốn vay trong một khoảng
thời gian nhất định mà người sử dụng vốn trả cho người sử hữu nó. Hoạt động
đầu tư trên thị trường chứng khoán có phản ứng rất nhạy cảm với sự biến động
lãi suất trên thị trường. Khi lãi suất trên thị trường tăng, người dân sẽ gửi tiền
vào ngân hàng thay vì tham gia hoạt động đầu tư chứng khoán rủi ro. Đây là
nguyên nhân kìm hãm hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán nói chung
và hoạt động bảo lãnh phát hành nói riêng.
* Tình trạng của cán cân Ngân sách nhà nước : Trong trường hợp Ngân sách
thâm hụt buộc Chính phủ phải tìm cách bù đắp như : phát hành trái phiếu, vay
trong và ngoài nước….Nếu tình trạng này kéo dài sẽ làm ảnh hưởng tới lãi suất
thị trường và cản trở tới hoạt động đầu tư trong nền kinh tế, từ đó ảnh hưởng tới
hoạt động của CTCK và nghiệp vụ bảo lãnh phát hành.
Khuôn khổ pháp lý
Để thị trường chứng khoán có thể phát triển ổn định, lành mạnh và hiệu quả thì
việc tạo ra hành lang pháp lý đồng bộ, thông thoáng là một vấn đề cần thiết.
Hành lang pháp lý này là cơ sở điều chỉnh hoạt động của các chủ thể tham gia
trên thị trường chứng khoán, đảm bảo quyền và lợi ích cũng như nghĩa vụ mà
nhà đầu tư và các tổ chức trung gian phải thực hiện. Điều này góp phần gia tăng
nguồn vốn huy động cho nền kinh tế thông qua phát hành chứng khoán.
Nhu cầu của các doanh nghiệp và Chính phủ đối với hoạt động bảo
lãnh phát hành chứng khoán
Có thể nói đây chính là điều kiện về nhu cầu của nền kinh tế đối với hoạt động
bảo lãnh phát hành chứng khoán. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, các nhà
cung cấp muốn tồn tại thì phải đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường. Có cầu
tất có cung. Và đây là yếu tố quan trọng không thể thiếu được nếu muốn cho
nghiệp vụ này tồn tại và phát triển.
Mức phí cho tổ chức bảo lãnh:
Một mức phí hợp lý đủ bù đắp cho việc chịu rủi ro của tổ chức bảo lãnh và đem
lại doanh thu cao sẽ khuyến khích tổ chức bảo lãnh tập trung để phát triển
nghiệp vụ này.
1.3.2. Nhân tố chủ quan
Quy trình nghiệp vụ bảo lãnh phát hành
Để đảm bảo cho một đợt bảo lãnh phát hành chứng khoán thành công thì việc
xây dựng và triển khai một quy trình bảo lãnh phát hành chuẩn và phù hợp với
tình hình thị trường cũng như điều kiện cụ thể của mỗi tổ chức bảo lãnh là một
trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu của công ty chứng khoán. Có thể
nói rằng mỗi bước trong quy trình bảo lãnh đều có vai trò và ý nghĩa riêng
được thực hiện theo một trình tự nhất định. Với việc tuân thủ nghiêm ngặc quy
trình này giúp tổ chức bảo lãnh có thể đánh giá được tổ chức phát hành, quy
mô, khối lượng, thời điểm phát hành cũng như khả năng thành công trong việc
phân phối chứng khoán. Như vậy, đây là nhân tố quan trọng có ảnh hưởng trực
tiếp và lớn nhất tới nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán.
Khả năng tài chính
Đây là yếu tố có ảnh hưởng quyết định đến quy mô bảo lãnh phát hành chứng
khoán. Tổ chức bảo lãnh luôn thường trực phải gánh chịu một mức rủi ro cao
nên để thực hiện nghiệp vụ này đòi hỏi một mức vốn khá lớn. Thực tế một
CTCK có sức mạnh về vốn sẽ để lại sự an tâm cho tổ chức phát hành. Vì vậy,
hạn chế về khả năng tài chính có thể dẫn đến trở ngại cho sự phát triển của hoạt
động bảo lãnh phát hành chứng khoán.
Điều kiện kỹ thuật và trình độ nhân sự
Để đợt phát hành chứng khoán có thể được triển khai và thành công đòi hỏi tổ
chức bảo lãnh phải có sự thăm dò thị trường, tìm hiểu về nhu cầu và cách thức
đáp ứng tốt nhất nhu cầu của tổ chức phát hành. Đồng thời phải phân tích, đánh
giá tình hình tài chính của tổ chức phát hành, phải xây dựng được hệ thống phân
phối chứng khoán. Tất cả những đòi hỏi trên đều được giải quyết thông qua
những điều kiện về kỹ thuật và trình độ nhân viên của tổ chức bảo lãnh. Khả
năng thành công của đợt phát hành sẽ cao hơn nếu nhân viên tổ chức bảo lãnh
giỏi về chuyên môn, giàu kinh nghiệm, nhiệt tình với công việc và có đạo đức
nghề nghiệp tốt cùng với những trang thiết bị hiện đại nhằm thu thập thông tin,
phục vụ phân tích tài chính doanh nghiệp.
1.4. Kinh nghiệm một số nước về bảo lãnh phát hành chứng khoán
1.4.1. Kinh nghiệm bảo lãnh phát hành chứng khoán ở Trung Quốc
Mấy năm gần đây, TTCK Trung Quốc được biết tới là một trong những
thị trường có tốc độ phát triển nhanh. Mức vốn hoá của TTCK cao hơn cả GDP
của nước này (năm 2007, mức vốn hoá của TTCK là 21147 nghìn tỷ NDT tương
đương 2800 tỷ USD). Một nét tiêu biểu là các đợt IPO các doanh nghiệp lớn đã
được thực hiện hết sức thành công, một phần là do hành lang pháp khá hoàn
thiện, và một phần là bởi tính chuyên nghiệp trong hoạt động tư vấn, bảo lãnh
do công ty chứng khoán đảm nhiệm. Hoạt động phát hành và bảo lãnh phát hành
chứng khoán được điều chỉnh bởi Luật chứng khoán nước Cộng hoà nhân dân
Trung Hoa ra ngày 29/12/1998, trong đó quy định rõ: Công ty chứng khoán
nhận bảo lãnh phát hành chứng khoán ra công chúng phải tuân thủ các quy định
của pháp luật và quy định hiện hành. Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng
khoán bao gồm 2 phương thức: Đại lý và bao tiêu.
Đại lý chứng khoán là phương thức bảo lãnh mà công ty chứng khoán phân
phối chứng khoán thay tổ chức phát hành chứng khoán, khi kết thúc đợt bảo
lãnh, các công ty chứng khoán chưa bán hết được trả lại toàn bộ cho tổ chức
phát hành.
Bao tiêu chứng khoán là phương thức bảo lãnh mà công ty chứng khoán căn
cứ theo hợp động mua toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát hành, hoặc khi đợt
bảo lãnh kết thúc sẽ tự mua vào toàn bộ số chứng khoán còn lại sau khi bán.
CTCK nhận bảo lãnh phải kiểm tra tính chân thực của bản thông báo phát
hành. Sau khi đảm bảo tính chân thực, hoàn chỉnh của nó các tổ chức bảo lãnh
nộp hồ sơ của tổ chức phát hành lên Uỷ ban giám quản Trung Quốc (CSRC) và
CSRC xem xét, nếu thiếu thì sẽ đề nghị bổ sung. Sau khi hồ sơ đầy đủ, vụ quản
lý phát hành thẩm định hồ sơ theo quy trình :
• Xem xét có phù hợp với Luật công ty hay không, đánh giá năng lực lợi nhuận
của công ty trong tương lai, số vốn góp của các sáng lập viên, thành viên Hội
đồng quản trị có hợp pháp hay khôn, công ty có hoạt động độc lập hay không,
trong 3 năm gần đây nhất công ty có phát triển so với các công ty khác trong
cùng ngành nghề không, kế hoạch trong tương lai?
• Vụ phát hành của CSRC thẩm định (về mặt pháp lý, quy chế công bố thông
tin) sau đó gửi Hội đồng Chấp thuận phát hành để xem xét chất lượng của công
ty trên cơ sở các tiêu chí đã được ban hành. Sau khi Hội đồng chấp thuận, CSRC
sẽ chấp thuận cho công ty phát hành chứng khoán.
Tổng giá trị theo mệnh giá của chứng khoán phát hành ra công chúng nếu
vượt quá 50 triệu CNY phải do tổ hợp bảo lãnh phát hành bảo lãnh. Tổ hợp
bảo lãnh phát hành bao gồm tổ chức bảo lãnh chính và các tổ chức đồng bảo
lãnh.
Giá phát hành do tổ chức phát hành cùng công ty chứng khoán nhận bảo
lãnh thoả thuận xác định và báo cáo lên CSRC xét duyệt. Việc xác định giá phát
hành được thực hiện bằng cách biểu quyết bỏ phiếu để đưa ra giá phát hành
chính thức. Việc mua bán chứng khoán được thực hiện qua mạng hoặc qua các
tổ chức tài chính trung gian.
1.4.2. Kinh nghiệm bảo lãnh phát hành chứng khoán ở Mỹ.
Hiện nay, TTCK Mỹ đạt mức vốn hoá là 17,99 nghìn tỷ USD, gấp 1000
lần TTCK Việt Nam, tương đương với 132% GDP của nước này.
Ở Mỹ phần lớn việc phát hành chứng khoán ra công chúng đều được thực
hiện thông qua tổ chức bảo lãnh phát hành là các CTCK và Ngân hàng đầu tư.
Từ năm 1999, có thêm cả các tổ chức tài chính, tín dụng, các công ty bảo hiểm
tham gia vào lĩnh vực bảo lãnh phát hành chứng khoán
Hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán ở Mỹ giống như một hình
thức bảo hiểm. Trong một đợt chào bán được bảo lãnh, các tổ chức bảo lãnh
mua lại chứng khoán từ các tổ chức phát với mức giá họ đặt ra rồi trừ đi % phí
bảo lãnh nhất định. Như vậy, với việc chấp nhận bảo lãnh thì tổ chức bảo lãnh
phát hành chứng khoán phải chịu rủi ro là có thể không bán được hết toàn bộ số
chứng khoán phát hành với mức giá ban đầu buộc các tổ chức bảo lãnh phải bán
theo giá thị trường và có thể bị thua lỗ. Ngoài ra, hoạt động bảo lãnh ở Mỹ còn
có thể tiến hành thông qua tổ hợp bảo lãnh. Trong một đợt chào bán chứng
khoán có tổ hợp bảo lãnh tham gia thì tổ hợp này sẽ mua chứng khoán từ tổ
chức phát hành và chào bán lại cho nhà đầu tư. Nhà bảo lãnh chính sẽ lựa chọn
những CTCK nào có khả năng tiếp thị, chào bán để thành lập một tổ hợp bảo
lãnh. Việc thành lập tổ hợp bảo lãnh sẽ san sẻ rủi ro và giúp phân phối chứng
khoán được thuận lợi hơn.
Bước đầu tiên trong quy trình bảo lãnh phát hành chứng khoán ở Mỹ là tổ
chức phát hành và tổ chức bảo lãnh có những thỏa thuận thống nhất ban đầu và
kết thúc sau 25 ngày kể từ đợt chào bán chính thức được phép tiến hành đối với
chứng khoán được niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán hoặc thị trường phi
tập trung. Nếu là chứng khoán không đủ khả năng niêm yết thì đợt chào bán
thường kết thúc sau 90 ngày kể từ khi chứng khoán chính thức được chào bán.
Việc chào bán chứng khoán được thực hiện theo trình tự: Lập hồ sơ phát
hành, đăng ký với Uỷ ban giao dịch chứng khoán (SEC), SEC đưa ra những ý
kiến sửa đổi đăng ký, chuẩn bị bản cáo bạch sơ bộ, tiến hành quảng cáo về đợt
chào bán, tiến hành nghiên cứu về công ty, thoả thuận giá cả, ký kết hợp đồng
bảo lãnh và kết thúc.
Luật chứng khoán Mỹ 1933 có quy định tổ chức bảo lãnh phát hành sẽ
tiến hành nghiên cứu về tổ chức phát hành và chuẩn bị hồ sơ đăng ký với Uỷ
ban chứng khoán. Tham gia vào quy trình bảo lãnh còn có cả tổ chức kiểm toán
và tư vấn pháp luật. Tổ chức bảo lãnh phải chuẩn bị: hợp đồng bảo lãnh phát
hành, hồ sơ pháp lý, số liệu tình hình tài chính của tổ chức phát hành để công bố
cho công chúng biết tại văn phòng của SEC. Hồ sơ đăng ký chỉ được coi là có
hiệu lực khi SEC không còn bất kỳ sửa đổi nào và ngày nộp hồ sơ được tính kể
từ ngày đó.
Trong thời gian chờ đợi sự chấp thuận về việc phát hành chứng khoán, tổ
chức bảo lãnh lập tổ hợp bảo lãnh (nếu có), in ấn và phát hành bản cáo bạch sơ
bộ, lựa chọn đại lý chuyển nhượng và sở giao dịch niêm yết, tổ chức quảng cáo
cho đợt phát hành. Đồng thời tổ chức bảo lãnh phát hành bàn bạc với các bên có
liên quan về chào bán chứng khoán, nghiên cứu các vấn đề liên quan tới điều lệ
công ty….để có thể hạn chế rủi ro cho đợt phát hành.
Để đi tới thoả thuận và quyết định cuối cùng về khối lượng và giá chứng
khoán phát hành phải căn cứ vào tình hình chung của thị trường, tình hình tài
chính của tổ chức phát hành, giá chứng khoán khác cùng ngành, giá dự kiến.
Khi hồ sơ đăng ký phát hành có hiệu lực thì tổ chức bảo lãnh ký hợp đồng bảo
lãnh và chứng khoán được bán ra ngoài.
1.4.3. Bài học kinh nghiệm
Như vậy, có thể thấy việc bảo lãnh phát hành ở Mỹ đạt được nhiều thành
công chính là nhờ sự tham gia tích cực của những định chế tài chính chuyên
nghiệp: NHTM, CTCK , Tổ chức bảo hiểm, Công ty đầu tư. Các tổ chức này sẽ
mua trực tiếp toàn bộ số chứng khoán từ tổ chức phát hành, sau đó bán lại cho
các nhà đầu tư khác trên thị trường thứ cấp. Để có thể gánh vác hết rủi ro, các
định chế tài chính trung gian này sẽ phải cố gắng hết sức xác định một mức giá
chào bán chính xác và phù hợp để sao vừa có lãi mà vẫn được nhà đầu tư chấp
nhận.
Còn với Trung Quốc, một nhân tố quyết định tới thành công của bảo lãnh
chính là việc quy định rõ ràng quyền hạn và trách nhiệm của tổ chức phát hành
chứng khoán và tổ chức bảo lãnh phát hành chứng khoán.
Đây chính là những bài học quý báu mà các CTCK ở Việt Nam cần xem
xét học tập: cần phải tư vấn cẩn thận ngay từ khâu đầu tiên và tuân thủ đúng quy
định, trong đó khâu định giá chứng khoán đòi hỏi các CTCK phải lựa chọn biện
pháp tính giá phù hợp nhất, chính xác nhất với tình hình của tổ chức phát hành,
phải căn cứ trên giá trị của bản thân doanh nghiệp chứ không tính toán qua loa,
đại khái, chạy theo xu hướng giá thị trường.
Kết luận chương I
Trong chương này, đề tài tập trung nghiên cứu vào những vấn đề mang
tính chất khái quát nhất về hoạt động phát hành và bảo lãnh phát hành chứng
khoán, cùng kinh nghiệm của một số nước trong lĩnh vực này. Nội dung chính
của chương này đề cập tới một số vấn đề cơ bản như khái niệm, đặc điểm, các
hình thức bảo lãnh phát hành chứng khoán cũng như vai trò của bảo lãnh phát
hành chứng khoán, quy trình thực hiện bảo lãnh phát hành chứng khoán…..
Trên nền tảng lý luận đó, chúng ta có thể nhận định được chính xác thực
trạng bảo lãnh phát hành chứng khoán ở Việt nam, đánh giá khách quan và đầy
đủ những gì là ưu và khuyết điểm của nghiệp vụ này, để từ đó đề xuất những
biện pháp phù hợp giúp nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán của các
CTCK ở Việt Nam ngày càng phát triển và hoàn thiện.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG BẢO LÃNH PHÁT HÀNH CHỨNG KHOÁN CỦA
CÁC CÔNG TY CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
2.1. Thực trạng phát hành chứng khoán tại Việt Nam
Như chúng ta đã biết, thị trường chứng khoán là môi trường tác động
trực tiếp đến hoạt động phát hành chứng khoán của các doanh nghiệp, cũng
như hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán của các TCBL phát hành.
Một thị trường chứng khoán phát triển lành mạnh và sôi động sẽ kích thích
sự huy động vốn của các doanh nghiệp thông qua việc phát hành chứng
khoán. Tuy nhiên thực tế trong thời gian qua, hình thức vay vốn qua hệ
thống ngân hàng vẫn là kênh huy động vốn quen thuộc của hầu hết các
doanh nghiệp cổ phần. Như vậy, muốn để các doanh nghiệp coi phát hành
chứng khoán là kênh huy động vốn chính thì sự ra đời của thị trường chứng
khoán chưa thể là đủ, mà quan trọng là cơ chế hoạt động, chủ thể trên thị
trường đó đã hoàn thiện hay chưa?
Trong 2 năm trở lại đây, thị trường chứng khoán Việt Nam đã có
những bước phát triển đáng ghi nhận:
• Số chứng khoán niêm yết trên toàn thị trường tăng qua các năm: năm
2006 có 193; năm 2007 có 249
• Số công ty chứng khoán cũng tăng nhanh: năm 2005 có 14, năm 2006 có
55, năm 2007 có 74 và quý II/2008 có 87 công ty chứng khoán.
• Giá trị vốn hóa của thị trường cũng tăng: năm 2005 là 2% GDP; 2006 là
22,6% GDP; 2007 là 43%GDP.
Tuy nhiên thực tế thì thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn tồn tại
rất nhiều hạn chế như: số nhà đầu tư chứng khoán chỉ chiếm 0.4% tổng số
dân; trong đó nhà đầu tư cá nhân chiếm tới 70%; số lượng công ty niêm yết
so với số doanh nghiệp cổ phần hoá chiếm tỷ lệ còn khiêm tốn; sự hoạt
động của các tổ chức tạo lập thị trường còn khá đơn điệu …..Tất cả những
hạn chế trên đều góp phần làm cho thị trường chứng khoán Việt Nam đã
hình thành nhưng chưa thể hoàn thiện được.
Nếu con người là chủ thể không thể thiếu trên thị trường thì hàng hoá
trên thị trường cũng vậy. Hiện nay, hàng hoá trên thị trường chứng khoán
của ta mới có cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư và một số chứng
khoán phái sinh như quyền mua, quyền cấp. Tuy nhiên đề tài liên quan tới
bảo lãnh phát hành vì vậy ta chỉ xét tới 2 thị trường chính là : trị trường cổ
phiếu và thị trường trái phiếu.
2.1.1. Thị trường trái phiếu
Thị trường trái phiếu tuy đã xuất hiện từ lâu do những lợi ích mà trái
phiếu đem lại nhưng xét về sự sôi động trong giao dịch thì không thể như
là sự giao dịch của cổ phiếu.
Thị trường trái phiếu của ta cũng khá khả quan với hơn 600 trái
phiếu bao gồm trái phiếu Chính phủ, trái phiếu đô thị, trái phiếu công ty và
trái phiếu Ngân hàng, trong đó trái phiếu Chính phủ chiếm đến tới 89%.
Cuối năm 2007, tổng số trái phiếu niêm yết trên thị trường là 570 loại, với
tổng giá trị là hơn 114,809 tỷ đồng tăng gấp 104 lần so với 2000, tuy nhiên
mức vốn hoá của thị trường trái phiếu vẫn chỉ khoảng 10% GDP.
- Trái phiếu Chính phủ
Từ 2003 đến nay, qua hệ thống kho bạc Nhà Nước đã có 4 đợt phát hành
với tổng giá trị là 33750 tỷ VNĐ. Giá trị trái phiếu phát hành qua hình thức
đấu giá trên thị trường giao dịch chứng khoán cũng tăng dần qua các năm:
9197 tỷ ( 2006); 12000 tỷ (2007), trong quý đầu 2008: 5000 tỷ. Đáng chú
ý, sau khi quyết định số 2276/2006/QĐ- BTC (6/2006) được ban hành quy
định tập trung đấu thầu trái phiếu Chính phủ quy về một mối là HASTC thì
tính riêng trái phiếu Chính phủ do kho bạc Nhà nước phát hành thông qua
30 phiên đấu thầu tại HASTC đã huy động được 12.695 tỷ đồng cho
NSNN. Trước và sau khi có quyết định này, số trái phiếu đưa vào niêm yết
đã tăng từ 12 mã lên 148 mã, với giá trị niêm yết 56.321 tỷ.
Trái phiếu đô thị
Hiện nay, thị trường trái phiếu đô thị chưa thật sự phát triển. Trước hết là
về số lượng, mới gần 60 loại trái phiếu được niêm yết. Tiếp sau là về phạm
vi phát hành, chỉ mới được triển khai ở 2 thành phố lớn là Hà Nội và thành
phố HCM, trong đó chiếm phần lớn là trái phiếu đô thị thành phố HCM.
Trong năm 2006 và 2007, thành phố HCM đã hoàn thành kế hoạch phát
hành trái phiếu đô thị thông qua phương thức bảo lãnh và đấu thầu với khối
lượng là 2000 tỷ đồng mỗi năm.
Trái phiếu doanh nghiệp:
Có thể nói, trái phiếu doanh nghiệp chỉ thực sự khởi sắc từ năm 2006 khi
có Nghị định 52/CP về việc cho phép các doanh nghiệp phát hành theo
hình thức riêng lẻ. Hàng loạt các doanh nghiệp phát hành trái phiếu với quy
mô lớn đưa tổng giá trị phát hành trái phiếu 2006 lên đến 7000 tỷ đồng như
: Lilama, Nam Triều, CII, Vincom, Vinaconex, Vilexim, tổng Công ty
thép…Và xu hướng này tiếp tục gia tăng trong năm 2007, chỉ riêng 7 tháng
đầu năm giá trị trái phiếu phát hành đã bằng cả năm 2006.
Bảng 1 : Số doanh nghiệp phát hành trái phiếu và giá trị trái phiếu
qua các năm
Đơn vị : tỷ đồng
Năm 2005 2006 2007
Số DN phát hành 2 6 12
Giá trị phát hành( tỷ) 1600 11000 20000
2.1.2.Thị trường cổ phiếu
Thị trường chứng khoán ra đời và phát triển là nhờ có tiến trình cổ phần
hoá doanh nghiệp nhà nước và thành lập công ty cổ phần. Các chủ thể này
huy động vốn qua thị trường chứng khoán bằng cách phát hành cổ phiếu dưới
hình thức phát hành nội bộ hoặc phát hành ra bên ngoài. Các cổ phiếu vì thế
sẽ có thể giao dịch trong nội bộ doanh nghiệp hoặc được giao dịch trên OTC
và thị trường chính thức. Từ đầu 2007 đến nay, UBCK đã chấp thuận đăng ký
chào bán cổ phiếu ra công chúng cho hơn 200 CTCP và DNNN thực hiện IPO
với tổng giá trị là 105537 tỷ đồng.
Tuy nhiên, thực tế trong thời gian qua, nguồn cung cổ phiếu từ quá
trình CPH và phát hành cổ phiếu của công ty cổ phần chưa thật sự tương xứng
với khả năng đáng có. Bởi quá trình CPH diễn ra quá chậm. Năm 2006, có 55
DNNN được CPH đạt 9,16% kế hoạch, sang 2007 là 82 DNNN thực hiện
CPH đạt được 14,9%, nhưng chỉ có duy nhất Vietcombank là thực hiện phát
hành cổ phiếu lần đầu trong năm đó. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp thực
hiện cổ phần hoá "khép kín" trong nội bộ, có tới 38% số doanh nghiệp không
bán cổ phiếu ra ngoài.
Bảng 2 : Số lượng công ty cổ phần phát hành cổ phiếu ra công chúng và
giá trị phát hành qua các năm
Năm 2006 2007
Số CTCP phát hành CP ra công chúng 125 179
Giá trị phát hành ( tỷ VNĐ) 1920 48000
Nói tới thị trường cổ phiếu là phải nói tới mảng cổ phiếu niêm yết. Số
cổ phiếu niêm yết qua các các năm tăng nhanh, song so với số lượng công ty
cổ phần hiện hữu ở nước ta thì tỉ lệ công ty niêm yết trên tổng số công ty cổ
phần còn vô cùng khiêm tốn, chưa đạt 2%. Bởi lẽ đa phần các doanh nghiệp
của nước ta có quy mô vốn vừa và nhỏ, trong khi Luật chứng khoán quy định
tối thiểu phải có mức vốn điều lệ là 10 tỷ đồng khi niêm yết trên Trung tâm
giao dịch, và 80 tỷ đồng khi niêm yết trên Sở giao dịch.
Bảng 3 : Số công ty niêm yết qua các năm
Năm 2005 2006 2007
Số công ty niêm yết 39 193 253
Tuy nhiên, quy mô thị trường cổ phiếu niêm yết của nước ta vẫn còn khiêm
tốn so với khu vực và trên thế giới. Các "đại gia" trên toàn thị trường mới chỉ
có lác đác: có 12 công ty lớn có giá trị niêm yết là 10.000 tỷ đồng và 70 công
ty có giá trị niêm yết đạt trên 1000 tỷ đồng. Trong khi đó ớ Singapor, con số
này lên tới hơn 700 công ty.
2.2. Khuôn khổ pháp lý về bảo lãnh phát hành chứng khoán tại Việt
Nam
Bảo lãnh phát hành chứng khoán là nghiệp vụ liên quan tới việc
phát hành chứng khoán. Do đó, tất yếu nó sẽ chịu sự điều chỉnh của các
văn bản pháp luật về TTCK nói chung và hoạt động bảo lãnh phát hành
chứng khoán nói riêng.
Hiện nay, nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán chịu sự điều
chỉnh của các văn bản pháp lý như sau:
* Thông tư số 29/2004/TT-BTC ngày 24/3/2004 của Bộ Tài Chính
về hướng dẫn chi tiết một số điểm về bảo lãnh phát hành và đại lý phát
hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái
phiếu chính quyền địa phương.
* Luật chứng khoán số 70/2006/QH 11 được Quốc hội khoá XI, kỳ
họp thứ 9 thông qua ngày 29/06/2006 và có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2007. Đây là văn bản pháp lý cao nhất về Chứng khoán ở Việt Nam
hiện nay.
Luật chứng khoán quy định: " bảo lãnh phát hành chứng khoán là
việc tổ chức bảo lãnh phát hành cam kết với tổ chức phát hành thực hiện
các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, nhận mua một phần hay
toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát hành để bán lại hoặc mua số
chứng khoán còn lại chưa phân phối hết của tổ chức phát hành hoặc hỗ
trợ tổ chức phát hành trong việc phân phối chứng khoán ra công chúng "
Như vậy, theo luật hiện nay nghiệp vụ phát hành chỉ được tiến hành theo
2 phương thức là bảo lãnh cam kết chắc chắn và bảo lãnh dự phòng. Ngoài ra,
các tổ chức tham gia nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán có thể là các
ngân hàng, các CTCK và các tổ chức tài chính quốc tế đựoc phép.
* Theo quyết định số 27/2007/ QĐ-BTC ngày24/4/2007 quy định về
tổ chức và hoạt động của các CTCK hoạt động tại Việt Nam, trong đó có
một số liên quan tới nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán :
Điều kiện để được bảo lãnh phát hành chứng khoán
Các công ty chứng khoán được thực hiện bảo lãnh phát hành chứng
khoán theo hình thức cam kết chắc chắn nếu đáp ứng các điều kiện sau:
1. Được phép thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán;
2. Không vi phạm pháp luật chứng khoán trong 06 tháng liên tục liền
trước thời điểm bảo lãnh;
3. Tổng giá trị bảo lãnh phát hành không được lớn hơn 50% vốn chủ
sở hữu của tổ chức bảo lãnh phát hành vào thời điểm cuối quý gần nhất
tính đến ngày ký hợp đồng bảo lãnh phát hành, trừ trường hợp bảo lãnh
phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh;
4. Có tỷ lệ vốn khả dụng trên nợ điều chỉnh trên 6% trong ba (03)
tháng liền trước thời điểm nhận bảo lãnh phát hành.
Hạn chế bảo lãnh phát hành
1.Tổ chức bảo lãnh phát hành không được bảo lãnh phát hành theo
hình thức cam kết chắc chắn trong các trường hợp sau đây:
a) Tổ chức bảo lãnh phát hành độc lập hoặc cùng các công ty con
của tổ chức bảo lãnh phát hành có sở hữu từ 10% trở lên vốn điều lệ của
tổ chức phát hành.
b) Tối thiểu 30% vốn điều lệ của tổ chức bảo lãnh phát hành và của
tổ chức phát hành là do cùng một tổ chức nắm giữ.
2. Trường hợp đợt phát hành có tổng giá trị cam kết bảo lãnh lớn hơn
hai (02) lần vốn chủ sở hữu của tổ chức bảo lãnh phát hành, phải lập tổ
hợp bảo lãnh phát hành. Trong trường hợp này, tổ chức bảo lãnh phát
hành chính chịu trách nhiệm ký hợp đồng bảo lãnh với tổ chức phát hành,
hoàn tất hồ sơ pháp lý về việc bảo lãnh phát hành và ký hợp đồng bảo
lãnh phát hành với các tổ chức bảo lãnh phát hành khác.
3. Khi một CTCK bảo lãnh phát hành chứng khoán, CTCK phải mở
một tài khoản riêng biệt tại một ngân hàng đang hoạt động hợp pháp tại
Việt Nam để nhận tiền đặt mua chứng khoán của khách hàng.
* Ngoài ra, còn có một số văn bản pháp lý khác điều chỉnh hoạt
động phát hành chứng khoán:
• Nghị định 52/2006/NĐ-CP ngày 19/05/2006 về phát hành trái phiếu
doanh nghiệp.
• Quyết định 46/2006/QĐ-BTC của Bộ Tài Chính ban hành quy chế
phát hành trái phiếu Chính phủ theo lô lớn.
• Nghị định số 14/2007/NĐ-CP vào ngày 19/01/2007 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chứng Khoán. Trong đó,
nghị định bao gồm cả những quy định hướng dẫn luật chứng khoán về
chào bán chứng khoán ra công chúng.
* Và một số văn bản hướng dẫn thi hành :
• Nghị định 14/2007/NĐ-CP 19/01/2007 của Chính phủ
• Nghị định số 36/2007/NĐ-CP ngày 08/03/2007 về xử phạt các vi
phạm hành chính.
• Thông tư số 18/2007/TT-BTC 13/3/2007 hướng dẫn hồ sơ đăng ký
chào bán chứng khoán ra công chúng.
• Thông tư 17/2007/TT-BTC 13/3/2007 hướng dẫn mua bán lại cổ phiếu
và một số trường hợp phát hành thêm cổ phiếu của công ty đại chúng.
Như vậy, có thể nói cho tới nay đã có rất nhiều văn bản pháp luật
điều chỉnh hoạt động phát hành của doanh nghiệp và hoạt động bảo lãnh
phát hành chứng khoán của tổ chức bảo lãnh. Chính vì vậy đòi hỏi các
CTCK thực hiện bảo lãnh phát hành chứng khoán cần nghiên cứu kỹ để
đảm bảo thực hiện đúng theo pháp luật, đem lại hiệu quả cao nhất cho đợt
bảo lãnh phát hành.
2.3. Thực trạng bảo lãnh phát hành chứng khoán của các CTCK tại
Việt Nam
Có thể nói, hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán là một
nghiệp vụ vô cùng quan trọng và cần thiết, không thể thiếu ở các thị
trường chứng khoán phát triển, ở đó hầu hết các doanh nghiệp muốn huy
động vốn đều lựa chọn phát hành cổ phiếu và vì vậy hoạt động hỗ trợ các
doanh nghiệp phát hành chứng khoán vì thế cũng rất phát triển.
Tuy nhiên, ở TTCK Việt Nam, hoạt động bảo lãnh phát hành chứng
khoán của các CTCK còn rất sơ khai, đại đa số dừng lại ở việc làm đại lý
phát hành. Các CTCK là tổ chức được phép thực hiện bảo lãnh với cả cổ
phiếu, trái phiếu, và chứng chỉ quỹ đầu tư.
Thực tế, khi TTCK Việt Nam ra đời và kéo theo đó là sự xuất hiện của
một số CTCK được cấp phép thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh. Trong vòng 3
năm đầu, các CTCK chỉ thực hiện bảo lãnh phát hành trái phiếu Chính
phủ. Sang tới năm 2003, VCBS mới chính thức đi tiên phong thực hiện
bảo lãnh phát hành cho mảng chứng khoán mới là trái phiếu doanh
nghiệp và cổ phiếu. Sự bảo lãnh thành công của VCBS với trái phiếu của
công ty cổ phần xuất nhập khẩu và đầu tư HCM (Imexco) trong năm
2003 và cổ phiếu của Ngân hàng Eximbank năm 2004 là bước khởi đầu
tốt đẹp, hứa hẹn sang năm 2005 khi thị truờng đã thoát khỏi sự ảm đảm
kéo dài thì bảo lãnh phát hành chứng khoán sẽ là một mảnh đất màu mỡ
để các CTCK khai thác.
Và thực tế cho thấy, giá trị bảo lãnh từ năm 2005 cho tới nay cũng đã
tăng. Cụ thể như sau: năm 2006 giá trị bảo lãnh tăng so với 2005 là
113,2%, năm 2007 tăng so với 2005 là 603,5 %. Có thể tính toán được tỷ
lệ này thông qua bảng số liệu sau:
Bảng 4 : Giá trị bảo lãnh của các CTCK qua các năm
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm Giá trị bảo lãnh phát hành 2005 7036,43 2006 15000,46 2007 49501,52
Tuy nhiên cần nhìn nhận giá trị bảo lãnh bên cạnh giá trị huy động vốn
trên thị trường chứng khoán thì ta mới có thể thấy được quy mô bảo lãnh
đã thực sự lớn hay chưa?
Bảng 5: Giá trị bảo lãnh phát hành và huy động vốn trên TTCK
qua các năm
200000
180000
160000
140000
120000
Giá trị huy động trên TTCK
100000
Giá trị bảo lãnh
80000
60000
40000
20000
0
2005 2006 2007
(Theo nguồn : Uỷ ban chứng khoán Nhà nước)
Như vậy, qua biểu đồ trên ta có thể thấy: mặc dù giá trị bảo lãnh có tăng
song tỉ lệ tăng không mạnh như quy mô phát hành, dẫn đến tỷ trọng giá trị
bảo lãnh trên giá trị huy động vốn chưa năm nào đạt tới 50 %, cụ thể năm
2005 là 37,2%, năm 2006 là 39.5, năm 2007 là 38.67%. Đằng sau đó thể
hiện một thực trạng: cả tổ chức bảo lãnh lẫn tổ chức phát hành chưa thật
sự quan tâm tới dịch vụ này. Đây chính là một trong những nguyên nhân
ảnh hưởng lớn tới quan hệ cung cầu bảo lãnh phát hành sẽ được phân tích
về sau.
Tất yếu hệ quả của việc hầu hết các CTCK chỉ chú trọng tới một số
mảng nghiệp vụ quen thuộc như môi giới, tự doanh thì tỷ lệ doanh thu bảo
lãnh của các CTCK so với tổng doanh thu chỉ chiếm tỷ lệ khá khiêm tốn :
Bảng 6 : Tỷ trọng doanh thu bảo lãnh trên tổng doanh thu của
các CTCK
Doanh
MG 231923 TD 986047 BL 103748 QLDM 44032 TV 35518 Năm2006 thu Tỷ 15,66% 66,66% 7.01% 2,98% 2,4% trọng
(Theo nguồn : Uỷ ban chứng khoán nhà nước)
Trong số hơn 40 CTCK được phép thực hiện bảo lãnh phát hành chứng
khoán thì chỉ có lác đác vài công ty quan tâm và có hướng phát triển lâu dài
về mảng nghiệp vụ này như BVSC, VCBS, Habubank security (HBBS), SSI,
BSC… Vì vậy, thị phần bảo lãnh của tất cả các CTCK trên thị trường chính là
thị phần của một vài công ty cá thể nói trên.
Bảng 7 : Thị phần bảo lãnh của các CTCK qua các năm
Thị phần bảo lãnh năm 2005
Thị phần bảo lãnh năm 2004
3.6
7.0
30.9
22.9
13.2
30.4
24.5
44.5
11.9
7.8
BVSC VCBS
BSC ACBS
ARSC C TC K còn lại
Như vậy, trong 2 năm liền thị phần bảo lãnh của VCBS vẫn luôn giữ vị trí đầu
bảng kế tiếp là BVSC. Tuy nhiên, sang đến năm 2006, BVSC đã đánh bật
VCBS dành vị trí cao nhất. BVSC được biết đến là một công ty với mức vốn
điều lệ không lớn (150 tỷ) so với một số CTCK tên tuổi khác, song lại được
đánh giá là CTCK có tầm nhìn chiến lược và hoạt động hiểu quả trong
mảng nghiệp vụ này. Vị trí dẫn đầu vẫn được BVSC duy trì sang năm
2007 với thị phần là gần 80%. Doanh thu bảo lãnh chiếm tỷ lệ khá cao
trong tổng doanh thu mà BVSC có được.
Bảng 8 : Doanh thu bảo lãnh, tỷ trọng doanh thu bảo lãnh của BVSC Đơn vị : tỷ đồng
Tỷ trọng doanh Doanh thu bảo Năm Tổng doanh thu thu bảo lãnh trên lãnh
tổng doanh thu 45,05 % 19,72 % 16,87 % 10,184 10,829 48,57 2005 2006 2007 22,605 56,927 287,8
(Theo nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của BVSC)
Trong 2 năm trở lại đây, giá chứng khoán tăng mạnh đã làm cho tốc
độ cũng như số lượng cổ phiếu phát hành tăng nhanh. Hoạt động phát
hành trái phiếu doanh nghiệp cũng đã có bước tiến đáng kể. Hoạt động
bảo lãnh của các CTCK cũng vì vậy mà cuốn theo sự phát triển chung của
thị trường. Song nhìn chung các CTCK vẫn hoạt động bảo lãnh khá cầm
chừng, nghiêng nhiều về bảo lãnh trái phiếu chính phủ và và trái phiếu
doanh nghiệp. Ta có thể điểm lại một số đợt bảo lãnh thành công tiêu biểu
trong mấy năm gần đây
Bảng 9 : Một số đợt bảo lãnh phát hành tiêu biểu qua các năm
Thời gian
Loại chứng
Tổ chức bảo
Giá trị bảo
Tổ chức phát hành
phát hành
khoán
lãnh
lãnh
Công ty cơ điện
7/2005
Cổ phiếu
BVSC
129,5 tỷ
lạnh REE
CTCP cáp và viễn
12/2005
Cổ phiếu
SSI
243 tỷ
thông SACOM
Tổng công ty điện
2006
Trái phiếu
SSI
900 tỷ
lực Việt nam EVN
Tập đoàn công
Habubank
12/2006
nghiệp tàu thuỷ VN
Trái phiếu đợt 1
security
200 tỷ
VINASHIN
(HBBS)
Chính phủ và chính
VCBS bảo lãnh
2006
Trái phiếu
10422 tỷ
quyền địa phương
trong nhiều đợt
Tổng công ty xây
3/2007
lắp máy Việt Nam
Trái phiếu
HBBS
500 tỷ
LILAMA
Tập đoàn công
HBBS và
7/2007
nghiệp tàu thuỷ VN
Trái phiếu
3000 tỷ
Deutsch Bank
VINASHNE
2.4. Đánh giá hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán của các CTCK
tại Việt Nam.
2.4.1. Kết quả đạt được
Luật pháp về chứng khoán đã cho phép việc đa dạng hoá các hình thức
kinh doanh và cung cấp các dịch vụ tài chính trong đó có nghiệp vụ bảo lãnh phát
hành chứng khoán. Với những quy định và hướng dẫn thi hành nghiệp vụ này, các
tổ chức có liên quan tới việc phát hành chứng khoán và bảo lãnh phát hành chứng
khoán sẽ có những việc làm cụ thể và hướng đi phù hợp để đem lại sự thành công
cao nhất cho đợt phát hành và góp phần làm cho hoạt động của thị trường chứng
khoán thêm sôi động và sớm hoàn thiện. Vì vậy, ta có thể tổng kết một số thành
công bước đầu của nghiệp mà bảo lãnh phát hành chứng khoán do các CTCK
thực hiện như sau:
Thứ nhất, trong vài năm gần đây, đã có khá nhiều công ty đăng ký tham
gia vào nghiệp vụ này đem lại giá trị bảo lãnh chứng khoán tăng dần qua các năm.
Trong đó một số CTCK đã bước đầu đạt được những thành công nhất định như
BVSC, VCBS, BSC, ARSC, SSI…..
Thứ hai, sau nhiều lần bổ sung quy định hướng dẫn về nghiệp vụ này,
các CTCK đã thực hiện bảo lãnh không chỉ với trái phiếu Chính phủ, trái phiếu
chính quyền địa phương mà nay còn là cổ phiếu và chứng chỉ quỹ, giúp CTCK đa
dạng hoá dịch vụ bảo lãnh tìm kiếm cơ hội trở thành tổ chức bảo lãnh uy tín trên
một số mảng bảo lãnh chứng khoán nhất định. Hiện nay, BVSC, SSI mạnh về bảo
lãnh cổ phiếu; ARSC mạnh về bảo lãnh trái phiếu chính phủ; VCBS,VIS, HBBS
mạnh về bảo lãnh trái phiếu doanh nghiệp….
Thứ ba, một chuyển biến quan trọng trong tầm nhìn chiến lược của một
số CTCK là: Đưa bảo lãnh phát hành chứng khoán trở thành nghiệp vụ thế mạnh
trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt đặc biệt khi thị trường tài chính
mở cửa theo lộ trình đã cam kết. Vì vậy, một số CTCK đã tích cực sử dụng nhiều
biện pháp để phát triển nguồn lực vốn, nguồn lực con người, công nghệ……
Bảng 10 : Vốn điều lệ của một số CTCK
Đơn vị: Tỷ đồng
Vốn điều lệ
Công ty chứng khoán
Ban đầu Hiện nay
CTCK Habubank (HBBS) 50 150
CTCK Bảo Việt (BVSC) 43 150
CTCK NH Đầu tư và phát triển (BSC) 55 200
CTCK NH Vietcombank (VCBS ) 60 200
CTCK Kim Long (KLS) 18 315
CTCK NH VPBank (VPBS) 50 500
CTCK Sài Gòn (SSI) 6 800
CTCK NH Sài Gòn Thương Tín (SBSC) 300 1100
(Theo nguồn : Uỷ ban chứng khoán Việt Nam)
2.4.2. Tồn tại và nguyên nhân
Tồn tại :
Thông qua hiện trạng bảo lãnh phát hành chứng khoán ở trên, ta có thể
rút ra một số mặt hạn chế của nghiệp vụ này như sau :
* Thứ nhất, giá trị bảo lãnh chứng khoán của các CTCK ở Việt Nam
còn thấp so với giá trị chứng khoán phát hành trên cả thị trường chính thức và
phi chính thức.
* Thứ hai, thị phần bảo lãnh chỉ tập trung vào một số ít CTCK, còn lại
hầu hết các CTCK được cấp phép thực hiện nghiệp vụ này vẫn chỉ tham gia
với tư cách là nhà đại lý phân phối.
* Thứ ba, giá trị bảo lãnh chưa cao và chất lượng bảo lãnh chưa được
đảm bảo.
* Thứ tư, nghiệp vụ bảo lãnh chỉ mới tập trung ở mảng bảo lãnh trái
phiếu chiếm 2/3 giá trị bảo lãnh nói chung.
Nguyên nhân
Như vậy, những tồn tại kể trên đã khiến cho nghiệp vụ bảo lãnh của các
công ty chứng khoán ở Việt Nam ra đời nhưng chưa phát triển và hoàn thiện.
Điều cần thiết là phải tìm ra những nguyên nhân cơ bản có ảnh hưởng tiêu
cực tới nghiệp vụ này, từ đó có hướng mở rộng và phát triển nghiệp vụ này
một cách hiệu quả nhất.
* Nguyên nhân khách quan:
Đó là : Thị trường chứng khoán Việt Nam chưa phát triển :
Ở Việt Nam hầu hết vẫn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa có kế hoạch
phát triển lâu dài nên họ cũng chưa thấy được nhu cầu cấp bách của việc tư
vấn tài chính.
Số lượng các công ty cổ phần phát hành cổ phiếu ra công chúng còn ít
bởi rất nhiều lý do: thói quen sử dụng nguồn vốn vay qua hệ thống ngân
hàng, quy mô vốn tự có nhỏ, tâm lý e ngại phải công bố thông tin minh
bạch và không có tư tưởng đổi mới tư duy, bắt kịp với xu hướng phát triển
của thị trường.
DNNN thực hiện CPH bán cổ phần ra công chúng nhưng với tỉ lệ không
đáng kể, nên tổ chức phát hành thường không có nhu cầu sử dụng dịch vụ bảo
lãnh phát hành .
* Nguyên nhân chủ quan:
Thứ nhất, việc định giá chứng khoán:
Đây là vấn đề khó khăn nhất, quyết định tới thành công của đợt bảo lãnh phát
hành. Cho đến nay, các phương pháp mà hầu hết các CTCK ở Việt Nam sử
dụng vẫn chưa thể tính toán tương đối chính xác giá chứng khoán. Khi đó khả
năng thất bại của đợt phát hành sẽ rất cao bởi nếu định giá thấp để thu hút nhà
đầu tư nhưng lại ảnh hưởng tới lượng vốn huy động, định giá cao thì nhà đầu
tư có thể không chấp nhận. Chúng ta sẽ tìm hiểu một số hạn chế của các
phương pháp định giá chứng khoán mà các CTCK thường hay sử dụng:
• Dựa trên giá trị tài sản ròng có điều chỉnh :
Giá trị tài sản ròng = Tổng giá trị của từng tài sản riêng- Nợ
Phương pháp này được áp dụng khá phổ biến khi dùng định giá các DNNN
thực hiện CPH. Điểm hạn chế lớn nhất ở đây chính là các CTCK đòi hỏi phải
có trình độ chuyên môn ở nhiều lĩnh vực như :sản xuất, xây dựng… thì mới
có thể tính toán đúng giá trị thị trường của tài sản. Mặt khác, cho dù giá trị tài
sản ròng có được xác định chính xác đến đâu thì vẫn chỉ phản ánh giá trị
thanh lý của công ty, trong khi đó với nhà đầu tư thì giá trị tương lai của công
ty quan trọng hơn cả.
• Với phương pháp Định giá chiết khấu luồng thu nhập
Đây được xem là 1 trong những phương pháp được nhiều nhà đầu tư chấp
nhận bởi nó phản ánh tương đối đầy đủ bản chất hoạt động kinh doanh của
công ty so với các phương pháp khác và đứng trên quản điểm của nhà đầu tư
thì nó phản ánh đúng nguyện vọng của họ khi đầu tư vào doanh nghiệp. Tuy
nhiên để sử dụng được phương pháp này cần dự đoán được 3 yếu tố sau:
luồng thu nhập trong tương lai, mức lãi suất chiết khấu, và thời gian tồn tại
của DN. Nhìn chung với trình độ chuyên môn kỹ thuật như ở nước ta hiện nay
thì rõ ràng cả 3 yếu tố này vẫn chưa thể dự đoán chính xác được.
• Với phương pháp P/E :
Cũng là phương pháp được sử dụng nhưng không phổ biến như 2 phương
pháp trên bởi lẽ phương pháp này buộc phải sử dụng cả P/E trung bình của
ngành. Hiện nay, chỉ tiêu này trên TTCK Việt Nam chưa được tính toán một
cách hệ thống và chưa có một tổ chức nào chịu trách nhiệm đảm bảo tính
chính xác của nó.
Thứ 2, sự kém mặn mà của công ty chứng khoán
Cho tới nay, hình thức mà các CTCK thực hiện nghiệp vụ này vẫn chủ yếu là
làm đại lý phát hành. Số ít công ty dám đảm nhận vai trò bảo lãnh. Bởi lẽ đây
là nghiệp vụ phức tạp, đòi hỏi sức mạnh tổng thể từ vốn, nhân lực, công nghệ,
uy tín….Vì thế đa số các CTCK đã không nỗ lực để khơi dậy mong muốn
được bảo lãnh phát hành từ tổ chức phát hành, cho dù biết rằng nhu cầu này
thực tế nếu có nguồn lực và biện pháp khơi thông sẽ bùng phát mạnh mẽ.
Thứ 3: nguồn lực vốn, nguồn lực con người
Đây có thể là một hạn chế lớn nhất ảnh hưởng tới sự mặn mà của các CTCK
với nghiệp vụ này. Không phải CTCK nào cũng có khả năng tăng vốn để thực
hiện nghiệp vụ này bởi Luật CK quy định mức vốn tối thiểu cho bảo lãnh phát
hành chứng khoán là 165 tỷ. Mặt khác, giá trị bảo lãnh mà mỗi CTCK được
phép thực hiện tối đa không quá 50% mức vốn điều lệ của CTCK đó. Điều
này hạn chế tới quy mô bảo lãnh của các CTCK. Ví dụ một phép tính toán
nhanh đối với một tổ hợp bảo lãnh gồm 5 CTCK có vốn điều lệ lớn nhất thị
trường mới có thể thực hiện giá trị bảo lãnh là gần 1000 tỷ đồng. Trong khi đó
nhiều đợt phát hành của các doanh nghiệp lên tới 2000- 3000 tỷ đồng. Như
vậy, rõ ràng với mức vốn lớn, CTCK có thể đảm nhận giá trị bảo lãnh cao
hơn, và ở một khía cạnh nào đó tổ chức phát hành sẽ tin tưởng lựa chọn một
CTCK có tiềm lực vốn mạnh trong số các CTCK có kinh nghiệm, uy tín như
nhau trên thị trường.
Tuy nhiên cứ cho rằng đáp ứng đủ nguồn lực tài chính, nhưng yêu cầu
với nhân viên thực hiện nghiệp vụ này không chỉ có kiên thức chuyên môn là
đủ mà còn cả hiểu biết và kinh nghiệm rất sâu rộng về mọi lĩnh vực, đây
chính là mặt yếu kém thực tế ở hầu hết các CTCK ở nước ta. Một vòng tròn
luẩn quẩn vì ngại khó không làm, không làm không có kinh nghiệm sẽ mãi là
trở ngại cơ bản nhất cho các CTCK. Vì vậy, việc cần làm ngay bây giờ là phải
bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ trong công ty, và mạnh dạn tham gia vào
mảng nghiệp vụ này.
Thứ 4, Phí bảo lãnh phát hành chứng khoán
Theo như quy luật, để có thể gánh vác rủi ro thay cho tổ chức phát hành thì tổ
chức thực hiện bảo lãnh cần một mức bù rủi ro tương xứng. Uỷ ban chứng
khoán có quy định đối với mức phí bảo lãnh tối đa là 3% tổng giá trị bảo lãnh.
Song một thực tế trong thời gian qua chính các CTCK đang giảm mức phí
phát hành xuống quá thấp, cạnh tranh theo hướng không lành mạnh tất yếu
ảnh hưởng
tới chất lượng của đợt bảo lãnh phát hành. Vì thế theo quy định mới là bỏ
mức phí trần 3% thay bằng mức phí sàn là 2%.
Kết luận chương 2
Trong chương này, đề tài tập trung vào thực trạng hoạt động bảo lãnh
phát hành chứng khoán tại Việt Nam, đồng thời cũng đi tìm hiểu những
nguyên nhân thực tế đang tồn tại có tác động tới hiệu quả bảo lãnh phát hành.
Bên cạnh đó chương 2 cũng nêu ra được những quy định hiện hành về bảo
lãnh phát hành chứng khoán ở nước ta để người quan tâm có thể tìm hiểu một
cách cụ thể hơn. Những tồn tại sẽ hạn chế sự hoàn thiện của TTCK và xa hơn
nữa là có tác động không tốt tới toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, nhìn nhận chính
xác về hiện trạng bảo lãnh phát hành chứng khoán của các CTCK ở nước ta
hiện nay là vô cùng quan trọng và đây chính là cơ sở để chúng ta đưa ra
những giải pháp kịp thời và hiệu quả nhằm phát triển nghiệp vụ này. Chương
3 của đề tài sẽ đưa ra những giải pháp cần thiết và cụ thể.
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP MỞ RỘNG VÀ PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BẢO LÃNH
PHÁT HÀNH CHỨNG KHOÁN CỦA CÁC CÔNG TY CHỨNG
KHOÁN TẠI VIỆT NAM
3.1. Giải pháp mở rộng và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh phát hành
chứng khoán của các CTCK tại Việt Nam.
Như đã phân tích ở trên, hiện trạng bảo lãnh phát hành chứng khoán
của các CTCK ở Việt Nam vẫn chưa thực sự phát triển, đồng thời đề tài cũng
đã đưa ra những nguyên nhân cơ bản nhất trực tiếp ảnh hưởng đến hoạt động
nghiệp vụ này. Vì vậy, biện pháp mà em nêu ra sau đây chính là nhằm mục
đích góp phần mở rộng và phát triển nghiệp vụ này, bao gồm 2 nhóm giải
pháp. Nhóm giải pháp có tác động trực tiếp đến nghiệp vụ thông qua việc tác
động đến cung cầu bảo lãnh và Nhóm giải pháp tác động gián tiếp.
3.1.1. Nhóm giải pháp trực tiếp
Tác động đến cầu :
Như chúng ta đã biết, bảo lãnh phát hành chứng khoán là một nghiệp vụ vô
cùng cần thiết với các doanh nghiệp thực hiện IPO, các công ty đại chúng hay
các công ty niêm yết thực hiện tăng vốn thông qua phát hành chứng khoán.
Bởi đơn giản, sự thành bại của đợt phát hành có liên quan tới rất nhiều đối
tượng từ tổ chức phát hành, CTCK, nhà đầu tư và xa hơn nữa là bởi cả nền
kinh tế xã hội. Nhưng thực tế quy mô các doanh nghiệp ở Việt Nam là vừa và
nhỏ, nên không nhất thiết mỗi khi phát hành các đối tượng này phải cần đến
tổ chức bảo lãnh nếu họ đảm bảo được bản thân doanh nghiệp, công ty mình
có định hướng tăng quy mô và cơ cấu vốn phù hợp, an toàn. Vì vậy, kích cầu
trong thực tế ở thị trường Việt Nam là : tổ chức bảo lãnh phải tìm ra
đúng đối tượng có nhu cầu bảo lãnh bao gồm cả trực tiếp và tiềm năng.
Các biện pháp cụ thể :
* CTCK phát hành xây dựng một chiến lược Marketing phù hợp.
Các CTCK là tổ chức phục vụ nhu cầu này, để phục vụ được tốt không gì
khác là phải tìm hiểu khách hàng thông qua hoạt động Marketing.
• CTCK phải xây dựng một hệ thống cập nhập thông tin của khách hàng. Với
một hệ thống khách hàng đa dạng, rộng khắp do nghiệp vụ môi giới mang lại,
đây chính là cơ sở để CTCK có những thông tin cơ bản nhất về khách hàng của
mình. Xây dưng hệ thống cập nhập liên tục các thông tin xoay quanh khách hàng
tiềm năng sẽ là những xuất phát điểm tốt giúp công ty có những chiến lược tiếp
xúc, hỗ trợ khách hàng kịp thời phù hợp, để từ đó biến khách hàng tiềm năng trở
thành khách hàng có nhu cầu trực tiếp đối với nhu cầu này.
• Sử dụng các biện pháp Marketing phù hợp sẽ là biện pháp đem lại hiểu quả
cao trong việc khơi dậy nhu cầu bảo lãnh từ phía công ty phát hành: như có
thể tổ chức các cuộc hội thảo chuyên đề về nghiệp vụ giữa khách hàng và
công ty, cung cấp dịch vụ tư vấn miễn phí cho một số đối tượng khách hàng,
hay có chiến lược giá phù hợp trong từng thời kỳ...v v…
* Nên quy định một tỷ lệ phát hành tối thiểu ra công chúng với các
DNNN khi thực hiện IPO.
Ở nước ta đa số các DNNN khi IPO vẫn giữ lại tỉ lệ vốn góp Nhà nước
tương đối nhiều, thậm chí là cho tới nhiều năm sau khi đã cổ phần hoá và tăng
vốn thì tỷ lệ sở hữu của Nhà nước vẫn chiếm chủ đạo. Vì thế, tính đại chúng
của IPO chưa cao. Đây chính là mấu chốt của việc chưa nảy sinh nhu cầu cần
đến tổ chức bảo lãnh. Chúng ta có thể quy định một tỷ lệ phát hành tối thiểu
ra công chúng, khi đó áp lực của việc đảm bảo huy động vốn thành công sẽ
cao, nhu cầu cần đến bảo lãnh phát hành sẽ xuất hiện.
Tác động đến cung :
Trong việc bảo lãnh phát hành chứng khoán, vai trò và chức năng của CTCK
là vô cùng quan trọng. Không chỉ được phép thực hiện bảo lãnh phát hành trái
phiếu mà còn là độc quyền trong bảo lãnh cổ phiếu và chứng chỉ quỹ theo như
quy định của pháp luật chứng khoán Việt Nam. Ở đây, yêu cầu đối với CTCK
là phải hội tủ đủ những khả năng bao gốm nội lực và ngoại lực. Chừng nào
những vấn đề trên chưa được giải quyết thì chừng ấy nghiệp vụ này chưa thể
phát triển. Vì vậy, có thể nói tác động đến cung là phải tác động đến
CTCK, tác động tới những khó khăn mà CTCK gặp phải trong khi thực
hiện nghiệp vụ này. Các biện pháp cụ thể:
* Phát triển nguồn nhân lực
Con người là yếu tổ cơ bản cho sự phát triển TTCK nói chung và các
CTCK nói riêng. Việc tiếp cận được nguồn nhân lực có trình độ cao là rất cần
thiết cho sự phát triển của CTCK. Nhìn chung đội ngủ cán bộ của CTCK hiện
nay còn có nhiều hạn chế khi triển khai nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng
khoán đặc biệt là ở khâu tư vấn tài chính. Hầu hết các cán bộ chủ yếu còn trẻ
và thiếu kinh nghiệm thực tế. Trong khi đó, nghiệp vụ này đòi hỏi cán bộ
không chỉ có kiến thức chuyên môn mà còn có những am hiểu và kinh nghiệm
về ngành hoạt động của tổ chức phát hành, về quy định của pháp luật…. Các
giải pháp cho vấn đề nhân sự của tổ chức bảo lãnh:
• Quan tâm tới công tác tuyển dụng ngay từ ban đầu : liên hệ và cấp học bổng
cho các sinh viên giỏi có năng lực ở các trường có chuyên ngành tài chính
chứng khoán…Công ty có kế hoạch cụ thể, phân công người phụ trách sinh
viên thực tập với tư cách người hướng dẫn, giao nhiệm vụ và trực tiếp đánh
giá quá trình thực tập.
• Nâng cao trình độ, năng lực của cán bộ nhân viên : tăng cường tổ chức cho
cán bộ nhân viên tham dự các khoá học đào tạo các kỹ năng cơ bản, nâng cao
kiến thức về chứng khoán….tổ chức các buổi thảo luận và trao đổi với các
chuyên gia trong lĩnh vực này, khuyến khích và tạo điều kiện cho cán bộ nhân
viên có thể tiếp tục theo học các trình độ cao hơn ở trong nước và nước ngoài.
• Phân công công việc đúng khả năng cho cán bộ nhân viên : đây chính là
khâu quan trọng giúp công việc được thực hiện hiểu quả hơn và là đòn bảy để
nhân viên không ngừng nỗ lực phấn đấu.
• Có kế hoạch cho quy trình làm việc hiệu quả : Tổ chức thành những nhóm
hay những cá nhân chuyên trách thực hiện nghiên cứu, phân tích và thường
xuyên công bố các nghiên cứu của mình theo từng loại cổ phiếu mà đơn vị
tham gia bảo lãnh phát hành. Đây được xem như là sự tham khảo quý báu cho
các nhà đầu tư, họ có thể yên tâm hơn khi trên thị trường có tổ chức thường
xuyên phân tích và bảo lãnh cho những cố phiếu đó.
Ở một khía cạnh khác của quy trình làm việc hiệu quả là phải chú ý tới
việc lập hồ sơ và báo cáo tài chính cần thiết khi nộp UBCK sao vừa cẩn thận
mà không quá tốn thời gian, để tránh cho tổ chức phát hành phải đợi chờ lâu,
và gây nản lòng cho các doanh nghiệp trong việc có ý định phát hành chứng
khoán lần kế tiếp.
* CTCK cần tăng cường năng lực tài chính và đồng thời chủ động trích
lập quỹ dự phòng rủi ro cho nghiệp vụ bảo lãnh.
Việc tăng năng lực tài chính vừa thể hiện quy mô, uy tín và cả sức
mạnh canh tranh. Hiện nay, mức vốn quy định tối thiểu cho nghiệp vụ này là
165 tỷ, việc tăng quy mô này không phải CTCK nào cũng có thể thực hiện,
hơn nữa trong một khoảng thời gian dài thị trường chứng khoán lên xuống
thất thường (từ khoảng quý II năm 2007 cho tới nay), một số CTCK có mức
vốn điều lệ khá khiêm tốn đã không thể thu về lợi nhuận thậm chí còn bị thua
lỗ. Vì thế, một trong những giải pháp cho vấn đề này là CTCK nên tăng
cường sức mạnh vốn qua việc thực hiện bán cổ phần cho nhà đầu tư nước
ngoài, hoặc sát nhập với các CTCK khác trong nước. Khi đó CTCK sẽ có
điều kiện đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, trong đó có cả hoạt động bảo
lãnh phát hành chứng khoán. Tuy nhiên đây là nghiệp vụ chứa đựng nhiều rủi
ro. Cho dù là công ty có tiềm lực tài chính mạnh vẫn phải thực hiện đầy đủ và
chủ động trong công tác trích lập dự phòng và có những giải pháp phòng ngừa
rủi ro thích hợp.
* Đặc biệt quan tâm tới khâu định giá chứng khoán
Để định giá chứng khoán chính xác điều này không hề đơn giản. Đã có nhiều
đợt bảo lãnh phát hành không thành công mà nguyên nhân chính là do giá
phát hành đã không được xác định phù hợp. Vì vậy, nhiệm vụ đặt ra hàng đầu
để có được một mức giá pháp hành hợp lý chính xác là:
• Phải có chuyên gia định giá nhiều kiến thức và giàu kinh nghiệm.
• Phải lựa chọn phương pháp tính giá phù hợp trên cơ sở nghiên cứu kỹ tổ
chức pháp hành và yếu tố thị trường.
• Có hệ thống phần mền tính giá chuyên dụng để giúp việc tính toán nhanh,
và chính xác.
• Yếu tố đạo đức trong kinh doanh, coi sự thành công của nhà phát hành là
thành công của mình, không vì lợi nhuận mà định giá quá cao, để hưởng lợi
từ chính giá trị bảo lãnh.
* Đa dạng hoá các hình thức bảo lãnh phát hành
Theo quy định của Luật chứng khoán, hiện nay bảo lãnh phát hành
chứng khoán được thực hiện theo 2 hình thức: là bảo lãnh chắc chắn và bảo
lãnh dự phòng. Tuy nhiên hình thức bảo lãnh chắc chắn lại đem lại rủi ro cao
cho tổ chức bảo lãnh. Sự lựa chọn cho cả tổ chức bảo lãnh và tổ chức phát
hành sẽ dễ dàng hơn nếu các hình thức bảo lãnh đa dạng hơn. Như có thể áp
dụng thêm hình thức bảo lãnh tối thiểu. Với hình thức này không gây áp lực
cho nhà bảo lãnh, mà với lượng huy động tối thiểu vẫn có thể được coi là
thành công với tổ chức phát hành.
* Mở rộng đối tượng tham gia bảo lãnh phát hành chứng khoán
Hiện nay, bảo lãnh phát hành cổ phiếu mới dừng lại ở CTCK. Tuy
nhiên, hầu hết các CTCK còn yếu ở mạng lưới chi nhánh và phân phối. Trong
khi đó, NHTM, với sức mạnh vốn và mạng lưới phân phối rộng khắp, am hiểu
tình hình tài chính sẽ là một chủ thể góp phần làm tăng tính sôi động và hiệu
quả cho nghiệp vụ này. Trong giai đoạn trước mắt, có thể tận dụng thế mạnh
này để cho phép NHTM trở thành đại lý phân phối cổ phiếu và là tổ chức
đồng bảo lãnh, hỗ trợ đắc lực cho CTCK là nhà bảo lãnh chính.
3.1.2. Nhóm giải pháp gián tiếp
* Hoàn thiện khung pháp lý của thị trường chứng khoán nói chung và
của nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán nói riêng. • Luật chứng khoán ra đời và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2007 cùng theo đó là một số văn bản hướng dẫn thi hành. Chính vì vậy, cần rà soát, bổ sung các
văn bản pháp luật để giảm thiểu sự mâu thuẫn và chồng chéo nếu có. Ưu tiên
việc hoàn thiện các chuẩn mực quản lý, giám sát và tổ chức hệ thống giám sát
phù hợp với thông lệ quốc tế, đồng thời chú trọng hoàn thiện các quy định về
sự tham gia của nước ngoài vào TTCK.
• Cần tiếp tục thực hiện cải cách thủ tục hành chính trong việc phát hành
chứng khoán theo hướng đơn giản hoá, rút gọn thủ tục và thời gian chờ đợi
nhằm khích thích doanh nghiệp huy động vốn thông qua TTCK.
• Cần tiếp tục sửa đổi và bổ sung các quy định mới cho phù hợp với thực tiễn
hoạt động của thị trường đồng thời các cơ quan chức năng vẫn có thể thực
hiện vai trò giám sát và quản lý vĩ mô: hướng tới tự do hoá mức phí cho các
bên tham gia tự thoả thuận, thu hút các công ty đại chúng chưa niêm yết có cổ
phiếu giao dịch tập trung trên sàn giao dịch riêng.
* Phát triển thị trường chứng khoán
Để có thể mở rộng và phát triển hoạt động bảo lãnh chứng khoán thì
nhất thiết cũng phải phát triển thị trường chứng khoán, cả sơ cấp và thứ
cấp.Thị trường sơ cấp là thị trường phát hành. Nếu thị trường sơ cấp không
phát triển, các doanh nghiệp ít lựa chọn hình thức phát hành chứng khoán ra
công chúng để huy động vốn thì hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán
cũng ít có điều kiện để tiến hành. Còn thị trường thứ cấp với sự sôi động của
nó cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến thành công của sự phát
hành. Thị trường phát triển thì mới tạo tính thanh khoản cao cho chứng khoán
và như vậy mới là động lực cho cả phát hành lẫn bảo lãnh phát hành phát
triển.
Biện pháp kích cầu :
• Khơi thông dòng vốn tiết kiệm trong dân cư vào thị trường chứng khoán,
như vậy cần tuyên truyền phổ cập cho công chúng hiểu rõ hơn về lợi ích của
việc đầu tư chứng khoán. Bên cạnh đó, cũng cần cung cấp những thông tin và
kiến thức về TTCK thông qua các khoá học chứng khoán của các trường đại
học, UBCKNN, qua sách báo và phương tiện thông tin đại chúng……Ngoài
ra để tạo lòng tin cho công chúng thì việc minh bạch hoá thông tin là rất cần
thiết, và có chế tài sử phạt nghiêm minh với các hoạt động trái pháp luật về
chứng khoán và TTCK….
• Với nhà đầu tư có tổ chức như NHTM, Công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư và
công ty tài chính…là những nhà đầu tư chuyên nghiệp giúp thị trường sôi
động hơn và hướng thị trường đi theo một sự vận hành hiệu quả thì cần phải
có những hỗ trợ thích hợp như tạo hành lang pháp lý thông thoáng cho sự
tham gia của các tổ chức này.…
• Với những nhà đầu tư nước ngoài, để thu hút họ thì biện pháp hỗ trợ là có
thể mở rộng " room" theo một lộ trình cụ thể.
Biện pháp tăng cung :
Trong giai đoạn hiện nay, có thể nói lượng hàng hoá không phải là
thiếu thốn, thậm chí có lúc thị trường đã rơi vào tình cảnh mất cân đối cung
cầu. Vì thế ta cần phải tập trung hơn nữa vào việc củng cố và phát triển chất
lượng hàng hoá cho thị trường.
• Tăng cường IPO các DNNN lớn theo kế hoạch, song không để nhiều đợt
IPO lớn diễn ra cùng một thời điểm sẽ gây sự mất tập trung và giảm mức cầu
của nhà đầu tư.
• Đẩy nhanh quá trình niêm yết của các công ty đại chúng chưa niêm yết,
bằng những giải pháp hỗ trợ thích hợp như bỏ bớt thủ tục hành chính rườm rà,
quy định về mức vốn tối thiểu khi niêm yết có thể ở mức thấp hơn….Đây là
giải pháp tạo tính sôi động cho thị trường thứ cấp, hơn nữa là động lực để các
công ty làm ăn hiệu quả và đem lại nguồn hàng có chất lượng cao.
• Ngay từ khâu CPH của các doanh nghiệp, Nhà nước phải xác định được
những doanh nghiệp có vị thế và tiềm năng trong tương lai có thể tham gia
trên thị trường. Việc chuẩn bị kỹ lưỡng cho chứng khoán niêm yết như : thuê
kiểm toán, tư vấn tài chính, định giá doanh nghiệp…. là điều kiện để đợt phát
hành chứng khoán ra công chúng thành công.
* Quy định có tổ chức định mức tín nhiệm và đánh giá hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp ngay từ khi đi vào hoạt
động.
Đây sẽ được xem là biện pháp hỗ trợ đắc lực cho bên quản lý thị trường
cũng như là động lực để các doanh nghiệp đã đang và sắp hoạt động buộc
phải có những biện pháp cụ thể để phát triển lâu dài. Đồng thời đây cũng là
cách buộc các doanh nghiệp phải làm quen với các dịch vụ hỗ trợ tư vấn tài
chính ngay từ ban đầu. Khi đó, các doanh nghiệp sẽ quen dần với cách thức
làm việc chuyên nghiệp, nhận ra rằng nếu huy động vốn thông qua phát hành
chứng khoán thì dịch vụ đảm bảo cho đợt phát hành thành công chính là dịch
vụ bảo lãnh .
3.2. Một số kiến nghị
Để thị trường chứng khoán nói chung và nghiệp vụ bảo lãnh phát hành
chứng khoán trên thị trường Việt Nam phát triển thì cần có sự tham gia của
nhiều cơ quan hữu quan khác nhau. Đó là các cơ quan quản lý và giám sát thị
trường bao gồm: Chính phủ, Uỷ ban chứng khoán nhà nước.
3.2.1. Kiến nghị đối với Chính phủ
Ở tầm vĩ mô, Chính phủ chính là chủ thể ra quyết định để điều chỉnh sự
hoạt động nói chung của toàn bộ nền kinh tế thị trường. Vì vậy, một số kiến
nghị tới Chính Phủ :
Thứ nhất, có chính sách kinh tế vĩ mô hiệu quả và hợp lý để thúc đẩy
sự phát triển của các thị trường nói chung và thị trường vốn nói riêng.
Một chính sách tiền tệ thắt chặt có linh hoạt trong tình trạng lạm phát tăng
nhanh chính là biện pháp vừa giúp kiềm chế lạm phát, ổn định sức mua, song
vẫn tạo cho các nhà đầu tư có lượng vốn cần thiết tham gia vào thị trường
chứng khoán với phương hướng đầu tư rõ ràng.
Thứ hai, Ổn định nền kinh tế xã hội đặc biệt là xây dựng một hệ
thống chính trị pháp luật trật tự,công bằng, một nền văn hoá đa dạng .
Điều này sẽ thu hút sự quan tâm của bạn bè thế giới và đặc biệt là nhà đầu tư.
Thứ ba, Khơi thông nguồn vốn chảy vào thị trường qua việc chống
đầu cơ bất động sản. Thị trường bất động sản của Việt Nam giờ không còn bị
đóng băng như giai đoạn về trước. Song ở đây với chiến lược ghim giữ để đưa
giá lên cao khiến nguồn vốn bị ứ đọng vẫn là một sự rủi ro tiềm tàng không có
lợi cho chính sự phát triển kinh tế cũng như cải thiện đời sống nhân dân. Do đó,
nếu có biện pháp giám sát và khắc phục được điều này thì hi vọng rằng sẽ thu
hút được những nguồn vốn lớn hơn vào TTCK trong giai đoạn sau.
Thứ tư, Giám sát và đốc thúc các cơ quan luật pháp sớm hoàn thiện
khung pháp lý về chứng khoán và thị trường chứng khoán để hỗ trợ sự
phát triển TTCK. Ở Việt Nam để thị trường chứng khoán ra đời và đi vào
hoạt động thì các văn bản pháp lý đã buộc phải ra đời sớm hơn. Như vậy, có
thể nói những văn bản pháp lý ban đầu điều chỉnh về thị trường chứng khoán
đã không dựa vào diễn biến thực tế trên thị trường, mà đơn thuần là một thứ
công cụ được xây dựng nên từ sự góp nhặt kinh nghiệm ở một số thị trường
pháp triển nên đã thiếu đi tính hệ thống. Vì vậy mà trong một thời gian dài đã
không phát huy tác dụng. Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thi
hành ra đời là một bước tiến mới có phạm vi điều chỉnh rộng và khá hệ thống.
Tuy nhiên cho tới nay vẫn còn một số trường hợp cần phải xem xét và bổ
sung :
• Luật chứng khoán vẫn bỏ ngỏ quy định với nghiệp vụ bảo lãnh phát hành
trái phiếu của CTCK. Trong khi đó trên thực tế việc doanh nghiệp phát hành
trái phiếu huy động vốn đang trở nên thường xuyên hơn thì những quy định
cụ thể cho nghiệp vụ bảo lãnh phát hành trái phiếu càng trở nên cấp thiết.
• Luật vẫn hạn chế sự tham gia của tổ chức nước ngoài kinh doanh dịch vụ
chứng khoán ở Viêt Nam. Song cũng đã đến lúc Chính Phủ cần có cái nhìn
cởi mở trong vấn đề mở cửa thị trường tài chính sớm hơn so với cam kết khi
trở thành thành viên của WTO. Hạn chế này, một mặt là để đảm bảo sự phát
triển an toàn cho thị trường trong nước, giảm bớt sự cạnh tranh từ phía nước
ngoài, song nếu hạn chế quá mức sẽ khiến cho thị trường trong nước kém đi
tính cạnh tranh và không có cơ hội học tập kinh nghiệm từ các tổ chức kinh
doanh nước ngoài. Trước những đề nghị được tham gia cung ứng và kinh
doanh dịch vụ của một số tổ chức nước ngoài, Chính Phủ nên xem xét và cân
nhắc để bổ sung và hoàn thiện Luật chứng khoán cho mảng đầu tư nước ngoài
trên TTCK Việt Nam theo một lộ trình hợp lý.
• Thiếu hắn mảng cho phép sự ra đời và phát triển của các công cụ chứng
khoán phái sinh giúp ngăn ngừa rủi ro cho các nhà đầu tư. Thực tế trong giai
đoạn gần đây, khi thị trường đi theo chiều hướng xấu gây thiệt hại lớn cho các
nhà đầu đã khiến nhiều nhà đầu tư quay lưng lại với thị trường. Vì vậy, các
điều kiện hỗ trợ nhà đầu tư trong việc ngăn ngừa rủi ro và tăng sự đa dạng cho
hàng hoá giao dịch trên thị trường cần được xem xét cụ thể hơn .
• Việc đệ trình của Uỷ ban chứng khoán nhà nước lên Bộ Tài Chính về việc
triển khai các nghiệp vụ cần sớm được chấp thuận để tăng tính đa dạng và sôi
động cho thị trường như: giao dịch kỹ quỹ, mở nhiều tài khoản giao dịch, mua
bán chứng khoán trong cùng phiên giao dịch…..
3.2.2. Kiến nghị với Uỷ ban chứng khoán Nhà nước
Thứ nhất, UBCKNN cần có sự tổng kết và đánh giá một năm triển
khai Luật chứng khoán trên cơ sơ xem xét những gì phù hợp, chưa phù hợp để
hoàn thiện khung pháp lý và thể chế chính sách nhằm hỗ trợ thị trường theo
hướng thông thoáng hơn như: xây dựng khung pháp lý hoạt động của thị
trường của các công ty đại chúng chưa niêm yết, quy chế tổ chức hoạt động
của quỹ đầu tư dạng mở, quy chế tổ chức và hoạt động của công ty đầu tư và
phát hành chứng khoán riêng lẻ….
Thứ hai, UBCKNN không ngừng nâng cao chất lượng của đội ngũ
cán bộ để có thể thực hiện được vai trò là cơ quan quản lý thị trường.
Ngoài ra, UBCKNN nên thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo, toạ đàm
tiếp nhận ý kiến đóng góp của các chuyên gia, những người am hiểu thị
trường để có cái nhìn tổng quan hơn từ đó lựa chọn những ý tưởng phù hợp
đưa vào thực thi.
Thứ ba, UBCKNN cần tham gia giám sát thị trường một cách tích
cực hơn. Đồng thời cũng đưa ra các cam kết cam đoan với nhà đầu tư về
chính sách phát triển thị trường và phải thực hiện đúng. Khi có vấn đề tiêu
cực xảy ra đối với thị trường thì cần phải có câu trả lời cụ thể, tránh tình trạng
làm mất lòng tin của các thành viên tham gia thị trường.
Thứ tư, Trong quá trình giám sát thị trường, UBCKNN phải hướng
dẫn và tư vấn cho các đối tượng tham gia thị trường nhằm nâng cao chất
lượng hoạt động của thị trường chứng khoán. Đặc biệt phải trở thành cầu nối
giữa các CTCK với thị trường bởi CTCK là nhân tố quan trọng để phát triển
thị trường. Với các nghiệp vụ tư vấn, bảo lãnh phát hành, tư vấn niêm
yết….của CTCK có khả năng vận động thu hút khách hàng và tạo ra chứng
khoán niêm yết cho thị trường, từ đó giúp tăng quy mô vốn cho thị trường.
Điều này rất cần tới sự hỗ trợ từ Uỷ ban chứng khoán nhà nước. Ngoài ra,
UBCKNN cần thông qua trung tâm nghiên cứu và đào tạo chứng khoán để
phổ biến và nâng cao kiến thức trình độ cho công chúng đầu tư. Đồng thời
UBCKNN cũng tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền để từ các cấp,
các ngành đến mọi người dân đều hiểu đúng, hiểu rõ về TTCK.
Kết luận chương III
Từ việc nghiên cứu những vấn đề tổng quan nhất về việc phát hành
chứng khoán và nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán ở chương I, cùng
với thực trạng, nguyên nhân, những tồn tại của nghiệp vụ phát hành chứng
khoán trong chương II, thì chương cuối của đề tài lại tập trung đưa ra những
giải pháp và cả sự kiến nghị của bản thân tới những cơ quan chức năng để có
thể đem lại sự hoàn thiện và phát triển hiểu quả nhất cho nghiệp vụ này. Dẫu
biết rằng để thấy được sự chuyển biến theo hướng tích cực của nghiệp vụ này
không thể là một sớm một một chiều, song với sự hỗ trợ kịp thời từ cơ quan
quản lý cùng cố gắng tối đa của các chủ thể tạo lập thị trường và sự tham gia
tích cực của nhà đầu tư hi vọng trong tương lai không xa, chúng ta có thể
thấy được sự lớn mạnh hơn nữa và phát triển hơn của TTCK nói chung và
trong hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán nói riêng. Đây là cơ sở để
TTCK ngày càng phát huy vai trò là kênh huy động vốn hiệu quả cho nền
kinh tế, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh TTCK Việt Nam chưa thật sự phát triển và hoàn thiện
thì vai trò điều hành của cơ quan quản lý và đặc biệt là hoạt động tạo lập thị
trường của các tổ chức tài chính trung gian như CTCK càng trở lên cần thiết
hơn bảo giờ hết. Để phát triển bền vững trong sự cạnh tranh ngày càng gay
gắt thì tất yếu, các CTCK phải tăng cường tổng thể mọi phương diện vốn,
nhân lực, công nghệ, phương hướng hoạt động kinh doanh..…trong đó cần
chú trọng và mở rộng mảng bảo lãnh phát hành chứng khoán. Đây là một
mảng nghiệp vụ không mới nhưng là thước đo giá trị và uy tín, sức cạnh tranh
của một CTCK trên thị trường. Bởi đơn giản không phải CTCK nào cũng có
thể thực hiện tốt nghiệp vụ này.
Tuy nhiên, những khó khăn mà các CTCK gặp phải không đơn giản chỉ
cần một thời gian ngắn là có thể khắc phục. Những giải pháp tổng thể kích
thích cả cung lẫn cầu về bảo lãnh trong một hành lang pháp lý hoàn chỉnh sẽ
giúp hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán khởi sắc trong nay mai.
Phần cuối của đề tài và cũng là trọng tâm của bài viết, em đã đưa ra
một số giải pháp nhằm mở rộng và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh phát hành
chứng khoán. Với kiến thức thực tế còn hạn chế, bài viết chắc chắn không
tránh khỏi những thiếu xót. Em mong nhận được sự góp ý và bổ sung của
thầy cô, bạn bè để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2008
Nguyễn Thị Lan Hương
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình " Thị trường chứng khoán " - Học Viện Ngân Hàng
2. Tạp chí " Đầu tư chứng khoán " - Bộ kế hoạch đầu tư
3. Tạp chí Ngân Hàng
4. Khoá luận tốt nghiệp 26 " Các giải pháp nhằm phát triển nhiệm vụ
bảo lãnh phát hành chứng khoán Việt Nam "
5. Đề tài nghiên cứu cấp bộ " Mô hình dự kiến và các điều kiện để phát
triển nghiệp vụ bảo lãnh phát hành và tư vấn tài chính trên thị trường
sơ cấp ở Việt Nam "- Thạc sĩ Vũ Thị Kim Liên.
6. Một số trang web:
www.ssc.gov.vn
www.vse.org.vn
www.hastc.vn
www.chứng khoán 24h
www.vneconomy.vn
www.tinnhanhchungkhoan.
7. Và một số webside khác
Luận văn tốt nghiệp Học Viện Ngân Hàng
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
Giáo viên hướng dẫn:
Nhận xét:
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
............................................................................................................................. .................................................................................................................................
.................................................................................................................................
Số điểm:
- Bằng chữ:
- Bằng số:
Luận văn tốt nghiệp Học Viện Ngân Hàng
MỤC LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................63
Luận văn tốt nghiệp Học Viện Ngân Hàng
DANH MỤC BẢNG BIỂU
TÊN BẢNG TRANG STT
Số doanh nghiệp phát hành trái phiếu và giá trị trái Bảng 1 32 phiếu qua các năm
Số CTCP phát hành cổ phiếu ra công chúng và giá trị Bảng 2 33 phát hành qua các năm
Bảng 3 Số công ty niêm yết qua các năm 34
Bảng 4 Giá trị bảo lãnh của các CTCK qua các năm 38
Giá trị bảo lãnh phát hành và giá trị huy động vốn trên Bảng 5 39 TTCK
Tỷ trọng doanh thu bảo lãnh trên tổng doanh thu của Bảng 6 40 các CTCK
Bảng 7 Thị phần bảo lãnh qua các năm 40
Doanh thu bảo lãnh và tỷ trọng doanh thu bảo lãnh Bảng 8 41 của Công ty chứng khoán Bảo Việt
Bảng 9 Một số đợt bảo lãnh tiêu biểu qua các năm 42
Bảng 10 Vốn điều lệ của một số CTCK 44