intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Tài chính quốc tế

Chia sẻ: Pham Xuan Hung Hung | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:33

123
lượt xem
18
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cơ sở lý luận về khủng hoảng nợ, thực trạng khủng hoảng nợ trên thế giới, vấn đề nợ công ở Việt Nam là những nội dung chính trong 3 chương của bài tiểu luận "Tài chính quốc tế". Mời các bạn cùng tham khảo nội dung tài liệu để nắm bắt nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Tài chính quốc tế

  1. Tiểu luận Tài chính Quốc tế MỤC LỤC ............................................................................................................................................. 30 1
  2. CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHỦNG HOẢNG NỢ. 1.1. Một số khái niệm về khủng hoảng nợ. Trước khi nói về khủng hoảng nợ thì chúng ta hãy xem xét khái niệm về nợ là gì.  Nợ là một từ  chung dùng để chỉ về nghĩa vụ  của đối tượng này tới đối tượng khác.  Tùy theo các đối tượng và nghĩa vụ đó là gì thì chúng ta sẽ có cách gọi nợ khác nhau.   Trong bài phân tích này các đối tượng là quốc gia, chính phủ, các tổ  chức tài chính  quốc tế… và nghĩa vụ là trả tiền nên nợ này được gọi là nợ quốc tế. Theo nghĩa rộng, nợ quốc tế là các khoản nợ của một quốc gia đối với các quốc   gia hay các tổ  chức tài chính quốc tế  khác. Theo nghĩa hẹp, nợ  quốc tế  là nợ  của   chính phủ đối với các tổ chức, nếu đã là nợ của chính phủ thì lúc này nó còn tên gọi  khác là nợ công. Như vậy thật chất nợ công cũng chính là nợ quốc tế. Do có hai cách gọi về nợ nên cũng có hai cách gọi về khủng hoảng nợ tương ứng   là: Khủng hoảng nợ quốc tế là việc mất khả  năng thanh toán của một quốc gia đối   với tổ chức tài chính quốc tế, công ty đa quốc gia hay chính phủ các nước. Khủng hoảng nợ  công  là  việc  chính  phủ   của  một  nước   mất khả   chi  trả   các  khoảng nợ, bao gồm nợ của chính phủ và các bảo lãnh nợ của chính phủ. Bài viết này chúng ta sẽ  tìm hiểu những căn bản chung nhất theo nghĩa khủng   hoảng nợ quốc tế để ta có cái nhìn chung nhất và phân tích thực trạng, giải pháp theo   nghĩa hẹp (khủng hoảng nợ công), đều này có vẻ rất mâu thuẫn nhưng thực tế nó sẽ  giúp dễ hiểu vấn đề hơn. Và vì lý do vấn đề thực tế hiện nay của kinh tế thế giới đó   là nợ công, tâm điểm là cuộc khủng hoảng nợ công của Châu Âu.
  3. Tiểu luận Tài chính Quốc tế 1.2 Nguyên nhân của khủng hoảng nợ. 1.2.1 Thâm hụt tài khoản vãng lai. Khi một quốc gia thâm hụt tài khoản vãng lai lớn ( chi ngoại tệ cho việc nhập khẩu   hàng hóa dịch vụ lớn hơn thu ngoại tệ từ việc xuất khẩu hàng hóa dịch vụ) điều đó dẫn   đến thiếu ngoại tệ thanh toán cho nước ngoài. Nhiều quốc gia đang phát triển bắt đầu chịu sự thâm hụt của cán cân mậu dịch lớn,  phần lớn là do cuộc suy thoái toàn cầu đã làm giảm nhu cầu của các nước phát triển đối   với xuất khẩu của các nước đang phát triển, các cân mậu dịch thâm hụt lớn đã gây ra các  điều kiện xấu đi ở các nước đang phát triển và các điều kiện xấu đi này làm cho mức nợ  tăng. 1.2.2 Định giá đồng tiền bản tệ cao Nếu đồng bản tệ được định giá cao sẽ làm giảm khả năng xuất khẩu do đó làm giảm  nguồn thu ngoại tệ. Mặc khác, nó có tác động khuyến khích nhập khẩu làm tăng chi  ngoại tệ, tất cả các yếu tố này làm cho tài khoản vãng lai thâm hụt trầm trọng. 1.2.3.Hệ thống  ngân hàng hoat động kém hiệu quả Việc cho vay kém hiệu quả của các ngân hàng thương mại nhất là các nguồn vốn huy   động từ  nước ngoài cũng là một nguyên nhân quan trọng đến mất khả  năng thu hồi nợ,   do đó mất khả năng thanh toán nợ nước ngoài. 1.2.4.Dòng vốn ngắn hạn nước ngoài vào quá nhiều Khi dòng vốn   ngắn hạn nước ngoài vào quá nhiều, nều tình hình kinh tế  chính trị  một quốc gia bất ổn thì dòng vốn ngắn hạn sẽ đảo chiều nhanh,hâu quả là quốc gia tiếp   nhận dòng vốn ngắn dễ rơi vào tình trạng khủng hoảng. 3
  4. 1.3 Tác động của khủng hoảng nợ. 1.3.1 Tác động của khủng hoàng nợ đối với MNC Khi một quốc gia được các tổ  chức tài chính quốc tế  như  IMF,WB,ADB,..hỗ trợ cả  gói (không kèm theo điều kiện) để   khắc phục khủng hoảng tài chính , thì những quốc   gia này có xu hướng thực hiện bảo hộ sản xuất trong nước hạn chế nhập khẩu,  do đó,   làm giảm thương mại quốc   tế, hậu qua làm giảm danh thu bán hàng của các doanh   ngiệp, nhất là các công ty MNC 1.3.2 Tác động của tỷ giá thả nổi và lãi xuất cho vai đối với cuộc khủng hoảng   nợ Hầu hết các khoản vay nợ của các nước đang phát triển đều bằng USD , do đó khi  USD tăng giá thì các nước đang phát triển sẽ gặp khó khăn khi trả  nợ  ngược lại người   dân hoa kì sẽ thích sử dụng hàng của các nước đang phát triển sản xuất , do giá rẻ, điều   đó sẽ  giúp tài khoản vãn lai của các nước đang phát triển được cải thiện và tài khoản   vãng lai của Hoa Kỳ bị thâm hụt. Các khoảng cho vay thường có lãi suất thả  nổi, số  tiền thanh toán nợ  vay chịu  ảnh   hưởng của thay đổi lãi suất theo thời gian. Khi lãi suất tăng các khoảng vay với lãi suất   thả nổi trở nên khó trả hơn.  1.4 Giải pháp khắc phục khủng hoảng nợ  Thực hiện bảo hộ mậu dịch và phá giá tiền tệ:để tăng cường khả năng thanh toán nợ  nước ngoài ,các nước phát triển để  đẩy mạnh xuất khẩu ,hạn chế  nhập khẩu ,bằng   nhiều giải pháp ,trong đó có giải pháp phá giá tiền tệ và thu hút vốn đầu tư nước ngoài ,   nhất là đầu tư trực tiếp Bán các khoàn nợ vay của nươc đang phát triển :đây được xem là giải pháp cơ cấu lại  các khoản đầu tư của ngân hàng nhằm hạn chế rủi ro  Trích dự  phòng tổn thất cho vay. Là giải pháp tìm nguồn bù đắp rủi ro của các ngân  hàng bằng cách giảm lơi nhuận trước thuế
  5. Tiểu luận Tài chính Quốc tế Phòng ngừa các yếu tố  rủi ro chính trị. Hình thức rủi ro chính trị  sẽ  là việc từ  chối   thanh toán nợ  do mối quan hệ chính trị  giữa nước vay với ngân hàng hay với các nước   chủ  nhà của ngân hàng này. Tuy nhiên có các hình thức rủi ro chính trị  khác ít nghiêm  trọng hơn, như  một sự  thay đổi trong chính sách thuế  của chính phủ  nước ngoài có thể  tác động lớn đối với khả năng thanh toán nợ tồn đọng của một doanh nghiệp nước ngoài.   Ngoài ra, chính phủ của một quốc gia có thể quyết định quốc hữu hóa một doanh nghiệp.   Một hình thức rủi ro chính trị  gián tiếp hơn là chính phủ  giám sát chặt chẽ  việc bán  ngoại tệ để thanh toán các khoản vay tính bằng đồng USD. Nếu một ngân hàng cho môt   chính phủ  nước ngoài vay, ngân hàng phải thẩm định cam kết thanh toán nợ  của chính  phủ  đó. Vì đường lối chủ  trương của chính phủ  thay đổi qua thởi gian, một ngân hàng   thẩm định khả  năng có thể có một thay đổi trong quan điểm của chính phủ, có thể  ảnh   hưởng đến cam kết thanh toán nợ tồn đọng. vì vậy một quốc gia có sự ổn định chính trị  sẽ có khả năng thu hút nguồn vốn quốc tế rất lớn. Các yếu tố rủi ro tài chính. Tổ chức thẩm định rủi ro quốc gia phải đánh giá một cách   tỉ mỉ điều kiện tài chính của một nước ngoài, vì điều kiện này ảnh hưởng đến khả năng   trả nợ của chính phủ và các doanh nghiệp các nước đó. Chính phủ  của một nước mạnh   về tài chính thường sẽ thu nhập đủ từ thuế để thanh toán nợ vay cho nước ngoài.` CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KHỦNG HOẢNG NỢ TRÊN THẾ GIỚI 2.1 Toàn cảnh nợ công của thế giới Trong quá khứ, khủng hoảng nợ công cũng đã được biết đến vào đầu thập kỷ 80 của  Thế  kỷ  XX. Năm 1982, Mê­hi­cô là quốc gia đầu tiên tuyên bố  không trả  được nợ  vay  IMF. Đến tháng 10/1983, 27 quốc gia với tổng số nợ lên tới 240 tỷ USD đã tuyên bố hoặc   chuẩn bị  tuyên bố hoãn trả  nợ. Như vậy vấn đề  khủng hoảng nợ  công đã xuất hiện từ  lâu trong lịch sử chứ  không phải mới xuất hiện gần đây. Nhưng cuộc khủng hoảng nợ  công hiện nay nghiêm trọng hơn, lớn hơn, kéo dài hơn và vẫn chưa có hướng giải quyết.  5
  6. Mỗi giây qua đi, một vài người trên thế giới nhận thêm nợ mới, kéo tổng nợ toàn cầu  tăng thêm từ vài trăm nghìn tới vài triệu USD. Làm tình hình nợ công của các nước ngày  càng nghiêm trọng, tỉ lệ nợ công cao và nhiều nước đang đối mặt với nguy cơ vỡ nợ như  Hy Lạp( đã vỡ nợ), Tây Ban Nha, Ý, Nhật… MƯỜI QUỐC GIA CÓ TỈ LỆ NỢ CÔNG CAO NHẤT THẾ GIỚI Với dữ liệu từ hãng định mức tín nhiệm Moody’s , trang 24/7 Wall Street đã điểm 10  quốc gia có tỷ lệ nợ công/GDP cao nhất thế giới hiện nay. Các dữ liệu đều được tính ở  thời điểm cuối năm 2011, trừ GDP/đầu người là số liệu tính đến năm 2010. Thứ nhất: Nhật Bản Tỷ lệ nợ công/GDP: 233,1% Tổng nợ chính phủ: 13,7 nghìn tỷ USD GDP đầu người (đồng giá sức mua): 33.994 USD GDP danh nghĩa: 5,88 nghìn tỷ USD Tỷ lệ thất nghiệp: 4,6% Định mức tín nhiệm từ Moody’s: AA3 Tỷ  lệ  nợ  công/GDP của Nhật Bản bỏ  xa bất kỳ  một nước phát triển nào trên thế  giới. Tuy nặng nợ, kinh tế Nhật hiện vẫn chưa lâm vào thảm họa như Hy Lạp, phần lớn  nhờ  tỷ  lệ  thấp nghiệp thấp và trái phiếu chính phủ  chủ  yếu do các chủ  nợ  trong nước   nắm giữ. Theo Chính phủ Nhật, 95% dư nợ trái phiếu của Tokyo hiện nằm trong tay của   các nhà đầu tư trong nước, chỉ có 5% là do các chủ nợ nước ngoài nắm giữ. Thứ hai: Hy Lạp Tỷ lệ nợ công/GDP: 168,2% Tổng nợ chính phủ: 489 tỷ USD
  7. Tiểu luận Tài chính Quốc tế GDP đầu người (đồng giá sức mua): 28.154 USD GDP danh nghĩa: 303 tỷ USD Tỷ lệ thất nghiệp: 19,2% Định mức tín nhiệm từ Moody’s: CA Hy Lạp vẫn là tâm điểm của khủng hoảng nợ châu Âu, cho dù đã được EU và IMF  giải cứu. Chính phủ nước này đang tiếp tục phải đưa ra những kế hoạch cải cách và cắt  giảm chi tiêu ngặt nghèo nhằm đổi lấy khoản cứu trợ  tiếp theo trị  giá khoảng 130 tỷ  Euro. Nếu không được bơm vốn, Hy Lạp sẽ vỡ nợ vào tháng 3 tới. Năm 2010, tỷ lệ  nợ  công/GDP của Hy Lạp là 143%. Năm ngoái, con số này đã tăng lên thành 163%. Thứ 3: Italy Tỷ lệ nợ công/GDP: 120,5% Tổng nợ chính phủ: 2,54 nghìn tỷ USD GDP đầu người (đồng giá sức mua): 31.555 USD GDP danh nghĩa: 2,2 nghìn tỷ USD Tỷ lệ thất nghiệp: 8,9% Định mức tín nhiệm từ Moody’s: A3 Khối nợ  công khổng lồ  của Italy càng trở  nên nguy hiểm hơn khi tăng trưởng GDP  của nước này diễn ra chậm chạp. Năm 2010, GDP của Italy chỉ tăng 1,3% sau 2 năm suy  giảm liên tiếp. Vào tháng 12/2011, Chính phủ Italy đã thông qua một kế hoạch ngân sách   khắc khổ nhằm hạ lãi suất vay vốn. Tuy nhiên, đầu tuần này, Moody’s vẫn hạ một bậc   điểm tín nhiệm của Italy. Thứ tư: Ireland 7
  8. Tỷ lệ nợ công/GDP: 108,1% Tổng nợ chính phủ: 225 tỷ USD GDP đầu người (đồng giá sức mua): 39.727 USD GDP danh nghĩa: 217 tỷ USD Tỷ lệ thất nghiệp: 14,5% Định mức tín nhiệm từ Moody’s: Ba1 Ireland từng là một trong những nền kinh tế  “khỏe mạnh” nhất của khối EU. Đầu  thập niên 2000, nước này có tỷ  lệ  thất nghiệp thấp hơn bất kỳ một nước công nghiệp  phát triển nào, đồng thời GDP tăng trưởng hàng năm khoảng 10%. Tuy nhiên, khi suy   thoái toàn cầu nổ ra, kinh tế Ireland chuyển sang suy giảm nhanh chóng. Năm 2006, thâm  hụt ngân sách của Chính phủ Ireland là 2,9%, đến năm 2010, tỷ lệ này lên tới 32,4% GDP.  Từ năm 2001 tới nay, nợ công của nước này tăng hơn 500%. Trái phiếu của Ireland hiện   không nằm trong diện khuyến nghị đầu tư theo đánh giá của Moody’s. Thứ năm: Bồ Đào Nha Tỷ lệ nợ công/GDP: 101,6% Tổng nợ chính phủ: 257 tỷ USD GDP đầu người (đồng giá sức mua): 25.575 USD GDP danh nghĩa: 239 tỷ USD Tỷ lệ thất nghiệp: 13,6% Định mức tín nhiệm từ Moody’s: BA3 Nền kinh tế  Bồ  Đào Nha chịu  ảnh hưởng lớn từ  suy thoái toàn cầu, một phần vì  nước này có GDP/đầu người thấp. Năm 2011, Bồ  Đào Nha phải nhận 104 tỷ  USD tiền   cứu trợ từ EU và IMF do mức thâm hụt ngân sách lớn và nợ công leo thang mạnh. Chính 
  9. Tiểu luận Tài chính Quốc tế phủ  Bồ  Đào Nha hiện có kế  hoạch hạ  thâm hụt ngân sách từ  9,8% GDP vào năm 2010  xuống còn 4,5% vào năm 2012 và xuống còn 3% theo trần của EU vào năm 2013. Theo   xếp hạng tín nhiệm của Moody’s, trái phiếu của Bồ  Đào Nha hiện không ở  trong hạng  được khuyến nghị đầu tư. Thứ 6: Bỉ Tỷ lệ nợ công/GDP: 97,2% Tổng nợ chính phủ: 479 tỷ USD GDP đầu người (đồng giá sức mua): 37.448 USD GDP danh nghĩa: 514 tỷ USD Tỷ lệ thất nghiệp: 7,2% Định mức tín nhiệm từ Moody’s: AA1 Tỷ  lệ  nợ  công/GDP của Bỉ  đạt đỉnh 135% vào năm 1993, sau đó giảm liên tục còn   khoảng 84% vào năm 2007. Nhưng trong 4 năm kế  tiếp, tỷ lệ này lại tăng lên trên 97%.   Đầu năm nay, sau khi bị Moody’s hạ 2 bậc tín nhiệm vào cuối năm ngoái, Chính phủ  Bỉ  buộc phải cắt giảm 1,3 tỷ USD chi tiêu công để tránh bị khủng hoảng nợ gõ cửa. Thứ bảy: Mỹ Tỷ lệ nợ công/GDP: 85,5% Tổng nợ chính phủ: 12,8 nghìn tỷ USD GDP đầu người (đồng giá sức mua): 47.184 USD GDP danh nghĩa: 15,13 nghìn tỷ USD Tỷ lệ thất nghiệp: 8,3% Định mức tín nhiệm từ Moody’s: AAA 9
  10. Vào năm 2001, tỷ lệ nợ công/GDP của Mỹ mới là 45,6%. Đến năm 2011, sau một thập  kỷ chi tiêu công gia tăng, nước Mỹ đã chứng kiến khối nợ “phình” lên 85,5% GDP. Vào  năm 2001, chi tiêu công của Mỹ  tương đương 33,1% GDP, đến năm 2010, tỷ  lệ  này là  39,1%. Năm 2005, Chính phủ  Mỹ nợ 6,4 nghìn tỷ  USD. Đến năm 2011, con số  này tăng  hơn gấp đôi lên 12,8 nghìn tỷ USD. Tháng 8 năm ngoái, Standard & Poor’s đã hạ điểm tín  nhiệm của Mỹ ­ nền kinh tế lớn nhất thế giới ­ từ AAA xuống AA+. Thứ tám: Pháp Tỷ lệ nợ công/GDP: 85,4% Tổng nợ chính phủ: 2,26 nghìn tỷ USD GDP đầu người (đồng giá sức mua): 33.820 USD GDP danh nghĩa: 2,76 nghìn tỷ USD Tỷ lệ thất nghiệp: 9,9% Định mức tín nhiệm từ Moody’s: AAA Pháp là nền kinh tế lớn thứ nhì trong khối Eurozone, sau Đức. Tháng 1 vừa qua, một  cú sốc đã xảy đến đối với Pháp khi nước này bị hãng Standard & Poor’s tước hạng mức   tín nhiệm AAA. Chính phủ Pháp không đồng tình với cách đánh giá này vì cho rằng nền  kinh tế nước mình là ổn định như kinh tế Anh. Đầu tuần này, Moody’s cũng đã cảnh báo   về khả năng hạ điểm tín nhiệm của Pháp từ mức AAA. Thứ chín: Đức Tỷ lệ nợ công/GDP: 81,8% Tổng nợ chính phủ: 2,79 nghìn tỷ USD GDP đầu người (đồng giá sức mua): 37.591 USD GDP danh nghĩa: 3,56 nghìn tỷ USD
  11. Tiểu luận Tài chính Quốc tế Tỷ lệ thất nghiệp: 5,5% Định mức tín nhiệm từ Moody’s: AAA Là nền kinh tế lớn nhất trong Liên minh châu Âu (EU) và có ảnh hưởng lớn về  mặt   tài chính trong khối này, Đức đặc biệt quan tâm tới việc duy trì sự ổn định trên thị trường   nợ của riêng mình cũng như của toàn khối Eurozone. Bởi thế, nước này đã đóng góp một   phần không nhỏ vào gói giải cứu tài chính trị giá 45 tỷ Euro mà IMF và EU dành cho Hy   Lạp vào năm 2010. Dù có tỷ  lệ nợ công/GDP cao, Đức là nền kinh tế  mạnh và có tỷ  lệ  thất nghiệp gần như thấp nhất ở châu Âu. Thứ mười: Vương quốc Anh Tỷ lệ nợ công/GDP: 80,9% Tổng nợ chính phủ: 1,99 nghìn tỷ USD GDP đầu người (đồng giá sức mua): 35.860 USD GDP danh nghĩa: 2,46 nghìn tỷ USD Tỷ lệ thất nghiệp: 8,4% Định mức tín nhiệm từ Moody’s: AAA Dù có tỷ  lệ  nợ  công/GDP cao thứ  10 thế  giới, nước Anh vẫn nỗ lực giữ được một   nền kinh tế ổn định. Anh không tham gia vào khối Eurozone và có ngân hàng trung ương  riêng. Chính sự độc lập này đã giúp nước Anh giảm bớt ảnh hưởng từ khủng hoảng nợ  châu Âu. Lợi suất trái phiếu chính phủ Anh cũng được giữ ở mức thấp. Nướ Phá Bồ Đào  Hy  Nh Anh Đức Mỹ Bỉ Ireland Italy c p Nha Lạp ật Nợ  80. 81.8 85.4 85. 87.2 101.6 108.1 120.5 168.2 233 công/gd 9 5 .1 11
  12. p (%) Bàng 1: Bảng số liệu nợ công/ GDP của 10 nước cao nhất thế giới Biểu đồ 1: tỉ lệ nợ công/ GDP của 10 nước cao nhất thế giới Hãy xem một số biểu đồ  bên dưới để  thấy rõ toàn cảnh bức tranh nợ  công của thế  giới Biểu đồ 2: Tổng nợ công toàn thế giới( đơn vị nghìn tỉ USD)
  13. Tiểu luận Tài chính Quốc tế Biểu đồ 3: Mật độ nợ công 2.2 Khủng hoảng nợ ở Hy Lạp Hy Lạp là một quốc gia thuộc khu vực đồng tiền chung Châu Âu, khủng hoảng nợ ở  Hy Lạp là tiêu biểu và mở  màng cho cuộc khủng hoảng nợ  công của Châu Âu và thế  giới. 2.2.1 Toàn cảnh khủng hoảng của Hy Lạp. Gia nhập khu vực đồng tiền chung euro năm 1/2001 là cơ  hội lớn để  Hy Lạp có thể  tiếp cận với thị trường vốn quốc tế. Đáng buồn thay, đây lại là nguyên nhân khiến quốc  gia này lâm vào cảnh nợ  nần. Từ  những ngày đầu gia nhập khu vực đồng tiền chung   châu Âu, sau khi gây áp lực nhằm vượt qua tiêu chuẩn nợ  công 3% GDP của eurozone,   Hy Lạp có một thời kỳ dài thâm hụt ngân sách. Tăng trưởng GDP đạt 4,3% (2001 ­ 2007),   13
  14. cao hơn so với mức trung bình của eurozone là 3,1% nhưng chi tiêu chính phủ  Hy Lạp   tăng tới 87% trong khi mức thu chỉ tăng 37%. Sau công cuộc đầu tư "khủng" cho Thế vận   hội Athens năm 2004 ( kỳ thế vận hội được hoành tráng nhất và cũng tốn kém nhất trong   lịch sử. Chi 12 tỷ euro cao hơn tới 10 tỷ so với dự kiến nhưng không cho phép bất cứ một  biển hiệu quảng cáo nào được xuất hiện trên đường phố) , Hy Lạp còn lại một ngân  sách rỗng với tỷ lệ bội chi khoảng 8%, cao gấp gần 3 lần tiêu chuẩn của eurozone. Năm 2008, khi khủng hoảng tài chính toàn cầu xảy ra, các ngành công nghiệp chủ  đạo của Hy Lạp đều bị ảnh hưởng mạnh. Ngành du lịch và vận tải biển đều có mức sụt  giảm doanh thu tới 15%. Nguồn thu để tài trợ ngân sách bị hạn chế, Chính phủ  lại buộc   phải tăng chi tiêu công nhằm kích thích tăng trưởng. Tính đến tháng 1/2010, nợ công của   Hy Lạp ước đạt 216 tỷ euro, nợ lũy kế bằng 130% GDP. Trong gần một thập kỷ, chính phủ Hy Lạp liên tục bán trái phiếu để thu về hàng trăm  tỷ USD và đầu tư dàn trải vào cơ sở hạ tầng trong khi không hề có kế hoạch trả nợ. Sự  phụ thuộc vào nguồn tài chính nước ngoài khiến Hy Lạp dễ chịu tổn thương khi niềm tin   nhà đầu tư thay đổi. "Giọt nước tràn ly" trong trường hợp của Hy Lạp là việc bị phanh phui những dối trá   trong số liệu báo cáo của chính phủ tiền nhiệm. Ngày 20/10/2009, tân thủ tướng George   Papandreou khẳng định thâm hụt ngân sách trong tài khóa 2009 phải  ở  mức 12,5%, gấp  hơn 4 lần giới hạn cho phép của một quốc gia sử dụng đồng euro. Nhiều dự báo ngay lập tức được đưa ra cho thấy nợ công của Hy Lạp có thể tăng từ  mức 113,4% GDP năm 2009 lên 121­125% GDP trong năm 2010. Hàng loạt tổ chức quốc  tế tuyên bố hạ định mức tín nhiệm của Hy Lạp trên thị trường tài chính. Ngày 7/12/2009,   S&P cho Hy Lạp điểm tín nhiệm A­ với triển vọng kém lạc quan. Một ngày sau đó, Fitch   đánh tụt điểm số của nền kinh tế này từ A­ xuống còn BBB+. Không còn bức tranh kinh tế đầy màu hồng và những lời hứa hẹn về chính sách khắc   phục tình trạng thâm hụt ngân sách, Hy Lạp tiếp tục bán trái phiếu để  có tiền cho ngân   sách. Lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 2 năm của Hy Lạp liên tục tăng cao từ 3,47% 
  15. Tiểu luận Tài chính Quốc tế vào tháng 1/2010, lên 9,73% thời điểm tháng 7/2010 và nhảy vọt lên 26,65% một năm vào   tháng 7/2011. Biểu đồ 5: Lãi suất trái phiếu chính phủ thời hạn 10 năm. Những ngày cuối tháng 12/2010, Chính phủ Hy Lạp thông qua dự thảo ngân sách với  dự  báo thâm hụt 9,1%. Định mức tín nhiệm quốc gia này tiếp tục bị  đánh tụt về  mức   BBB­ của S&P. Một lần nữa, Quốc hội nước này lại điều chỉnh mức thâm hụt ngân sách  về 8,7% và cắt giảm quỹ lương khoảng 4%. Từ đây, Hy Lạp rơi vào thời gian dài bất ổn  xã hội do làn sóng biểu tình phản đối của người dân. Nội lực không đủ  vực dậy nền kinh tế  lớn thứ  27 thế  giới, Hy Lạp trở  thành mắt   xích yếu nhất của eurozone. Châu Âu không thể để Hy Lạp vỡ nợ bởi những hệ lụy đổ  vỡ  hệ  thống ngân hàng, mất khu vực đồng tiền chung và kéo theo nhiều quốc gia khác  rơi vào hiệu ứng domino. 15
  16. Tháng 5/2010, các nhà lãnh đạo eurozone và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) công bố  gói  cứu trợ kỳ hạn 3 năm trị giá 110 tỷ euro dành cho Hy Lạp. Sau đó, vào tháng 10/2010, IMF   cho Hy Lạp vay thêm 2,5 tỷ euro (3,3 tỷ USD), nâng tổng giá trị các khoản vay khẩn cấp  mà IMF dành để  ngăn chặn khả  năng vỡ  nợ  của nước này lên 10,58 tỷ  euro (tương   đương 13,98 tỷ USD). Từ tháng 5/2010 và 6/2011, Ngân hàng Trung ương Châu Âu đã mua khoảng 45 tỷ euro   trái phiếu chính phủ Hy Lạp. Ngoài ra, các khoản hỗ trợ thanh khoản mà ECB dành cho  các ngân hàng Hy Lạp đã tăng từ mức 47 tỷ euro vào tháng 1/2010 lên mức 98 tỷ euro vào  tháng 5/2011. Đáp lại, ngày 21/10, Hy Lạp thông qua chính sách tiết kiệm ngân sách mới bao gồm   tăng thuế, cắt giảm trợ cấp, sa thải 30.000 công chức trước áp lực nợ công lên tới 162%   GDP. Sau nhiều lần trì hoãn, gói cứu trợ thứ 2 trị giá 130 tỷ euro đã được thành viên cuối   cùng của châu Âu là Đức thông qua nhằm giúp đưa nợ  công quốc gia này giảm về  gần   121% GDP vào năm 2020. Tháng 3/2012, các chủ  nợ  tư  nhân đồng ý hoán đổi 85% nợ  cho Hy Lạp, giúp cắt   giảm khoảng 100 tỷ EUR nợ khỏi nghĩ vụ  nợ của quốc gia này. Ngay lập tức, ngày 9/3,  Fitch và Moody’s đồng loạt tuyên bố Hy Lạp đã vỡ nợ. Trước đó, vào ngày 28/2, Athens   cũng bị một hãng định mức tín nhiệm hàng đầu khác là S& P xem là đã vỡ nợ một phần. 2.2.2 Nguyên nhân của khủng hoảng nợ của Hy Lạp Thứ  nhất, tiết kiệm trong nước thấp dẫn tới phải vay nợ  nước ngoài cho chi tiêu  công. Thập niên 90 tỷ  lệ  tiết kiệm trong nước bình quân của Hy Lạp chỉ   ở  mức 11%,   thấp hơn nhiều so với mức 20% của các nước như Bồ Đào Nha, Ý, Tây Ban Nha và đang   có xu hướng sụt giảm nhanh chóng. Do vậy, đầu tư trong nước phụ thuộc khá nhiều vào  các dòng vốn đến từ  bên ngoài. Lợi tức trái phiếu liên tục giảm nhờ  vào việc gia nhập   liên minh châu Âu EU (năm 1981) và làn sóng bán tháo trái phiếu từ  dân chúng cho thấy  Hy Lạp đã để vuột khỏi tay một kênh huy động vốn sẵn có buộc chính phủ Hy Lạp tăng   cường vay nợ tài trợ cho chi tiêu công.
  17. Tiểu luận Tài chính Quốc tế Thứ  hai, chi tiêu công tăng cao dẫn đến thâm hụt ngân sách. Theo Tổ  chức Hợp tác  và Phát triển kinh tế  (OECD), chi tiêu cho quản lý công trong tổng số  chi tiêu công của   Hy Lạp năm 2004 đã cao hơn nhiều so với các nước thành viên OECD khác trong khi  chất lượng và số lượng dịch vụ không được cải thiện nhiều. Năm 2008, khủng hoảng tài  chính toàn nổ  ra đã  ảnh hưởng khá mạnh đến các ngành công nghiệp chủ  chốt của Hy   Lạp. Ngành du lịch và vận tải biển, doanh thu đều sụt giảm trên 15% trong năm 2009.   Kinh tế Hy Lạp cũng lâm vào tình trạng khó khăn, nguồn thu để tài trợ cho ngân sách nhà  nước bị  co hẹp mạnh. Trong khi đó Hy Lạp lại phải tăng cường chi tiêu công để  kích   thích kinh tế. Tính đến tháng 01/2010, nợ  công của Hy Lạp  ước tính lên tới 216 tỷ  Euro  và mức nợ lũy kế đạt mức 130% GDP. Sự già hóa dân số và hệ thống lương hưu vào loại hào phóng bậc nhất khu vực châu  Âu của Hy Lạp cũng được coi là một trong những gánh nặng cho chi tiêu công. Ước tính   tổng số  tiền chi trả  cho lương hưu khu vực công của Hy Lạp sẽ  tăng từ  11,5% GDP   (2005) lên 24% (2050). Thứ  ba, nguồn thu giảm sút cũng là một nhân tố  dẫn tới tình trạng thâm hụt ngân  sách và gia tăng nợ công. Trốn thuế và hoạt động kinh tế ngầm ở Hy Lạp là nhân tố làm   giảm nguồn thu ngân sách. Theo đánh giá của WB, kinh tế  không chính thức  ở  Hy Lạp   chiếm tới 25 ­ 30% GDP(so với mức 15,6% GDP của Việt Nam; 13,1% GDP của Trung   Quốc và Singapore; 11,3% GDP của Nhật Bản). Hệ thống thuế với nhiều mức thuế cao   và bộ luật phức tạp cùng với sự điều tiết dư thừa và thiếu hiệu quả của cơ quan quản lý   là nguyên nhân dẫn đến tình trạng trốn thuế và kinh tế ngầm phát triển ở Hy Lạp. Theo Tổ  chức Minh bạch quốc tế, Hy Lạp là một trong những nước có tỷ  lệ  tham  nhũng cao nhất trong EU. Năm 2008, hơn 13% người Hy Lạp đã chi tới 750 triệu EUR   tiền phong bì cho các lãnh đạo khu vực công và khu vực tư, trong đó có bác sĩ là những   người đòi nhiều tiền hơn cho các cuộc phẫu thuật; các nhà quy hoạch thành phố  và các   quan chức ở địa phương cũng liên quan đến những vụ việc nhận hối lộ... Thủ tướng Hy   17
  18. Lạp George Papandreou thừa nhận “tham nhũng mang tính hệ  thống” là vấn đề  cơ  bản   nhất dẫn đến tình trạng nợ  công Hy Lạp. Thiệt hại mà tham nhũng gây ra cho Hy Lạp   ước tính vào khoảng 8% GDP. Tham nhũng không chỉ  gây ra trốn thuế, nó còn làm tăng   chi tiêu chính phủ, nhắm tới duy trì mức lương cao cho công chức và thực hiện các dự án  có vốn đầu tư  lớn thay vì nhắm vào các dự  án tạo ra nhiều việc làm và nâng cao năng  suất lao động. Mức lương cao không chỉ tạo ra gánh nặng ngân sách mà còn làm cho tính   cạnh tranh của nền kinh tế Hy Lạp yếu đi. Lương cao, đồng euro tăng giá từ mức 1 euro   đổi hơn 0,8 USD lên đến 1 euro đổi 1,6 USD trong suốt giai đoạn từ  2000­2008 khiến   sức cạnh tranh của hàng hóa Hy Lạp yếu và hệ quả tất yếu là một cán cân thương mại   thâm hụt triền miên. Thứ tư, sự tiếp cận dễ dãi với nguồn vốn đầu tư nước ngoài và việc sử dụng nguồn   vốn không hiệu quả. Bên cạnh đó, việc gia nhập Eurozone năm 2001 là cơ hội lớn để Hy   Lạp có thể  tiếp cận với thị  trường vốn quốc tế với việc sử dụng một đồng tiền được   những nền kinh tế lớn như Đức và Pháp bảo đảm cùng với sự quản lý chính sách tiền tệ  của Ngân hàng TƯ  châu Âu (ECB). Nhờ việc gia nhập Eurozone Hy Lạp nghiễm nhiên  có được hình  ảnh  ổn định cao và chắc chắn trong mắt các nhà đầu tư, dễ  dàng thu hút  vốn đầu tư nước ngoài với mức lãi suất thấp. Gần một thập kỷ qua, Chính phủ  Hy Lạp   liên tục bán trái phiếu để thu về hàng trăm tỷ USD. Số tiền này lẽ ra có thể giúp kinh tế  Hy Lạp tiến rất xa nếu chính phủ có kế hoạch chi tiêu hợp lý. Tuy nhiên, chính phủ  Hy  Lạp đã chi tiêu quá tay (phần lớn cho cơ sở hạ tầng) mà hầu như  không quan tâm đến   các kế hoạch trả nợ. Thứ năm, thiếu tính minh bạch và niềm tin của các nhà đầu tư. Sự thiếu minh bạch   trong số liệu thống kê của Hy Lạp đã làm mất niềm tin của các nhà đầu tư mà quốc gia  này đã tạo dựng được với tư  cách là một thành viên của Eurozone và nhanh chóng xuất  hiện các làn sóng rút vốn ồ ạt khỏi các ngân hàng của Hy Lạp, đẩy quốc gia này vào tình  trạng khó khăn trong việc huy động vốn trên thị  trường vốn quốc tế. Sự  phụ  thuộc vào  nguồn tài chính nước ngoài đã khiến cho Hy Lạp trở  nên rất dễ  bị  tổn thương trước   những thay đổi trong niềm tin của giới đầu tư. Trong thời đại hội nhập, thì minh bạch 
  19. Tiểu luận Tài chính Quốc tế luôn là một đòi hỏi lớn của các nhà đầu tư. Khủng hoảng nợ công của Hy Lạp do chính   phủ  không minh bạch các số  liệu, cố  gắng vẽ  nên bức tranh sáng, màu hồng về  tình   trạng ngân sách về  những chính sách sắp ban hành để  khắc phục những khó khăn về  ngân sách hay vấn đề kinh tế vĩ mô do vậy, hiệu lực của những chính sách đó sẽ bị hạn   chế nhiều. 2.2.3 Lý do mà các nước cứu Hy Lạp. Thứ nhất: Nếu Hy Lạp từ bỏ đồng euro Hy Lạp ra khỏi eurozone và dùng lại đồng nội tệ  drachma. Với giải pháp này, đồng   euro đỡ  được gánh nặng và Hy Lạp sẽ  có nhiều tự  do để  xoay sở  với đồng tiền riêng   của mình. Nhưng giải pháp trên gặp một số trở  ngại về mặt pháp lý vì theo Hiệp  ước  Lisbon không có chuyện trục xuất các nước thành viên ra khỏi eurozone. Những hợp đồng kinh tế, thương mại, ngân hàng với khu vực eurozone đều ký kết   bằng đồng euro. Nếu Hy Lạp phải hoàn nợ  với đồng nội tệ  bị  phá giá thì nền kinh tế  nước này sẽ không chịu đựng nổi. EU phải tổ chức lại cả một hệ thống kỹ thuật trong các ngân hàng và chi phí này rất  tốn kém. Hy Lạp phải quốc hữu hóa hệ  thống ngân hàng, trong khi các ngân hàng, các   hãng bảo hiểm tại Hy Lạp phần lớn là những chi nhánh của Pháp và Đức. Việc thu hồi tài sản của một thành viên eurozone vỡ nợ là sự  cần thiết về  mặt kinh   tế  nếu đồng tiền chung euro muốn tồn tại. Hy vọng lớn nhất hiện nay là EU kiểm soát  được cuộc vỡ nợ. Thứ hai: Nếu eurozone tan rã Kịch bản tồi tệ nhất là một Hy Lạp hỗn loạn và đổ  vỡ  sẽ  kéo theo Ireland, Bồ  Đào  Nha, Italia và Tây Ban Nha. Đó sẽ  là một trận “đại hồng thủy” về  kinh tế  và không ai  dám đoán trước hậu quả về chính trị. 19
  20. Một khi Hy Lạp bị đẩy tới bờ vực thẳm, nguy cơ vỡ nợ nhà nước và ngân hàng hàng  loạt  ở  EU không thể  tránh khỏi. Nó cũng gần đồng nghĩa với việc tất yếu eurozone sẽ  tan rã. Hiện nay hầu hết các nền kinh tế  eurozone đều đối mặt với trì trệ  và giảm phát.  Ngân hàng trung  ương châu Âu (ECB) và Quỹ  Bình  ổn Tài chính châu Âu (EFSF) sẽ  không thể kiểm soát lãi suất trái phiếu, hậu quả là các nước buộc phải đi vay với lãi suất   cao không bền vững và vỡ nợ. Tiếp đến, nó sẽ  kìm hãm hệ thống ngân hàng của họ  và  các chính phủ không thể huy động vốn cần thiết để giải cứu. Kịch bản tồi tệ nhất là một Hy Lạp hỗn loạn và đổ  vỡ  sẽ  kéo theo Ireland, Bồ  Đào  Nha, Italia và Tây Ban Nha. Bị kẹt giữa vòng luẩn quẩn của giảm phát, không thể  đáp ứng lãi suất và điều kiện  vay vốn và buộc phải thực hiện các biện pháp tài khóa kìm hãm tăng trưởng cũng như  các biện pháp khắc khổ  khác theo yêu cầu của ECB và EFSF, những thành viên này sẽ  không còn nhận được sự ủng hộ về mặt chính trị để tiếp tục là thành viên của eurozone. Một khi Tây Ban Nha hoặc Italia rời eurozone, khó ngăn chặn xu hướng tan rã của  khu  vực  này.  Các   nhà  đầu tư   sẽ   không chấp nhận Pháp  như   nền kinh  tế   “lõi”   của  eurozone nữa một khi tài chính công của Paris yếu và nợ nước ngoài lớn. Các nhà đầu tư  tin rằng giảm lương và cắt giảm ngân sách sẽ không thể bền vững dưới góc độ chính trị.  Tóm lại, Pháp sẽ rơi vào tình cảnh của Italy và Tây Ban Nha hiện nay. Thứ ba: Nếu các ngân hàng vạ lây Các ngân hàng lớn của Pháp có nguy cơ  bị  vỡ  nợ  vạ  lây lớn nhất bởi cuộc khủng  hoảng Hy Lạp và giới đầu tư chứng khoán tháo chạy cho dù các ngân hàng trung ương có  bơm vốn hay không. Ước tính các ngân hàng Pháp có khoảng 60 tỷ euro bị "kẹt" trong các  khoản nợ công 350 tỷ euro của Hy Lạp. Thực tế cho thấy BNP Paribas đang nắm giữ 3,5 tỷ euro nợ công của Hy Lạp và BNP  có thể  mất trắng số  tiền đó, nếu Athens tuyên bố  vỡ  nợ. Tuy nhiên, trong 6 tháng đầu 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2