Luận văn THỰC TRẠNG QUẢN LÝ
RỪNG DỰA VÀO CỘNG
ĐỒNG TẠI VÙNG TÂY
NGUYÊN
1
MỤC LỤC
MỤC LỤC .......................................................................................................... 1 DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU ........................................................................ 4 DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ ............................................................................. 5 PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................. 6 1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................... 6 2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài: .................................................................. 8 3. Phạm vi nghiên cứu...................................................................................... 9 4. Các phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 9 5. Cấu trúc chuyên đề ....................................................................................... 9 LỜI CẢM ƠN .................................................... Error! Bookmark not defined. LỜI CAM ĐOAN .............................................. Error! Bookmark not defined. PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................... 10 CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ RỪNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG VÀ KINH NGHIỆM QUẢN LÝ Ở VIỆT NAM. ............................... 10 1.1. Cơ sở lý luận về quản lý rừng dựa vào cộng đồng................................ 10 1.1.1 Quản lý rừng dựa vào cộng đồng (CBFM) ..................................... 10 1.1.2 Nội dung chủ yếu của CBFM .......................................................... 10 1.1.3. Các giai đoạn cơ bản trong việc thực hiện CBFM ......................... 14
2
1.2. Quyền lợi và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng được giao rừng, khoán bảo vệ rừng. ............................................................................ 15 1.2.1 Quyền lợi ........................................................................................ 15 1.2.2. Nghĩa vụ ........................................................................................ 18 1.3. Mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng ( CBFM) ở Việt Nam ......... 18 1.3.1. Cơ sở của việc áp dụng mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng (CBFM) ................................................................................................... 18 1.3.2. Xu thế của quản lý rừng dựa vào cộng đồng của Việt Nam ............ 22 1.3.3 vai trò của cộng đồng dân cư trong quản lý và bảo vệ rừng ........... 23 1.3.4. Kinh nghiệm quản lý rừng ở Việt Nam ........................................... 25 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỪNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG TẠI VÙNG TÂY NGUYÊN .......................................................................... 27 2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và lâm nghiệp vùng Tây Nguyên .... 27 2.1.1. Vị trí chiến lược về kinh tế - xã hội ................................................ 28 2.1.2. Địa hình và địa thế ........................................................................ 28 2.1.3. Điều kiện khí hậu ........................................................................... 29 2.1.4. Tài nguyên rừng ............................................................................ 29
2.1.5. Dân số dân tộc lao động ................................................................ 32 2.2. Đánh giá khái quát tình hình phát triển kinh tế xã hội .......................... 33 2.2.1. Tăng trưởng kinh tế (GDP) ............................................................ 33 2.2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ............................................................ 34 2.2.3. Tình trạng đói nghèo và xã đặc biệt khó khăn ............................... 35 2.2.4. Cơ sở hạ tầng ................................................................................ 36
2.3 Giới thiệu về mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng tại Tây Nguyên ................................................................................................................... 37 2.3.1 Mục tiêu của mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng ................. 37 2.3.2 phạm vi điều chỉnh và đối tượng của việc áp dụng mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng ở Tây Nguyên theo quyết định số 304 ............... 38 2.4 Vai trò của rừng đối với cộng đồng các dân tộc vùng Tây Nguyên và các nguyên tắc quản lý rừng dựa vào cộng đồng ở Tây Nguyên ........................ 42 2.4.1 Vai trò của rừng đối với cộng đồng dân tộc Tây Nguyên ................ 42 2.4.2 Nguyên tắc quản lý rừng dựa vào cộng đồng ở Tây Nguyên ........... 45
2.5 Thực trạng triển khai và áp dụng mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng ở vùng Tây Nguyên ........................................................................... 47 2.5.1 Tiến trình triển khai mô hình .......................................................... 47 2.5.2 Các mô hình được triển khai .......................................................... 49 2.5.3 Kết quả thực hiện mô hình .............................................................. 53
2.6 Những vấn đề đặt ra trong quản lý rừng dựa vào cộng đồng ở Tây Nguyên ....................................................................................................... 56
3
CHƯƠNG III: ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA MÔ HÌNH QUẢN LÝ RỪNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG TẠI VÙNG TÂY NGUYÊN .............................. 59 3.1 Đánh giá hiệu quả của mô hình ............................................................. 60 3.1.1 Đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội: ................................................... 60 3.1.2. Hiệu quả môi trường ..................................................................... 65 3.2 Những khó khăn mà mô hình gặp phải.................................................. 67 3.3 Một số giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả mô hình ............... 70 3.3.1 Một số giải pháp ............................................................................. 70 3.3.2 kiến nghị ......................................................................................... 73 KẾT LUẬN ....................................................................................................... 75 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 77
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Tên bảng
Trang
32
2.1 Diện tích đất lâm nghiệp vùng
Tây Nguyên
36
2.2 Tốc độ và xu hướng tăng
trưởng GDP vùng Tây Nguyên
37
2.3 Cơ cấu kinh tế
38
2.4 Số xã, phường thuộc diện
nghèo đói và đặc biệt khó khăn
57
2.5 Diện tích rừng được giao tại
các tỉnh Tây Nguyên
68
3.1 Diện tích che phủ rừng của
các tỉnh Tây Nguyên
69
3.2 Diện tích rừng bị chặt phá của
các tỉnh Tây Nguyên
4
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Tên hình vẽ
trang
2.1 Nguyên tắc quản lý rừng cộng
48
đồng ở Tây Nguyên
2.2 tiến trình triển khai mô hinh
49
CBFM tại Tây Nguyên
3.1 Mô hình phân chia lợi ích kha
61
thác gỗ và lâm sản ngoài gỗ tại
thôn Bunor
5
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Suy thoái rừng đang là một vấn đề bức bách ở Việt Nam, ảnh hưởng đến
hệ sinh thái, đa dạng sinh học và biến đổi môi trường nói chung. Diện tích rừng
bị suy giảm từ 43% xuống còn 28,2% (1943 - 1995). Rừng ngập mặn ven biển
cũng bị suy thoái nghiêm trọng giảm 80% diện tích do bị chuyển đổi thành các
ao - đầm nuôi trồng thuỷ hải sản thiếu quy hoạch. Gần đây, diện tích rừng tuy có
tăng lên 37% (năm 2005), nhưng tỷ lệ rừng nguyên sinh cũng vẫn chỉ ở mức
khoảng 8% so với 50% của các nước trong khu vực. Đây là một thách thức lớn
đối với Việt Nam trong ứng phó với biến đổi khí hậu, trong các hoạt động thực
hiện mục tiêu năm 2010 của Công ước đa dạng sinh học nhằm tăng cường hiệu
quả bảo tồn và dịch vụ của các hệ sinh thái rừng trong giảm thiểu thiên tai, bảo
vệ tài nguyên nước, giảm phát thải CO2. Cùng với đó một vấn đề mà Việt Nam
đặt ra là sinh kế cho người dân tộc thiểu số.
Chính phủ Việt Nam đã nhấn mạnh mối quan hệ chặt chẽ giữa xóa đói
giảm nghèo và bảo tồn rừng, bằng việc đặt kế hoạch sẽ giảm tỉ lệ nghèo của toàn
quốc xuống dưới 40% và phục hồi tỉ lệ che phủ rừng tới 43% vào năm 2010.
Một số tiềm năng được xác định bao gồm: (a) chi trả các dịch vụ môi trường đã
được xem xét ở trong các chính sách. Việc phát triển các cơ chế hỗ trợ người
nghèo thông qua việc đền đáp các dịch vụ môi trường mà họ cung cấp đang diễn
ra; (b) quản lý rừng dựa vào cộng đồng (CBFM) được khuyến khích phát triển
dựa trên nhận định rằng cộng động chính là chủ thể quản lý đất rừng; (c) hợp tác
công tư theo định hướng thị trường trong việc trồng mới rừng, phòng tránh phá
6
rừng và suy thoái rừng, tạo thu nhập thay thế đảm bảo an toàn lương thực đang
được các nhà tài trợ và chính phủ khuyến khích và hỗ trợ. Đáng khuyến khích
hơn, các dự án thí điểm ở Đông Nam Á và Việt Nam đã cho thấy các cơ hội và
giải pháp đôi bên cùng có lợi trong việc giải quyết các vấn đề nghèo đói và môi
trường, đặc biệt với các trường hợp rất khó giải quyết trong nhiều năm. Ngoài ra,
các đền đáp như một động lực cho việc quản lý môi trường đang ngày càng trở
nên phổ biến dưới sự tác động và hỗ trợ của việc thực hiện các cơ chế thị trường
mới và phức tạp.
Quá trình thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần và chuyển hướng
chiến lược lâm nghiệp, từ lâm nghiệp Nhà nước sang lâm nghiệp nhân dân đã
xuất hiện nhiều nhân tố mới, đặc biệt là đa dạng hoá các phương thức quản lý tài
nguyên rừng.
Quản lý rừng dựa vào cộng đồng là một trong những mô hình quản lý
rừng đang thu hút sự quan tâm ở cấp Trung ương và địa phương. Xét về mặt lịch
sử, ở Việt Nam, rừng cộng đồng đã tồn tại từ lâu đời, gắn liền với sự sinh tồn và
tín ngưỡng của các cộng đồng dân cư sống dựa vào rừng. Đặc biệt, trong vài
năm gần đây, xuất phát từ yêu cầu quản lý rừng, một số địa phương đã triển khai
giao đất, giao rừng cho cộng đồng (làng bản , nhóm hộ...) quản lý, sử dụng ổn
định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp, theo đó, cộng đồng với tư cách như một
chủ rừng. Ngoài ra, các cộng đồng còn tham gia nhận khoán bảo vệ, khoanh nuôi
tái sinh và trồng mới rừng của các tổ chức Nhà nước. Thực tiễn một số nơi đã chỉ
rõ quản lý rừng dựa vào cộng đồng địa phương sống gần rừng là mô hình quản lý
rừng có tính khả thi về kinh tế - xã hội, phù hợp với tập quán sản xuất truyền
7
thống của nhiều dân tộc ở Việt Nam.
Tây Nguyên là vùng có diện tích đất và rừng lớn nhất cả nước cùng với đó
là vai trò của rừng và đất rừng đối cộng đồng các đồng bào dân tộc Tây Nguyên
không chỉ đơn thuần là tư liệu sản xuất mà nó còn mang ý nghĩa về văn hóa, tâm
linh. Nhà văn Nguyên Ngọc đã từng nói ở Tây Nguyên người là rừng và rừng
cũng là người. Mặt khác cộng đồng các dân tộc ở nơi đấy có tính cộng đồng rất
cao, sống tập trung và tham gia nhiều sinh hoạt mang tính chất cộng đồng. do
vậy việc chính phủ thực hiện thí điểm mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng
ở Tây Nguyên đã mang lại những kết quả hết sức khả quan.
Đó chính là lý do tôi lựa chọn đề tài:
“Nghiên cứu mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng tại vùng Tây
Nguyên”
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài:
2.1 Mục tiêu:
Qua việc nghiên cứu mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng tại vùng
Tây Nguyên để từ đó xem xét mô hình có được triển khai hiệu quả hay không,
những khó khăn trong việc áp dụng mô hình này là gì và có thể đưa ra những
giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn đó.
2.2 Nhiệm vụ
- Tổng quan cơ sở lý luận về mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng
(CBFM) và xu thế phát triển của mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng ở
Việt Nam
- Thực trạng triển khai áp dụng mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng
8
tại Tây Nguyên như thế nào và vấp phải những khó khăn gì
- Đánh giá hiệu quả của việc áp dụng mô hình quản lý rừng dựa vào cộng
đồng tại Tây Nguyên. Từ đó đưa ra những khó khăn mà mô mình gặp phải và
những giải pháp, kiến nghị để giải quyết những khó khăn đó.
3. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian lãnh thổ: địa bàn nghiên cứu là vùng Tây Nguyên
- Về giới hạn khoa học: chuyên để chỉ đi sâu vào nghiên cứu mô hình
quản lý rừng dựa vào cộng đồng được thực hiện tại Tây Nguyên chủ yếu dựa
trên chính sách giao đất giao rừng của Nhà nước.
4. Các phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập số liệu: tổng hợp từ nguồn tổng cục thống kê
- Phương pháp chuyên gia
- Phương pháp về quản lý rừng dựa vào cộng đồng
5. Cấu trúc chuyên đề
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, chuyên đề được
trình bày trong ba chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về quản lý rừng dựa vào cộng đồng và kinh
nghiệm quản lý rừng dựa vào cộng đồng ở Việt Nam
Chương II: Thực trạng quản lý rừng dựa vào cộng đồng tại vùng Tây
Nguyên
Chương III: Đánh giá hiệu quả hoạt động của mô hình quản lý rừng dựa
9
vào cộng đồng
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ RỪNG DỰA VÀO CỘNG
ĐỒNG VÀ KINH NGHIỆM QUẢN LÝ Ở VIỆT NAM.
1.1. Cơ sở lý luận về quản lý rừng dựa vào cộng đồng
1.1.1 Quản lý rừng dựa vào cộng đồng (CBFM)
PFM: participation forest management là một thuật ngữ chung mô tả cộng
đồng trong quản lý rừng. quản lý rừng dựa vào cộng đồng (CBFM ) là một dạng
của phương pháp PFM và được áp dụng cho khu đất thuộc quản lý cấp xã, những
khu rừng giao cho tư nhân quản lý hoặc được quản lý bởi Ủy ban nhân dân xã.
- Quản lý rừng dựa vào cộng đồng là khái niệm để chỉ cộng đồng tham gia
quản lý rừng thuộc nguồn gốc hình thành thứ ba. Rừng trong trường hợp này
cộng đồng là những chủ thể quản lý trực tiếp tham gia và được hưởng lợi.
1.1.2 Nội dung chủ yếu của CBFM
+ Cộng đồng là những chủ thể quản lý rừng: quản lý rừng dựa vào cộng
đồng đưa ra hình thức quản lý rừng ở cấp xã, nơi mà người dân địa phương đóng
vai trò vừa là người quản lý vừa là chủ rừng. Để triển khai mô hình này một cách
tốt nhất thì một cơ quan ở cấp xã là đại diện triển khai mô hình này. Vai trò của
cơ quan này thể hiện ở sự hỗ trợ và giúp đỡ người dân quản lý rừng một cách
hiệu quả và bền vững.
+ Quản lý rừng dựa vào cộng đồng là một mô hình có thể áp dụng cho tất
10
cả các loại rừng:
CBFM có thể áp dụng cho bất kỳ loại rừng nào – những khu rừng có độ đa
dạng sinh học cao hay thấp, rừng nguyên sinh hay rừng đã bị suy kiệt, những khu
rừng rộng lớn hay nhỏ… điều quan trọng nhất là ta cần hiểu được rằng CBFM
được áp dụng cho những khu rừng và đất rừng thuộc địa bàn xã chứ không áp
dụng mô hình này cho những khu bảo tồn của địa phương hay quốc gia. Mục
tiêu của mô hình CBFM có thể là bảo tồn và phát triển cả rừng phòng hộ và sản
xuất hoặc hỗn hợp cả hai loại rừng này. Trong một vài trường hợp, người dân
mong muốn bảo tồn rừng của họ vì truyền thống hoặc những mục đích thiêng
liêng, trong một vài trường hợp khác nó có thể để bảo vệ một nguồn nước quan
trọng.
+ Người dân là mục tiêu tổng quan nhất của mô hình CBFM: người dân
địa phương hoặc cộng đồng trong trường hợp này là những người sống trong
hoặc sống ngay bên cạnh những khu rừng thuộc địa bàn xã của họ. Mối quan hệ
lâu đời giữa người dân và những khu rừng và sự gần gũi của họ với rừng khiến
họ trở thành những người tốt nhất để quản lý rừng bền vững.
+ Cộng đồng không chỉ là những người bảo vệ mà còn là những người có
quyền ra quyết định: việc quản lý trong mô hình CBFM bao gồm tất cả những
hình thức quản lý rừng, bảo vệ rừng, đánh giá rừng thường kỳ, trồng rừng và
những hoạt động phục hồi và phát triển khả năng sản xuất của rừng. Người dân
không chỉ phải có trách nhiệm quản lý rừng đúng với mục đích mà còn có quyền
đưa ra các quyết định. Điều này đã định hướng cho cách thức hoạt động của mô
hình. CBFM là một chiến lược phân chia quyền lợi. Nó thực thi dựa trên cơ sở
các chính sách của nhà nước trong việc cho phép sự tham gia của người dân địa
phương trong quản lý rừng và thực tế cần đưa ra những biện pháp kiểm soát và
11
quản lý ở cấp địa phương hợp lý hơn. Nó tập trung vào bảo tồn những khu rừng
không chỉ thông qua việc phân chia quyền kiểm soát và quản lý chúng mà còn
phân chia quyền sử dụng hay hưởng lợi từ chúng. Vì vậy mục tiêu của mô hình
này là cộng đồng không chỉ là những người hưởng lợi thụ động mà còn là những
người hưởng tiền hoa lợi mà gắn với đó là trách nhiệm quản lý rừng.
+ Tối ưu hóa cơ cấu tổ chức xã hiện hành: CBFM không tạo ra những tổ
chức, cơ quan mới nhưng nó dựa vào cơ cấu hiện hành để tồn tại. Xã là đơn vị
hành chính thấp nhất, là tập hợp một cộng đồng người được thừa nhận là cùng
chung sống trên một khu vực cụ thể và có quyền bầu ra bầu ra cơ quan hành
chính làm đại diện cho quyền lợi của cộng đồng (ủy ban nhân dân xã) để quản lý
những công việc của xã. Ủy ban nhân dân xã đã đóng vai trò khá tích cực và có
khả năng để vận hành mô hình CBFM tốt. ủy ban nhân dân xã có quyền ban
hành những văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh các hoạt động của các
thực thế trong phạm vi địa lý của xã đó. ủy ban nhân dân xã cũng là cơ quan có
trách nhiệm pháp lý đối với những người dân, hoạt động vì lợi ích của người
dân. Ranh giới giữa các xã có thể phân chia dựa theo những ranh giới tự nhiên,
hoặc những ranh giới chạy qua các khu rừng.
+ Sử dụng khu đất dự trữ như là nền tảng cơ bản CBFM được dựa trên
khu đất dự trữ đó để xây dựng một vùng phát triển rừng ( phòng hộ hoặc/và sản
xuất). hai quá trình phân chia đất dự trữ quan trọng diễn ra trong CBFM:
• Người dân được giúp đỡ về kỹ thuật để xác định đặc tính của đất và phân
loại quỹ đất dự trữ ra khỏi những khu đất khác thuộc địa bàn xã.
• Những nhóm nhỏ hơn trong cộng đồng được giúp đỡ để xác định đặc
tính và phân chia những khu đất rừng dự trữ mà họ sẽ cùng nhau làm chủ.
12
+ Thay đổi vai trò của cán bộ lâm nghiệp:
Theo truyền thống, cán bộ kiểm lâm huyện đóng vai trò như một cảnh sát.
Theo mô hình mới, cán bộ kiểm lâm huyện hiện nay có một chức năng mới là
giúp người dân nhận biết, điều tra và quản lý rừng của họ vì lợi ích chung của
cộng đồng. Cán bộ kiểm lâm giống như một đối tác của cộng đồng, tư vấn cho
họ làm cách nào để quản lý rừng tốt nhất trong cả ngắn hạn và dài hạn. phương
pháp luận của việc thiết lập mô hình CBFM dựa vào cán bộ lâm nghiệp như là
những cố vấn viên (khuyến khích, hỗ trợ, hướng dẫn). trong khi đang làm thay
đổi mối quan hệ giữa cán bộ kiểm lâm với cộng đồng: từ vai trò người chỉ đạo
sang:
• Tư vấn kỹ thuật cho cộng đồng: cung cấp những thông tin kỹ thuật thích
hợp hoặc
• Tạo ra sự liên kết giữa cộng đồng và cơ quan cấp huyện
• Người trung gian hòa giải giữa các cộng đồng hoặc giữa các nhớm
• Cảnh giới môi trường: cán bộ kiểm lâm giám sát tiến độ thực thi và họ
biết lúc nào cần hỗ trợ, lúc nào cần can thiệp nếu cộng đồng không tuân theo
cam kết quản lý rừng đã được ký kết.
Trong khi những kiến thức chủ yếu không phải từ đào tạo mà từ thực tế.
những thành quả đạt được thông qua cách giải quyết hợp lý khi cộng đồng phải
đối mặt với một vấn đề và khả năng nhận dạng và giải quyết các vấn đề tiếp theo
được nâng lên.
+ Hướng dẫn chứ không phải ra lệnh
Nhân viên kiểm lâm là những người giúp đỡ và tư vấn cho người dân địa
13
phương
1.1.3. Các giai đoạn cơ bản trong việc thực hiện CBFM
- Giai đoạn 1: khởi động
Giai đoạn này được triển khai ở cấp huyện, với việc lựa chọn những xã và
hướng dẫn cho cán bộ huyện cộng với đó là hình thành một nhóm cán bộ với
những kỹ năng khác nhau để làm việc ở cấp xã. Tổ chức các cuộc gặp và cuộc
họp cấp xã để việc thiết lập và định hướng cho bản cam kết được thuận lợi hơn.
- Giai đoạn 2: thực hiện quản lý và đánh giá
Giai đoạn này bắt đầu bằng việc xác định và quy hoạch lại ranh giới về đất
và rừng giữa các xã. Sau đó rừng sẽ được rà soát hoặc đánh giá và dựa vào đó
một kế hoạch quản lý sẽ được đưa ra cùng với những quy định của xã.
- Giai đoạn 3: chính thức hóa và hợp pháp hóa
Kế hoạch quản lý và những quy định riêng của xã được đưa ra trong
những cuộc họp cấp xã để được thông qua và cuối cùng là được chấp thuận bởi
ủy ban nhân dân cấp huyện. khi đã được phê duyệt, xã có thể chuyển sang giai
đoạn 4 và bắt đầu thực hiện kế hoạch quản lý rừng của họ.
- Giai đoạn 4: thực thi
Giai đoạn này sẽ được triển khai ở cộng đồng. hệ thống quản lý rừng cần
bổ nhiệm và đào tạo đội tuần tra với chức năng ban đầu là giám sát và đảm bảo
rằng những quy định đã được phổ cập tới từng người dân. Huyện đảm nhiệm vai
trò quan trắc và hỗ trợ bằng việc giám sát tiến độ và giúp giải quyết các vấn đề.
- Giai đoạn 5: xem xét và đưa ra những đề xuất hợp lý
Sau năm năm cộng đồng sẽ được xem xét và phê duyệt lại kế hoạch quản
14
lý của họ dựa vào những gì đã làm được trong khoảng thời gian đó. Từ đó có thể
rút ra những bài học kinh nghiệm và thay đổi những cách thức không còn phù
hợp.
- Giai đoạn 6: mở rộng mô hình sang những địa bàn khác
Giai đoạn này là giai đoạn triển khai mô hình ở những xã khác. Trong suốt
giai đoạn này chúng ta cần đưa ra những kế hoạch cụ thể và dự thảo ngân sách
cho việc mở rộng mô hình sang xã khác.
1.2. Quyền lợi và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng được
giao rừng, khoán bảo vệ rừng.
1.2.1 Quyền lợi
1.2.1.1. Đối với trường hợp được giao rừng và đất trồng rừng sản xuất.
a. Được hưởng toàn bộ sản phẩm thu hoạch trên diện tích rừng được giao,
bao gồm :
- Sản phẩm gỗ, lâm sản tận thu, tận dụng trong quá trình thực hiện các
biện pháp lâm sinh theo quy phạm các giải pháp lâm sinh áp dụng cho rừng sản
xuất gỗ và tre nứa ban hành kèm theo Quyết định số 200/QĐ-KT ngày 31/3/1993
của Bộ Lâm nghiệp ( nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn );
- Khi rừng tự nhiên, rừng trồng chưa đủ điều kiện khai thác chính, thì
được khai thác gỗ để giải quyết các nhu cầu thiết yếu của hộ gia đình, như làm
nhà mới, sửa chữa, thay thế nhà cũ. Mức khai thác cho mỗi hộ không quá 10m3
gỗ tròn ( cho một lần làm nhà mới, sửa chữa, thay thế nhà cũ ). Thủ tục khai thác
thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Quyết định số 03/2005/ QĐ-BNN
15
ngày 7/01/2005 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn;
- Sản phẩm khai thác chính khi rừng tự nhiên đến tuổi khai thác, theo quy
định tại Quy chế khai thác gỗ và lâm sản khác, ban hành kèm theo Quyết định số
40/2005/QĐ-BNN ngày 07/07/2005 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn);
- Sản phẩm khai thác tận dụng, tận thu, khai thác chính từ rừng trồng trên
đất không có rừng; tuổi khai thác; phương thức khai thác, thủ tục khai thác do
người trồng rừng tự lựa chọn và quyết định.
b. Được hỗ trợ cây giống chất lượng cao để trồng rừng sản xuất.
- Mức hỗ trợ: trồng cây gỗ nhỏ mọc nhanh, cây lâm đặc sản
1.500.000đồng/ ha, cây gỗ lớn 2.500.000đồng/ ha;
- Phương thức hỗ trợ: giao cho đơn vị có chức năng, đảm bảo sản xuất
giống đạt chất lượng, có nguồn gốc rõ ràng để thực hiện việc gieo ươm và cung
ứng trực tiếp đến người dân.
c/ Được tham gia và hưởng lợi từ các dự án khuyến nông, khuyến lâm trên
địa bàn.
1.2.1.2 Đối với trường hợp nhận khoán bảo vệ rừng.
Ngoài chế độ được hưởng lợi theo quy định tại khoản 1, 3, 4 và 5 Điều 6
Quyết định số 304, người dân còn được hưởng các sản phẩm thu hoạch trên diện
tích rừng được khoán, bao gồm:
- Sản phẩm gỗ, tre nứa tận thu, tận dụng trong quá trình thực hiện các biện
pháp lâm sinh theo Quy phạm các giải pháp lâm sinh áp dụng cho rừng sản xuất
gỗ và tre nứa ban hành kèm theo Quyết định số 200/QĐ-KT ngày 31/3/1993 của
16
Bộ Lâm nghiệp ( nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ). Tỷ lệ hưởng
lợi theo quy định tại quyết định số 178/ 2001/QĐ-TTg ngày 12 tháng 11 năm
2001 của Thủ tướng Chính phủ về quyền hưởng lợi, nghĩa vụ của hộ gia đình, cá
nhân được giao, được thuê, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp ( sau đây gọi tắt
là Quyết định số 178 );
- Toàn bộ sản phẩm là lâm sản ngoài gỗ, tre nứa thu hái từ rừng tự nhiên,
rừng trồng ( trừ các loại nguy cấp, quý hiếm theo quy định của Chính Phủ );
- Đối với rừng sản xuất là rừng tự nhiên, nếu chưa đủ điều kiện khai thác
chính và rừng phòng hộ, được khai thác tận dụng gỗ từ việc chăm sóc, tỉa thưa
rừng để giải quyết các nhu cầu thiết yếu của hộ gia đình, như làm nhà mới, sửa
chữa thay thế nhà cũ. Mức khai thác cho mỗi hộ không quá 10m3 gỗ tròn ( cho
một lần làm nhà mới, sửa chữa, thay thế nhà cũ ). Thủ tục khai thác, thực hiện
theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Quyết định số 03/2005/ QĐ-BNN ngày 7 tháng
01 năm 2005 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn;
- Sản phẩm khai thác chính từ rừng trồng, rừng tự nhiên khi đến tuổi khai
thác được quy định tại Quy chế khai thác gỗ và lâm sản khác, ban hành kèm theo
Quyết định số 40/2005/QĐ-BNN ngày 07 tháng 7 năm 2005 của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn. Tỷ lệ hưởng lợi theo quy định tại Quyết định số
178;
b. Được hỗ trợ cây lâm nghiệp; tham gia và hưởng lợi từ các dự án khuyến
nông, khuyến lâm trên địa bàn như đối với trường hợp được giao rừng và đất
17
trồng rừng sản xuất.
1.2.2. Nghĩa vụ
Ngoài việc thực hiện theo quy định tại khoản 1, 2, 3 Điều 7 Quyết
định số 304, các hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng được giao rừng, khoán bảo
vệ rừng còn có các nghĩa vụ sau:
- Sử dụng rừng được giao, được khoán bảo vệ đúng mục đích, đúng quy
hoạch; chịu sự hướng dẫn, kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng và chủ
rừng về kế hoạch sản xuất, quy trình kỹ thuật trong quá trình sử dụng rừng được
giao, được khoán bảo vệ;
- Nếu vi phạm các điều khoản trong quyết định giao rừng, hoặc hợp đồng
khoán bảo vệ rừng thì bị thu hồi quyết định theo quy định của pháp luật về đất
đai, hoặc huỷ bỏ hợp đồng khoán bảo vệ;
- Trả lại rừng và đất rừng được giao, được khoán bảo vệ khi cơ quan chức
năng có thẩm quyền thu hồi theo quy định của pháp luật về đất đai;
- Thực hiện đầy đủ trách nhiệm, nghĩa vụ của người lao động đối với chủ
sử dụng lao động theo quy định của pháp luật về lao động;
- Đóng đầy đủ các loại thuế theo quy định của pháp luật.
1.3. Mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng ( CBFM) ở Việt Nam
1.3.1. Cơ sở của việc áp dụng mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng
(CBFM)
Nước ta có hơn 50 dân tộc thiểu số, phần lớn sinh sống ở miền núi, thôn,
bản, buôn (gọi tắt là thôn buôn) là đơn vị xã hội truyền thống, cơ bản trong nông
thôn, miền núi cấu thành đơn vị hành chính cơ sở, có tính tương đối độc lập và
18
ổn định cao, là cộng đồng dân cư tự nhiên của các tộc người có mối quan hệ ràng
buộc, bởi có chung các yếu tố như: chung nơi cư trú, cùng tôn giáo, tín ngưỡng,
chung văn hóa, biểu hiện rõ nét trong ngôn ngữ và tập quán thống nhất của cộng
đồng và chung huyết thống. Mỗi thôn buôn đều có quy định rõ ràng về đất đai
của mình. Ranh giới thường căn cứ vào sông suối, mảnh đất, vạt ruộng mà cư
dân trong thôn, bản canh tác từ lâu đời… Có thể có những đường ranh giới chỉ
mang tính ước lệ, nhưng đều được các cộng đồng thôn bản bên cạnh thừa nhận
và tôn trọng. Ranh giới này thường do người già và người có công khai phá vùng
đất đó hoạch định. Cương vực của thôn không phải chỉ là khu vực đất cư trú,
thường bao gồm: đất ở, đất canh tác, là những phần rừng đã được khai phá đưa
vào canh tác: nương rẫy đang gieo trồng, ruộng bãi…; đất dự trữ là những cánh
rừng sẽ được khai phá trong thời gian những mùa rẫy sắp tới và những rẫy cũ
đang bỏ hoá; đất cấm canh tác là những rừng đầu nguồn nước, rừng trên chóp
núi để giữ nước, chống xói mòn và những khu rừng làm nơi chôn cất người chết,
rừng thờ cúng, rừng thiêng, rừng sử dụng vào mục đích lấy gỗ, lâm sản, săn bắn;
bến nước, nơi đánh bắt cá… Các dân tộc thiểu số thường có có tập quán quản lý
cộng đồng với đất đai và tài nguyên thiên nhiên trong địa phận thôn buôn. Trước
đây, với tập quán làm nương rẫy phổ biến thì tài nguyên quan trọng đối với cộng
đồng là rừng và đất rừng. Tuy có vài khía cạnh khác nhau, nhưng nét đặc trưng
chung nhất trong việc quản lý đất đai, tài nguyên của các dân tộc thiểu số là quản
lý theo cộng đồng thôn buôn, bản. Theo các quan niệm truyền thống của đồng
bào thì chế độ sở hữu và quyền sử dụng đất đai, tài nguyên rừng trong thôn là sở
hữu cộng đồng, của tất cả các thành viên trong thôn bản, mọi thành viên trong
cộng đồng đều được bình đẳng trong việc khai thác sử dụng theo luật tục/quy
ước của thôn do sự điều khiển của già làng, trưởng bản, người ngoài cộng đồng
19
không được vi phạm.
Chẳng hạn người Thái vùng Tây Bắc: Có tập quán phân loại rừng núi
thành các khu vực, nhằm phục vụ các nhu cầu khác nhau của cuộc sống cộng
đồng: rừng phòng hộ nằm trên các khu vực đầu nguồn nước, tuyệt đối cấm khai
thác; rừng dành cho việc khai thác tre gỗ dựng nhà và các nhu cầu khác thì tuyệt
đối không được phát nương làm rẫy, thường là vùng núi cao. Nhiều nơi quy định
“rừng măng cấm”- rừng chuyên để lấy măng. Rừng “gò săn” là khu vực rừng
nguyên sinh chuyên để dành cho tập quán săn thú tập thể - không được chặt cây
làm động thú rừng. Rừng núi dành cho phát nương làm rẫy, có diện tích khá
rộng. Núi rừng phục vụ cho cuộc sống tâm linh - “rừng thiêng” rừng ma.
Ở Tây Nguyên: Người Ê Đê và Mnông có luật tục rất phong phú, điều
chỉnh nhiều lĩnh vực: Tổ chức và quản lý cộng đồng xã hội; ổn định trật tự an
ninh và đảm bảo lợi ích cộng đồng; quan hệ dân sự quản lý sử dụng đất đai, bảo
vệ sản xuất, môi trường: duy trì và giáo dục nếp sống văn hóa, tín ngưỡng…
Cũng như vậy, luật tục quy định của người Tà Ôi, Vân Kiều ở miền Trung,
người Stiêng ở Đông Nam Bộ đều quan niệm đất đai, tài nguyên rừng là tài sản
chung của tất cả cộng đồng không phải của riêng ai. Quan niệm truyền thống về
quyền sở hữu đất đai: đất rẫy thuộc quyền của người khai phá đầu tiên. Khi
khoảnh rẫy đó được định canh vẫn thuộc sở hữu của người chủ rẫy đầu tiên, nếu
họ chết đi, đất đó được chuyển cho con cháu họ. Cộng đồng buôn làng khẳng
định quyền sở hữu của họ. Những tập tục đó là một phần luật tục cổ truyền của
cộng đồng dân tộc giúp họ quản lý cộng đồng trong quá trình bảo tồn và phát
triển. Ở đây, vai trò của già làng, trưởng thôn, trưởng dòng họ được đề cao. Họ
là những người có uy tín, có kinh nghiệm trong ứng xử xã hội, sản xuất, và xử lý
vướng mắc trong cộng đồng. Họ không chỉ giữ vai trò quan trọng duy trì trật tự
20
đối với công việc chung của dòng họ mà còn đối với cuộc sống của mỗi gia đình.
Ở nhiều nơi, trưởng dòng họ lớn thường được coi là đại diện của cộng đồng.
Giữa luật tục và vai trò của họ có mối quan hệ tương hỗ với nhau. Quản lý cộng
đồng theo luật tục thể hiện tính tự quản trong cộng đồng dân cư thôn rất cao, tồn
tại song song với quản lý của Nhà nước phong kiến và thuộc địa. Sau Cách mạng
tháng Tám năm 1945, những biến động lớn về chính trị, xã hội đã tác động lớn
đến cộng đồng dân cư của cộng đồng dân tộc thiểu số ở miền núi. Nhìn chung
các tập quán, luật tục được thay thế bằng thể chế của Nhà nước. Tuy nhiên, ở
một số cộng đồng một phần luật tục có liên quan đến tín ngưỡng, tâm linh, quản
lý đất rừng và làm nương rẫy theo cộng đồng vẫn được duy trì và còn hiệu lực.
Ở Việt Nam rừng và cộng đồng dân cư địa phương có mối quan hệ rất mật
thiết, có ảnh hưởng qua lại trực tiếp với nhau bởi các đặc điểm sau:
- Đặc điểm về tập quán. Trên diện tích đất quy hoạch cho sản xuất Lâm
nghiệp có khoảng 24 triệu dân sinh sống với 54 dân tộc, chủ yếu sinh sống ở
vùng núi. Đời sống của đồng bào rất gắn bó với rừng, một số lượng không nhỏ
dân cư này có cuộc sống phụ thuộc vào rừng, từ đất rừng để làm nương rẫy, đến
khai thác gỗ, củi thu hái lâm sản và săn bắt chim thú...
- Đặc điểm về xã hội. Trong đời sống xã hội của đồng bào dân tộc thiểu số
vùng núi thì tính cộng đồng thôn bản là một thể chế xã hội cơ bản đã có từ lâu và
đến nay vẫn còn tồn tại. Mỗi làng bản có một lối sống riêng, một quy ước riêng
do cộng đồng tự xác lập, được các cộng đồng khác thừa nhận và tôn trọng. Các
cộng đồng này có truyền thống riêng về sở hữu, sử dụng đất đai, trong đó tính sở
hữu theo quản lý cộng đồng là một đặc điểm nổi bật. Qua nhiều biến động về
chính trị xã hội, các truyền thông trên tuy có bị mai một, nhưng vẫn được duy trì
21
trong công tác quản lý rừng.
1.3.2. Xu thế của quản lý rừng dựa vào cộng đồng của Việt Nam
Rừng cộng đồng đang tồn tại như một xu thế mang tính khách quan và
ngày càng có vị trí quan trọng trong hệ thống tổ chức quản lý tài nguyên rừng ở
Việt Nam. Tính đến nay diện tích đất lâm nghiệp do cộng đồng tham gia quản lý
chiếm khoản 15,5% diện tích đất lâm nghiệp của cả nước (Trong đó được cấp có
thẩm quyền giao chiếm khoảng 51%) Vị trí pháp lý của cộng đồng dân cư làng
bản, trước khi có Luật bảo vệ và phát triển rừng công bố năm 2004. Trong thời
gian gần đây đã có một số Nghị quyết của Đảng và văn bản của Chính phủ đề
cập đến một số nội dung có liên quan đến vị trí của cộng đồng dân cư làng bản
như
- Xác định nhiệm vụ nghiên cứu để xây dựng hương ước, lệ làng cổ làm
cơ sở cho việc ban hành hương ước, quy ước mới ở làng bản cho phù hợp với
pháp luật của Nhà nước.
- Xác định thôn, làng, bản, ấp không phải là một cấp chính quyền, nhưng
là nơi sinh sống của cộng đồng dân cư, là nơi thực hiện dân chủ một cách trực
tiếp và rộng rãi nhằm giải quyết công việc trong một bộ phận cộng đồng dân cư.
Trưởng thôn, làng, bản, ấp là đại diện cho cộng đồng dân cư trực tiếp liên hệ, đề
đạt nguyện vọng của cộng dân cư với cấp chính quyền cơ sở (uỷ ban nhân dân
xã). Trưởng thôn, làng, bản, ấp do nhân dân bầu ra và được uỷ ban nhân dân xã
công nhận. Nhà nước thừa nhận làng, bản là chủ rừng
Đối với diện tích rừng làng, rừng bản đã có trước ngày ban hành luật bảo
vệ và phát triển rừng, mà không trái với những quy định của luật bảo vệ và phát
triển rừng, luật đất đai. Vị trí pháp lý của cộng đồng dân cư thôn hiện nay: về
22
cộng đồng dân cư tham gia được luật bảo vệ và phát triển rừng công bố ngày
14/12/2004 đã thừa nhận như một đơn vị chủ rừng và được thể hiện trong luật về
quyền , nghĩa vụ của cộng đồng được giao rừng, cụ thể:
- Điều kiện giao rừng cho cộng đồng dân cư thôn. Có cùng phong tục, tập
quán, có truyền thống gắn bó cộng đồng với rừng về sản xuất, đời sống, văn hóa,
tín ngưỡng, có khả năng quản lý rừng, có nhu cầu được giao rừng và phải phù
hợp với quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng được phê duyệt, phù hợp
với quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng được phê duyệt, phù hợp với
khả năng qũy đất của địa phương.
- Các khu rừng được xem xét giao cho cộng đồng thôn gồm có 3 loại:
+ Các khu rừng hiện do cộng đồng thôn đang quản lý có hiệu quả.
+ Các khu rừng giữ nguồn nước phục vụ trực tiếp cho cộng đồng và lợi
ích khác của cộng đồng mà không thể giao cho hộ gia đình, cá nhân quản lý.
+ Các khu rừng nằm giáp ranh giữa các thôn, xã, huyện, không thể giao
cho tổ chức hộ gia đình, cá nhân quản lý.
1.3.3 vai trò của cộng đồng dân cư trong quản lý và bảo vệ rừng
a. Vai trò xã hội của làng bản đối với quản lý bảo vệ rừng
Trên thực tế có một số loại rừng, như rừng bảo vệ nguồn nước, rừng
phòng hộ bản làng, rừng ma, rừng thiêng, đang do cộng đồng quản lý và chính
quyền địa phương chưa làm thủ tục giao quyền sử dụng lâu dài cho các cộng
đồng. Tuy nhiên mọi sự tác động của Nhà nước và các tổ chức nhà nước vào các
loại rừng này đều phải có sự thỏa thuận và đồng ý của cộng đồng.
23
b. Những mô hình quản lý rừng /làng/bản hiện nay
Trên thực tế việc quản lý rừng làng/bản ở Việt Nam hiện nay đang có 3
mô hình chủ yếu là:
- Mô hình 1: Rừng do cộng đồng quản lý theo truyền thống, được pháp
luật công nhận:
Đến năm 1991, khi ban hành Luật Bảo vệ và phát triển rừng, (Luật
BV&PTR) ở một số làng, bản vẫn còn quản lý và hưởng lợi một số khu rừng
làng/bản theo truyền thống đã có trước đây. Luật BVPTR vẫn công nhận những
khu rừng đó thuộc quyền sở hữu của làng. 32 Hội thảo quốc gia “ Đẩy mạnh
quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng tại Việt Nam” Hà Nội tháng 10/2002
- Mô hình 2: Cộng đồng dân cư ở làng/bản nhận khoán bảo vệ cho các chủ
rừng Nhà nước và đã liên kết để nhận khoán bảo vệ rừng đã giao cho các tổ chức
Nhà nước quản lý, cùng hưởng lợi, bằng nhiều hình thức liên kết khác nhau (như
nhóm: hộ gia đình, nhóm đồng sở thích hoặc toàn bộ cộng đồng dân cư thôn
bản). Đến năm 2001, diện tích rừng và đất lâm nghiệp thuộc loại hình quản lý
này vào khoảng 936.327 ha. (Trong đó ở rừng phòng hộ 494.242 ha, rừng đặc
dụng 32.298 ha và rừng sản xuất 402.795 ha).
Trên thực tế, đối với loại mô hình này cộng đồng dân cư làng/bản cũng chỉ
là người làm thuê, được thù lao một số tiền ít ỏi, không được hưởng lợi gì đáng
kể ở rừng, nên tính tích cực của họ chưa được phát huy. Trong tương lai, mô
hình này cần phải được cải tiến theo hướng giao cho cộng đồng dân cư làng/bản
trực tiếp quản lý và hưởng lợi ở những khu rừng gắn liền với nơi cư trú của dân
cư.
- Mô hình 3: Rừng và đất lâm nghiệp được chính quyền địa phương (cấp
24
tỉnh) giao cho các làng/bản quản lý (đang có tính chất thí điểm). Ở nhiều tỉnh
(nhất là các tỉnh đang có các dự án hợp tác với nước ngoài về lâm nghiệp xã
hội/lâm nghiệp cộng đồng) đã thí điểm giao đến cộng đồng dân cư làng/bản một
số diện tích rừng và hướng dẫn họ quản lý, có những chính sách họ hưởng lợi cụ
thể. Các báo cáo nghiên cứu điểm về lâm nghiệp cộng đồng (LNCĐ) đã đánh giá
những kết quả bước đầu của mô hình quản lý rừng này và xác nhận đây là một
mô hình quản lý lâm nghiệp có hiệu quả, phù hợp với tình hình quản lý lâm
nghiệp hiện nay của Việt Nam và chắc chắn sẽ được phát triển nhiều hơn trong
tương lai và sẽ thuận lợi hơn khi Luật bảo vệ và phát triển rừng (sửa đổi) có hiệu
lực thi hành.
1.3.4. Kinh nghiệm quản lý rừng ở Việt Nam
a. Xã Phúc Sen - Cao Bằng
Xã Phúc Sen là một xã vùng cao với dân số 2.027 người, trong đó đa số là
người dân tộc Nùng An, sống ở 12 bản. Người dân sống bằng nghề nông và ít
liên hệ với thị xã Cao Bằng, nơi cách xã Phúc Sen khoảng 40 km. Xã Phúc Sen
có diện tích 1.300 ha trong đó 23 ha là khu dân cư, 267 ha là đất nông nghiệp và
1.010 ha là đất rừng. Trước đây, nhân dân xã Phúc Sen đã phải đương đầu với
tình trạng rừng bị tàn phá nghiêm trọng và người dân có mức sống rất thấp. từ
năm 2003 thực hiện áp dụng mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng cuộc sống
của người dân nơi đây đã có nhiều đổi khác. Việc giao đất được thực hiện chủ
yếu thông qua việc thảo luận với dân làng ngay tại hiện trường. Mỗi làng được
giao quản lý hai hay ba ngọn núi đá vôi riêng biệt hay một nửa sườn núi. Thông
qua việc bàn bạc và dàn xếp với dân làng, xã đã giao rừng trên cơ sở vị trí đất
rừng, khả năng quản lý rừng và mức độ phụ thuộc vào các khu rừng đó của
25
người dân. Sau đó các bản làng lại giao lại cho các hộ dân sử dụng và quản lý
dựa trên các quy định riêng của từng bản, làng. Trong diện tích do bản quản lý,
người dân được phép lấy củi sau khi đã được phép của lãnh đạo trong bản. Nếu
xảy ra tình trạng chặt cây trái phép, thì người vi phạm bị phạt 5kg gạo cho 1kg
củi chặt trái phép. Sau hơn 5 năm thực hiện mô hình quản lý rừng dựa vào cộng
đồng đã mang lại cho người dân cũng như những khu rừng nơi đây những thay
đổi đánh kể. các khu rừng già bị chặt phá trước dây đã phục hồi bình tốt che phủ
một diện tích trên 71 ha. Khoảng 176 ha đã tái sinh tốt và bình quân một ha có
412 cây con được trồng bổ sung. Đời sống của người dân trong bản được nâng
cao nhờ các hoạt động khai thác gỗ và lâm sản ngoài gỗ.
b. Sơn La
Sơn La là tỉnh vùng cao nằm phía Tây Bắc Việt Nam. Tổng diện tích tự
nhiên toàn tỉnh là 1.421.000 ha. Trong đó đất lâm nghiệp có 1.034.100 ha, đất
nông nghiệp có 147.360 ha, đất khác và núi đá chiếm 239.530 ha. Trong điều
kiện khi mà tài nguyên rừng đã cạn kiệt, nền nông nghiệp đang đứng trước
những thử thách mới. Sơn La đã áp dụng mô hình quản lý rừng dựa vào cộng
đồng với chủ trương giao đất giao rừng. Lâm Nghiệp đang dần chuyển hướng
quản lý từ nhà nước sang cộng đồng với nhiệm vụ là xây dựng hệ thống rừng đặc
dụng, rừng phòng hộ và rừng sản xuất theo phương thức nông lâm kết hợp. Bình
quân mỗi năm tỉnh đã trồng 4000 – 5000 ha rừng tập trung, hơn 1 triệu cây
phong trào, khoanh nuôi tái sinh 30.000 ha, bảo vệ 162.000 ha rừng hiện còn,
đưa độ che phủ rừng lên 11,5%. 25.000 hộ nông dân đã nhận khoán bảo vệ rừng.
Bộ mặt nông thôn đang từng bước được cải thiện về thu nhập : có 1,72% số hộ
giàu, 8,3% hộ khá, 70,3% hộ trung bình, còn 19,5% hộ nghèo. Đổi mới sinh hoạt
của hộ gia đình: nhà kiên cố 10,45%, nhà bán kiên cố 31,36%, được dùng điện
26
28,25%, dùng nước giêng 17,15%.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỪNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG
TẠI VÙNG TÂY NGUYÊN
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và lâm nghiệp vùng Tây
27
Nguyên
2.1.1. Vị trí chiến lược về kinh tế - xã hội
Tây Nguyên là vùng cao nguyên nằm ở phía tây của Trung Bộ, giáp với
các tỉnh Nam lào và đông bắc Campuchia, bao gồm 5 tỉnh xếp theo thứ tự vị trí
địa lý từ bắc xuống nam gồm: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm
Đồng. Tây Nguyên có vị trí địa pý cực kỳ quan trọng về mặt sinh thái, về phòng
hộ vì có thể coi Tây Nguyên nhưu một phần nóc mái nhà của các tỉnh Duyên
Haie miền trung và Đông Nam Bộ, nơi bắt nguồn của 4 hệ thống sông lớn: Sông
Sê San, Srê Pốk đổ vào sông Mê Kông. Sông Ba và Đồng Nai đổ ra biển vùng
Duyên hải miền trung. Tây Nguyên còn có hệ thống đường giao thông thuận lợi
và mối quan hệ kinh tế - xã hội bền chặt giữa các vùng này. Do vậy, Tây Nguyên
có điều kiện để mở rộng mối bang giao với nhiều vùng trong cả nước và quốc tế,
đồng thời là địa bàn chiến lược quan trọng đảm bảo an ninh quốc phòng của đất
nước.
2.1.2. Địa hình và địa thế
Địa hình Tây Nguyên đa dạng và phong phú, là cao nguyên hợp nhất bởi
một loạt cao nguyên liền kề. đó là các cao nguyên Kon Tum cao khoảng 500m,
cao nguyên Kon Plong, cao nguyên Kon Hà Nừng, Plâyku cao khoảng 800m,
cao nguyên Mdrak cao khoảng 500m, Đắk Lắk cao khoảng 800m, Mơ Nông cao
khoảng 800-1000m, Lâm Viên cao khoảng 1500 và Di Linh cao khoảng 900 -
1000m, với nhiều dạng địa hình: Núi cao, núi trung bình, núi thấp, các cao
nguyên, sơn nguyên và thung lũng nhỏ hẹp nằm dọc theo các triền sông lớn. Tây
nguyên còn có nhiều dải núi cao như Ngọc Linh, cao tới 2.584m ở phía bắc tỉnh
Kon Tum và các dãy núi cao tới 2000m ở phía nam tỉnh Lâm Đồng. Mật độ sông
28
suối của Tây Nguyên thưa, chỉ có 4 hệ thống sông lớn. đây là nguồn lực để phát
triển các nhà máy thủy điện lớn như Yaly, Ya Dring, Thác Mơ, Hàm Thuận, Đa
My, Đa Nhim và Trị An.
2.1.3. Điều kiện khí hậu
Tây Nguyên thuộc khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa cao nguyên, mưa nhiều,
chế độ nhiệt tương đối điều hòa, bức xạ mặt trời dồi dào và ít chịu tác động cảu
các hiện tượng thời tiết tiêu cực như bão, gió mùa đông bắc và sương muối…
những khó khăn của Tây Nguyên là có một mùa khô kéo dài, có gió địa hình
mạnh, nhiều vùng thiếu nước nghiêm trọng về mùa khô đã hạn chế lớn đối với
sản xuất và đời sống của dân cư trong vùng. Khí hậu Tây Nguyên được chia
thành ba tiểu vùng, gồm Bắc Tây Nguyên (tương ứng với các tỉnh Kon Tum và
Gia Lai); Trung Tây Nguyên (tương ứng với các tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông) và
Nam Tây Nguyên (tương ứng với tỉnh Lâm Đồng). điều đặc biệt đáng quan tâm
là nhiệt độ giảm dần theo độ cao, trung bình cứ lên cao 100m nhiệt độ giảm 0.60C. Những vùng có độ cao trên 1000m thời tiết quanh năm mát mẻ như Đà
Lạt; Ngọc Linh;KonPlong…khí hậu nổi lên như một yếu tố trội quyết định tính
đa dạng và phong phú tài nguyên rừng. chỉ xét riêng về khí hậu, Tây Nguyên có
rất nhiều thuận lợi để phát triển một tập đoàn cây trồng, vật nuôi nhiệt đới và
một số loại cây con có nguồn gốc ôn đới. đồng thời Tây Nguyên còn là nơi có
nhiều thuận lợi phát triển du lịch cảnh quan sinh thái và nghỉ dưỡng.
2.1.4. Tài nguyên rừng
Thảm thực vật rừng Tây Nguyên rất đa dạng và phong phú, nơi hội tụ của
nhiều luồng thực vật: từ Malaysia - Indonesia đặc trưng bằng các loài cây họ
29
dầu; từ Ấn Độ - Myanma với các loài họ bàng, họ tử vi; từ Himalaya - Vân Nam
- Quy Châu tiêu biểu với các loài thông và luồng thực vật bản địa phía bắc Việt
Nam với các loài re, giẻ…đã tạo nên hệ thực vật rừng Tây Nguyên có tính đa
dạng sinh học cao thuộc loại bậc nhất đất nước. theo tư liệu của nhiều nguồn đã
thống kê, tây nguyên có trên 4500 loài thực vật thuộc 1200 chi của 224 họ; riêng
các loài cây gỗ có trên 700 loài thuộc 90 họ của hai ngành thực vật hạt trầm và
hạt kín.
Bản 2.1. Diện tích đất lâm nghiệp vùng Tây Nguyên
Đơn vị: ha
Loại rừng
tích
tích
Đất khác
tự
Tên tỉnh
Diện tự nhiên
Diện có rừng
Rừng nhiên
Rừng trồng
Độ che phủ rừng (%)
Đất trống quy hoạch cho lâm nghiệp
961.450 629.262 97.662 1.600 204.167 128.021 65,1
1.549.571 761.847 727.036 34.811 364.819 440.905 48,6
967.220 607.280 557.857 49.423 36.050 332.889 61,5
1.312.537 604.293 585.939 18.354 145.253 562.991 45,5
651.438 370.394 360.163 10.232 44.625 236.419 56,4
Kon Tum Gia Lai Lâm Đồng Đắk Lắk Đắk Nông Tổng 5.451.216 2.973.076 2.828.657 144.420 776.914 1.701.225 54,4
Nguồn: Cục Lâm nghiệp, 2005
Tây nguyên có diện tích đất lâm nghiệp chiếm trên 80% diện tích đất tự
30
nhiên và độ che phủ của rừng cao nhất cả nước hiện này (bảng 2.1)
Tài nguyên rừng của tây nguyên có thể chia thành các kiểu rừng chính như
sau:
- Rừng thường xanh: thường thấy ở những nơi có lượng mưa trung hàng
năm từ 1200 - 2500mm và có khoảng từ 1 - 3 tháng khô. Rừng thường xanh có
tổ thành loài cây phức tạp, đa dạng, trong đó có nhiều loài có giá trị kinh tế cao,
được thị trường ưa chuộng. Các loài cây thường gặp là các loài cây họ dầu (như
kiền kiền, sa ben, trò chỉ…)
- Rừng nửa rụng lá: loại rừng này thường thấy trên rừng đất Bazan thuộc
vùng núi phía tây. Rừng này có tầng tán trên cùng chủ yếu là các loài cây rụng
lá.
- Rừng rụng lá (rừng khộp) loại rừng này thường thấy ở các khu vực có
lượng mưa nhỏ hơn 1.800mm và có từ 5 - 7 tháng hạn. Rừng khộp phân bố trên
các loại đất xám bạc mầu.
- Rừng thông: rừng thông phân bố trên độ cao từ 800 - 1800m chiếm phần
lớn cao nguyên Đà Lạt, chủ yếu là rừng thông nhựa mọc thuần loại hoặc hỗn loại
với các loại cây lá rộng khác
- Rừng tre nứa: rừng tren nứa trải rộng ở các khu vực gần các khu dân cư
và thung lũng. Rừng tre nứa dường như là kết quả của việc phá rừng nhiều lần và
việc đốt nương làm rẫy ở các khu rừng gỗ.
- Rừng trồng: rừng trồng đều có ở 6 tỉnh, bao gồm rừng trồng của các
chương trình 327, 661, rừng trồng do các lâm trường quốc doanh tự bỏ vốn ra
trồng, rừng trồng của các dự án thuộc ngành công nghiệp giấy và các dự án quốc
31
tế.
2.1.5. Dân số dân tộc lao động
Tổng dân số Tây Nguyên là trên 4.675 triệu người, trong đó người Kinh
chiến 3.097 triệu người và người dân tộc thiểu số là 1.568 triệu người. Toàn
vùng có 3.5 triệu người sống ở nông thôn. Mật độ dân số trung bình là 84 người/km2.
Theo số liệu thống kê năm 2003 Tây Nguyên có trên 40 dân tộc sinh sống
khi đó tổng dân số của Tây Nguyên là 4.618.805 người được phân theo nhóm
các dân tộc chiếm số lượng lớn như sau:
• Người Kinh: 2.965.273 người chiếm 64.2%
• Ngườn Gia Rai 364.886 người chiếm 7.9%
• Người Ê Đê 263.272 người chiếu 5.7%
• Người Ba Na 180.133 người chiếm 3.9%
• Người Cơ Ho 29.327 người chiếm 2.8 %
• Các dân tộc khác 715.914 người chiếm 15.2%
Người Kinh chiếm đa số (64.2%) tổng dân số vùng Tây Nguyên, sống tập
trung ở các thị xã và thành phố nơi có các điều kiện dễ tiếp cận thị trường và
giao thông để phát triển thương mại và dịch vụ nên được hưởng nhiều lợi ích từ
thị trường mang lại. Đối với nhóm dân tộc thiểu số di cư đến Tây Nguyên và dân
tộc bản địa một phần đáng kể cuộc sống truyền thống của họ phụ thuộc vào các
hoạt động liên quan đến rừng. Đặc biệt lâm sản ngoài gỗ lấy từ rừng cho mục
đích sử dụng tại chỗ và để trao đổi với các nhóm dân tộc khác kể các các nhóm ở
đồng bằng khi chưa có thị trường việc khai thác tài nguyên rừng chỉ phục vụ cho
32
nhu cầu tại chỗ. Khi đó các diện tích rừng để làm nương rẫy được bỏ hoang tới
20 năm sau khi canh tác 1 – 2 vụ. Cây ngăn ngày nên năng suất cây trồng thời kỳ
đó khá ổn định. Hầu hết các nhóm dân tộc này sử dụng giống lúa nương bản địa
trên các diện tích thích hợp hoặc canh tác lúa nước bằng cách duy trì các hệ
thống thủy lợi rất nhỏ.
Tổng số lao động có khoảng 2.4 triệu người chiếm 51.6% tổng số dân
vùng Tây Nguyên, trong đó khoảng 80.7% dân số là lao động nông nghiệp bao
gồm cả lâm nghiệp và ngư nghiệp. Tuy nhiên, lực lượng lao động thuần túy là
lâm nghiệp chiếm tỷ lệ rất ít. Ở Tây Nguyên phần lớn nông dân làm việc trên đất
trang trại của gia đình, chiếm khoảng 72%, bình quân 1 lao động có 3,1 ha đất
nông - lâm nghiệp. Chỉ có khoảng 11% lực lượng lao động đi làm thuê nhận
lương vì vậy đây có thể là chỉ tiêu để đánh giá lao động ở vùng Tây Nguyên chủ
yếu là lao động phổ thông và không được đào tạo. Đất đai ở vùng Tây Nguyên
đủ rộng để thu hút lao động tại chỗ do đó tỷ lệ thất nghiệp ở vùng Tây Nguyên
rất thấp, tuy vậy vấn có khoảng 20% thời gian lao động nông thôn chưa được sử
dụng.
2.2. Đánh giá khái quát tình hình phát triển kinh tế xã hội
2.2.1. Tăng trưởng kinh tế (GDP)
Bảng 2.2 cho thấy nền kinh tế các tỉnh Tây Nguyên đã tăng trưởng liên tục
với tốc độ khá cao nhưng không ổn định và xu hướng giảm. Tăng trưởng bình
quân giai đoạn 1996 - 2000 là 12.9% và giai đoạn 2001 - 2005 là 8.63%, cao hơn
so với vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và so với bình quân trung của cả nước
cùng thời kỳ.
Bảng 2.2. Tốc độ và xu hướng tăng trưởng GDP vùng Tây Nguyên
33
Đơn vị: Tỷ lệ %
Tỉnh
1996 1997 1998 17.5 14.8 6.1 9.5 7.4 9.9 14.4 15.0 11.4 12.1 16.8 9.8 21.5 14.0 14.8
Bình quân Kon Tum Gia Lai Đắk Lắk Đắk Nông Lâm Đồng 30.0 18.5
- 13.0
Tốc độ tăng trường 1999 2000 2001 2002 15.1 11.0 6.7 5.8 12.6 13.6 11.9 11.5 9.9 8.6 7.9 8.2 6.5 17.7 16.1 8.2 12.4 -4.3 23.5 7.9 -11.5 9.8 13.3 9.0
2005 2003 2004 13.4 12.28 13.36 11.1 11.6 11.9 13.0 7.5 12.8 10.5 23.5 15.8
11.9 15.05 10.43 8.37 13.9 17.6
Nguồn:Tổng Cục Thống kê , năm 2005
Theo số liệu thống kê, GDP bình quân đầu người tính cho cả vùng Tây
Nguyên năm 1995 là 151 USD, năm 2000 là 172 USD và năm 2003 là 226 USD.
So sánh với GDP bình quân trong cả nước, Tây Nguyên chỉ bằng 51.4% và
khoảng cách chênh lệch giữa nông thôn và thành thị là tương đối lớn.
Mặt khác tốc độ tăng trưởng GDP không đều và không tương xứng với tốc
độ tăng dân số nên hàng năm Nhà nước vẫn phải hỗ trợ từ 60 – 80 % tổng mức
chi ngân sách so với tổng nguồn thu của các tỉnh.
2.2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế của các tỉnh được thể hiện trong bản 2.3. Xu hướng chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng các ngành dịch vụ, công nghiệp và
xây dựng, giảm tỷ trọng các ngành nông, lâm nghiệp. Tuy nhiên tốc độ chuyển
dịch chậm.
Bảng 2.3. Cơ cấu kinh tế
Đơn vị: Tỷ lệ %
STT Ngành Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005
34
72.2 71 69.4 68.3 62.2 52.21 1 Nông - lâm - thủy sản
2 10.5 11 11.5 12.1 13.5 20.88
3 Công nghiệp và XDCB Dịch Vụ 17.3 18 19.1 19.6 24.3 26.91
Nguồn:Tổng Cục Thống kê Việt Nam, năm 2005
2.2.3. Tình trạng đói nghèo và xã đặc biệt khó khăn
Theo số liệu thống kê năm 2005 được trình bày ở bảng 2.4 cho thấy bức
tranh về hiện trạng đói nghèo của Tây Nguyên. Số xã nghèo đói và khó khăn
ngày một tăng lên, năm 2000 vả vùng có 181 xã đến năm 2008 đã tăng lên 240
xã chiếm 38.5% số xã phường trong vùng. Trong đó, số xã nghèo đói và khó
khăn nhiều nhất là ở Gia Lai (79 xã) và sau đến là Kon Tum (49 xã). Trong
những năm qua, sự gia tăng dân số cơ học có điều kiện kinh tế khó khăn từ các
vùng, miền trên cả nước đến Tây Nguyên là nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình
trạng này, bình quân khoảng 115.000 người/năm, tương ứng với dân số của 18 -
20 xã. So sánh với các vùng khác trên toàn quốc, Tây Nguyên hiện còn tỷ lệ hộ
35
đói nghèo ở mức cao.
Bảng 2.4. Số xã, phường thuộc diện nghèo đói và đặc biệt khó khăn
Đơn vị: xã
STT Tỉnh
Kon Tum Gia Lai Đắk Lắk Đắk Nông Lâm Đồng
Năm 2000 26 76 29 15 35 181 2001 49 76 32 22 47 226 2002 49 76 32 23 47 227 2003 50 79 38 25 49 240 1 2 3 4 5 Tổng Cộng
Nguồn: Cục Thống kê Việt Nam, năm 2004
2.2.4. Cơ sở hạ tầng
- Giao thông: mạng lưới giao thông ở Tây Nguyên có mật độ thưa, gồm
các tỉnh lộ và quốc lộ 14, 14B, 19, 20, 24, 25, 26, 27 và 40… đã được đầu tư
nâng cấp, xây dựng mới một số tuyến đường trong những năm qua nên đã giúp
Tây Nguyên tăng cường mối quan hệ kinh tế - xã hội với các tỉnh Duyên hải
Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ và quan hệ trực tiếp với câc tỉnh Nam Lào,
Campuchia. Toàn vùng hiện có 16.854 km đường ô tô, mật độ bình quân 0.31 km/km2. Tuy vậy, hàng năm nhà nước vẫn phải chi phí một lượng ngân sách lớn
cho công tác duy tu bảo dưỡng đường, đặc biệt là hệ thống giao thông liên xã,
huyện.
Về đường không: có 3 sân bay nội địa thuộc cụm cảng hàng không miền
Nam, đó là sân bay Plei Ku (Gia Lai), sân bay Ban Mê Thuột (Đắk Lắk) và sân
bay Liên Khương (Lâm Đồng) tạo ra sự giao thông hàng hóa, vận chuyển hành
khách quan trọng giữa Tây Nguyên với các vùng khác trong cả nước, thu hút các
36
nhà đầu tư và du khách đến với Tây Nguyên.
Thủy lợi: hệ thống thủy lợi ở Tây Nguyên có ý nghĩa rất quan trọng đối
với việc sử dụng đất đai, nâng cao năng suất cây trồng, ổn định dân cư và quản
lý tài nguyên môi trường phát triển bền vững. Theo báo cáo về công tác thủy lợi
năm 2001, toàn vùng Tây Nguyên có hệ thống các công trình hồ chứa và trạm
bơm đủ cung cấp nước tưới cho khoảng 183.849 ha đất canh tác cây nông nghiệp
và công nghiệp, so với năm 1995 gập 2,12 lần.
2.3 Giới thiệu về mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng ở Tây
Nguyên
Quan niệm về phát triển và giữ rừng gần đây mới được các cấp, các ngành
nhận thức rõ. Mất rừng ở Tây Nguyên là đánh mất thế mạnh và ảnh hưởng tích
cực của nó đối với môi trường, sinh thái. Ðiều dễ thấy trong những năm gần đây,
khí hậu Tây Nguyên diễn biến bất thường: hạn hán, lũ quét, mùa khô đến sớm và
kéo dài, nhiệt độ trung bình hằng năm tăng lên... Nhận thức rõ vai trò, tầm quan
trọng của rừng đối với sự phát triển bền vững của vùng Tây Nguyên, trong
Quyết định 168/2001/QÐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phát triển kinh tế -
xã hội Tây Nguyên 2001-2005 đã đặt ra yêu cầu "phát triển mạnh lâm nghiệp
Tây Nguyên là nhiệm vụ trước mắt và lâu dài... nâng độ che phủ lên 65% vào
năm 2010".
2.3.1 Mục tiêu của mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng
Mục tiêu của mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn các
tỉnh Tây Nguyên không nằm ngoài mục tiêu chung như chính phủ đã phê duyệt.
các hoạt động chủ yếu của dự án bao gồm: trồng và chăm sóc rừng phòng hộ và
đặc dụng, khoanh nuôi bảo vệ rừng, hỗ trợ trồng rừng sản xuất, hỗ trợ trồng trọt
37
và cải thiện sinh kế người dân vùng dự án.
- Khẳng định quyền quản lý, sử dụng đất ổn định lâu dài cho từng hộ gia
đình,cho từng cộng đồng
- Nâng cao năng lực cộng đồng trong quản lý, sử dụng và phát triển bền
vững các dạng tài nguyên thiên nhiên
- Rừng và tài nguyên rừng được bảo vệ và phát triển, từ đó môi trường
sinh thái đượccải thiện
- Củng cố, giữ gìn và phát huy những giá trị bản sắc văn hoá các dân tộc
- Tạo cơ hội và điều kiện cho cộng đồng phát triển kinh tế,góp phần cải
thiện chất lượng cuộc sống
2.3.2 Phạm vi điều chỉnh và đối tượng của việc áp dụng mô hình quản
lý rừng dựa vào cộng đồng ở Tây Nguyên theo quyết định số 304
1. Phạm vi điều chỉnh
Văn bản này quy định về đối tượng được giao rừng, khoán bảo vệ rừng;
đối tượng rừng, hạn mức giao, khoán bảo vệ rừng cho các đối tượng; quyền lợi
và nghĩa vụ của người được giao, nhận khoán bảo vệ rừng; các bước giao, khoán
bảo vệ rừng và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có liên quan.
2. Đối tượng áp dụng
Các cơ quan Nhà nước, hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng buôn, làng là
đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ ở các tỉnh Tây Nguyên.
a. Đối tượng được giao rừng, khoán bảo vệ rừng.
Là đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ thuộc những xã có rừng ở Tây
38
Nguyên, nhưng ưu tiên theo thứ tự sau:
- Những hộ gia đình, cá nhân là đồng bào dân tộc thiểu số nghèo chưa có
hoặc thiếu đất sản xuất thuộc đối tượng quy định tại Quyết định số
132/2002/QĐ-TTg ngày 08 tháng 10 năm 2002 và Quyết định số 134/2004/QĐ-
TTg ngày 20 tháng 7 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ (Sau đây gọi tắt là các
Quyết định số 132, 134), nhưng địa phương chưa bố trí được quỹ đất sản xuất
hoặc giải quyết bằng các biện pháp khác;
- Những hộ gia đình, cá nhân là đồng bào dân tộc thiểu số nghèo chưa có
hoặc thiếu đất sản xuất thuộc đối tượng quy định tại các Quyết định số 132, 134
nhưng tự nguyện nhận rừng, nhận khoán bảo vệ rừng để sản xuất, phát triển kinh
tế rừng;
- Những cộng đồng buôn, làng có hộ không có đất hoặc thiếu đất sản xuất
thuộc đối tượng quy định tại các Quyết định số 132, 134, có nguyện vọng và đủ
năng lực quản lý các khu rừng được giao, khoán bảo vệ.
b. Đối tượng rừng được giao, khoán bảo vệ.
∆ Đối tượng rừng được giao.
- Rừng sản xuất là rừng tự nhiên không thuộc rừng giầu, trung bình, không
đảm bảo cấp trữ lượng hoặc độ tàn che theo quy định (Tại điểm 2.2, Mục 2, Phần
II, Thông tư này) và rừng sản xuất là rừng trồng do Uỷ ban nhân dân cấp xã quản
lý;
- Những khu rừng trước đây là rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, nhưng sau
khi rà soát lại theo tiêu chí phân cấp rừng phòng hộ, rừng đặc dụng quy định tại
Quyết định số 61/2005/QĐ-BNN ngày 12 tháng 10 năm 2005 và Quyết định số
62/2005/QĐ-BNN ngày 12 tháng 10 năm 2005 của Bộ Nông nghiệp và Phát
39
triển nông thôn được chuyển thành rừng sản xuất và không đảm bảo cấp trữ
lượng hoặc độ tàn che theo quy định (Tại điểm 2.2, Mục 2, Phần II, Thông tư
này);
- Những khu rừng thiêng, rừng nghĩa trang, rừng bảo vệ mỏ nước của
buôn, làng là rừng sản xuất và những khu rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, nhưng
cộng đồng đã sử dụng từ trước thì điều chỉnh quy hoạch và giao cho cộng đồng;
- Diện tích đất lâm nghiệp không có rừng được quy hoạch để trồng rừng
sản xuất do Uỷ ban nhân dân cấp xã quản lý.
∆ Đối tượng rừng được khoán bảo vệ:
- Rừng đặc dụng, rừng phòng hộ hiện do các ban quản lý rừng, lâm
trường, công ty lâm nghiệp… là chủ rừng;
- Rừng sản xuất là rừng tự nhiên do các lâm trường, ban quản lý rừng,
công ty lâm nghiệp, Uỷ ban nhân dân cấp xã quản lý nhưng đang đóng cửa rừng
hoặc trong kế hoạch 5 năm tới không khai thác và tuỳ theo từng loại rừng phải
đáp ứng các điều kiện sau:
+ Rừng lá rộng thường xanh, nửa rụng lá và rừng lá kim có trữ lượng lớn
hơn hoặc bằng 130m3/ha;
+ Rừng khộp có trữ lượng lớn hơn hoặc bằng 100m3/ha;
+ Rừng hỗn giao gỗ, tre nứa, trong đó trữ lượng gỗ lớn hơn hoặc bằng
70m3/ha;
+ Rừng tre, nứa, lồ ô…có độ tàn che lớn hơn 80%.
c. Hạn mức giao rừng, khoán bảo vệ rừng
40
∆ Hạn mức giao rừng cho hộ gia đình, cá nhân
Thực hiện theo quy định tại điểm a, khoản 3 Điều 4 Quyết định số 304,
nhưng tuỳ theo điều kiện cụ thể về quỹ đất, quỹ rừng của xã được xử lý như sau:
- Nếu quỹ đất, quỹ rừng của xã lớn hơn nhu cầu của người dân thuộc đối
tượng được giao rừng thì phải ưu tiên giao những diện tích gần dân thuận lợi cho
công tác quản lý bảo vệ rừng và phát triển sản xuất.
- Nếu quỹ đất, quỹ rừng của xã thấp hơn so với nhu cầu của người dân thì
sẽ tổ chức họp dân để các hộ tự thoả thuận, trong trường hợp không thoả thuận
được thì sẽ giảm cùng một tỷ lệ để đảm bảo công bằng giữa các hộ.
∆ Hạn mức giao rừng cho cộng đồng:
Căn cứ vào quỹ đất, quỹ rừng thực tế của xã và nhu cầu để xác định quy
mô diện tích giao cho cộng đồng, nhưng tối đa không được lớn hơn tổng hạn
mức của các hộ thuộc đối tượng được giao có trong cộng đồng cộng lại ( hạn
mức giao rừng của từng hộ gia đình, cá nhân trong cộng đồng thực hiện theo quy
định tại điểm a, khoản 3 Điều 4 Quyết định số 304 ).
∆ Hạn mức khoán bảo vệ rừng
- Hạn mức khoán bảo vệ rừng cho hộ gia đình, cá nhân.
Thực hiện theo quy định tại điểm b, khoản 3 Điều 4 Quyết định số 304.
Trong trường hợp quỹ rừng của xã hoặc của chủ rừng không đáp ứng được hạn
mức tối thiểu thì giảm bớt số hộ để thực hiện giải pháp hỗ trợ khác, việc xác định
số hộ được khoán trong trường hợp này do người dân tự bình chọn trong cộng
đồng buôn, làng .
41
- Hạn mức khoán bảo vệ rừng cho cộng đồng
Căn cứ vào nhu cầu và khả năng quỹ rừng, bên giao khoán quyết định quy
mô diện tích giao khoán cho cộng đồng, nhưng phải phù hợp với điều kiện và
trình độ quản lý của cộng đồng
2.4 Vai trò của rừng đối với cộng đồng các dân tộc vùng Tây Nguyên
và các nguyên tắc quản lý rừng dựa vào cộng đồng ở Tây Nguyên
2.4.1 Vai trò của rừng đối với cộng đồng dân tộc Tây Nguyên
Đối với người Tây Nguyên, rừng không chỉ là tài nguyên, thậm chí cũng
không chỉ là "môi trường" theo nghĩa hẹp môi trường tự nhiên như ta vẫn thường
nói. Đối với họ, đơn giản và cơ bản hơn nhiều: rừng là tất cả. Rừng là toàn bộ
cuộc sống của họ, là chính bản thân họ, con người ở đây là một bộ phận hữu cơ
không thể tách rời với rừng.
Đồng bào Tây nguyên sống và bảo vệ được rừng nhờ "ăn rừng". Người
Tây Nguyên gọi làm rẫy, lấy cái ăn ra từ rừng là "ăn rừng", cũng hoàn toàn giống
như ta nói ta bú sữa mẹ, mẹ cho ta máu thịt, cho ta sự sống. Đối với họ rừng là
Mẹ. Con người của họ là một phần khăng khít của Mẹ rừng.
Luật tục người Tây Nguyên xử phạt rất nặng đối với ai phạm vào tội phá
rừng, ngay cả việc phát rừng làm rẫy. Bà con không bao giờ đụng đến rừng đầu
nguồn, rừng nguyên sinh, vì đồng bào quan niệm rừng có thần linh và rừng gắn
với văn hóa.
Trước hết, rừng là không gian sinh tồn của các dân tộc Tây Nguyên.
Không một buôn, làng nào tách biệt khỏi rừng, đất rừng. Rừng không chỉ cung
cấp cho cuộc sống hằng ngày mà còn là nền tảng của sản xuất, là văn hóa trong
42
cuộc sống của đồng bào.
Rừng không chỉ là không gian, rừng còn là thời gian. Con người ở đây lấy
không gian rừng để đo thời gian, để tính nhịp sống của mình. Đời sống con
người nhịp nhàng với vòng tuần hoàn vĩnh cữu của tự nhiên, cụ thể là của rừng.
Không gian - thời gian rừng ấy là không-thời gian tương đối của từng làng. Làng
là đơn vị sống cơ bản của con người trong không-thời gian đó.
Người Tây Nguyên làm rẫy, khác với những nhận định vội vàng - nhưng
đây lại là căn cứ cho những chủ trương chính sách lớn, hoàn toàn không du canh
du cư. Hãy xem những ngôi nhà Rông hùng vĩ của người Bana, Xơđăng, những
ngôi nhà dài đầy ấn tượng của người Êđê... Rõ ràng đấy không phải là kiến trúc
của những tộc người nay đây mai đó.
Người Tây Nguyên cũng không du canh mà luân canh - phương pháp canh
tác thích hợp trên đất dốc. Họ dùng lối hỏa canh sản xuất trên một khoảnh rẫy
trong vài ba năm rồi chuyển sang khoảnh khác, để khoảnh đất trước hưu canh
trong nhiều chục năm, thừa sức hồi phục thành rừng, trước khi quay trở lại đó.
Đấy là cách tốt nhất để vừa lấy được cái ăn ra từ rừng vừa nuôi rừng, trong điều
kiện mật độ dân số không quá cao. Tức con người ở đây lấy ra cái ăn từ đất rừng,
rồi lại trả đất lại cho rừng, hoàn nguyên rừng.
Cuộc sống của con người Tây Nguyên là một cuộc sống tuân theo và
khăng khít với nhịp điệu tuần hoàn của rừng. Như vậy, có thể nói rừng là trung
tâm của nhân sinh quan, và vũ trụ quan của họ. Văn hóa Tây Nguyên là văn hóa
rừng. Người Tây Nguyên không bao giờ phá rừng. Đối với họ, phá rừng cũng là
tự sát. Còn nặng nề hơn cả tự sát theo nghĩa vật chất nữa. Mất rừng là tha hóa, là
43
không thể còn là con người. Nếu ngày nay, họ không còn đủ đất để sống, buộc
phải phá rừng để kiếm miếng ăn cuối cùng, thì đó là con đường bế tắc mà họ
không bao giờ muốn.
Một trong những đặc điểm quan trọng nhất của tổ chức xã hội truyền
thống ở Tây Nguyên vai trò của làng. Ở Tây Nguyên, đơn vị cơ bản và duy nhất
của xã hội truyền thống là Làng. Chính vì lẽ này mà nó chưa đủ đáp ứng cho
quan hệ sản xuất thuộc các hình thái tổ chức như nông, lâm trường, trang trại, hộ
gia đình... Cơ sở vật chất quan trọng nhất của cộng đồng làm nên nền tảng của xã
hội Tây Nguyên đó là quyền sở hữu của cộng đồng làng đối với đất và rừng.
Ở Tây Nguyên, rừng núi mênh mông là vậy, nhưng không có nơi nào là vô
chủ. Từng mẩu đất, từng khu rừng cụ thể đều có chủ cụ thể mà người chủ cụ thể
đó là từng cộng đồng làng cụ thể. Mỗi làng đều có ranh giới cụ thể, từ con nước
nào đến con nước nào, tảng đá nào đến sườn đồi nào, ngọn đèo nào đến chân dốc
nào... Ranh giới đó đã được quy định từ ngàn đời, và được ghi nhận trong những
quy định rõ ràng được mọi người công nhận và được truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác.
Có điều cần hết sức chú ý là không gian ấy không chỉ gồm có đất thổ cư,
mà còn bao gồm toàn bộ đất rừng sản xuất, nơi dân làng làm rẫy luân canh, và cả
những khu rừng thiêng có quan hệ đến đời sống tâm linh của dân làng. Toàn bộ
đất và rừng đó là không gian sinh tồn của làng, thiếu nó thì làng không còn là
làng.
Sở hữu tập thể về đất và rừng của cộng đồng làng được duy trì và quản lý
bằng một hệ thống luật tục mà người gìn giữ, điều hành là một hội đồng già làng
gồm những người am hiểu đất đai, rừng núi, phong tục tập quán, kinh nghiệm
44
sản xuất, có đức độ và uy tín, được dân làng tín nhiệm cử ra. Đất và rừng trong
không gian của làng được hội đồng già làng phân cho các hộ để canh tác, sinh
sống và gìn giữ theo những quy định chặt chẽ đã được ghi trong các luật tục.
Đất làng, ranh giới của nó và sự trong sạch của nó là thiêng liêng, không
ai được xâm phạm, làm ô uế. Đất làng bị xâm phạm và làm ô uế là nỗi nhục to
lớn nhất đối với cộng đồng làng, phải bị trừng trị nghiêm khắc...
Chiến tranh trong suốt thế kỷ qua đã lay chuyển dữ dội xã hội Tây
Nguyên, nhưng về cơ bản không phá vỡ được cơ chế xã hội đặc sắc này của Tây
Nguyên, chứng tỏ sức sống bền bỉ ở đây. Kết cấu chặt chẽ của cộng đồng làng
chính là một trong những nhân tố sức mạnh quan trọng để con người ở đây đứng
vững qua những thử thách khốc liệt.
45
2.4.2 Nguyên tắc quản lý rừng dựa vào cộng đồng ở Tây Nguyên
Dựa vào vai trò của già làng, trưởng Dựa vào Luật đất đai của nhà nước
họ Việt Nam
Dựa vào các luật tục quy định của Dựa vào các Nghị định: QĐ 178, QĐ
các dân tộc trong bố trí, quản lý sử 304
dụng tài nguyên thiên nhiên Dựa vào quy định của nhà nước về
Dựa vào những tri thức bản địa các chức năng, quyền hạn các cơ quan
dân tộc chức năng của nhà nước
Các
vướng Dựa vào luật tục Lồng ghép các luật mắc, mâu truyền thống và kinh chính thống của nhà thuẫn liên nghiệm bản địa các nước, của địa phương quan đến cấp tỉnh giao đất, Dựa vào sự tham gia
Chú trọng đến vai trò giao rừng của mọi thành phần
người phụ nữ được giải người dân trong và
quyết
triệt để Mỗi một thành viên trong Người phụ nữ được
cộng đồng đều được biết, khuyến khích tham gia
được bàn, được thống nhất vào tất cả các hoạt động
và được quyết định giao đất, giao rừng
Mỗi thành viên đều tự Giấy chứng nhận quyền
nguyện tham vào tất cả quá sử dụng đất có mang tên
trình giao đất, giao rừng người phụ nữ
46
2.1 nguyên tắc quản lý rừng cộng đồng ở Tây Nguyên
2.5 Thực trạng triển khai và áp dụng mô hình quản lý rừng dựa vào
cộng đồng ở vùng Tây Nguyên
2.5.1 Tiến trình triển khai mô hình
Tiếp cận có sự tham gia của cộng Giao đất rừng cho
đồng: xác định khu vực giao,
phương thức giao và tổ chức quản lý
Lập kế hoạch Đánh giá tài
quản lý rừng dựa nguyên rừng
vào cộng đồng có sự tham
gia
Dựa vào mong muốn
truyền thống của cộng
đồng và luật pháp
Cải cách thủ tục hành
chính thích ứng với quản
lý rừng dựa vào cộng đồng
Chính sách Dựa vào quy
hưởng lợi từ ước của cộng
các rừng đồng cộng đồng dân cư thôn, bản Lập kế hoạch quản lý rừng 5 năm và hàng năm Xây dựng và thực hiện quy ước bảo vệ và phát triển rừng dựa vào cộng đồng Xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện giám sát Cơ chế hưởng lợi và phân chia lợi ích
47
2.2.tiến trình triển khai mô hình CBFM tại Tây Nguyên
Bước 1: Thực hiện triển khai việc giao đất giao rừng cho cộng đồng
người dân
Giao đất giao rừng cho cộng đồng được thực hiện trên hai cơ sở quan
trọng đó là bản quy hoạch sử dụng đất và kế hoạch quản lý rừng cộng đồng dựa
trên cách tiếp cận có sự tham gia của người dân trong quá trình tiến hành xác
định khu vực giao, phương thức giao và tổ chức quản lý
Bước 2: Lập kế hoạch quản lý rừng 5 năm và hàng năm:
dựa vào bản quy hoạch lâm nghiệp của xã, các thôn bản tiến hành lập kế
hoạch quản lý rừng cộng đồng bằng phương pháp PRA. Nội dung của bản lập kế
hoạch quản lý rừng dựa vào cộng đồng bao gồm: đánh giá tài nguyên rừng có sự
tham gia của người dân; xây dựng mục tiêu quản lý cho từng khu rừng cộng
đồng được giao; các giải pháp kỹ thuật; xây dựng quy chế quản lý; xây dựng cơ
chế nghĩa vụ và quyền hưởng lợi; lập kế hoạch thực hiện, giám sát và đánh giá.
Bước 3: Xây dựng quy ước bảo vệ và phát triển rừng cộng đồng
- Quy ước bảo vệ và phát triển rừng trong cộng đồng dân cư thôn, bản
vừa là công cụ hữu hiệu để quản lý bảo vệ rừng, đồng thời cũng là một bước
thực hiện có hiệu quả quy chế dân chủ cơ sở, cho nên được sự đồng tình ủng hộ,
quan tâm của các cấp chính quyền và sự tham gia nhiệt tình của người dân và
cộng đồng;
- Nơi nào cấp uỷ, chính quyền địa phương quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và
được
người dân tự nguyện tham gia xây dựng quy ước thì nhận thức và trách
nhiệm của mỗi thành viên trong cộng đồng thôn, bản được nâng cao và ở nơi đó
48
việc tổ chức thực hiện quy ước tốt;
- Xây dựng và thực hiện quy ước tạo điều kiện cho đồng bào, nhất đồng
bào vùng sâu, vùng xa duy trì và phát huy bản sắc dân tộc tốt đẹp từ lâu đời
trong cộng đồng.
Bước 4 : Xây dựng kế hoạch thực hiện giám sát:
Đây là một bước khá quan trọng trong việc thực hiện mô hình CBFM bởi
về bản chất thì việc quản lý là từ trên xuống tức là từ chính phủ đến cộng đồng
dân cư. Cơ chế quản lý này thông qua khá nhiều khâu vì vậy phải có một kế
hoach thực hiện giám sát việc quy hoạch, phân chia đất cũng như nguồn vốn, tài
chính, kỹ thuật từ trên xuống một cách chặt chẽ tránh tình trạng tham ô, quan
liêu, sử dụng đất sai mục đích.
Bước 5 : Cơ chế hưởng lợi và phân chia lợi ích
- Căn cứ trạng thái rừng khi giao, các chủ rừng phối hợp với Uỷ ban nhân
dân cấp xã xây dựng phương án phân chia hưởng lợi sản phẩm từ rừng cụ thể
cho hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng buôn, làng trình Uỷ ban nhân dân cấp
huyện phê duyệt;
- Căn cứ vào hiện trạng rừng khi giao khoán và mức tăng trưởng của rừng
( mức tăng trưởng rừng bình quân 1 năm ở các tỉnh Tây Nguyên từ 1,5- 2%),
các chủ rừng xây dựng phương án phân chia hưởng lợi sản phẩm từ rừng cho
từng đối tượng nhận khoán, tổng hợp trình Uỷ ban nhân cấp tỉnh phê duyệt.
2.5.2 Các mô hình được triển khai
Dự án có 4 hợp phần chính: (1) Mô hình nâng cao năng lực cộng đồng
49
trong quản lý rừng tự nhiên; (2) Mô hình các tổ tuần tra của thôn, bản; (3) Mô
hình tuyên truyền cộng đồng trong bảo tồn thiên nhiên; (4) Mô hình du lịch dựa
vào cộng đồng.
Mô hình nhóm tuần tra địa phương
Mô hình này nhằm phục vụ cho việc thiết lập một số nhóm tuần tra địa
phương phối hợp với các phòng ban liên quan để đạt hiệu quả cao trong việc
quản lý và bảo vệ rừng. Mười nhóm tuần tra của 10 thôn trong xã Phong Mỹ
được thành lập với thành phần chính là cán bộ công an và dân phòng địa
phương. Nhóm tuần tra địa phương chịu trách nhiệm tuyên truyền về bảo vệ
rừng, bảo tồn đa dạng sinh học và phòng chống cháy rừng. Các nhóm sẽ đi tuần
ít nhất một tuần một lần; phối hợp với ban quản lý Rừng và khu Bảo tồn cũng
như Ủy ban nhân dân xã trong các hoạt động tuần tra nếu cần thiết. Ngoài ra, các
nhóm này còn ngăn chặn các hoạt động phạm pháp như đốt rẫy, khai thác các
sản phẩm rừng mà không có giấy phép và phối hợp với các nhóm của vùng lân
cận thực hiện hoạt động bảo vệ liên thôn. Hàng tháng, các nhóm này sẽ viết báo
cáo về các hoạt động của họ và hiện trạng tài nguyên rừng cho Ủy ban nhân dân
xã và ban quản lý rừng địa phương.
Thành viên của nhóm tuần tra được trang bị đồng phục, áo mưa, giầy, dao
đi rừng, đèn pin, võng ... và 50,000 đồng trợ cấp hàng tháng trong mùa cao điểm
(mùa nắng và nóng, thường vào 6 tháng từ tháng 4 đến tháng 9). Ngoài ra, các
nhóm có thể được nhận trợ cấp thêm từ các nguồn bên ngoài theo quyết định Ủy
ban nhân dân hoặc ban quản lý Khu bảo tồn cũng như các khoản tiền thưởng
trích từ mỗi hoạt động cụ thể trong phạm vi cho phép của Nhà nước (nếu có).
Tuy nhiên, các thành viên của nhóm tuần tra địa phương vẫn gặp phải một số
50
khó khăn, ví dụ như khi phạt những người sống cùng làng, thiếu hỗ trợ về tài
chính, đời sống khó khăn. Do đó, chính quyền vẫn chưa khuyến khích được
người dân tham gia các nhóm này. Mặc dù số lượng người tham gia không nhiều
(5 người/thôn), sự hiệu quả cũng như ảnh hưởng từ các nhóm tuần tra này đa
thực sự mang lại ý nghĩa tích cực như: (i) hạn chế vi phạm trong việc khai thác
các sản phẩm từ rừng và săn bắt thú trong khu vực rừng tự nhiên do cộng đồng
quản lý, do đó bảo vệ tốt hơn khu vực rừng được giao; (ii) tạo ra sinh kế cho
người tham gia giúp tăng thêm thu nhập và xoá nghèo.
Mô hình giáo dục cộng đồng
Mô hình này nhằm thực hiện tốt hơn việc giáo dục về quản lý và bảo vệ
rừng và bảo tồn thiên nhiên ở địa phương thông qua các hoạt động sinh hoạt
cộng đồng tại các buôn. Tại đây thì các già làng trưởng bản sẽ là những người
tuyên truyền, phổ biến giáo dục cho người dân trong buôn của mình. Các nhóm
này thường tổ chức các hoạt động chính như xây dựng và tổ chức các hoạt động
giáo dục về bảo tồn. câu lạc bộ tình nguyện tổ chức các hoạt động như thi kiến
thức, chiếu phim, báo cáo qua ảnh cho học sinh tại các trường học ở thôn bản;
các hoạt động bảo tồn thiên nhiên, thông qua hoạt động sinh hoạt của cộng đồng
thôn bản, tập trung vào giới trẻ với các hoạt động như tuyên truyền về bảo vệ
rừng, phong trào ca hát, khám phá rừng với người dân trong thôn. Trong khi đó,
câu lạc bộ Thiên nhiên cho sự sống ở Quảng Điền lại tập trung vào việc phát
triển mô hình sản xuất, quỹ vay vốn, tuyên truyền về quản lý và bảo vệ rừng, bảo
tồn đa dạng sinh học, hội làng, các quy định về bảo vệ rừng cho người dân địa
phương. Việc tổ chức các hoạt động đó phần nào góp phần giải quyết vấn đề
sinh kế và giảm áp lực đối với rừng, mô hình này đa thực sự có những tác động
trực tiếp đến người dân và khu vực nghiên cứu, đó là: (i) Nâng cao nhận thức của
51
người dân, khuyến khích người dân thay đổi hành vi tiêu cực, (ii) nâng cao năng
lực, kỹ năng cũng như tích cực tham gia bảo vệ rừng nhằm cải thiện đời sống và
bảo vệ thiên nhiên ở địa phương.
Mô hình sản xuất ở vài cấp đa góp phần nâng cao năng lực của người dân
trong việc giải quyết vấn đề sinh kế của bản thân. Ví dụ như, hỗ trợ 3000 cây ca
cao con cho người dân để làm vườn trường mẫu giáo thôn, 200 cây cao su được
trồng thí điểm ở khu vực rừng được giao và 200 cây giống tiêu đã được giao cho
5 hộ trồng trong vườn nhà. Hoạt động quan trọng nhất mà mô hình hỗ trợ là tổ
chức các lớp tập huấn về tái trồng rừng, chăn nuôi và chăm sóc cây trồng (cao
su…)
Nói cách khác, mô hình tuyên truyền cộng đồng bước đầu đã tạo ra một
mạng lưới tuyên truyền trong cộng đồng về bảo tồn và quản lý rừng tại khu các
khu rừng và đã thu hút được sự chú ý của người dân, đặc biệt là sự hỗ trợ từ
chính quyền các cấp, các phòng ban, các cơ quan chuyên môn và sự tham gia của
mọi tầng lớp xã hội. Mô hình này cũng không chỉ giúp nâng cao nhận thức của
người dân địa phương mà của cả những người dân vùng lân cận. Tuy nhiên, các
câu lạc bộ đó sẽ gặp nhiều khó khăn do các hoạt động của họ sẽ không còn được
hỗ trợ tài chính sau khi dự án kết thúc. Ngoài ra, những khó khăn về đời sống
cũng như sự hỗ trợ chưa thích hợp cũng là những lý do của việc tham gia thiếu
nhiệt tình. Đây cũng là một thách thức đối với dự án khi xây dựng mô hình này.
Mô hình phát triển du lịch dựa vào cộng đồng
Với mục đích giúp cộng đồng địa phương quản lý, khai thác và sử dụng tài
nguyên thiên nhiên bền vững và cải thiện mức sống, mô hình khu du lịch sinh
52
thái tại buôn Đôn nơi có vườn quốc gia York Don, khu rừng khộp Cư Min được
xây dựng trên 200 ha của khu vực rừng tự nhiên đa được giao với một ban quản
lý gồm 5 thành viên do cộng đồng bầu ra. Ban quản lý có trách nhiệm quản lý cơ
sở hạ tầng của mô hình du lịch này, tổ chức các hoạt động du lịch để tạo thu
nhập cho hoạt động của chính mình và đóng góp cho việc phát triển du lịch ở địa
phương. Tuy nhiên, nguồn thu nhập này chỉ đủ để duy trì hoạt động của ban
quản lý và trả khoản vay sử dụng cho việc xây dựng một số cơ sở hạ tầng cần
thiết ở khu du lịch. Nguồn thu nhập chính là từ bán vé, trông xe và dịch vụ ăn
uống cho học sinh, sinh viên trong ba tháng hè. Mô hình này đã thu hút 100% hộ
dân tham gia. Ngoài việc giám sát các hoạt động của Ban quản lý (thu và chi,
bảo vệ khu du lịch...), người dân trực tiếp tham gia vào việc quản lý và bảo vệ
rừng tự nhiên, một phần là để hưởng lợi từ 200 ha diện tích rừng tự nhiên được
giao và một phần là để quản lý tốt hơn tài nguyên thiên nhiên ở địa phương. Ban
đầu, mặc dù người dân vẫn chưa được hưởng lợi từ mô hình này do các hoạt
động này chưa tạo đủ nguồn thu nhập chính, song họ nâng cao được nhận thức
về bảo tồn thiên nhiên, phát triển văn hoá bản địa. Do đó, họ có cơ hội để tăng
thu nhập trong tương lai.
2.5.3 Kết quả thực hiện mô hình
Để thực hiện chính sách quốc gia về xã hội hoá lâm nghiệp và hài hoà hoá
giữa bảo tồn và phát triển, xây dựng mô hình quản lý phù hợp và bền vững với
sự tham gia của nhiều tầng lớp xã hội, đặc biệt là cộng đồng địa phương trong
quản lý tài nguyên thiên nhiên, trên cơ sở để xuất của chi cục lâm nghiệp các
tỉnh thuộc vùng Tây Nguyên, Căn cứ Quyết định số 304/2005/QĐ-TTg ngày 23
tháng 11 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc thí điểm giao rừng, khoán
bảo vệ rừng cho hộ gia đình và cộng đồng trong buôn, làng là đồng bào dân tộc
53
thiểu số tại chỗ ở các tỉnh Tây Nguyên ( sau đây gọi tắt là Quyết định số 304 )
nhằm xây dựng mô hình hợp tác giữa cộng đồng và các đơn vị liên quan cũng
như thúc đẩy ứng dụng kiến thức bản địa vào phát triển quản lý rừng bền vững
dựa vào cộng đồng. QÐ 304 về công tác giao rừng, khoán bảo vệ rừng trên địa
bàn Tây Nguyên đã triển khai được hơn hai năm. Ðối tượng được hưởng lợi theo
Quyết định này là các hộ gia đình và cộng đồng đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ
thiếu đất sản xuất ở các tỉnh Ðắk Lắk, Lâm Ðồng, Ðắk Nông, Gia Lai, Kon Tum.
Qua khảo sát, để đáp ứng nhu cầu nói trên cần 262.492 ha, tương ứng với 10.687
hộ. Song căn cứ vào thực tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã thống
nhất với các địa phương chỉ tập trung thực hiện thí điểm đối với các hộ thiếu đất
sản xuất theo Quyết định 132, 134 và số lượng cần là 109.324 ha, trong đó giao
rừng là 37.437 ha, khoán rừng là 71.851 ha cho 5.940 hộ. Theo lãnh đạo Bộ NN
và PTNT: Năm tỉnh Tây Nguyên đã giao và khoán bảo vệ rừng được gần 68
nghìn ha cho 4.442 hộ và giúp đỡ cho các hộ nhận khoán bằng hình thức hỗ trợ,
như: hỗ trợ gạo, cây giống trồng rừng, tiền công nhận khoán. Tỉnh Lâm Ðồng là
địa phương thực hiện tốt nhất, đạt 100% kế hoạch với 1.672 hộ đã nhận khoán
bảo vệ 21.569 ha.
Đắk Lắk đã thực hiện việc giao đất, giao rừng cho cộng đồng, hộ gia đình
hưởng lợi 26.575 ha, trong đó đất có rừng tự nhiên là 17.438 ha. Cụ thể, giao hộ
gia đình 1081hộ, giao cho nhóm hộ 55 nhóm (598 hộ), giao cho cộng đồng 20
cộng đồng (1.811hộ)
Gia Lai chỉ mới tiến hành xây dựng phương án triển khai thí điểm theo hai
đợt, trong đó dự kiến giao rừng cho 957 hộ ở 44 thôn, làng với diện tích 1.467
ha, khoán rừng cho 1.561 hộ ở 140 thôn, làng và 66 cộng đồng với diện tích
54
40.522 ha. Và đến nay chỉ mới giao được hơn 4.392 ha cho 185 hộ, khoán rừng
cho 292 hộ... với kết quả này, tỉnh Gia Lai là tỉnh đạt tỷ lệ quá thấp so với yêu
cầu đề ra.
Bảng 2.5 Diện tích rừng được giao tại các tỉnh Tây Nguyên
Đơn vị: ha
Diện tích rừng được giao Tên tỉnh
Gia Lai 4.932
Lâm Đồng 21.569
Đắk Lắk 26.575
Đắk Nông 9.732
Kon Tum 8.657
Nguồn: Cục Lâm Nghiệp, 2005
Nhìn chung việc giao đất, giao rừng cho cộng đồng, hộ gia đình chủ yếu
để quản lý bảo vệ, diện tích rừng đã giao ít bị phá, bị cháy, việc đầu tư trồng
thêm rừng rất hạn chế. Các hộ không tham gia dự án là những hộ không có thời
gian và lao động. Có 4.442 hộ tham gia dự án sau khi dự án triển khai, nhưng
việc nâng cao năng lực của cộng đồng trong việc quản lý rừng bền vững đa góp
phần quan trọng trong việc thực thực hiện việc giao đất giao rừng. Rừng tại nơi
dự án triển khai mô hình chủ yếu là rừng nghèo và trung bình.
- Tổ chức các cuộc họp cấp xã, thôn, bản buôn để vừa nhằm mục đích giáo
dục tuyên truyền các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về việc quản
55
lý rừng cho người dân, vừa để người dân được quyền đưa ra những ý kiến và
bình bầu ra một lực lượng tuần tra kiểm tra hoạt động quản lý rừng của cộng
đồng. Có 1.500 bản quy ước ở thôn, buôn của tỉnh Ðắk Lắk đều đề cập đến rừng,
phát triển và bảo vệ rừng. Tỉnh Lâm Ðồng đã có 225 thôn, buôn triển khai quy
ước bảo vệ phát triển rừng (BVPTR) với sự tham gia của người dân. Xây dựng
quy ước BVPTR là một chính sách phù hợp với việc đổi mới cơ chế quản lý theo
hướng xã hội hóa nghề rừng, nó phát huy vai trò tự nguyện và tính dân chủ trong
dân, được cấp ủy đảng, chính quyền cơ sở quan tâm, ủng hộ và nó mang lại lợi
ích thiết thực, làm cho mọi người phấn khởi khi tham gia bảo vệ rừng, nhất là
sau khi được giao đất, giao rừng, khoán bảo vệ rừng.
- Uỷ ban nhân dân cấp xã xây dựng phương án và thực hiện giao đất, giao
rừng cho cộng đồng tại các buôn, làng và trình Uỷ ban nhân dân cấp huyện phê
duyệt. Sau đó lập biên bản bàn giao rừng cho cộng đồng và những hợp đồng giao
khoán cho cộng đồng. tức những khu rừng giao cho cộng đồng sẽ được chính
thức hóa và hợp pháp hóa.
2.6 Những vấn đề đặt ra trong quản lý rừng dựa vào cộng đồng ở Tây
Nguyên
Thời gian trước đây dân số ít, nhu cầu sinh kế của người dân chưa lớn,
chưa đa dạng vì thế nguồn tài nguyên rừng về cơ bản có thể đáp ứng được. Bên
cạnh đó, trong các cộng đồng dân tộc thiểu số việc quản lý tài nguyên rừng có sự
trợ giúp đắc lực của các định chế, luật tục truyền thống trong cộng đồng và trong
một thời gian dài trước đây chúng đã phát huy hiệu quả tốt do vậy mà tài nguyên
rừng được bảo vệ một cách tương đối tốt. Nhưng hiện nay, nhu cầu của người
dân tăng cao, sự phát triển mạnh về dân số, vấn đề di dân tự do, khai phá đất
56
rừng trồng cây công nghiệp đã làm suy giảm cả về số lượng và chất lượng tài
nguyên rừng. Chính điều đó đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sống,
các tác dụng có lợi khác của tài nguyên rừng và ảnh hưởng nghiêm trọng đến
nhận thức, cách đối xử của người dân với tài nguyên rừng. Có thể nhận thấy một
số nguyên nhân cơ bản tác động làm suy giảm tài nguyên rừng về số và chất
lượng:
- Rừng và đất rừng thuộc quyền quản lý của Doanh nghiệp nhà nước
(180.355 ha), Ban quản lý rừng phòng hộ (196.863 ha) của UBND (301.531 ha),
nhưng trong thực tế trước áp lực về tạp quán canh tác của đồng bào dân tộc thiểu
số và nhu cầu về lương thực nên nhiều diện tích rừng bị phá để lấy đất canh tác.
- Đất canh tác nương rẫy chưa được quy hoạch sử dụng triệt để và chưa
đúng mục đích;
- Cộng đồng dân cư sống trong rừng, gần rừng, đặc biệt là người dân tộc
thiểu số sinh kế phụ thuộc lớn vào tài nguyên rừng, nhưng lại thiếu các hướng
dẫn quản lý sử dụng rừng hợp lý nên đã có những tác động tiêu cực vào vốn
rừng;
- Vấn nạn khai thác gỗ, săn bắn trái phép vẫn đang diễn ra;
- Diện tích rừng qua khai thác chưa được tái đầu tư đúng mức để phục hồi,
nuôi dưỡng một cách đầy đủ và đúng qui trình kỹ thuật;
- Khó khăn lớn nhất là luật pháp, chính sách chưa phù hợp, chưa công
nhận cộng đồng là một chủ thể có đầy đủ tư cách pháp nhân để được hưởng các
quyền lợi về giao đất giao rừng, về vay vốn tín dụng ...Song việc này đang được
57
nhà nước quan tâm và giải quyết trong một tương lai không xa.
- Các phương pháp luận, các quy trình các hướng dẫn và các thành quả về
quy hoạch sử dụng đất, giao đất giao rừng, xây dựng kế hoạch thôn bản, về xây
dựng quy chế, về chính sách hưởng lợi của các dự án (Sông sê san, ) là rất khác
nhau và chỉ có tác dụng đối với từng địa phương, chưa được thể chế hoá trên
phạm vi toàn quốc để tạo ra một cái khung áp dụng trên diện rộng.
Mặt khác những phương pháp luận, các quy trình, hướng dẫn nêu trên
nhìn chung là phù hợp, nhưng việc triển khai thực hiện trong thực tế chưa tốt
không theo đúng phương pháp, theo đúng các bước tiến hành. Ví dụ người dân
chưa thật sự tham gia, hay chưa tham gia đầy đủ vào tiến trình giao đất giao
rừng, do hạn chế về ngôn ngữ, về dân trí, do triển khai quá vội, do thiếu cán bộ
có kỹ năng tiếp cận với dân ...
- Nhiều vấn đề về chính sách chưa được thống nhất như: đối tượng rừng
giao cho cho cộng đồng, điều kiện cộng đồng được giao đất giao rừng; thời hạn,
hạn mức giao; tỷ lệ hưởng lợi, trong khi sản phẩm từ rừng bán rất ít. Hỗ trợ dân
sau khi giao đất giao rừng gồm rất nhiều nội dung, có làm như đã trình bày ở
trên nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu để cộng đồng có đủ điều kiện quản lý bảo
vệ rừng, xây dựng và sử dụng rừng có hiệu quả.
- Một số quy trình kỹ thuật, quy chế của Nhà nước chỉ phù hợp với các
doanh nghiệp, không áp dụng được đối với cộng đồng ví dụ phương pháp đo
đếm, đánh giá tài nguyên; quy trình lâm sinh; quy trình, quy chế khai thác gỗ
(đường kính tối thiểu khai thác quá lớn, luân kỳ khai thác quá dài, tiêu chuẩn
rừng đưa vào khai thác cao...).
- Tổ chức và đội ngũ cán bộ địa phương chưa đáp ứng được cả về số
58
lượng và chất lượng, đặc biệt là lâm nghiệp xã và khuyến lâm.
CHƯƠNG III: ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA MÔ HÌNH QUẢN LÝ RỪNG
59
DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG TẠI VÙNG TÂY NGUYÊN
3.1 Đánh giá hiệu quả của mô hình
3.1.1 Đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội:
Sau khi mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng được triển khai theo
nghị định 304 của chính phủ đã có những tác động tích đến quá trình phát triển
kinh tế xã hội cho các tỉnh Tây Nguyên, nhất là những vùng đồng bào dân tộc
thiểu số.
a. Tác động đến thu nhập và sinh kế người dân:
+ Theo QÐ 178, quyền người dân được giao, thuê, nhận khoán rừng và đất
lâm nghiệp, được hưởng lợi từ những diện tích nhận khoán. Các sản phẩm người
nhận khoán được hưởng là gỗ cho nhu cầu làm nhà mới, sửa chữa nhà cũ, gỗ đến
chu kỳ khai thác sau khi đã đóng thuế và nhữnglâm sản phụ trên diện tích nhận
khoán (trừ những động, thực vật nằm trong danh mục động, thực vật quý hiếm
theo quy định của Chính phủ, Công ước quốc tế CITES).
Ngoài ra người nhận khoán còn có quyền sử dụng một phần (10%) diện
tích đất lâm nghiệp chưa có rừng để sản xuất. Sau QÐ 178, QÐ 304 quy định cụ
thể hơn đối với đồng bào dân tộc thiểu số thuộc diện nghèo, người nhận khoán
rừng được hưởng lợi toàn bộ sản phẩm trên diện tích rừng được giao, ngoài ra
còn được hỗ trợ giống cây lâm nghiệp, hỗ trợ sản xuất nông nghiệp theo chính
sách khuyến lâm, khuyến nông, hỗ trợ lương thực, năm triệu đồng làm nhà ở,
năm triệu đồng để khai hoang diện tích đất sản xuất nông nghiệp, 400 nghìn
đồng xây dựng bể nước sinh hoạt cùng nhiều chính sách ưu đãi khác. Ðây là một
bước tiến nhằm gắn bó người Tây Nguyên với rừng. Quyết tâm này của Chính
phủ cũng nhằm lấy lại mầu xanh cho rừng.
60
+ từ hoạt động khai thác gỗ và lâm sản ngoài gỗ:
Việc tạo nguồn thu từ lâm sản được tiến hành dựa vào quy chế lợi ích
được ban hành trước khi giao đất lâm nghiệp (mức độ hưởng lợi dựa trên tỷ lệ %
phát triển vốn rừng). Kế hoạch hoạt động do thôn xây dựng với sự đồng thuận
của các ban ngành liên quan. Trong tương lai, người dân địa phương có thể thu
lợi nhiều khi mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng được triển khai tốt hơn.
Sau khi nhận thức được điều này, cộng đồng tích cực hơn trong việc nhận rừng
để tạo nguồn thu trong tương lai. Việc khai thác lâm sản trái phép không còn tồn
tại do rừng được cộng đồng kiểm soát và điều đó đa làm cho rừng phát triển tốt
hơn. Nó không chỉ đẩy nhanh thời gian khai thác rừng mà còn đẩy nhanh thời
gian phục hồi rừng góp phần bảo vệ nguồn nước và môi trường sinh thái. Hoạt
động săn bắt động vật hoang dã, phá rừng làm nương rẫy và cháy rừng không
xảy ra thường xuyên như trước đây. Ta có thể thấy được hiệu quả của việc khai
thác này qua sơ đồ sau phân chia lợi ích từ hoạt động khai thác gỗ của bon Bu
61
Nơr, xã Quảng Tâm, huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông
Mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng Cộng đồng được hưởng phần tăng trưởng 5 năm
Lượng gỗ khai thác: Số cây: 460 cây (396sóng, 64 cam) - 476 m3
Tổng thu: 668,122,000 VND
Chi phí: 141,486,780 -Dân chặt, vệ sinh: 17,700,000 - Vận xuất: 123,786,780 Thuế tài nguyên 15 – 25%: 103,127,754
Tổng thu nhập sau thuế, chi phí: 423,507,466
Cộng đồng Bu Nor 90%:
Toàn bộ các hộ: 338,215,844
Mỗi hộ: 3,773,829
UBND xã Quảng Tâm 10%: 42,350,747
BQL rừng CĐ 6,000,000
Quỹ thôn 10%: 36,940,875
3.1 Mô hình phân chia lợi ích từ khai thác gỗ và lâm sản ngoài gỗ tại thôn
62
Bunor
Do vậy có thể thấy hoạt động khai thác gỗ và lâm sản ngoài gỗ đã mang
lại một nguồn thu nhập đáng kể cho người dân nơi đây. Ngoài ra cộng đồng dân
tộc nơi đây còn được hưởng những hỗ trợ về mặt tài chính từ chính sách của
đảng và nhà nước cũng như những dự án liên quan. Thu nhập của người dân Tây
Nguyên tính theo đầu người đã tăng từ 390.000 ngàn đồng/tháng (2004) lên
552.000 ngàn đồng/tháng (năm 2006). Cuộc sống người dân đã trở nên bớt
nghèo, một số hộ đã trở nên khấm khá hơn khi biết kết hợp giữa chăn nuôi và
lâm nghiệp trên khu đất rừng và rừng được giao theo mô hình quản lý rừng dựa
vào cộng đồng. một ví dụ điển hình là một dự án chăn nuôi bò thịt dưới tán rừng
ở xã Cư M'lan (huyện Ea Súp) do Viện Khoa học kỹ thuật nông - lâm nghiệp
Tây Nguyên, Sở Khoa học - Công nghệ (Ðác Lắc) và UBND huyện Ea Súp phối
hợp triển khai, bước đầu đã đạt được những mục tiêu đề ra, đem lại hiệu quả
kinh tế thiết thực cho người dân ở đây.
Theo đánh giá của Viện Khoa học kỹ thuật nông - lâm nghiệp Tây Nguyên
mặc dù dự án chưa kết thúc nhưng đến nay đã có thêm 43 mô hình chăn nuôi bò
dưới tán rừng trên địa bàn huyện Ea Súp được hình thành từ việc học tập và làm
theo mô hình của dự án Cư M'lan. Ðiều này cho thấy hiệu quả thiết thực và sức
lan tỏa mà dự án mang lại, thu nhập của các hộ tham gia dự án cao hơn trước đây
khoảng 30%. Ngoài ra, dự án trang bị kiến thức chăn nuôi cho các hộ tham gia,
từ đó tạo được niềm tin cho người dân trong vùng để họ sẵn sàng tiếp nhận và
ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào chăn nuôi. Chính những hoạt động giao lưu
63
buôn bán các sản phẩm gỗ và lâm sản ngoài gỗ đã góp phần làm cho GDP của
Tây Nguyên tăng lên 13,31% so với 10,05% của giai đoạn 2001- 2005. GDP/
đầu người 6,24 triệu đồng/người/năm tăng 15,83% so với 2001- 2005.
b. Mô hình góp phần phát triển bảo tồn văn hóa truyền thống Tây Nguyên
Nhà văn Nguyên Ngọc, tác giả của tác phẩm nổi tiếng viết về Tây
Nguyên – Đất nước đứng lên - là người rất am hiểu về văn hóa truyền thống Tây
Nguyên đã rất chí lý khi gọi văn hóa truyền thống Tây Nguyên là “văn hóa
rừng”. Nguồn cội của nhiều lễ nghi, nhiều tập tục, nhiều sinh hoạt văn hóa
truyền thống ở Tây Nguyên đều gắn với rừng, với không gian rừng. Vì thế đồng
bào Tây Nguyên xưa kia rất yêu quý rừng, rất có ý thức bảo vệ rừng. Rừng
không chỉ là nguồn sống của họ mà còn là cõi tâm linh thiêng liêng. Vì thế mà có
Thần Cây, Thần Rừng, vì thế mà trước khi đi săn người ta phải cúng Thần Rừng,
trước khi chặt cái cây về làm K’pan (ghế dài làm bằng cây gỗ liền) người ta phải
cúng Thần Cây. Vì vậy việc bảo tồn và phát triển rừng cũng chính là bảo tồn và
phát triển văn hóa Tây Nguyên. Mô hình CBFM là một mô hình có tính cộng
đồng cao và dựa trên cơ sở văn hóa bản địa để áp dụng. Mô hình đã góp phần
đáng kể trong việc bảo tồn văn hóa nơi đây.
c. Thay đổi nhận thức và hành vi của người dân:
Trước đây người dân tộc ở Tây Nguyên có thói quen đốt rừng làm nương
rẫy từ lâu nên tình trạng chặt phá rừng xảy ra khá nghiêm trọng. Tuy nhiên sau
khi mô hình này được áp dụng thì hiện tượng này đã giảm hẳn. Người dân đã
biết gắn bó với mảnh đất, cây rừng của mình nhiều hơn. Bởi mô hình đã tạo ra
không những lợi ích về kinh tế như hỗ trợ về vốn, cây trồng, kỹ thuật đối với
người dân mà còn có những trách nhiệm và nhiệm vụ đi kèm. Trong đó yêu cầu
64
người dân phải quản lý và bảo vệ khu rừng mà mình được giao
3.1.2. Hiệu quả môi trường
Hiệu quả môi trường được đánh giá dựa trên hai tiêu chí:
- Thay đổi độ che phủ rừng
- Diện tích chặt phá rừng
a. Thay đổi độ che phủ rừng
Tìm hiểu mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng tại các tỉnh Tây
Nguyên cho thấy, ở đâu rừng được giao cho dân, cho cộng đồng và gắn lợi ích
thiết thực của dân với rừng thì ở đó rừng được bảo vệ tốt hơn. Có nhiều chủ
trang trại còn mạnh dạn bỏ vốn đầu tư trồng được hàng chục héc-ta rừng, góp
phần phủ xanh đất trống, đồi núi trọc. Hành lang pháp lý cho việc quản lý, bảo
vệ rừng của nước ta không thiếu, nhưng điều cốt yếu là tổ chức thực hiện thế nào
cho có hiệu quả lại tùy thuộc vào cách làm của mỗi địa phương. Chính phủ đã
ban hành các nghị định, quyết định chỉ đạo khá chặt chẽ công tác giao khoán
quản lý bảo vệ rừng, như: Nghị định số 163 về giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp
cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm
nghiệp; Quyết định số 178 về quyền lợi và nghĩa vụ của hộ gia đình và cá nhân
được giao đất, được thuê nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp; Quyết định số 304
về việc thí điểm giao rừng, khoán bảo vệ rừng cho hộ gia đình và cộng đồng
trong buôn, làng là đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ ở các tỉnh Tây Nguyên.
Về việc giao khoán rừng tới từng hộ dân, Đắc Lắc là tỉnh sớm triển khai
mô hình này, và đã thực hiện thí điểm đạt hiệu quả ở huyện Ea H’leo trong vòng
5 năm trở lại đây. Theo đánh giá của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
65
Đắc Lắc mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng là mô hình cần nhân rộng,
bởi tính hiệu quả cao, rừng thực sự có chủ. Điều đó được thể hiện trong diện tích
che phủ rừng tăng lên qua các năm như bảng sau.
Bảng 3.1. Diện tích che phủ rừng các tỉnh Tây Nguyên
Đơn vị: %
Độ che phủ rừng Tây Nguyên Kon Tum Gia Lai Đắk Lắk Đắk Nông Lâm Đồng 2005 54,4 65.1 48.6 45.5 56.4 61.5 2007 55,4 65,2 48,9 46,1 56,8 61,9
Nguồn: Tổng cục thống kê
b. Hiện tượng chặt phá rừng đã giảm
Cùng với việc gia tăng thu nhập thì nhờ các hoạt động tuyên truyền giáo
dục không những đã giúp người dân có nhận thức cao hơn về hoạt động quản lý
và bảo vệ rừng Rừng ở Tây Nguyên không chỉ lớn về diện tích mà còn có giá trị
đặc biệt về chất lượng. Năm 1980, tổng diện tích rừng của Tây Nguyên có
3.868.400 ha, chiếm 70,66% tổng diện tích tự nhiên. Nhưng từ năm 1980 đến
1995, trung bình mỗi năm Tây Nguyên "xóa sổ" 120 nghìn ha rừng. Theo kết
quả rà soát và đánh giá hiện trạng rừng tại vùng Tây Nguyên năm gần đây thì độ
che phủ rừng của khu vực này hiện nay đạt khoảng 55,6% so với tỷ lệ trung bình
của cả nước là 38%. Hiện nay khu vực Tây Nguyên hiện nay gồm 5 tỉnh Đắk
Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng, Kon Tum, Gia Lai có trêm 3,7 triệu ha diện tích đất
lâm nghiệp, trong đó có 3,27 triệu ha rừng. Rừng giàu và trung bình giảm 75%,
66
rừng nghèo tăng 109%. Từ năm 1995 đến nay, mỗi năm không dưới 45 nghìn ha
rừng bị phá. Tuy nhiên từ khi triển khai mô hình thì thực trạng chặt phá rừng đã
giảm. Một mặt là do người dân đã ý thức được vai trò của rừng, hiện tượng đốt
rừng làm nương rẫy không còn xảy ra nhiều như trước. Mặt khác, khi họ đã là
chủ thể quản lý rừng thì họ sẽ phải bảo vệ khu rừng của mình. Sau đây là bảng
số liệu về diện tích rừng bị chặt phá:
Bảng 3.2. Diện tích rừng bị chặt phá của các tỉnh Tây Nguyên
Đơn vị: ha
2005 2006 2007
Diện tích rừng bị chặt phá Tây Nguyên Kon Tum Gia Lai Đắk Lắk Đắk Nông Lâm Đồng 1008,9 60,00 212,9 91,3 337,0 304,7 996,3 97,7 176,6 70,0 312,0 343,0 460,8 59,1 18,8 28,9 191,0 163,0
Nguồn: tổng cục thống kê 2007
Kết quả điều tra cho thấy, diện tích chặt phá rừng của các tỉnh thuộc Tây
Nguyên đã giảm theo các năm từ khi áp dụng mô hình. Gia Lai là tỉnh có tốc độ
giảm lớn nhất 53,18% cao hơn khá nhiều so với toàn bộ Tây Nguyên 27,5%.
Ngược lại Tỉnh Kon Tum là địa phương có tốc độ giảm ít nhất 11,66%.
3.2 Những khó khăn mà mô hình gặp phải
a. Từ phía người dân
Để tạo sự chuyển biến, mô hình phải nâng cao năng lực cộng đồng trong
67
việc quản lý rừng tự nhiên, chủ yếu giao rừng tự nhiên cho cộng đồng, đa góp
phần đáng kể cho công tác bảo vệ và quản lý rừng, đặc biệt là tạo sinh kế, tăng
thu nhập và giảm tỷ lệ hộ nghèo tại vùng nghiên cứu trong tương lai. Tuy nhiên,
do trữ lượng rừng nghèo kiệt không đủ để khai thác nên người dân tham gia chưa
thu lợi được gì hoặc chỉ thu được một ít mặc dù họ phải bỏ nhiều thời gian để
quản lý và bảo vệ rừng. Do đó, mô hình chưa tạo ra động lực để người dân địa
phương tham gia. Mặt khác, trong khi người dân phải đối mặt với những khó
khăn về tạo thu nhập chính như vốn và việc làm thì mô hình này không thể cải
thiện ngay được mức sống của họ.
Mặt khác do trình độ dân trí còn quá thấp, nhận thức của người dân về
trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi trong việc quản lí bảo vệ rừng chưa cao.
Đồng thời do đời sống của một bộ phận dân cư, đặc biệt là đồng bào dân tộc,
đồng bào kinh tế mới gặp nhiều khó khăn, sản xuất chưa ổn định, sống dựa vào
rừng, chặt phá rừng làm rẫy, thậm chí khai thác, vận chuyển, mua bán gỗ trái
phép. Vì việc triển khai mô hình đã gặp không ít những khó khăn.
b. Từ phía nhà nước
Về mặt quản lí Nhà nước, các chính sách về lâm nghiệp của Nhà nước nói
chung và của địa phương nói riêng chưa đồng bộ, việc giao đất giao rừng tiến
hành quá chậm. Các địa phương, tuy có thực hiện đổi mới một bước về cơ chế
chính sách và tổ chức lại các lâm trường, nhưng về cơ bản chưa động viên được
sức mạnh của nhân dân, chưa gắn quyền lợi và trách nhiệm của người dân và các
thành phần kinh tế trong công tác tổ chức quản lí, bảo vệ và phát triển vốn rừng.
Trên thực tế người dân chỉ là người làm thuê trong từng thời gian và từng việc cụ
68
thể, vì vậy họ chưa có trách nhiệm trong quản lí, bảo vệ. Người nhận đất để
trồng rừng hoặc nhận quản lí bảo vệ rừng trồng chủ yếu là lo khâu tận thu lâm
sản và khai thác phần đất nông nghiệp theo tỷ lệ cho phép để trồng các cây ngắn
ngày sớm có thu nhập, mà chưa thực sự quan tâm đến việc trồng, chăm sóc và
bảo vệ rừng theo yêu cầu. Tình trạng đồng bào di cư tự do, đồng bào kinh tế mới
chặt phá rừng để trồng cây lương thực, cây công nghiệp và tình hình sang
nhượng mua bán đất rừng kiếm lời vẫn còn diễn biến phức tạp, chưa chấm dứt.
Nhu cầu sử dụng gỗ và lâm sản của nhân dân để xây dựng nhà ở, đồ gia dụng,
làm hàng xuất khẩu, củi than đốt… ngày càng nhiều, cung chưa đáp ứng cầu. Giá
gỗ trên thị trường ngày một cao, nhất là gỗ quý hiếm, trong khi đó sản lượng gỗ
của địa phương giảm mạnh, nên sức ép của xã hội đối với tài nguyên rừng là rất
lớn. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lí vi phạm pháp luật trong quá
trình tổ chức bảo vệ rừng, trồng rừng, như tổ chức phòng chống cháy, tổ chức
khai thác, ngăn chặn bọn “lâm tặc” phá rừng, nạn đốt rừng làm nương rẫy, sang
nhượng mua bán đất rừng để trồng cây công nghiệp, khai thác trái phép lâm sản,
hoặc các khâu giao khoán bảo vệ, chăm sóc, giao khoán đất trồng rừng của các
cơ quan chức năng còn quá nhiều sơ hở, lỏng lẻo, chưa được phát hiện kịp thời
và xử lý nghiêm minh những trường hợp vi phạm theo đúng pháp luật.
Bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng là tiền đề quan trọng để khai thác có
hiệu quả lâu dài tài nguyên này, nhưng cũng đang là vướng mắc lớn cho công tác
quản lý nhà nước đối với ngành lâm nghiệp. Cơ chế bao cấp đối với việc trồng
mới, chăm sóc và bảo vệ rừng như hiện nay rõ ràng không mang lại hiệu quả, và
như vậy sẽ không thể đẩy mạnh việc khai thác rừng sản xuất vì sẽ làm giảm
nhanh chóng tài nguyên rừng. Việc giao chỉ tiêu hạn chế đối với việc khai thác
69
gỗ rừng nhằm hạn chế sự suy giảm của tài nguyên rừng trong điều kiện trồng
mới rừng còn gặp nhiều khó khăn cũng chỉ là biện pháp thụ động không hiệu
quả, vừa khiến cho các lâm trường sống lay lắt trông chờ vào Nhà nước, vừa là
mảnh đất béo bở cho nạn “lâm tặc” phát triển.
Việc thực hiện hoạt động rà soát và phân chia quy hoạch lại các khu rừng
chưa được thực hiện một cách rõ ràng. Chủ yếu những hoạt động này được thực
hiện trên bản đồ, giấy tờ chứ không đo đạc trên thực địa. Đồng thời lực lượng
kiểm lâm còn quá mỏng và thiếu kinh nghiệm cũng như trình độ kỹ thuật để có
thể thực hiện tốt vài trò của mình trong việc tuyên truyền hướng dẫn bà con tại
các thôn bản trong việc quản lý, bảo vệ rừng.
3.3 Một số giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả mô hình
3.3.1 Một số giải pháp
a. Giải pháp về quản lý:
- Quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho các ba quản lý
dự án cũng như lực lượng kiểm lâm, tạo điều kiện thuận lợi để họ hoàn thành tốt
nhiệm vụ. đặc biệt là đầu tư về vốn và kỹ thuật để thực hiện việc rà soát và đánh
giá rừng một cách chính xác và minh bạch.
- Công tác thanh tra, kiểm tra và giám sát công tác quản lí bảo vệ và phát
triển rừng dựa vào cộng đồng trong thời gian tới cần rà soát lại toàn bộ quỹ đất
đai, quỹ rừng, xem nơi nào đã thực hiện giao khoán có chủ rừng quản lí, nơi nào
chưa giao khoán rừng để cấp có thẩm quyền sớm thực hiện, nhất thiết không để
rừng và đất rừng vô chủ, bị lợi dụng lấn chiếm hoặc khai thác bừa bãi. Kiểm tra
70
toàn bộ công tác lâm sinh một cách chặt chẽ từ khâu sản xuất giống, kỹ thuật
ươm trồng đến chăm sóc, sử dụng nguồn vốn, đặc biệt đối với những đơn vị sử
dụng ngân sách, tránh tình trạng làm ẩu, nghiệm thu ẩu để lấy tiền Nhà nước.
Giám sát nghiêm ngặt việc đóng búa rừng, khai thác rừng phải được thực hiện
đúng quy trình quy phạm, vì đây là công việc trong rừng, thậm chí rừng sâu, hoạt
động khá độc lập khó kiểm soát dễ phát sinh sai phạm. Mặt khác cần giám sát
chặt chẽ hơn nữa hoạt động của các trạm kiểm lâm, trạm phúc kiểm. Bố trí
những cán bộ có phẩm chất, có bản lĩnh, trách nhiệm cao ở các vị trí này để chặn
đứng những hoạt động phạm pháp của bọn lâm tặc.
- Lồng ghép các dự án trồng trọt, chăn nuôi, khai thác vào mô hình quản lý
rừng dựa vào cộng đồng để một mặt nâng cao đời sống người dân mặt khác làm
giảm áp lực về sử dụng rừng, góp phần giảm bớt tình trạng chặt phá rừng.
b. Giải pháp tuyên truyền giáo dục và phát huy nội lực cho cộng đồng
- Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục luật pháp, chính sách của
nhà nước trên các phương tiện thông tin đại chúng để người dân nhận thức vai
trò của bảo vệ và phát triển rừng.
- Phát huy cao nhất những mặt tích cực của các luật tục và quy chế truyền
thống của cộng đồng trong việc bảo vệ rừng.
c. Giải pháp liên quan đến quan đến chính sách
- Nhà nước cần phải chính thức công nhận cộng đồng thôn bản là pháp
71
nhân, một tổ chức dân sự được trực tiếp nhận đất và nhận rừng.
- Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn cần xây dựng một văn bản
dưới luật ban hành quy định việc giao nhiệm vụ cho các cộng đồng thôn bản,
buôn quản lý rừng. Cần có chính sách quy định lợi ích của người dân và cộng
đồng khi họ tham gia quản lý rừng.
d. Giải pháp liên quan đến công tác quy hoạch giao đất giao rừng
- Sở Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn cần hoàn chỉnh việc xây
dựng quy hoạch tổng thể Nông – Lâm nghiệp, trong đó xác định rõ việc phân
loại và hướng quy hoạch các loại rừng chủ yếu.
- Ưu tiên việc giao đất giao rừng cho cộng đồng cho các vùng sâu, vùng
xa, những vùng có truyền thống cộng đồng cao và có tác dụng bảo vệ rừng đầu
nguồn.
e. Giải pháp khuyến khích, hỗ trợ và dịch vụ cho phát triển quản lý rừng
cộng đồng
- Hoàn thiện hệ thống khuyến nông – khuyến lâm từ tỉnh xuống đến cấp
thôn bản nhằm chuyển giao kiến thức quản lý tài nguyên rừng đến tận người dân.
- Khuyến khích phát triển hệ thống hỗ trợ dịch vụ cây con, hạt giống, phân
bón đến tận cấp thôn, bản.
- Củng cố cộng đồng và các quy chế quản lý bảo vệ rừng.
72
f. Giải pháp về đầu tư tín dụng
- Cần có các đầu tư nghiên cứu điểm về quản lý rừng cộng đồng từ đó làm
cơ sở nhân rộng.
- Các dự án và chương trình đầu tư phát triển lâm nghiệp cần lôi kéo sự
tham gia cùng quản ký cả cộng đồng. các hợp đồng khoán bảo vệ rừng nên dựa
trên cộng đồng là chủ yếu.
- Nên phát triển hệ thống tín dụng dựa trên cơ sở cộng đồng để phát triển
các nguồn tài nguyên rừng của thôn bản.
g. Giải pháp về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
- Tổ chức đào tạo và đào tạo lại cho cán bộ lâm nghiệp theo hướng tiếp
cận lâm nghiệp xã hội.
- Đào tạo cán bộ thôn bản và khuyến lâm viên cơ sở vè kiến thức quản lý
rừng cộng đồng.
3.3.2 Kiến nghị
- Kiện toàn bộ máy điều hành và quản lý dự án, có mức hỗ trợ phù hợp
hơn cho lực lượng quản lý và kiểm lâm để họ tăng cường trách nhiệm trong việc
theo dõi, chỉ đạo và thực hiện dự án cũng như theo dõi diễn biến rừng trong
phạm vi quản lý, tránh tình trạng một số nơi xảy ra tình trạng một số nơi xảy ra
mất rừng không có người chịu trách nhiệm.
- Thuế tài nguyên nước hiện nay mới thể hiện được một phần bù đắp nhỏ,
73
chưa phải là yếu tố chính kết cấu giá thành thuỷ điện. Vì vậy, đề nghị Chính phủ
và các Bộ, ngành liên quan xem xét tính toán lại, tạo cho Tây Nguyên và các
vùng, miền khác tương tự, được hưởng lợi kinh tế từ lĩnh vực này. Đây cũng là
yếu tố hết sức thiết thực khuyến khích các địa phương chăm lo quản lí bảo vệ và
phát triển rừng, đặc biệt là rừng phòng hộ đầu nguồn.
- Cần phải tăng cường kinh phí, chính sách hỗ trợ kịp thời cho những
người nhận khoán. Hiện nay, cán bộ lâm nghiệp cấp huyện quá ít, cấp xã càng ít
hơn nên công tác khuyến lâm chưa đáp ứng yêu cầu đề ra, do vậy phải có
phương án đưa cán bộ về những vùng cần phải hỗ trợ về kỹ thuật và các hình
thức đầu tư nhằm giúp rừng lấy lại mầu xanh thật nhanh.
- Phải phù hợp với quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp xã; phù hợp với điều
kiện kinh tế, xã hội và môi trường của thôn; đáp ứng nhu cầu hưởng lợi của
người dân đối với các nguồn lợi từ rừng.
- Phải có sự tham gia của cộng đồng và các bên liên quan; được người
dân đồng tình ủng hộ và tự nguyện thực hiện.
- Phải đảm bảo việc sử dụng rừng ổn định, lâu dài và bền vững
- Người dân phải được sự tham gia vào tiến trình giao đất giao rừng và
các hoạt động liên quan đến quản lý bảo vệ rừng và sử dụng rừng.
- Những quy định cho cộng đồng phải được tài liệu hoá, quy trình hoá,
nhưng phải đơn giản, dễ hiểu.
- Phải chú ý tới truyền thống của cộng đồng về tập tục, về ranh giới..
- Đặc biệt phải có hỗ trợ cho cộng đồng sau khi giao đất giao rừng để họ
có đủ điều kiện quản lý bảo vệ và sử dụng tốt rừng được giao như quy hoạch sử
74
dụng đất, xây dựng kế hoạch thôn bản, xây dựng quy chế, hỗ trợ kỹ thuật, tài
chính, tuyên truyền, phổ cập, tổ chức dân, tăng cường hỗ trợ của các tổ chức có
liên quan trên địa bàn...
KẾT LUẬN
75
Theo Tổ chức Lương thực và nông nghiệp Liên Hiệp Quốc (FAO), tính từ
năm 1990 đến nay, thế giới mất đi gần 3% diện tích rừng, có nghĩa là mỗi năm
mất 13 triệu ha rừng do nạn chặt phá rừng tràn lan. Diện tích rừng còn lại hiện
chỉ chiếm 36%, nhưng cũng đang bị đe dọa nghiêm trọng vì hằng năm có khoảng
6 triệu ha rừng có nguy cơ bị phá hủy. Hiện có 76 nước trên thế giới không còn
rừng nguyên sinh.
Vì vậy muốn cứu những cánh rừng hay chính là cứu lấy trái đất con người
cần có một chiến lược lâu dài về quản lý và bảo tồn chúng. Một hình thức quản
lý đã và đang được Việt Nam cũng như một số nước khu vực Châu Á áp dụng là
mô hình quản lý rừng dựa vào cộng động. Mô hình này đã bước đầu phát huy
hiệu quả của nó trong việc nâng cao đời sống cho người dân và hạn chế được
tình trạng khai thác tràn lan, quá mức, làm giảm áp lực khai thác lên các khu
rừng.
Quản lý rừng dựa vào cộng đồng là một phương thức quản lý rừng dựa
vào kiến thức kinh nghiệm truyền thống và nguyện vọng của cộng đồng, hướng
đến việc nâng cao năng lực và tăng cường sự hợp tác chia sẻ kinh nghiệm cho
cộng đồng và bên liên quan nhằm quản lý các nguồn tài nguyên bền vững và góp
phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, văn hoá của các cộng đồng dân tộc
sống trong và gần rừng. Xu hướng phát triển rừng cộng đồng là quan trọng trong
phát triển lâm nghiệp ở nhiều quốc gia nhằm định hướng thu hút sự quan tâm
của các cộng đồng để đóng góp vào tiến trình quản lý rừng bền vững.
Mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng được thực hiện thí điểm ở Tây
Nguyên sau hai năm triển khai đã mang lại khá nhiều tác động tích cực không
những đến con người nơi đây mà còn tạo cho những cánh rừng nơi đây ngày
76
càng hồi sinh. Tuy nhiên sau thời gian mô hình được thực hiện thí điểm ở Tây
Nguyên, đã giúp cho những nhà quản lý và hoạch định chính sách rút ra được
khá nhiều kinh nghiệm để có thể tiêp tục triển khai mô hình ở những địa phương
khác tốt hơn.
Đề tài: “nghiên cứu mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng tại vùng Tây
Nguyên” nhằm mục đích tìm hiểu thực trạng triển khai và áp dụng mô hình vào
Việt Nam như thế nào, đồng thời đưa ra những khó khăn mà mô hình gặp phải
để từ đó đưa ra những giải pháp và kiến nghị hợp lý.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. “Giảm nghèo và rừng ở Việt Nam”. William D. Sunderlin & Huỳnh Thu Ba,
2005.
2. “Community Based Forest Management Guidelines”. Ministry of Natural
Resources and Tourism, Forestry and Beekeeping Division, January 2007
3. Thông tư số 17/2006/TT – BNN hướng dẫn việc thực hiện quyết định số
304/2005/QĐ – TTg của thủ tướng chính phủ, 14/03/06.
4. “Đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội của dự án 661 giai đoạn 1998 – 2005”
5. “ Báo cáo quốc gia về Lâm nghiệp cộng đồng”. Bộ NN&PTNT, 2004
6. “ Rừng Tây Nguyên và các vấn đề quan tâm”. Tạp chí lý luận của ủy ban dân
tộc, 26/12/2005
7. “ Để Tây Nguyên mãi xanh”. Sài Gòn times,09/04/09
8. “ Phát triển lâm nghiệp cộng đồng ở Miền Núi phía bắc Việt Nam”. PGS.
77
TSKH Nguyễn Duy Chuyên, PGS. TS Vũ Nhâm, TS Bjorn Hasson, 2002
9.” Sự trở về của rừng trên núi đá vôi vùng Đông Bắc Việt Nam”.TS Mark
Porten Berger. 2005
10. Từ các trang web: http://www.cres.edu.vn/
78
http://www.rddl-daklak.org/indices/rddl_index_articles_viet_2408733.html