Khủng hoảng tài chính thế giới
Tiểu luận tài chính quốc tế
Khủng hoảng tài chính thế giới
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
1
Khủng hoảng tài chính thế giới
LỜI MỞ Đ ẦU
Khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ 2007-2009 là cuộc khủng hoảng trong nhiều lĩnh
vực tài chính (tín dụng, bảo hiểm, chứng khoán) diễn ra từ năm 2007 cho đến tận nay. Nó
là nguồn gốc trực tiếp của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2009. Thông qua
quan hệ tài chính nói riêng và kinh tế nói chung mật thiết của Hoa Kỳ với nhiều nước,
cuộc khủng hoảng từ Hoa Kỳ đã lan rộng ra nhiều nước trên thế giới, dẫn tới những đổ
vỡ tài chính, suy thoái kinh tế, suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế ở nhiều nước trên thế
giới.
Theo quan điểm của nhóm về đề tài thảo luận, đây là một đề tài hay có tính thời
sự, được rất nhiều người quan tâm. Song với đề tài thảo luận này thì đây là một đề tài
rộng và sâu vì nó mang tính bao quát về nền kinh tế thới giới và nền kinh tế Viêt Nam.
Với những kiến thức đã được học, bài thảo luận của nhóm nói một cách bao quát về
nguyên nhân, diễn biến, tác động và các giải pháp nhằm vượt qua khủng hoảng của các
quốc gia trên thế giới và Việt Nam.
Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2009 bao gồm sự đổ vỡ hàng loạt hệ thống
ngân hàng, tình trạng đói tín dụng, tình trạng sụt giá chứng khoán và mất giá tiền tệ quy
mô lớn ở nhiều nước trên thế giới. Vậy cuộc khủng hoảng lớn đầu tiên của thế kỷ 21 xuất
phát từ đâu? Điều gì đáng để chúng ta tìm hiểu trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
2
thống tài chính. Sau đây nhóm đi vào thảo luận các vấn đề trên.
Khủng hoảng tài chính thế giới
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................................... 1
MỤC LỤC .................................................................................................................................... 2
NỘI DUNG ................................................................................................................................... 5
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN ................................................................................................................... 5
1.1. Lý thuyết về khủng hoảng tài chính .......................................................................... 5
1.2. M ột số dấu hiệu của khủng hoảng t ài chính ............................................................. 6
1.3. Các loại khủng hoảng tài chính ....................................................................................
2. NGUYÊN NHÂN, DIỄN BIẾN KHỦNG HO ẢNG TÀI CHÍNH ................................ 7
2.1. N guyên nhân ................................................................................................................. 7
2.1.1. Sự suy sập của thị trư ờng bất động sản ........................................................ 7
2.1.2. Cho vay dư ới chuẩn ...................................................................................... 12
2.1.3. Một số nguyên nhân khác............................................................................. 14
2.2. Diễn biến ..................................................................................................................... 17
2.2.1. Diễn biến cuộc khủng hoảng tại Mỹ ........................................................... 17
2.2.2. Diễn biến cuộc khủng hoảng tại các nướ khác ......................................... 22
2.2.3. Diễn biến cuộc khủng hoảng tại Việt Nam ................................................ 24
3. TÁC ĐỘN G CỦA KHỦNG HOẢNG Đ ẾN NỀN K INH TẾ THẾ G IỚI................. 28
3.1. Đối với nền kinh t ế M ỹ ............................................................................................. 28
3.2. Đối với khu vự c sử dụng đồng Euro........................................................................ 32
3.3. Đối với khu vự c Châu Á ........................................................................................... 34
3.4. Đối với nền kinh t ế Việt Nam .................................................................................. 36
4. G IẢI PH ÁP NHẰM VƯỢT QUA KH ỦNG HO ẢNG.................................................. 42
4.1. Giải pháp của các quốc gia, tổ chức trên thế giới .................................................. 42
4.2. Giải pháp của Việt Nam ............................................................................................ 50
4.2.1. Giải pháp về chính sách tài chính ................................................................ 50
4.2.2. Giải pháp về chính sách tiền t ệ .................................................................... 54
4.2.3. Giải pháp nhằm hạn chế thâm hụt ngân sách............................................ 59
4.2.4. Giải pháp nhằm kích t hích đầu tư và tiêu dùng ......................................... 59
KẾT LUẬN ................................................................................................................................ 62
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
3
TÀI LIỆU TH AM KHẢO ...................................................................................................... 63
Khủng hoảng tài chính thế giới
DANH MỤC CÁC B IỂU ĐỒ
Biểu đồ 1: Diễn biến thay đổi của lãi suất chính sách ở Hoa Kỳ............................................ 8
Biểu đồ 2: Lượng cung nhà ở M ỹ giai đoạn 2000-2007 .......................................................... 9
Biểu đồ 3: Nhu cầu nhà ở Mỹ giai đoạn 1995-2007................................................................. 9
Biểu đồ 4: Doanh số bán nhà ở Mỹ giai đoạn 1995-2007 ..................................................... 11
Biểu đồ 5: Diễn biến thay đổi giá nhà trong thời kỳ bong bóng thị trường nhà ở .............. 11
Biểu đồ 6: Chúng khoán t ài trợ bằng t ài sản chưa thanh t oán của M ỹ ............................... 13
Biểu đồ 7: Chỉ số Dow Jones 2006-2008................................................................................. 28
Biểu đồ 8: Giá dầu 1998-2008 .................................................................................................. 29
Biểu đồ 9: Tỷ trọng nợ công của Hy Lạp ................................................................................ 33
Biểu đồ 10: Tỷ lệ thâm hụt ngân sách so với GDP của một số quốc gia trong EU ............ 34
Biểu đồ 11: Kim ngạch XNK các thị trường chủ yếu năm 2 008-2009............................... 39
Biểu đồ 12 : KNX K sang một số thị trư ờng lớn từ năm 2007 đến năm 2009 .................... 39
Biểu đồ 13: Cấu trúc tài sản trong bảng cân đối tài sản của FED, 6/28/2007-1/15/2009 ...... 45
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
4
Biểu đồ 14: Mua repo MBS của Fed tăng vọt vào cuối năm 2007 ....................................... 47
Khủng hoảng tài chính thế giới
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1: Cho vay dưới chuẩn của Mỹ........................................................................................ 12
Hình 2: Mức độ ảnh hưởng khủng hoảng của các nước ........................................................ 31
Hình 3: Gói cứ u trợ kinh t ế của Mỹ.......................................................................................... 44
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1: Danh sách các tổ chức tài chính bị phá sản hoặc phải sáp nhập trong cuộc khủng
hoảng Mỹ ..................................................................................................................................... 21
Bảng 2: Số liệu về thự c trạng nợ và thâm hụt ngân sách năm 2009 của EU....................... 33
Bảng 3: Lãi suất cơ bản từ năm 2004-2010............................................................................. 55
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
5
Bảng 4: Biến động biên độ dao động tỷ giá USD/VND năm 2007-2009............................ 56
Khủng hoảng tài chính thế giới
NỘI DUNG
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Lý thuyết về khủng hoảng tài chính
Cả thế giới đang phải chao đảo gánh chịu hậu quả của cơn bão khủng hoảng tài
chính. Khủng hoảng đem tới thách thức và cơ hội cho những ai biết nắm bắt thời cơ.
Nhưng thực chất, khủng hoảng tài chính là gì?
Hiện chưa có một định nghĩa được chấp nhận rộng rãi nhưng ở góc độ vĩ mô nhưng
có thể hiểu khủng hoảng tài chính, nói một cách đơn giản, là sự mất khả năng thanh khoản
của các tập đoàn tài chính, dẫn tới sự sụp đổ và phá sản dây chuyền trong hệ thống tài chính.
Khủng hoảng tài chính là sự thất bại của một hay một số nhân tố của nền kinh tế
trong việc đáp ứng đầy đủ nghĩa vụ, bổn phận tài chính của mình. Khủng hoảng tài chính
xảy ra khi nhu cầu tiền vượt quá so với nguồn cung. Nhu cầu tiền mặt của người dân hay
của nhà đầu tư nước ngoài đã gây sức ép cho hệ thống ngân hàng và thị trường tài chính
khiến cho hệ thống ngân hàng và thị trường chứng khoán có thể sụp đổ. Trong nền kinh
tế thế giới hiện đại sự lây lan của khủng hoảng tài chính thường đi kèm với sự khủng
hoảng kinh tế kéo dài.
1.2. Một số dấu hiệu của khủng hoảng kinh tế tài chính
Tuỳ theo mức độ và phạm vi, khủng hoảng tài chính thể hiện qua các điểm sau đây:
- Là sự mất giá của các đồng tiền quốc gia, tình hình nợ nước ngoài mất khả năng
thanh toán mà chủ yếu là nợ ngắn hạn và sự lạm phát gia tăng.
Ví dụ như cuộc khủng hoảng Châu Á năm 1997: Thái Lan đã phải thả nổi đồng Bath
và nó đã mất giá khoảng 20% so với đồng USD.
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
6
- Thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán suy sụp.
Khủng hoảng tài chính thế giới
Cuộc khủng hoảng Châu Á năm 1997 chỉ số chứng khoán các nước giảm nghiêm
trọng như: Hong kong: 27%, Malaysia: 68%, Thái Lan: 75% …
- Phá sản và thất nghiệp tràn lan. Điển hình nước Mỹ, tập đoàn Lemon Brother Bank
phá sản, Citygroup đã phải sa thải hàng ngàn nhân viên…
- Sản xuất đình trệ, tốc độ tăng trưởng giảm sút.
- Đầu tư phát triển không kiểm soát nổi.
1.3. Các loại khủng hoảng tài chính:
Khủng hoảng ngân hàng: Đây là tình trạng diễn ra khi các khách hàng đồng loạt
rút tiền ồ ạt khỏi ngân hàng. Vì ngân hàng cho vay phần lớn số tiền gửi vào nên khi
khách hàng đồng loạt rút tiền, sẽ rất khó để các ngân hàng có khả năng hoàn trả các
khoản nợ. Sự rút tiền ồ ạt có thể dẫn tới sự phá sản của ngân hàng, khiến nhiều khách
hàng mất đi khoản tiền gửi của mình, trừ phi họ được bồi thường nhờ bảo hiểm tiền gửi.
Nếu việc rút tiền ồ ạt lan rộng sẽ gây ra khủng hoảng ngân hàng mang tính hệ thống.
Cũng có thể hiện tượng trên không lan rộng, nhưng lãi suất tín dụng được tăng lên do lo
ngại về sự thiếu hụt trong ngân sách. Lúc này, chính các ngân hàng sẽ trở thành nhân tố
gây ra khủng hoảng tài chính.
Khủng hoảng trên thị trường tài chính: Khủng hoảng trên thị trường tài chính
thường xảy ra do hai nguyên nhân chính: do các chính sách của Nhà nước và do sự tồn tại
của các “bong bóng” đầu cơ. Yếu tố đầu tiên phải nói đến, đó chính là các chính sách của
Nhà nước. Khi nhà nước phát hành tiền nhằm trang trải cho các khoản thâm hụt ngân
sách, điều này sẽ gây ảnh hưởng tới tỷ giá cố định. Người dân sẽ mất lòng tin vào bản tệ,
và chuyển sang tích trữ bằng các loại ngoại tệ. Khi đó dự trữ ngoại tệ của Nhà nước sẽ
cạn dần, Nhà nước buộc phải từ bỏ tỷ giá cố định và tỷ giá sẽ tăng.
Thêm vào đó, trên thị trường lại luôn tồn tại những “bong bóng” đầu cơ, ẩn chứa
nguy cơ đổ vỡ. Khi hầu hết những người tham gia thị trường đều đổ xô đi mua một loại
hàng hóa nào đó trên thị trường tài chính (chẳng hạn như cổ phiếu), nhưng không nhằm
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
7
mục đích đầu tư lâu dài, mà chỉ mua với hi vọng sẽ bán ra với giá cao hơn và thu lợi
Khủng hoảng tài chính thế giới
nhuận, điều này đẩy giá trị của các hàng hóa này lên cao, vượt quá giá trị thực của nó.
Tình trạng này xảy ra sẽ kéo theo những nguy cơ đổ vỡ trên thị trường tài chính, do các
nhà đầu tư ngắn hạn kiểu trên luôn mua và bán theo xu hướng chung trên thị trường: họ
mua vào khi thấy nhiều người cùng mua, tạo những cơn sốt ảo trên thị trường và bán ra
khi có nhiều người cùng bán, gây tình trạng rớt giá.
Khủng hoảng tài chính thế giới: Khi một quốc gia có đồng tiền mạnh đột ngột
phá giá đồng tiền của mình hoặc khi một nước mất đi khả năng hoàn trả các khoản nợ
quốc gia, gây khủng hoảng tiền tệ.
Khủng hoảng tài chính trong các tập đoàn Kinh tế: Các tập đoàn thường vướng
vào khủng hoảng tài chính do 2 lý do chủ yếu: do các kế hoạch đầu tư không đúng đắn,
không thu hồi được vốn đầu tư, dẫn tới việc không thanh toán được các khoản vay đầu tư
và phá sản; và do bị hiệu ứng dây chuyền từ khủng hoảng chung, các doanh nghiệp
không thể vay vốn đầu tư, hoặc các dự án đầu tư không thu hồi được vốn do tình trạng
khủng hoảng.
2. NGUYÊN NHÂN, DIỄN BIẾN KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU
2.1. Nguyên nhân
2.1.1. Sự suy sập của thị trường bất động sản:
Trước khi nghiên cứu nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính, chúng ta nên
tìm hiểu sơ qua về diễn biến thị trường bất động sản và tài chính M ỹ từ năm 2001 để hiểu
rõ hơn về cuộc khủng hoảng này.Đặc điểm của thị trường bất động sản Mỹ vào đầu thế
kỷ 21 tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Ở Mỹ hầu hết người dân khi mua nhà là phải vay tiền ngân hàng và trả lại lãi lẫn
vốn trong một thời gian dài (20-30 năm) sau đó, với lãi suất thả nổi (điều chỉnh tăng theo
thời gian). Do đó, có một sự liên hệ chặt chẽ giữa lãi suất và tình trạng của thị trường bất
động sản. Khi lãi suất thấp và dễ vay mượn thì người ta đổ xô đi mua nhà, đẩy giá nhà
cửa lên cao; khi lãi suất cao thì người bán nhiều hơn người mua, đẩy giá nhà xuống thấp.
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
8
Có 3 yếu tố chính tạo bong bóng thị trường bất động sản:
Khủng hoảng tài chính thế giới
Thứ nhất, từ đầu năm 2001, đặc biệt là sau cuộc khủng bố 11 tháng 9, khi mà sau
vụ khủng bố giá các cổ phiếu Mỹ sụt giảm, để giúp nền kinh tế thoát khỏi trì trệ, Cục Dự
trữ liên bang Mỹ (Fed) đã liên tục hạ thấp lãi suất, dẫn đến việc các ngân hàng cũng hạ
lãi suất cho vay tiền mua bất động sản. Vào giữa năm 2000 thì lãi suất cơ bản của Fed là
trên 6% nhưng sau đó lãi suất này liên tục được cắt giảm, cho đến giữa năm 2003 thì chỉ
còn 1%. Điều này đã dẫn cung tiền cơ sở tăng ở mức 5% đến 10% trong suốt giai đoạn
2001-2004. FED tăng dần và trở lại mức 5,25% vào tháng 6 năm 2006 để kiểm soát lạm
phát, đến gần cuối năm 2007 FED bắt đầu cắt giảm lãi suất để chống suy thoái kinh tế,
Biểu đồ 1: Diễn biến thay đổi của lãi suất chính sách ở Hoa Kỳ (đường màu xanh).
Nguồn: http://www.cuna.org
đến cuối năm 2008 lãi suất chỉ ở mức 0.25%.
Hai là, chính sách khuyến khích và tạo điều kiện cho dân nghèo có nhà ở của
Chính phủ lúc bấy giờ là khuyến khích và tạo điều kiện cho dân nghèo được vay tiền dễ
dàng hơn để mua nhà. Việc này phần lớn được thực hiện thông qua hai công ty được bảo
trợ bởi chính phủ là Hiệp hội quốc gia tài trợ bất động sản (Federal National Mortgage
Association – gọi tắt là Fannie Mae) và Tập đoàn cho vay thế chấp quốc gia (Federal
Home Loan M ortgage Corporation - gọi tắt là Freddie M ac). Hai công ty này giúp đổ vốn
vào thị trường bất động sản bằng cách mua lại các khoản cho vay của các ngân hàng
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
9
thương mại, biến chúng thành các loại chứng từ được bảo đảm bằng các khoản vay thế
Khủng hoảng tài chính thế giới
chấp (mortgage-backed securities - MBS), rồi bán lại cho các nhà đầu tư ở Phố Wall,
Biểu đồ 2: Lượng cung nhà ở Mỹ giai đoạn 2000-2007
Nguồn:http://www. cuna.org
Biểu đồ 3: Nhu cầu nhà ở Mỹ giai đoạn 1995-2007
Nguồn: http://www.cuna.org
đặc biệt là các ngân hàng đầu tư khổng lồ như Bear Stearns và M errill Lynch.
Nguyên nhân: chính là sự thay thế Đạo luật bức tường lửa Glass-Steagall bởi Đạo
luật Glamm-Leach-Bliley, cho phép các ngân hàng thương mại được tham gia vào các
lĩnh vực kinh doanh mạo hiểm như nghiệp vụ chứng khoán hóa và bán các khoản vay bất
động sản khiến nhiều ngân hàng đẩy mạnh cho vay bất động sản dưới chuẩn, nhằm thu về
những khoản lợi lớn. Tuy nhiên, các ngân hàng vẫn nắm giữ một lượng khá lớn các
khoản chứng khoán phái sinh này, một phần do không bán được, một phần do mua của
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
10
ngân hàng khác nhằm đa dạng hóa danh mục đầu tư. Các ngân hàng cho vay bất động sản
Khủng hoảng tài chính thế giới
thua lỗ khi thị trường bất động sản bị vỡ bong bóng và nhiều khoản cho vay không thu
hồi được, cộng với các khoản chứng khoán bất động sản bị giảm giá không phanh.
Ba là khế ước nhận nợ của người mua nhà trở thành một loại chứng khoán (chứng
khoán phái sinh), được ngân hàng thông qua người môi giới đưa vào giao dịch mua bán
lại trên thị trường (thị trường thứ cấp). Trên thị trường mua đi bán lại, nhiều người đầu tư
cá nhân thông qua người môi giới đã bỏ tiền ra mua loại chứng khoán này mà họ không
hiểu rõ, chỉ biết hàng năm được tiền lãi.
Điểm đặc biệt ở đây là bởi vì việc hình thành, mua bán, và bảo hiểm M BS là vô
cùng phức tạp cho nên nó diễn ra gần như là ngoài tầm kiểm soát thông thường của chính
phủ. Bởi vì thiếu sự kiểm soát cần thiết cho nên lòng tham và tính mạo hiểm đã trở nên
phổ biến ở các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, bởi vì có thể bán lại phần lớn các khoản vay để
các công ty khác biến chúng thành MBS, các ngân hàng thương mại đã trở nên mạo hiểm
hơn trong việc cho vay, bất chấp khả năng trả nợ của người vay.
Bong bóng bất động sản:
Với ba lý do trên, thị trường bất động sản trở nên rất nhộn nhịp, có rất nhiều người
thu nhập thấp hoặc không có tín dụng tốt nhưng vẫn đổ xô đi mua nhà. Để có thể được
vay, nhóm người này thường phải trả lãi suất cao hơn và thường được cho mượn dưới
hình thức lãi suất điều chỉnh theo thời gian (ví dụ, nếu thỏa thuận là được vay với lãi suất
6% và điều chỉnh sau 3 năm thì đúng ba năm sau lãi suất mới sẽ được ấn định theo thời
điểm đó). Tóm lại, nhóm người này thuộc vào thành phần được cho vay với loại lãi suất
dưới chuẩn (subprime rate).
Bất kể khả năng trả được nợ của nhóm vay dưới chuẩn, khoản tiền cho vay dành cho
nhóm này đã tăng vùn vụt. Theo các ước tính thì nó tăng từ 160 tỉ USD ở năm 2001 lên
540 tỉ vào năm 2004 và trên 1.300 tỉ vào năm 2007. Fannie Mae đã mạnh tay hơn trong
việc mua lại các khoản cho vay đầy mạo hiểm do phải đối đầu với cạnh tranh nhiều hơn
từ các công ty khác, chẳng hạn như Lehman Brothers.
Bên cạnh đó, nhu cầu mua lại M BS của các nhà đầu tư vẫn cao bởi vì cho tới trước
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
11
năm 2006 thì thị trường bất động sản vẫn chưa có dấu hiệu nổ bong bóng. Hơn nữa, họ
Khủng hoảng tài chính thế giới
cũng phần nào được trấn an khi vẫn có thể mua thong thả các hợp đồng bảo hiểm CDS từ
các công ty bảo hiểm và đầu tư khác. Việc này dẫn đến các công ty bán bảo hiểm càng
mạnh tay hơn trong việc bán CDS ra thị trường, bất chấp khả năng bảo đảm của mình.
Vì dễ vay cho nên nhu cầu mua nhà lên rất cao, kéo theo việc lên giá bất động sản
liên tục. Giá nhà bình quân đã tăng đến 54% chỉ trong vòng bốn năm từ 2001 (năm bắt
đầu cắt mạnh lãi suất) đến 2005. Việc này cũng dẫn đến vấn đề đầu cơ và ỷ lại là giá nhà
sẽ tiếp tục lên. Hệ quả là người ta sẵn sàng mua nhà với giá cao, bất kể giá trị thực và khả
năng trả nợ sau này vì họ nghĩ nếu cần sẽ bán lại để trả nợ ngân hàng mà vẫn có lời. Do
Biểu đồ 4: Doanh số bán nhà ở Mỹ giai đoạn 1995-2007
Nguồn: http://www.cuna.org
Biểu đồ 5: Diễn biến thay đổi giá nhà trong thời kỳ bong bóng thị trường nhà ở.
Nguồn: http://www.cuna.org
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
12
đó, một bong bóng đã thành hình trong thị trường bất động sản.
Khủng hoảng tài chính thế giới
Khi mọi việc kinh doanh đang hứa hẹn nhiều lợi nhuận thì không ai có thể cản nó
được. Như một cỗ xe đang lao dốc theo đà tham lam và hám lợi đó, không ai có thể cản
lại được cho đến khi khủng hoảng nổ ra. Câu chuyện đó không có gì là lạ đối với thị
trường tự do. C.M ác đã khái quát là nếu tỷ suất lợi nhuận lên 300% thì tự treo cổ mình
lên nhà tư bản cũng sẵn sàng làm.
Khi các ngân hàng chạy theo lợi nhuận một cách quá tham lam, cộng với thể chế tài
chính cho phép, hàng loạt các khoản nợ đã chồng lên nợ và đã được biến thành cổ phiếu
thông qua quá trình trái phiếu hóa. Thực tế, người tiêu dùng M ỹ đã vay khá nhiều để tiêu
dùng, sinh viên trả tiền ăn học... nhưng do kinh tế đi xuống, họ khó có khả năng trả được
nợ... do đó chính sách giãn nợ và hỗ trợ thị trường này cũng rất cần thiết, thậm chí là vấn
đề cấp bách.
Ví dụ, Fannie M ae mua 1.000 khoản vay thế chấp với các đặc điểm giống nhau với
gốc là 200.000 USD cho mỗi khoản vay. Khi tập trung lại thì tổng trị giá các khoản vay
này sẽ là 200.000.000 USD. Fannie M ae có thể biến khoản này thành 100.000 MBS, trị
giá 2.000 USD một phần và bán lại cho các nhà đầu tư. Nếu nhà đầu tư A mua 10 MBS
thì sẽ trả 20.000 USD.
Sau khi mua các MBS thì các nhà đầu tư sẽ nhận lại khoản tiền vừa lãi vừa gốc
được chuyển đến hằng tháng từ các người vay tiền (thông qua một công ty dịch vụ trung
gian) trong một khoản thời gian nhất định nào đó.
Và cũng vì có sự khác nhau về rủi ro của các loại MBS cho nên các công ty bảo
hiểm và thẩm định rủi ro, chẳng hạn như AIG, cũng nhảy vào để bán bảo hiểm cho các
nhà đầu tư MBS. Các bảo hiểm này được gọi là credit default swap (CDS), với mục đích
bảo đảm cho các nhà đầu tư MBS là trong trường hợp những người vay tiền mua nhà
không trả được nợ và làm cho MBS mất giá thì sẽ được bồi thường. Trong thời kỳ hoàng
kim, việc kinh doanh bảo hiểm CDS đã đem lại cho AIG nhiều món lợi khổng lồ. Tuy
nhiên, chúng trở thành rắc rối chính của người khổng lồ này khi thị trường bất động sản
đi xuống và rủi ro tín dụng vùn vụt tăng cao.
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
13
2.1.2. Cho vay dưới chuẩn:
Khủng hoảng tài chính thế giới
Hình 1: Cho vay dưới chuẩn của Mỹ
Từ nhiều năm qua, các ngân hàng đầu tư Mỹ đã nới lỏng tối đa chính sách tín
dụng cho các công ty và cá nhân mua bất động sản trả chậm làm nảy sinh những dòng
vốn vay giá rẻ và gia tăng một lượng lớn người đi vay tiền. Trên thực tế, vốn vay rẻ sẽ
làm mất đi ý thức phòng ngừa rủi ro của người đi vay. Người đi vay dễ dàng trong việc
định giá lại tài sản để tiếp tục một khoản vay mới nhằm trả cho khoản vay cũ. Bên cạnh
đó, việc cung cấp tín dụng dễ dàng như: không cần tài sản thế chấp, tỷ lệ trả trước rất
thấp, chỉ cần có mã số thuế. Hoạt động cho vay này thật sự không đáp ứng đầy đủ những
tiêu chuẩn để được cấp tín dụng nhưng vẫn được vay đã làm gia tăng rủi ro cho các ngân
hàng, và bất động sản tăng giá họ sẽ được hưởng lợi. Về phía ngân hàng, tuy hình thức
cho vay này rủi ro rất lớn, nhưng các ngân hàng vẫn chấp nhận để đổi lại một mức lãi
suất rất cao. Mặt khác các công ty tài chính cũng thực hiện hình thức cho vay này một
cách rộng rãi và chuyển rủi ro qua ngân hàng và nhà đầu tư thông qua một sản phẩm tài
Biểu đồ 6: Chúng khoán tài trợ bằng tài sản chưa thanh toán của Mỹ
chính gọi là “mua lại các khoản nợ hay khoản phải thu”.
Các công ty tài chính bán các khoản phải thu cho ngân hàng với một chiết khấu
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
14
cao, ngân hàng và các tổ chức tài chính chuyên biệt sẽ chứng khoán hoá các khoản phải
Khủng hoảng tài chính thế giới
thu, nghĩa là phát hành các chứng khoán để vay tiền với lãi suất rất cao. Rõ ràng là rủi ro
chồng rủi ro, và đương nhiên là các chứng khoán có mức độ xếp hạng tín nhiệm càng
thấp thì tỷ suất sinh lợi càng cao, thậm chí có chứng khoán không có mức độ xếp hạng tín
nhiệm nhưng vẫn được nhà đầu tư trên toàn thế giới chấp nhận do lãi suất siêu hạng.
Một lượng vốn đầu tư khổng lồ trên thế giới đã đổ vào thị trường bất động sản M ỹ
và khi thị trường đóng băng vào giữa năm 2007, các vụ đổ vỡ dây chuyền đã xảy ra. Các
nhà đầu tư bất động sản vay tiền không đủ khả năng trả lãi vay, bất động sản không bán
được, chứng khoán phát hành trên các khoản phải thu này sụt giá thê thảm, các ngân hàng
không đủ khả năng trả các khoản nợ lâm vào tình trạng phá sản.
Sản phẩm tài chính hiện đại nhưng nhiều rủi ro này chính là nguyên nhân cho cuộc
khủng hoảng tài chính cho vay dưới chuẩn.
Nguyên nhân: Năm 1995, chính phủ nới lỏng quy định về nhà đất bằng cách sửa
lại Luật Tái đầu tư Công cộng. Điều luật gia tăng sức ép lên các ngân hàng, buộc họ phải
tạo điều kiện cho những người có thu nhập thấp vay tiền mua nhà.
Và người có ảnh hưởng nhất trong cuộc khủng hoảng này theo tạp chí Time của
Mỹ bình chọn Agelo Mozilo đồng sáng lập ra Countrywide – nhà cho vay thế chấp lớn
nhất nước Mỹ đã hưởng ứng nhiệt tình phong trào “cho vay thế chấp”.Trong phong trào
này, Countryw ide đã giúp bất cứ người M ỹ nào cũng có thể vay tiền dù người đó chưa
chắc có khả năng trả nợ, từ giám đốc 1 công ty cho tới một cậu sinh viên Hardvard ngay
cả nhưng người sống ở những khu phố ổ chuột.
2.1.3. Một số nguyên nhân khác
2.1.3.1. Mua bán khống
Khi giới đầu cơ đoán chắc rằng cổ phiếu của những tập đoàn dính líu đến cho vay
dưới chuẩn sẽ sụt giảm, họ ồ ạt vay những cổ phiếu này rồi ồ ạt bán ra, tạo nên một áp
lực giảm giá lớn không gì cứu vãn nổi. Sau khi giá giảm đến một mức nào đó, họ sẽ mua
và trả lại nơi cho vay cộng thêm một ít phí, còn bao nhiêu tiền chênh lệch họ sẽ hưởng
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
15
trọn. Thậm chí, họ còn áp dụng cách thức mua bán khống đến hai lần (naked short sale),
Khủng hoảng tài chính thế giới
tức là không thèm vay chứng khoán nữa mà cứ ra lệnh bán theo kiểu “đánh xuống” vì lợi
dụng khe hở, mua bán ba ngày sau mới giao cổ phiếu.
2.1.3.2. Thiếu cơ chế giám sát chặt chẽ
Có tiền, các công ty thoải mái cho người vay bằng tiền của các ngân hàng đầu tư
cung cấp thông qua mua lại danh mục cho vay của các công ty này. Các ngân hàng này
trên cơ sở danh mục cho vay vừa mua lại sẽ phát hành CK để vay tiền. Danh mục cho
vay được chia ra, ít rủi ro, rủi ro cao, tùy định mức tín nhiệm, nhà đầu tư tha hồ lựa chọn
theo sự mạo hiểm của mình. Có loại CK không cần định mức tín nhiệm, có thể thu lãi cao
nhưng rủi ro cũng lớn. Như vậy, rủi ro trong cho vay đã được chuyển từ bên cho vay là
công ty tài chính sang NH đầu tư. Nhà đầu tư trên thế giới đã đổ tiền mua CK này, nhờ
vậy đã cung cấp một lượng vốn khổng lồ cho thị trường bất động sản ở M ỹ tăng nóng.
Quá trình này đã biến các tài sản kém thanh khoản thành những chứng khoán có tính
thanh khoản cao.
Các món vay dưới chuẩn được chứng khoán hoá đưa ra giao dịch trên thị trường
nhưng chưa có một quy trình, phương pháp đánh giá một các đúng đắn làm giá cả của các
loại chứng khoán này trên thị trường cao hơn giá trị thực của nó. Điều này là kết quả của
sự móc nối, liên kết giữa ngân hàng và các công ty định mức tín nhiệm trong việc đánh
giá giá trị của các loại chứng khoán.
Với sự ra đời và phát triển nhanh chóng của các công cụ chứng khoán tái sinh và
hoạt động mở rộng chứng khoán hoá làm cho các đơn vị kiểm toán và p hân tích tín dụng
gặp khó khăn trong việc thu thập và phân tích, xử lý thông tin xuyên qua nhiều lớp thao
tác kỹ thuật để đánh giá về giá trị và độ rủi ro của các khoản đầu tư và tài sản của các
công ty và ngân hàng.
Trong khi đó, mô hình giám sát tài chính của Hoa K ỳ trước khủng hoảng không đủ
năng lực giám sát các rủi ro này. Những rủi ro mang tính hệ thống đã tồn tại và một khi
sự cố đối với bong bóng thị trường bất động sản xảy ra thì những rủi ro này sẽ làm mất
lòng tin ghê gớm của các bên liên quan. Thêm vào đó, việc thực hành cho vay liên ngân
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
16
hàng sẽ làm cho những tổn thất tín dụng lây lan ra toàn hệ thống ngân hàng; một ngân
Khủng hoảng tài chính thế giới
hàng phá sản sẽ kéo theo nhiều ngân hàng khác phá sản. Và mất lòng tin ở người gửi tiền
gây ra đột biến rút tiền gửi còn làm cho tình hình thêm nghiêm trọng và diễn ra nhanh
chóng hơn.
Giáo sư kinh tế Joseph Stiglitz, người được giải thưởng kinh tế Nobel kinh tế
2001, kết luận: “Hệ thống tài chính của Mỹ đã không thực hiện được hai trách nhiệm
chính của mình đó là quản lý rủi ro và phân chia vốn. Cả hệ thống tài chính Mỹ đã không
làm những gì mà nó đáng ra phải làm - chẳng hạn như tạo ra các sản phẩm để giúp người
Mỹ quản lý được những rủi ro nguy hiểm nghiêm trọng của mình, như là giữ lại được nhà
khi mức lãi suất cho vay tăng cao hoặc khi giá nhà rớt giá”.
2.1.3.3. Khủng khoảng niềm tin
Sự sụp đổ của một loạt các ngân hàng hàng đầu trong lĩnh vực đầu tư của Mỹ đã
làm người dân M ỹ và tiêu dùng ảnh hưởng nghiêm trọng, nhất là khi ở các nước phát
triển là một nền kinh tế tiêu dùng.
Hệ thống các ngân hàng trong con mắt mọi người trở nên mong manh khi mà ba
trong năm ngân hàng lớn tại thị trường phố Wall sụp đổ là Merrill Lynch, Lehman
Brothers, Bearstearns.
Thị trường tài chính dựa trên nguyên tắc độ tin cậy, và độ tin cậy đó đã bị xói
mòn, xuống cấp. Sự sụp đổ của Lehman Brothers là biểu tượng đánh dấu mức độ tin cậy
đã xuống một mức thấp mới và dư âm của nó sẽ còn tiếp tục. Một ngân hàng tồn tại hơn
158 năm đã cùng người Mỹ trải qua rất nhiều khó khăn, trải qua các cuộc suy thoái cùng
nước M ỹ lại sụp đổ. Quả thật là một cú sốc lớn đối với toàn bộ người dân Mỹ.
2.1.4. Sự lầm tưởng sức mạnh của nước Mỹ
Đã từ lâu từ sau chiến tranh thế giới thứ II, người dân Mỹ vẫn nghĩ họ là một quốc
gia hùng mạnh với kinh tế “khỏe mạnh”. Họ vẫn nghĩ mình là nước giàu có hơn bất kỳ
quốc gia nào. Cùng với những hình thức thanh toán mới, người tiêu dùng nhiều hơn
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
17
trong khi bản thân họ không thể sản xuất đáp ứng được nhu cầu đó. Hàng năm người dân
Khủng hoảng tài chính thế giới
Mỹ tiêu thụ một lượng hàng hóa mà họ không có khả năng chi trả khoảng 80 tỷ USD.
Người dân Mỹ không có xu thế tiết kiệm trước khi khủng hoảng diễn ra.
2.2. Diễn biến
2.2.1. Diễn biến cuộc khủng hoảng tại Mỹ:
Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 tại Mỹ lần này thực chất là biểu hiện rõ nét
nhất của một quá trình “khủng hoảng” rất lâu trước đó. Điểm lại những mốc sự kiện
chính trong chuỗi này để thấy khủng hoảng đã diễn ra như thế nào:
Năm 2002-2004: Giá cả ở các bang Arizona,California, Florida, Hawaii, và
Nevada tăng trên 25% /năm. Sự bùng nổ nhà đất ở M ỹ bắt đầu.
Năm 2005: Bong bóng nhà đất ở Mỹ vỡ vào tháng 08/2005. Thị trường bất động
sản tạm gián đoạn trên một vài bang ở M ỹ vào cuối mùa hè năm 2005 khi tỷ lệ lãi suất
tăng từ 1% lên đến 5.35% do có nhiều nhà kinh doanh bất động sản đã đánh giá thấp thị
trường.
Năm 2006: Thị trường bất động sản tiếp tục suy giảm. Giá giảm, kinh doanh bất
động sản, dẫn đến một lượng nhà dư thừa đáng kể. Chỉ số Xây dựng Nhà ở tại M ỹ hồi
giữa tháng 08 giảm hơn 40% so với một năm trước đó.
Năm 2007: Kinh doanh bất động sản tiếp tục thất bại. Số lượng nhà tồn ước tính
cao nhất từ năm 1989. Ngành kinh doanh bất động sản suy giảm với hơn 25 tổ chức cho
vay dưới chuẩn tuyên bố phá sản. Gần 1,3 triệu bất động sản nhà ở bi tịch thu để thế chấp
nợ, tăng 79% từ năm 2006.
Tháng 6/2007: Hai quỹ phòng hộ (hedge fund - một loại quỹ có tính đại chúng thấp
và không bị quản chế quá chặt) của Bear Stearns - ngân hàng đầu tư lớn thứ 5 của Mỹ -
quỵ ngã sau khi đánh cược vào các chứng khoán được đảm bảo bằng các khoản cho vay
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
18
bất động sản dưới chuẩn ở M ỹ.
Khủng hoảng tài chính thế giới
Ngày 15/10/2007: Citigroup - Tập đoàn ngân hàng hàng đầu nước Mỹ - công bố lợi
nhuận Quý 3 bất ngờ giảm 57% do các khoản thua lỗ và trích lập dự phòng lên tới 6,5 tỷ
USD. Giám đốc điều hành Citigroup Charles Prince từ chức vào ngày 4/11.
Ngày 11/1/2008: Bank of America - ngân hàng lớn nhất nước Mỹ về tiền gửi và
vốn hoá thị trường - đã bỏ ra 4 tỉ USD để mua lại Countryw ide Financial sau khi ngân
hàng cho vay thế chấp địa ốc này thông báo phá sản do các khoản cho vay khó đòi quá
lớn.
16-17/3/2008: Bear Stearns được bán cho Ngân hàng Đầu tư M ỹ JP Morgan Chase
với giá 2 đôla một cổ phiếu.
29/4/2008: Deutsche Bank lần đầu tiên trong năm năm công bố một khoản thua lỗ
trước thuế sau khi buộc phải trích lập dự phòng 4,2 tỷ USD cho các khoản nợ xấu và các
chứng khoán được đảm bảo bởi các khoản thế thấp bất động sản.
11/7/2008: Chính quyền liên bang M ỹ đoạt quyền kiểm soát Ngân hàng IndyM ac
Bancorp. Đây là một trong những vụ đóng cửa ngân hàng lớn nhất từ trước tới nay sau
khi những người gửi tiền đã rút ra hơn 1,3 tỷ USD trong vòng 11 ngày.
31/7/2008: Deutsche Bank công bố khoản trích lập dự phòng tiếp theo là 3,6 tỷ
USD, nâng tổng số tiền ngân hàng này mất lên 11 tỷ USD. Deutsche Bank trở thành một
trong 10 nạn nhân lớn nhất của cuộc khủng hoảng tín dụng toàn cầu.
7/9/2008: Cục Dự trữ Liên bang (Fed) và Bộ Tài chính Mỹ đoạt quyền kiểm soát
hai tập đoàn chuyên cho vay thế chấp Fannie Mae và Freddie Mac nhằm hỗ trợ thị trường
nhà đất Mỹ.
11/9/2008: Lehman Brothers tuyên bố đang nỗ lực tìm kiếm đối tác để bán lại chính
mình. Cổ phiếu của ngân hàng đầu tư này tụt giảm 45%.
14/9/2008: Bank of America cho biết sẽ mua M errill Lynch với giá 29 USD/cổ
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
19
phiếu sau khi từ chối đề nghị mua lại của Lehman Brothers.
Khủng hoảng tài chính thế giới
15/9/2008: Đây là ngày tồi tệ nhất tại Phố Wall kể từ khi thị trường này mở cửa trở
lại sau vụ khủng bố 2 toà tháp đôi tại Mỹ vào ngày 11 tháng 9 năm 2001. Lehman
Brothers sụp đổ đánh dấu vụ phá sản lớn nhất tại M ỹ; Merrill Lynch bị Bank of America
Corp thâu tóm; American International Group - tập đoàn bảo hiểm lớn nhất thế giới mất
khả năng thanh toán do những khoản thua lỗ liên quan tới nợ cầm cố.
16/9/2008: Ngân hàng trung ương các nước trên thế giới đã đổ hàng tỉ USD vào các
thị trường tiền tệ với nỗ lực hạ nhiệt tình trạng căng thẳng và ngăn chặn sự đóng băng của
hệ thống tài chính toàn cầu. Cổ phiếu AIG giảm gần một nửa. Fed công bố kế hoạch bơm
85 tỷ USD vào AIG và nắm giữ 80% cổ phần. Ngân hàng Barclays của Anh mua lại một
phần tài sản tại Bắc M ỹ của Lehman với trị giá 1,75 tỷ USD.
17/9/2008: Cổ phiếu của Goldman Sachs và M organ Stanley giảm mạnh; Tập đoàn
Lloyds TSB của Anh mua lại đối thủ HBOS; Uỷ ban Chứng khoán M ỹ kiềm chế tình
trạng bán khống.
19/9/2008: Các thị trường chứng khoán thế giới tăng vọt sau khi Mỹ công bố kế
hoạch mua lại tài sản của các tập đoàn tài chính đang gặp khó khăn, giúp làm thanh sạch
hệ thống tài chính.
20-21/9/2008: Công bố các chi tiết bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD. Hai ngân
hàng Goldman Sachs và Morgan Stanley được chuyển đổi thành tập đoàn ngân hàng đa
năng, đánh dấu sự kết thúc mô hình ngân hàng đầu tư tại Phố Wall.
22/9/2008: Tập đoàn Nomura Holdings của Nhật trả 525 triệu USD để thâu tóm
hoạt động của Lehman tại châu Á. Sau đó, Nomura cũng mua lại Lehman tại châu Âu và
Trung Đông. Mitsubishi UFJ Financial đồng ý mua 20% cổ phần Morgan Stanley.
25/9/2008: Washington Mutual Inc. (WaMu), một trong những ngân hàng lớn nhất
Mỹ đã sụp đổ cũng do đã đánh cược rất lớn vào thị trường cho vay thế chấp. Cơ quan
Bảo hiểm tiền gửi liên bang Mỹ (FDIC) đã đoạt quyền kiểm soát WaM u và sau đó bán
các tài sản của ngân hàng tiết kiệm lớn nhất Mỹ cho JPM organ Chase & Co. với giá 1,9
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
20
tỷ USD. Với 307 tỷ USD tổng tài sản, WaMu đã trở thành ngân hàng bị phá sản lớn nhất
Khủng hoảng tài chính thế giới
trong lịch sử Mỹ. Trong khi đó tại Washington D.C., các thành viên chủ chốt trong quốc
hội đã đồng ý về những điều khoản chính trong kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD.
29/9/2008: Hạ viện bất ngờ không thông qua kế hoạch giải cứu thị trường tài chính
Mỹ. Phản ứng ngay lập tức với quyết định trên, chỉ số công nghiệp Dow Jones tụt giảm
gần 780 điểm - mức giảm trong một ngày mạnh nhất từ trước tới nay.
1/10/2008: Thượng viện M ỹ thông qua bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD (tỷ lệ 74-
25) với một số điểm đã được thay đổi, bao gồm: gia hạn đạo luật cắt giảm thuế thu nhập
cho doanh nghiệp và cá nhân (dự tính sẽ làm ngân sách thất thu 149 tỷ USD); tăng hạn
mức bảo hiểm tiền gửi tại Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi Liên bang từ 100.000 USD lên
250.000 USD.
3/10/2008: Sau 3 giờ thảo luận và thuyết phục nhau, Hạ viện Mỹ đã bỏ phiếu lần
thứ hai và thông qua dự luật giải cứu với tỷ lệ phiếu 262-171. Không đầy 2 giờ sau đó,
Tổng thống Mỹ đặt bút ký để chính thức chuyển kế hoạch thành đạo luật.
Ngày 8/10/2008: Trong một nỗ lực phối hợp chưa từng có tiền lệ, Cục dự trữ liên
bang M ỹ (Fed), Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và 4 ngân hàng trung ương các
nước khác đã đồng loạt cắt giảm lãi suất nhằm giảm ảnh hưởng nghiêm trọng của cuộc
khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất kể từ cuộc Đại suy thoái năm 1930.
Ngày 14/10/2008: Chính phủ Mỹ công bố dành 250 tỉ USD trong gói giải cứu 700
tỉ USD để rót vào các ngân hàng lớn, đổi lại sẽ nhận được cổ phiếu ưu đãi của các ngân
hàng này. Đây là bước thay đổi lớn trong chiến lược giải cứu, vì trong kế hoạch ban đầu
Chính phủ vẫn hướng đến giải pháp mua lại nợ xấu ngân hàng, không mua cổ phần.
Ngày 11/12/2008: giới tài chính quốc tế phải xôn xao vì vụ gian lận tài chính lên tới
50 tỷ USD ở Phố Wall, mà “tác giả” lại chính là một trong những nhà giao dịch chứng
khoán huyền thoại của nước M ỹ, đồng thời là một cựu chủ tịch của sàn chứng khoán
Nasdaq - ông Bernard L. Madoff.
Trong thời đại toàn cầu hóa, khi các ngân hàng toàn cầu có mối quan hệ tín dụng
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
21
đan xen nhau chằng chịt, cuộc khủng hoảng tài chính của nền kinh tế lớn nhất là Mỹ đã
Khủng hoảng tài chính thế giới
nhanh chóng lây sang các nước khác. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng hiện nay ẩn chứa
nhiều nguyên nhân sâu xa và sẽ gây ra nhiều tác động lớn hơn nhiều so với những cuộc
Bảng 1: Danh sách các tổ chức tài chính bị phá sản hoặc phải sáp nhập trong cuộc khủng hoảng Mỹ
khủng hoảng tài chính trước đây.
Tên
Quy mô
Thiệt hại
Giải pháp
1
Lehman Brothers
15/09/2008: nộp đơn phá sản theo chương 1 Luật Phá sản Mỹ Là vụ phá sản lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ
Nợ ngân hàng: 613 tỷ đôla Nợ trái phiếu: 155 tỷ đôla Cổ phiếu mất giá trên 90% vào ngày 15/09/2008
Tổng tài sản: 639 tỷ đôla Tổng vốn góp cổ phần: $22490 tỷ đôla Số lượng nhân viên: 26200 người Là một trong 4 ngân hàng đầu tư lớn nhất của Hoa Kỳ
2 Merrill Lynch
Bán cho ngân hàng Mỹ (BoA) với giá 50 tỷ đôla
Tổng tài sản: 1,02 nghìn tỷ đôla Số lượng nhân viên: 60.000 người Xếp thứ 32 trong danh sách Global 2000 (các công ty lớn nhất thế giới)
Thua lỗ quý IV/2007: 9,83 tỷ đô Thua lỗ ròng quý I/2008: 1,97 tỷ đôla mất giá tài sản (2007): 16,7 tỷ đôla
3 AIG
16/09/2008: Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) cấp tín dụng 80 tỷ tương đương 79,9 % cổ phần
Cổ phiếu mất giá 60% vào ngày 16/09/2008 Thua lỗ 6 tháng đầu năm 2008: 13,2 tỷ đôla
Tổng tài sản: 1,05 nghìn tỷ đôla Tổng vốn góp ổ phần 78,09 tỷ đôla Số lượng nhân viên: 116.000 người Xếp thứ 6 trong danh sách Global 2000 (các công ty lớn nhất thế giới)
4
Countrywide Financial
01/07/2008: Bán cho ngân hàng Mỹ với giá 4,1 tỷ đôla
Thua lỗ (2007): 2,5 tỷ đôla Mất giá tài sản (2007): 1 tỷ đôla
Tổng tài sản: 211 tỷ đôla Là tập đoàn chiếm 20% tổng thế chấp của Mỹ, tương đương 3,5 GDP Tổ chức tiết kiệm và cho vay lớn thứ 3, đồng thời là ngân hàng có tốc độ phát triển nhanh nhất trong lịch sử nước Mỹ
5 Bear Stearns
30/05/2008: Bán cho JP Morgan Chase với giá 1,1 tỷ đôla
Thiệt haiij quý IV/2007: 859 triệu đôla Mất giá tài sản (2007): 1,9 tỷ đôla
Tổng tài sản: 350,4 tỷ đôla Tổng vốn góp cổ phần: 66,7 tỷ đôla Số lượng nhân viên: 15.500 người Là công ty chứng khoans lớn thứ 7 thế giới
6
IndyMac
11/07/2008: Tập đoàn Bảo hiểm Tiền gửi Liên bang Mỹ FDIC tiếp quản
Tổng tài sản: 32 tỷ đô Là tổ chức cho vay và gửi tiết kiệm lớn nhất ở Los Angeles. Đồng thời là tổ chức thế chấp
Tiền gửi khách hàng: 19 tỷ đô Chi phí 8,9 tỷ đô cho bảo hiểm tiền gửi Chi phí 541 triệu đô cho
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
22
Khủng hoảng tài chính thế giới
lớn thứ 7 ở Hoa Kỳ
các khoản tiền gửi vượt mức bảo hiểm
7 Freddie Mac
Thua lỗ (2007): 4,6 tỷ đôla Thua lỗ quý II/2008: 821 triệu đôla
07/09/2008: FED kí hợp đồng bỏ ra 1 tỷ đô hỗ trợ cho Freddie Mac, đổi lại giành quyền kiểm soát các cổ phiếu ưu đãi đặc biệt của công ty này.
Tổng tài sản: 794,4 tỷ đôla Tổng vốn góp cổ phần: 26,7 tỷ đôla Số lượng nhân viên: 5.281 ngườich Là công ty công lớn thứ 20 trên thế giới là công ty tài chính lớn thứ 2 về thế chấp tại Mỹ
8 Fannie Mae
07/09/2008: cùng với Freddie Mac bị FED tiếp quản
Thua lỗ (2007): 2 tỷ đôla Thua lỗ quý II/2008: 2,3 tỷ đôla
Tổng tài sản: 882,5 tỷ đôla Tổng vốn góp cổ phần: 44 tỷ đôla Là tổ chức hàng đầu trong thị trường thế chấp dưới chuẩn của Mỹ
9
New Century Financial Corp
Nộp đơn phá sản theo chương 11 Luật Phá sản Mỹ
Cổ phiếu mất 90% giá trị (tháng 03/2007) Giá trị thị trường giảm xuống còn 55 triệu đôla
Tổng thu nhập (năm 2006): 417 triệu đôla Giá bán trên thị trường: 1,75 tỷ đôla Số lượng ngân viên: 7.200 người Là tập đoàn cho vay dưới chuẩn lớn nhất của Mỹ
10 Ameri Bank
Tổng tài sản: 115 triệu đôla
19/09/2008: Tập đoàn Bảo hiểm Tiền gửi Liên Bang Mỹ FDIC tiếp quản
Tiền gửi khách hàng: 102 triệu đôla Chi phí 42 triệu đôla cho quỹ bảo hiểm tiền gửi
11
Washington Mututal Inc
Tổng tài sản: 307 tỷ đôla Washington Mutual là ngân hàng tiết kiệm lớn nhất Mỹ
Thua lỗ 53 tỷ đôla để từ tháng 6 và 17 tỷ đôla trong 2 tuần gần đây
26/09/2008: Chính phủ tiếp quản và sau đó bán lại cho JP Morgan Chase & Co với giá 1,9 tỷ đôla
12 Wachovia
Là ngân hàng lớn thứ 6 ở Mỹ Tổng tài sản: 327,9 tỷ đôla
30/09/2008: bị bán lại hco Citi Group với giá 2,16 tỷ đôla
Giá cổ phiếu của Wachovia đã sụt giảm tới 81,6%, còn 1,84 USD/ cổ phiếu Thua lỗ 9,7 tỷ đôla trong nửa đầu năm nay
N guồn: IRIC tổng h ợp
2.2.2. Diễn biến cuộc khủng hoảng tại các nước khác:
Hệ thống ngân hàng
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
23
Nhiều tổ chức tài chính của các nước phát triển, nhất là các nước ở châu Âu, cũng
Khủng hoảng tài chính thế giới
tham gia vào thị trường tín dụng nhà ở thứ cấp ở Hoa K ỳ. Chính vì vậy, bóng bóng nhà ở
của Hoa K ỳ bị vỡ cũng làm các tổ chức tài chính này gặp nguy hiểm tương tự như các tổ
chức tài chính của Hoa Kỳ. Những nước châu Âu bị rối loạn tài chính nặng nhất là Anh,
Iceland, Ireland, Bỉ và Tây Ban Nha.
Ngay từ tháng 9 năm 2007, Northern Rock của Anh bị tình trạng đột biến rút tiền
gửi và hậu quả là phải chịu quốc hữu hóa. Đột biến rút tiền gửi còn làm căng thẳng các ngân
hàng khác của nước này. Sang năm 2008, đến lượt Bradford & Bingley plc của Anh phải
chịu chia nhỏ thành 2 công ty riêng biệt. Các ngân hàng khác phải chịu đổi chủ sở hữu bao
gồm Catholic Building Society, Alliance & Leicester. London Scottish Bank và
Dunfermline Building Society phải chịu sự giám sát đặc biệt của Chính phủ Anh.
Ở Iceland đã xảy ra một cuộc khủng hoảng ngân hàng trên diện rộng. Ngay quý I
năm 2008, GD P của Iceland giảm 1,5%, mức giảm lớn nhất kể từ năm 1983 tới thời điểm
này. Glitnir, Straumur Investment Bank, Reykjavík Savings Bank phải chịu quốc hữu hóa.
Kaupthing, Landsbanki của nước này phải chịu đặt dưới sự quản lý của cơ quan giám sát tài
chính quốc gia.
Đầu năm 2008, xếp hạng tín dụng của Ngân hàng Ireland bị giảm, khiến cho giá cổ
phiếu của ngân hàng này sụt ghê gớm, giá cổ phiếu tại thời điểm đầu tháng 3 Năm 2008
giảm tới 99% so với giá đỉnh cao vào năm 2007. Đầu năm 2009, Anglo Irish Bank bị quốc
hữu hóa. Allied Irish Banks cũng phải chịu tình trạng cổ phiếu mất giá ghê gớm và phải
chấp nhận cải cách để nhận được khoản vay tái cơ cấu của Chính phủ.
Cuối năm 2008, Fortis của Bỉ bắt đầu bị bán dần, chỉ còn lại các bộ phận kinh doanh
dịch vụ bảo hiểm. Dexia chịu khoản lỗ 3,3 tỷ euro và phải xin Chính phủ Bỉ cho vay để
củng cố.
Ở Hà Lan, để đảm bảo hệ số an toàn vốn, ING Group đã phải xin Chính phủ Hà Lan
cho vay.
Ở Đức, ngày từ đầu năm 2008, người ta phát hiện ra rằng BayernLB đã chịu những
khoản lỗ lớn do tham gia vào thị trường tín dụng nhà ở thứ cấp ở H oa Kỳ. Sau đó, ngân
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
24
hàng này đã phải cầu xin sự giúp đỡ của Chính phủ Liên bang Đức.
Khủng hoảng tài chính thế giới
Thị trường chứng khoán
Ở châu Âu, chỉ số FTSE 100 từ mức 4789,79 xuống còn 4699,82. Chỉ số DAX ngày
2/3/2009 chỉ còn 3666,4099 điểm so với 8067,3198 ngày 27/12/2007. Chỉ số CAC 40 ngày
2/3/2009 cũng xuống mức thấp kỷ lục 2534,45 điểm.
Tại TTCK châu Á chỉ số Sensex (Ấn Độ) giảm 3,4%, Taiwans Banchmark (Đài
Loan) giảm 4,1%, Singapore giảm 3,2%…
Nhật Bản có một hệ thống tài chính tương đối vững vàng đã trải qua một thời kỳ tái
cơ cấu sau khủng hoảng 1996-1997. Tuy nhiên, tác động tiêu cực từ khủng hoảng tài chính
Hoa Kỳ vẫn khiến cho thị trường chứng khoán của nước này rối loạn. Chỉ số giá cổ phiếu
bình quân Nikkei đã xuống mức thấp lịch sử vào các ngày 8 và 10 / 10/ 2008.
Thị trường tiền tệ
Trước hết, có thể khẳng định, khác với cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á
năm 1997 - 1998 là khủng hoảng cơ cấu mang tính khu vực, cuộc khủng hoảng tài chính lần
này có mức độ trầm trọng hơn, không chỉ trong lĩnh vực tài chính ngân hàng mà còn lan
sang các ngành sản xuất, dịch vụ, tác động ở quy mô toàn cầu, có khả năng kéo dài; không
đơn thuần trong lĩnh vực kinh tế (tài chính, thương mại, việc làm) mà còn là khủng hoảng
về thể chế, mô hình phát triển của chủ nghĩa tư bản. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều chính
phủ trên thế giới đã bị sụp đổ do tác động của cuộc khủng hoảng này (Ai-xơ-len, Séc,
Hung-ga-ri...).
2.2.3. Diễn biến cuộc khủng hoảng tại Việt Nam:
Hệ thống ngân hàng
Mặc dù hệ thống ngân hàng Việt Nam không chịu ảnh hưởng trực tiếp từ cuộc khủng
hoảng tài chính đang diễn ra nhưng không phải là không có vấn đề. Những vấn đề mà hệ
thống ngân hàng gặp phải chủ yếu phát sinh từ những yếu tố nội tại.
Nhiều ngân hàng thương mại và các công ty tài chính đã “không ngần ngại” đầu tư
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
25
vào bất động sản và chứng khoán đã mang lại không ít hệ lụy cho nền kinh tế, góp phần
Khủng hoảng tài chính thế giới
không nhỏ vào việc đẩy nền kinh tế đi đến lạm phát thời gian qua.
Bên cạnh đó, tỷ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng do tăng trưởng tín dụng khá cao cũng
đặt hệ thống ngân hàng trước những thách thức không nhỏ. Riêng năm 2007, tỷ lệ tăng
trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng Việt Nam năm 2007 là 53% – một con số khá cao
cộng với khoảng 50% các khoảng dư nợ được thế chấp bằng bất động sản sẽ làm tăng tỷ lệ
nợ xấu trong những tháng cuối năm 2008 khi các khoản cho vay vào bất động sản trước đây
lúc thị trường này còn hấp dẫn sẽ đáo hạn.
Trong tình hình thị trường bất động sản vẫn chưa có dấu hiệu khởi sắc thì việc các
ngân hàng phải đối diện với khoản lỗ lớn là khó tránh khỏi. Tại Đại hội đồng cổ đông bất
thường của Ngân hàng Eximbank đã công bố nợ quá hạn của ngân hàng này là 1.361 tỷ
đồng, chiếm 6,09% tổng dư nợ, trong đó nợ xấu là 619 tỷ đồng và khoản nợ có khả năng bị
mất là 200 tỷ đồng. Theo lãnh đạo Eximbank, nợ xấu của ngân hàng này chủ yếu là các
khoản cho vay bất động sản., dư nợ cho vay bất động sản của Eximbank là 4.000 tỷ đồng,
chiếm 18,2% tổng dư nợ của ngân hàng.
Ngoài ra, nguy cơ về tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng vẫn đang còn tiềm
ẩn, mặc dù các giải pháp thắt chặt tiền tệ, ổn định kinh tế vĩ mô, kìm chế lạm phát của
Chính phủ đã phát huy tác dụng. Lãi suất cơ bản qua 06 đợt cắt giảm tính đến nay đã được
hạ xuống còn 8%, tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng được giảm xuống đáng kể đi kèm theo việc
tăng lãi suất trên tỷ lệ này, lãi suất cho vay trên thị trường liên ngân hàng và chiết khấu giấy
tờ có cũng giảm khá mạnh.
Song song đó, NH NN đã mua lại tín phiếu bắt buộc phát hành cho các ngân hàng
trước thời gian đáo hạn trị giá 20,3 ngàn tỷ đồng. Những động thái trên là dấu hiệu “nới
lỏng chính sách tiền tệ” một cách linh hoạt của Chính phủ nhằm tăng tính thanh khoản cho
hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện để ngân hàng hạ lãi suất cho vay để các doanh nghiệp có
thể tiếp cận nguồn vốn. Nhưng ảnh hưởng của lạm phát trong nước và của cuộc khủng
khoảng tài chính toàn cầu đang diễn ra đã làm sức mua trong nước và trên thị trường các
nước vốn là nơi tiêu thụ truyền thống sản phẩm xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam
giảm mạnh. Như vậy, hệ thống ngân hàng Việt Nam lại đối diện với một thách thức mới là
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
26
tìm đầu ra cho những đồng vốn của mình. Trong điều kiện thị trường bất động sản “đóng
Khủng hoảng tài chính thế giới
băng” và TTCK liên tục tuột dốc thì rõ ràng đây thật sự là một bài toán khó.
Thị trường chứng khoán
Theo các nghiên cứu cho thấy, cơn bão tài chính thế giới chưa có những tác động lớn
trực tiếp đến nền kinh tế nói chung và TTCK Việt Nam nói riêng là do tính liên thông và
hội nhập của nền kinh tế Việt Nam với nền kinh tế và thị trường tài chính thế giới chưa cao.
Tuy nhiên, dù không chịu ảnh hưởng trực tiếp nhưng TTCK Việt Nam cũng đã chịu sự tác
động nhất định từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Sự tác động này biểu hiện trên các
phương diện sau đây:
Một là, khủng hoảng tài chính với sức lan tỏa nhanh chóng đã tác động đến các quốc
gia vốn là thị trường xuất khẩu hàng hoá của nhiều doanh nghiệp niêm yết như Mỹ, Liên
minh Châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc…Khủng hoảng tài chính làm sức mua của các thị
trường trên giảm sút nghiêm trọng ảnh hưởng đáng kể đến kế hoạch doanh thu và lợi nhuận
của các doanh nghiệp niêm yết làm giá cổ phiếu của các doanh nghiệp này vốn đang sụt
giảm lại khó có khả năng phục hồi.
Hai là, khủng hoảng tài chính đã làm cho các nhà đầu tư nước ngoài bán ròng cổ
phiếu, trái phiếu. Tính từ đầu tháng 8/2008 đến đầu tháng 10/2008 các nhà đầu tư nước
ngoài đã liên tục bán ròng cổ phiếu với tổng giá trị lên 1.278 tỷ đồng và khoảng 13,5 ngàn
tỷ đồng đối với trái phiếu. Với giá trị bán ra khổng lồ này đã góp phần không nhỏ vào sự sụt
giảm của chỉ số VN-Index và Hastc-Index thời gian qua. M ặt khác, đồng nội tệ của nhiều
quốc gia bị ảnh hưởng nặng bởi lạm phát đã mất giá so với đồng USD vài chục phần trăm
trong khi sự giảm giá của đồng Việt Nam so với đồng USD và các ngoại tệ mạnh khác là
không đáng kể. Khả năng nhà đầu tư nước ngoài đã nhận định rằng đồng Việt Nam sẽ tiếp
tục mất giá cũng như các đồng tiền khác nên đã bán chứng khoán để mua ngoại tệ nhằm
kiếm lời.
Thứ ba, tác động rõ nét nhất của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến TTCK
Việt Nam là ở yếu tố tâm lý. Việc đầu tư theo đám đông đã gây khó khăn trong việc hoạch
định chính sách và điều tiết thị trường của cơ quan quản lý và trở thành mảnh đất màu mỡ
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
27
cho các hành vi làm giá, giao dịch nội gián, tung tin đồn thất thiệt…để trục lợi. Tâm lý mua
Khủng hoảng tài chính thế giới
bán theo đám đông lại trở nên nặng nề hơn khi nền kinh tế bị lạm phát. Từ cuối tháng
9/2008, rất nhiều thông tin tốt về nền kinh tế được phát đi như lãi suất cơ bản và giá xăng
liên tục giảm, chỉ số giá tiêu dùng giảm đáng kể đã không nhận được những phản ứng tích
cực nào từ thị trường và chỉ số chứng khoán cả 2 sàn Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội
đều giảm. Điều đó cho thấy nhà đầu tư Việt Nam đã không còn quan tâm đến các thông tin
tốt từ nền kinh tế trong nước nữa. Cái mà họ quan tâm là diễn biến tình hình giao dịch ở các
TTCK Mỹ, Anh, Nhật Bản…thế nào và sẽ có hành vi đầu tư tương tự. Vậy là cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu đã chuyển hướng tâm lý đầu tư của các nhà đầu tư Việt Nam: từ
đầu tư theo nhà đầu tư nước ngoài ở trong nước sang đầu tư theo các “nhà đầu tư ngoài
nước”. Tâm lý này trở thành một rào cản không nhỏ cho các nỗ lực của Chính phủ nhằm
vực dậy TTCK. Nhiều chuyên gia đã chỉ ra rằng, khi thị trường tài chính có biến động mạnh
ở một hoặc nhiều nước phát triển, các TTCK toàn cầu có độ liên thông lớn hơn rất nhiều so
với thời kỳ ổn định và Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó .
Thứ tư, tâm lý giá xuống đã làm méo mó vai trò là “phong vũ biểu” phản ánh “sức
khỏe” nền kinh tế và đe dọa tính thanh khoản của thị trường. Đó là khi, giá chứng khoán
xuống quá thấp thì người bán lại không muốn bán nhưng người mua cũng sẽ không dám
mua do vẫn còn lo sợ chứng khoán sẽ tiếp tục giảm nữa. Khi đó từ “khủng hoảng niềm tin”
thị trường sẽ chuyển sang một cuộc khủng hoảng khác nguy hiểm hơn nhiều: khủng hoảng
về tính thanh khoản.
Thị trường tiền tệ
Thương mại quốc tế của nước ta chịu tác động nghiêm trọng nhất. Theo Bộ Công
thương, do thị trường bị thu hẹp, thiếu các đơn đặt hàng mới, nên kim ngạch xuất khẩu quý
I/2009 ước đạt 13,479 tỷ USD, tăng 2,42% so với quý I/2008. Do sản xuất trong nước giảm
sút, nên nhu cầu nhập khẩu máy móc, vật tư, nguyên liệu giảm, làm cho kim ngạch nhập
khẩu quý I đạt khoảng 11,832 tỷ USD, giảm 45% so với cùng kỳ năm trước.
Đầu tư nước ngoài cũng chịu tác động tiêu cực, theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong
quý I/2009 vốn FDI đăng ký là 6,15 tỷ USD, bằng 65% cùng kỳ năm trước. Trong thời kỳ
khủng hoảng, hoạt động mua bán, sáp nhập (M &A) trở nên sôi động hơn, nhưng triển vọng
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
28
của hai năm sắp đến không mấy sáng sủa, các dự án đầu tư mới sẽ không nhiều.
Khủng hoảng tài chính thế giới
3. TÁC ĐỘN G CỦA KHỦNG HOẢNG ĐẾN NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI
3.1. Đối với nền kinh tế Mỹ:
3.1.1. Trong ngắn hạn
Trong ngắn hạn, năm 2009, chắc chắn kinh tế Mỹ không tránh khỏi suy thoái trầm
trọng. Dù được chính phủ bơm tiền vào các ngân hàng thương mại và mua các chứng
khoán chỉ còn ít giá trị, hệ thống tín dụng không thể hoạt động bình thường lại ngay.
Thông qua hai gói kích cầu của hai vị tổng thống G.W. Bush 700 tỷ và B. Obama 787 tỷ
Biểu đồ 7: Chỉ số Dow Jones 2006-2008
USD.
Hơn nữa, các nhà đầu tư vẫn còn hoang mang cao độ do chưa biết rõ hết mức độ
nghiêm trọng của sự mất mát. Họ nghĩ rằng tin xấu rồi sẽ hiện ra nữa.
Tâm lý sợ hãi hiện đang bao trùm lĩnh vực tài chính. Các ngân hàng rất dè chừng
trong việc cho vay, làm ảnh hưởng đến sản xuất của doanh nghiệp và đến khả năng chi
tiêu của dân chúng đối với các hàng hóa lâu bền như xe hơi. Mặt khác, cổ phiếu mất giá
và giá bất động sản giảm mạnh, giá trị danh nghĩa của tài sản người dân giảm mạnh theo
và do đó tiêu dùng trong dân đang và sẽ giảm mạnh. Sự đình trệ cả hai mặt cung và cầu
Biểu đồ 8: Giá dầu 1998-2008
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
29
sẽ làm kinh tế M ỹ suy thoái nặng.
Khủng hoảng tài chính thế giới
Giá dầu (USD/thùng) giảm mạnh từ giữa năm 2008 do lượng cầu giảm khi kinh tế thế giới xấu đi.
Vì các yếu tố đó, các dự báo về kinh tế Mỹ đều cho thấy những con số khá bi quan.
Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IM F), năm 2008 kinh tế Mỹ phát triển 1,6% và năm 2009 gần
như không tăng trưởng (0,1%). Nếu xét từng quý thì tình huống trước mắt trầm trọng
hơn.
Hàng loạt tổ chức tài chính trong đó có những tổ chức tài chính khổng lồ và lâu đời
bị phá sản đã đẩy kinh tế H oa Kỳ vào tình trạng đói tín dụng. Đến lượt nó, tình trạng đói
tín dụng lại ảnh hưởng đến khu vực sản xuất khiến doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất,
sa thải lao động, cắt giảm các hợp đồng nhập đầu vào. Thất nghiệp gia tăng ảnh hưởng
tiêu cực đến thu nhập và qua đó tới tiêu dùng của các hộ gia đình lại làm cho các doanh
nghiệp khó bán được hàng hóa. Nhiều doanh nghiệp bị phá sản hoặc có nguy cơ bị phá
sản, trong đó có cả 3 nhà sản xuất ô tô hàng đầu của Hoa Kỳ là General Motors, Ford
Motor và Chrysler LLC. Các nhà lãnh đạo 3 hãng ô tô này đã nỗ lực vận động Quốc hội
Hoa Kỳ cứu trợ, nhưng không thành công. Hôm 12 tháng 12 năm 2008, GM đã phải
tuyên bố tạm thời đóng cửa 20 nhà máy của hãng ở khu vực Bắc M ỹ. Tiêu dùng giảm,
hàng hóa ế thừa đã dẫn tới mức giá chung của nền kinh tế giảm liên tục, đẩy kinh tế H oa
Kỳ tới nguy cơ có thể bị giảm phát.
Cuộc khủng hoảng còn làm cho dollar Mỹ lên giá. Do dollar Mỹ là phương tiện
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
30
thanh toán phổ biến nhất thế giới hiện nay, nên các nhà đầu tư toàn cầu đã mua dollar để
Khủng hoảng tài chính thế giới
nâng cao khả năng thanh khoản của mình, đẩy dollar M ỹ lên giá. Điều này làm cho xuất
khẩu của H oa Kỳ bị thiệt hại.
Các nhà kinh tế hàng đầu đang xây dựng mô hình khủng hoảng theo mô hình nào
theo hình chữ L ,V ,W. Do đó có một số thời điểm với những báo cáo khả quan về kinh
tế, nhưng có lẽ đó chỉ là dấu hiểu tăng trưởng trong ngắn hạn mà chưa hẳn thoát được ra
ngoài khủng hoảng một cách thực sự.
3.1.2. Trong dài hạn
Nhìn vấn đề trong tương lai xa hơn, hiện nay có nhiều đánh giá khác nhau.
Tình hình của Mỹ hiện nay giống với cuộc đại khủng hoảng trong thập niên 1930 hoặc
giống với thời kỳ suy thoái của Nhật trong thập niên 1990. Đại khủng hoảng thập niên
1930 làm cho Mỹ mất 10 năm mới đưa mức sản xuất trở lại thời trước khủng hoảng. Nhật
cũng mất hơn 10 năm mới ổn định được hệ thống tín dụng và khôi phục nền kinh tế. Từ
các so sánh này, nhiều người lo là sự suy thoái hiện nay của kinh tế M ỹ có thể kéo dài tới
10 năm.
Tuy nhiên, so với đại khủng hoảng thập niên 1930, các đối sách của Mỹ hiện nay
không đơn độc mà có sự hợp tác của những nền kinh tế lớn vì sự tùy thuộc vào nhau,
nhất là thị trường tài chính đã lên cao độ, Mỹ sụp đổ sẽ kéo theo sự bất ổn ở các nền kinh
tế khác. Hiện nay việc hợp tác đã bắt đầu trong chính sách lãi suất.
Ngày 09/10/2008 cùng với M ỹ, ngân hàng trung ương của các nước lớn giảm lãi
suất ngắn hạn hàng loạt (M ỹ còn 1,5%, khối Euro 3,75%...). Riêng Nhật lãi suất đã ở
mức quá thấp (0,5%) nên kỳ này không thay đổi. Nỗ lực này có mục đích giảm phí tổn
điều động vốn của ngân hàng, giảm phí tổn vay vốn của doanh nghiệp và người tiêu thụ
nhằm kích thích sản xuất và chi tiêu. Trong những ngày tới, nếu cần, các nước sẽ can
thiệp trực tiếp vào thị trường ngoại hối để tránh sự biến động đột ngột trong tỷ giá các
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
31
đồng tiền chính.
Khủng hoảng tài chính thế giới
Hình 2: Mức độ ảnh hưởng khủng hoảng của các nước
Thêm vào đó, khác với thập niên 1930, hồi đó Mỹ và nhiều nước khác đều gặp khó
khăn ở mức độ gần như nhau, hiện nay kinh tế thế giới ngoài Mỹ phát triển khá mạnh.
Năm 2007, tăng trưởng ở M ỹ chỉ có 2% trong khi thế giới là 5%. Theo dự báo của IM F,
năm 2008 Mỹ tăng trưởng 1,6% trong khi thế giới 3,9%.
Cùng với cơ chế hợp tác đã có của các nước lớn, sự năng động của kinh tế thế giới
là điều kiện về thị trường giúp kinh tế Mỹ mau hồi phục. Hiện nay tỷ lệ thất nghiệp của
Mỹ độ 6%, có thể sẽ tăng lên trong năm 2009 nhưng, với các lý do vừa nói, không thể có
chuyện tăng lên tới mức 25% của thập niên 1930.
Một điểm nữa là chính phủ ngày nay đóng vai trò quan trọng hơn và hiệu quả hơn vì
có các cơ chế làm dịu tác động của khủng hoảng so với thập niên 1930. Để giảm sự lo âu
cho những người gửi tiết kiệm ở ngân hàng với số tiền lớn, chính phủ đã nâng mức bảo
hiểm số tiền gửi từ 100.000 USD lên 250.000 USD trong đầu tháng 10 này.
So với Nhật vào thập niên 1990, tình hình của Mỹ hiện nay cũng khác ít nhất ở hai
điểm. Thứ nhất, thị trường bất động sản của Nhật cuối thập niên 1980 và đầu thập niên
1990 tăng nhanh đến mức quá cao một cách bất thường, hình thành nền kinh tế bong
bóng quá lớn nên khi nổ tác động rất mạnh đến hoạt động sản xuất và tiêu thụ.
Tình hình của M ỹ hiện nay phức tạp hơn do các công cụ đầu tư tinh vi, khó kiểm
soát, nhưng riêng về giá bất động sản, sự biến động tăng giảm không lớn lắm so với Nhật
Bản 15 năm trước. Thứ hai, trong thập niên 1990 Nhật bị giảm phát nặng nên lãi suất
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
32
danh nghĩa giảm đến gần số không nhưng lãi suất thực vẫn cao. Hiện nay Mỹ lạm phát
Khủng hoảng tài chính thế giới
vài phần trăm nên dễ dùng chính sách tiền tệ kích thích sản xuất hơn Nhật hồi thập niên
1990.
Các yếu tố làm cho kinh tế Nhật hồi phục từ năm 2003 cũng cho thấy những gợi ý
cho khả năng hồi phục của kinh tế Mỹ hiện nay. Một mặt Nhật can thiệp tích cực vào thị
trường ngoại hối giữ cho đồng yen ở mức thấp, nhờ đó đẩy mạnh xuất khẩu. Mặt khác,
chính phủ bơm tiền vào ngân hàng, giải quyết vấn đề thiếu vốn cho vay.
Ngoài ra, kinh tế Trung Quốc tăng trưởng cao suốt cả một giai đoạn dài góp phần
tăng ngoại nhập để kinh tế Nhật chóng hồi phục. Cả 3 yếu tố này ngày nay cũng có thể
thấy trong trường hợp của kinh tế Mỹ. Do đó, vấn đề nợ xấu của Mỹ có lẽ không kéo dài
như Nhật 15 năm trước. Có thể từ cuối năm 2009 kinh tế Mỹ có triển vọng bước vào quá
trình hồi phục.
Với tình hình khủng hoảng, tình trạng thất nghiệp sẽ gia tăng. Tại Mỹ con số thất
nghiệp đã lên tới 9,5%, tại khu vực châu Âu là là 9,8%. Riêng tại Đức đầu tàu kinh tế
Châu Âu đã là 9%. Riêng ở Nhật là 5,5 %. Tình trạng thất nghiệp sẽ là thách thức đối với
các nước. Khi mà chỉ số thất nghiệp luôn là chỉ tiêu đánh giá nền kinh tế. Việc thất
nghiệp cao tạo sức ép lên ngân sách nhà nhà nước khi phải hỗ trợ tiền trợ cấp. Trong khi
ngân sách của các nước hiện nay có xu hướng thâm hụt cao.
3.2. Đối với khu vực sử dụng đồng Euro:
Cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ đã ảnh hưởng không ít đến nền kinh tế Châu
Âu. Khi Mỹ thực hiện các gói kích cầu thì các nước trong liên minh EU cũng lần lượt
đưa ra những gói hỗ trợ khổng lồ nhằm kích thích kinh tế phát triển. Và để có nguồn tài
trợ cho các gói kích cầu này, chính phủ các nước phải thực hiện vay trong nước và nước
ngoài dẫn đến tình trạng nợ công của các nước ngày càng nghiêm trọng. Dấu hiệu khủng
hoảng nợ công đã được thấy một cách rõ hơn khi mà tổng số nợ công trên thế giới đã ở
mức 35000 tỷ USD. Tình hình nợ công không chỉ diễn ra tại các nước nhỏ mà ngay cả
các nước lớn những đầu tàu kinh tế thế giới như Mỹ cũng đã nợ tới 11500 tỷ USD, tổng
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
33
số nợ của Mỹ chiếm tới 80% GDP của nước này hay nền kinh tế thứ hai thế giới , Nhật,
Khủng hoảng tài chính thế giới
cũng đã nợ tới 10000 tỷ USD gấp đôi GPD của nước này. Các nước Châu Âu cũng không
Bảng 2: Số liệu về thực trạng nợ và thâm hụt ngân sách năm 2009 của EU. Đơn vị tính: tỷ lệ % GDP
tránh khỏi rơi vào tình trạng nợ công này:
Dựa vào bảng trên, chúng ta có thể thấy tình trạng thâm hụt ngân sách của Hy Lạp
Biểu đồ 9: Tỷ trọng nợ công của Hy Lạp
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
34
nghiêm trọng nhất và cuộc khủng hoảng nợ công đã diễn ra đầu tiên tại Hy Lạp.
Khủng hoảng tài chính thế giới
Biểu đồ 10: Tỷ lệ thâm hụt ngân sách so với GDP của một số quốc gia trong EU
Nguồn: Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BI S), Ngân hàng Trung ương Hy Lạp.
Khi khủng hoảng nợ công diễn ra tại Hy Lạp, các nhà lãnh đạo EU và các nước
trong khu vực rất cố gắng tìm mọi biện pháp tháo gỡ bế tắc khủng hoảng nợ Hy Lạp,
nhưng tình hình châu Âu có vẻ đang xấu đi do lo ngại về khó khăn trong việc kiềm chế
khủng hoảng. Theo đánh giá của nguyên bộ trưởng tài chính M ỹ, John Snow, yêu cầu cắt
giảm thâm hụt là việc làm khó khăn do nợ nần cứ mở rộng, hầu như các nước phát triển
đều có rủi ro tài khóa và rủi ro quốc gia như nhiều nước châu Âu. Trong tình hình hiện
nay, rối loạn về t rái phiếu chính phủ là một trong những vấn đề trầm trọng nhất mà nền
kinh tế toàn cầu phải đối mặt. Thêm vào đó, những nước đang từ chối chấn chỉnh tài
chính cũng gây ra rủi ro cho kinh tế toàn cầu vì những nước này có thể bắt đầu in tiền để
trả nợ, điều này có thể gây áp lực lạm phát và làm suy yếu thị trường nợ liên quan đến
trái phiếu chính phủ. Trong đó, đồng tiền của quốc gia in tiền đầu tiên sẽ có sức mua cao
hơn những nước láng giềng, đây là nghiệp vụ chứa đựng nhiều rủi ro. Khi đó, mọi giấy tờ
có giá khác sẽ bù đắp cho trái phiếu chính phủ, một khi trái phiếu này lâm vào tình t rạng
vỡ nợ, thì rủi ro lạm phát phi m ã sẽ ập đến toàn bộ thị trư ờng nợ – một thị trường có thu
nhập cố định.
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
35
3.3. Đối với khu vực châu Á:
Khủng hoảng tài chính thế giới
Mỹ là nền kinh tế lớn nhất thế giới và hoạt động của các công ty đa quốc gia Mỹ
lan rộng đến tất cả các châu lục nên cuộc khủng hoảng ở Mỹ chắc chắn sẽ tác động đến
kinh tế thế giới, kể cả Á châu.
Tuy nhiên tác động này có lẽ không quá trầm trọng như cảm nhận của nhiều
người. Hơn nữa, từ cái nhìn trung và dài hạn về kinh tế Mỹ tương đối lạc quan như đã nói
thì nhiều nước Á châu cũng chỉ bị ảnh hưởng trong thời gian 1-2 năm trước mắt. M ặt
khác, với lượng dự trữ ngoại tệ rất lớn, nhiều nước Á châu sẽ có tiếng nói mạnh hơn
trong quan hệ với Mỹ và trong các diễn đàn quốc tế bàn về ổn định kinh tế thế giới.
Trước hết, Á châu chịu ảnh hưởng lớn nhất có lẽ là thị trường chứng khoán.
Chứng khoán ở Mỹ tụt dốc gây nên tâm lý bất an giữa những nhà đầu tư tại Á châu và thị
trường chứng khoán của những nước này cũng suy sụp theo. Tài sản của các cá nhân đầu
tư chứng khoán bị giảm sút làm giảm khả năng chi tiêu trong dân kéo theo sự đình đốn
trong sản xuất. Tuy nhiên hiệu quả này chỉ mạnh trong các nền kinh tế tiên tiến trong đó
thị trường chứng khoán đã phát triển đáng kể như Nhật, Hàn Quốc và Đài Loan.
Về thị trường xuất khẩu của các nước Á châu, do Mỹ còn chiếm vị trí khá cao nên
xuất khẩu và sản xuất của những nước này sẽ bị đình trệ, tuy rằng những nền kinh tế lớn
ở Á châu như Nhật và Trung Quốc trong những năm gần đây đã giảm đáng kể độ tùy
thuộc vào thị trường Mỹ. Chẳng hạn vào năm 2002 thị trường M ỹ chiếm tới 27% xuất
khẩu của Nhật nhưng đến năm 2007 chỉ còn độ 20%. Hiện nay Trung Quốc là thị trường
xuất khẩu lớn nhất của Nhật, không phải M ỹ. Đối với Trung Quốc từ năm 2007 thị
trường xuất khẩu lớn nhất cũng đã chuyển từ Mỹ sang EU. Dĩ nhiên tuy đã giảm, vị trí
của Mỹ vẫn còn cao và thị trường ở nước thứ ba (như Âu châu) bị ảnh hưởng của khủng
hoảng ở M ỹ thì xuất khẩu từ Á châu cũng gián tiếp bị ảnh hưởng.
Trong tình hình đó, nội nhu sẽ đóng vai trò quan trọng hơn. Mỹ cũng sẽ yêu cầu
các nền kinh tế lớn ở Á châu như Nhật, Trung Quốc, Hàn Quốc chuyển hướng chính sách
tăng nội nhu. Đồng tiền các nước này, nhất là đồng nhân dân tệ sẽ lên giá.
Nội nhu có lẽ không tăng đủ để bù vào chỗ giảm sút trong xuất khẩu nên tăng
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
36
trưởng kinh tế tại Á châu sẽ giảm tốc. Tuy nhiên không thể có chuyện suy sụp như ở M ỹ.
Khủng hoảng tài chính thế giới
Nhìn ở một mặt khác, cuộc khủng hoảng ở Mỹ sẽ làm tăng tiếng nói và vị trí của
các nước Á châu trong quan hệ với Mỹ và trong các nỗ lực quốc tế nhằm ổn định thị
trường tiền tệ và kinh tế thế giới. Với lượng dự trữ ngoại tệ rất lớn (Trung Quốc là 1.540
tỉ USD, đứng đầu thế giới; Nhật xếp vị trí thứ hai với 954 tỉ USD, Hàn Quốc 240 tỉ), các
nước Á châu này sẽ có thể dễ dàng mua nhiều trái phiếu chính phủ M ỹ, tham gia sở hữu
nhiều công ty tài chính của Mỹ và tích cực xuất vốn cho các dự án giúp những nước gặp
khó khăn về ngoại tệ. Hiện nay Nhật đã bắt đầu cho thấy vai trò đó. Tập đoàn tài chính
Mitsubishi UFG của Nhật đã mua 21% cổ phiếu của M organ Stanley, Tập đoàn Nomura
đã mua một số cổ phiếu của các cơ sở hoạt động của Lehman Brothers tại châu Á, châu
Âu và Trung Đông. Bộ trưởng Tài chính Nhật vừa đưa đề án yêu cầu IMF đứng ra lập
quỹ hỗ trợ các nền kinh tế gặp khó khăn và hứa sẽ đóng góp tích cực.
Một số ngân hàng, một số các công ty chứng khoán, bảo hiểm ở các nước Á châu
đang nắm giữ những chứng khoán do Fannie M ae và Freddie M ac phát hành nên phải
chịu tổn thất trong cuộc khủng hoảng ở M ỹ. AIG cũng là công ty hoạt động toàn cầu, có
mặt tại các thị trường lớn ở Á châu nên cũng gây những ảnh hưởng tương tự ở nhiều mức
độ khác nhau đến các ngân hàng hoặc công ty tài chính châu Á. Nhưng ảnh hưởng này
chỉ giới hạn trong một số công ty, một số ngân hàng chứ không lớn đến nỗi ảnh hưởng tới
cả nền kinh tế các nước Á châu, nhất là những nước chưa phát triển ở trình độ cao.
3.4. Đối với nền kinh tế Việt Nam
Với Việt Nam, đáy của khó khăn rơi vào quý I/2009 khi tăng trưởng GD P giai
đoạn này chỉ đạt mức 3,1%, mức thấp nhất trong hàng chục năm qua. Các hoạt động sản
xuất, thương mại, dịch vụ, xuất khẩu... đồng loạt gặp khó khăn, rơi vào đình trệ. Tốc độ
tăng GD P năm 2008 chỉ đạt 6,23%, thấp hơn 2,25% so với năm 2007. Mặt khác, lượng
kiều hối chuyển từ nước ngoài về Việt Nam giảm, đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm
khoảng 70%, xuống chỉ còn 2,2 tỉ USD trong năm 2009. Ngoài ra, thị trường bất động
sản tại các thành phố lớn đã bị suy giảm nặng nề và số người thất nghiệp năm 2009 tăng
gấp đôi; mức độ thuận lợi trong môi trường kinh doanh tại Việt Nam giảm từ thứ 87 năm
2008 xuống thứ 92 năm 2009... Thâm hụt cán cân thanh toán của Việt Nam năm 2009 là
8,868 tỷ USD, thâm hụt năm 2010 dự đoán tăng lên 9,716 tỷ USD; nền kinh tế vẫn nằm
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
37
trong tình trạng nguy cơ lạm phát... Theo IMF, suy thoái toàn cầu đã đi đến hồi kết,
Khủng hoảng tài chính thế giới
nhưng một sự phục hồi chậm chạp vẫn còn ở p hía trước và những ảnh hưởng của nó đến
nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng là tương đối lớn. Cụ thể:
3.4.1. Đối với thị trường tài chính
Mặc dù Việt Nam chịu ít tác động trực tiếp từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu, nhưng những tác động gián tiếp là tương đối lớn. Tác động này thể hiện t rước hết ở
thị trường chứng khoán Việt Nam. Nguồn vốn cung cấp cho thị trường giảm sút do các
nhà đầu tư nước ngoài rút bớt vốn để hỗ trợ cho các hoạt động ở quê nhà. Dù vốn từ các
nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam không nhiều, chỉ khoảng
20% tổng vốn, nhưng nếu họ rút bớt về thì sẽ ảnh hưởng ngay đến thị trư ờng chứng
khoán Việt Nam.
Trong bối cảnh suy thoái lan rộng trên phạm vi toàn cầu, các định chế tài chính sẽ
phải xem xét lại chiến lược đầu tư và danh mục đầu tư của mình. Điều đó có thể sẽ dẫn
đến những điều chỉnh nhất định đến dòng đầu tư vào thị trường vốn (cổ phiếu và trái
phiếu) Việt Nam. Hiện nay, giao dịch của các nhà ĐTNN chiếm 40%-50% giá trị giao
dịch và khoảng 25%-30% cổ phiếu trên TTCK Việt Nam.
Ngoài ra, điều đáng lo ngại nữa là việc phát hành và huy động vốn trên thị trường
quốc tế là khó khăn và chi phí tăng cao. Việc huy động vốn gián tiếp vào thị trường
chứng khoán trong thời gian tới cũng khó khăn do các nhà đầu tư sẽ hướng tới các kênh
đầu tư an toàn hơn và các nhà đầu tư trong nước cũng phải đối mặt với nhu cầu vốn phục
vụ cho mục đích sản xuất kinh doanh.
3.4.2. Đối với hoạt động xuất nhập khẩu
Trong lĩnh vực thương mại, một khi mà người tiêu dùng Mỹ nói riêng và người
tiêu dùng trên thế giới nói chung thắt chặt hầu bao thì nhiều nền kinh tế dựa chủ yếu vào
nguồn lợi từ xuất khẩu chắc chắn sẽ gặp rất nhiều khó khăn.Với Việt Nam cũng vậy, hiện
nay 60% GDP của chúng ta là từ xuất khẩu, mà M ỹ là t hị trường nhập khẩu quan trọng
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
38
các mặt hàng dệt may, da giày, thuỷ sản của Việt Nam.
Khủng hoảng tài chính thế giới
Khủng hoảng tài chính xuất phát từ Hoa Kỳ dẫn đến toàn cầu là yếu tố các doanh
nghiệp cho là nguyên nhân quan trọng đưa đến khó khăn cho xuất khẩu. Hiệp hội Chế
biến thủy sản cho biết, Mỹ đang thắt chặt tín dụng nên nhà nhập khẩu phải bán xong mới
trả tiền cho DN Việt Nam. Vì vậy DN Việt Nam không có vốn để tiếp tục sản xuất.
Không chỉ Hoa Kỳ, các thị trường xuất khẩu khác như Nhật, EU, ASEAN , châu Phi…
cũng đều bị thu hẹp. Ngoài việc giảm đơn hàng, giá bán hàng bán cũng bị giảm. Điều này
khó khăn cho DN xuất khẩu, vì giá thành sản phẩm không giảm do giá nguyên liệu đầu
vào, giá xăng dầu, vận tải, chi phí cho nhân công… vẫn không giảm hơn trước.
Chẳng hạn ngành chế biến gỗ, 80% nguyên liệu phải nhập từ Indonesia, Malaysia,
Brazil… Trong khi đó, cước vận chuyển hàng hóa tăng đến 40%. Theo đại diện Hiệp hội
Gỗ - Lâm sản Việt Nam, hiện có nguy cơ 20% DN trong lĩnh vực này bị phá sản, 30%
khó khăn, chỉ khoảng 50% trụ được...
Tuy nhiên, tính chung từ đầu năm 2008, đến thời điểm tháng 10/2008, xuất khẩu
vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá tốt. Cụ thể, các mặt hàng chủ lực vẫn đạt kim
ngạch xuất khẩu và tỷ lệ tăng trưởng tốt. Dầu thô đạt 9,4 tỷ USD, tăng 43% kim ngạch so
với cùng kỳ năm ngoái. Tương tự, than đá đá 1,2 tỷ USD, tăng 57%; dệt may 7,6 tỷ USD,
tăng 20%; giày dép 3,7 tỷ tăng 16%; điện tử và máy tính 2,2 tỷ USD, tăng 27,3%; gạo 2,6
tỷ USD, tăng 83%; cà phê 1,69 tỷ USD, tăng 9.5%; cao su 1,39 tỷ USD, tăng 28,9%; sản
phẩm gỗ đạt 2,23 tỷ USD tăng 18,6%...Xuất khẩu trong hai tháng đầu năm 2009 của Việt
Nam vẫn sụt giảm. Tuy nhiên, so với nhập khẩu có mức sụt giảm lớn hơn rất nhiều thì dù
không có thành tích tăng trưởng nhưng bất ngờ chúng ta lại có "thành tích" xuất siêu.
Như vậy, xuất siêu xuất phát chính từ việc nhập khẩu giảm chứ không phải do xuất khẩu
tăng. Đây được xem là một đột biến bất thường hơn là một dấu hiệu tăng trưởng.Trong
danh mục hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam thì chỉ có 4 mặt hàng tăng, trong đó hai mặt
hàng tăng đáng kể, còn gần 20 mặt hàng khác lại giảm. Tất cả các mặt hàng chủ lực như
dầu khí, dệt may, thủy sản... đều giảm mạnh. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào
một số thị trường lớn như EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản, ASEAN … đều giảm trên 20%. Hai
mặt hàng tăng là lúa gạo tăng 113% và kim loại quý tăng hơn 3.000%.
Từ biểu đồ sau, ta thấy được sự sụt giảm đáng kể kim ngạch xuất nhập khẩu ở m ột
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
39
số thị trường chủ yếu của việc năm từ sau cuộc khủng hoảng:
Khủng hoảng tài chính thế giới
Biểu đồ 11: Kim ngạch XNK các thị trường chủ yếu năm 2008-2009
(Nguồn: Số liệu tổng hợp từ Tổng cục thống kê)
Không riêng gì Việt Nam mà nhiều quốc gia ở châu Á còn phải chịu những tác
động sâu xa hơn từ việc thị trường xuất khẩu lớn nhất bị suy thoái. Mỹ là một nền kinh tế
70% tiêu dùng. M ột khi mà người tiêu dùng Mỹ thắt chặt hầu bao, không còn vung tiền
chi tiêu mua sắm ôtô, tivi, tủ lạnh, thực phẩm... thì các nền kinh tế dựa chủ yếu vào
Biểu đồ 12 : KNXK sang một số thị trường lớn từ năm 2007 đến năm 2009
14.000
12.000
10.000
2007
8.000
2008
6.000
2009
4.000
2.000
0
ASEAN
EU
Trung Quốc Nhật Bản
Hoa Kỳ
Nguồn: http:www.moit.gov. vn
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
40
nguồn lợi từ xuất khẩu chắc chắn sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
Khủng hoảng tài chính thế giới
3.4.3. Đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Với cuộc khủng hoảng tài chính lan rộng trên phạm vi toàn cầu như hiện nay, có
thể nói hầu hết các doanh nghiệp M ỹ và Châu Âu sẽ giảm đầu tư trực tiếp ra nước ngoài,
nên việc thu hút FDI ở hai thị trường này của Việt Nam đều bị tác động đáng kể. Hơn thế
nữa, chi phí huy động vốn toàn cầu có thể ngày càng tăng do biên độ tín dụng gia tăng
dẫn tới khả năng thu hút đầu tư bị hạn chế; tiêu dùng có thể giảm sút dẫn tới việc giải
ngân FDI giảm.Vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam bị chững lại, thậm chí vốn đã cam
kết sẽ thực hiện trễ hơn bởi khoảng 80% vốn đầu tư vào Việt Nam là đi vay. Khi không
đi vay được thì nhà đầu tư sẽ khó giải ngân vào Việt Nam. Vốn cam kết thì lớn, nhưng
vốn thực hiện có thể thấp, tình hình giải ngân những tháng cuối năm sẽ gặp khó khăn.
Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam vốn cao và thường mang tính
dài hạn nên sẽ không bị ảnh hưởng nhiều lắm, nhưng vốn đầu tư gián tiếp (FII) thì có thể
có chịu ảnh hưởng ở mức độ nào đó.
3.4.4. Đối với tình trạng thất nghiệp
Kinh tế thế giới chao đảo hình thành nên "cơn lốc sa thải" với tốc độ lây lan nhanh
chóng. Trong số các doanh nghiệp buộc phải cắt giảm việc làm, xuất hiện cả những cái
tên "đình đám" nhất như: Yahoo, General Electric, Coca-Cola, Goldman Sachs,
Citigroup... và tất nhiên là tất cả các hãng xe hơi danh giá. Nhiều người cho rằng cuộc
khủng hoảng tài chính đang ở tầm xa, ảnh hưởng của nó đến Việt Nam sẽ không lớn. Tuy
nhiên, trên phương diện này, khi xét về thị trường lao động trong nước, chúng ta cũng
cần nhìn nhận một cách tỉnh táo. Những biến động từ cuộc khủng hoảng cùng với sức ép
từ việc điều chỉnh tiền lương đã khiến ngay cả các đại gia lớn như tập đoàn FPT, Công ty
Sony tại Việt Nam, công ty sản xuất và lắp ráp ô tô Trường Hải... phải lên kế hoạch điều
chỉnh nhân sự. Cụ thể:
Bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 6/2008, tình hình kinh doanh của FPT bị ảnh hưởng
mạnh, nhiều dự án về công nghệ thông tin có khả năng bị cắt giảm do đồng đôla khan
hiếm. Vì vậy, để đảm bảo kế hoạch tăng trưởng, FPT đã p hải cơ cấu và thu hẹp quy mô
nhân sự, khoảng 1.000 nhân viên của tập đoàn này buộc phải thôi việc (chiếm 10% nhân
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
41
sự FPT). Tháng 9/2008, công ty Sony quyết định đóng cửa nhà máy sản xuất tại Việt
Khủng hoảng tài chính thế giới
Nam sau 14 năm hoạt động, chuyển sang kinh doanh thương mại hàng nhập khẩu nguyên
chiếc đã khiến gần 200 công nhân rơi vào tình trạng thất nghiệp. Khó khăn trong kinh
doanh, sản lượng ô tô bị giảm sút (chỉ đạt 1.400 chiếc tính đến hết tháng 6), Tổng công ty
Công nghiệp ôtô (Vinamotor) cũng đã phải giảm bớt số lao động dôi dư. Một số đơn vị
thành viên của tổng công ty này như: Nhà máy Ôtô 1-5, Nhà máy Ôtô 3-2 đã tạm dừng
ký hợp đồng với lao động thời vụ (3 tháng, 6 tháng, 9 tháng). Cũng trong hoàn cảnh
tương tự, Công ty sản xuất và lắp ráp ôtô Trường Hải (khu kinh tế mở Chu Lai, Núi
Thành, Quảng Nam) có thông báo cắt giảm 30% số lao động ở nhiều bộ phận (tương
đương gần 500 công nhân).
Từ cuối năm 2008 đến nay, nhiều doanh nghiệp trong các khu công nghiệp đã cắt
giảm một lượng lao động đáng kể do suy giảm kinh tế. Nhìn chung, tỷ lệ thất nghiệp của
Việt Nam hiện nay là khoảng 4,65%, tăng 0,01% so với năm 2007. Trong khi đó, tỷ lệ
lao động thiếu việc làm hiện nay là 5,1%, tăng 0,2% so với năm 2007. Đáng chú ý, tỷ lệ
thiếu việc làm nông thôn lên tới 6,1%, trong khi tỷ lệ này ở khu vực thành thị là 2,3%.
3.4.5. Đối với du lịch
Trước tình hình ảm đạm của kinh tế thế giới, lượng khách du lịch quốc tế đến Việt
Nam cũng có dấu hiệu giảm sút, ngành du lịch Việt Nam đang nỗ lực tìm kiếm các biện
pháp để vượt qua khó khăn, duy trì tăng trưởng. Bắt đầu t ừ tháng 6/2008, mức tăng
trưởng của du lịch quốc tế đã có dấu hiệu suy giảm. Năm 2009, do nền kinh tế tiếp tục
còn khó khăn nên mức tăng trưởng du lịch theo Tổ chức Du lịch Thế giới chỉ từ 0% đến
2%. Châu Á – Thái Bình Dương là những vùng có suy giảm nhanh chóng nhất. Ảnh
hưởng xấu của cuộc khủng hoảng đã tác động đến tất cả các nước: Trong Quý III, khách
tới Trung Quốc giảm 9,3%, khách tới Hồng Kông giảm 2,2%, khách tới Nhật Bản giảm
2%, tới Singapore giảm 5,2%, tới Việt Nam giảm 6,9% so với cùng kỳ năm 2007.
Tổng lượng khách quốc tế đến Việt Nam trong cả năm 2008 đạt khoảng 4,2 triệu
lượt; khách du lịch nội địa ước đạt 20 triệu lượt; thu nhập xã h ội từ du lịch năm 2008 ước
đạt 60.000 tỷ đồng. Theo thống kê của các doanh nghiệp lữ hành, tình trạng khách du lịch
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
42
giảm tới nay vẫn chưa có dấu hiệu phục hồi đáng kể.
Khủng hoảng tài chính thế giới
Nhìn chung, từ năm 2009 đến nay, nền kinh tế Việt Nam đã phục hồi khá tốt trong
bối cảnh khó khăn chung của kinh tế thế giới và khu vực. Tăng trưởng kinh tế đã tăng rõ
rệt hơn theo thời gian, quí sau cao hơn quí trước. Năm 2009 đạt mức tăng trưởng GDP
5,32% là khá tốt trong khu vực. Các nước trong khu vực đều bị ảnh hưởng bởi cuộc
khủng hoảng kinh tế toàn cầu, thường nước nào tăng trưởng tốt thì đạt 4-5%. Như vậy,
nền kinh tế Việt Nam đang bắt đầu hồi phục và quay lại con đường phát triển như đã kỳ
vọng.
4. GIẢI PHÁP NHẰM VƯỢ T QUA KHỦNG HO ẢNG CỦA CÁC QUỐC GIA
TRÊN THẾ GIỚ I VÀ VIỆT NAM
4.1. Giải pháp của các quốc gia, tổ chức trên Thế giới
Khủng hoảng tài chính diễn ra nhưng nguyên nhân của khủng hoảng tài chính vẫn
đang là vấn đề tranh cãi của các nhà kinh tế, các nhà nghiên cứu và các chính trị gia trên
thế giới trong đó nổi bật 02 quan điểm về nguyên nhân của khủng hoảng: (1) do mất cân
đối toàn cầu dẫn đến dòng chảy tài chính chảy vào Mỹ tạo áp lực khiến lãi suất của Mỹ
được duy trì ở mức thấp, từ đó phát sinh những khoản cho vay tín dụng dưới chuẩn; (2)
do hệ thống giám sát tài chính bị buông lỏng, các chỉ số tài chính của các tổ chức tài
chính phi ngân hàng không được quan tâm trong khi tính ràng buộc lẫn nhau của các tổ
chức tài chính này với hệ thống tài chính là khá cao và là nguyên nhân gây nên khủng
hoảng.
Mặc dù có sự khác nhau về quan điểm nhìn nhận nguyên nhân của khủng hoảng
tài chính toàn cầu hiện nay, nhưng thực tế khủng hoảng tài chính toàn cầu đã xảy ra và
tác động ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế thế giới là rất lớn. Sự lan rộng của khủng
hoảng khiến cho Chính phủ nhiều nước phải bắt tay vào đối phó khủng hoảng nhằm hạn
chế tác động xấu của khủng hoảng tài chính. Cụ thể có một số biện pháp ứng phó với
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
43
khủng hoảng như sau:
Khủng hoảng tài chính thế giới
STT
Các biện pháp ứng phó của Chính phủ các nước
01
Quốc hữu hóa toàn bộ hoặc m ột phần ngân hàng và quỹ tư nhân
02
Kiểm soát các quỹ đầu tư
03
Mua cổ phần hoặc tài sản từ các tổ chức tài chính
04
Bãi bỏ thuế đối với các khoản đầu tư nước ngoài
05
Hạ lãi suất cơ bản
06
Vay tiền từ tổ chức tài chính quốc tế
Bảo lãnh tất cả các khoản tiền gửi, trái phiếu và nợ của một số ngân hàng lớn trong
07
02 năm .
08
Khuyến khích sáp nhập ngân hàng yếu kém
09
Cho phép một số ngân hàng tuyên bố phá sản
10
Mua lại các khoản nợ của các ngân hàng đang có vấn đề hoặc bị phá sản
11
Cấp t iền cho ngân hàng để trả các khoản nợ nước ngoài
12
Huy động tiền từ các nhà đầu tư toàn cầu để chống đỡ cơn khủng hoảng
13
Nới lỏng quy định cho phép các công ty mua cổ phiếu của chính họ
IMF:
Tổ chức này đang thực hiện hình thức hiệp định vay song phương nhằm củng cố
thêm nguồn vốn cho vay các nước thành viên để đối phó với cuộc khủng hoảng kinh tế
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
44
toàn cầu.
Khủng hoảng tài chính thế giới
Đồng thời IMF cũng lần đầu tiên phát hành kỳ phiếu có trả lãi để bỏ sung nguồn
vốn cho vay của mình.
IMF cũng tăng tường cho vay ưu đãi và cân nhắc việc sử dụng các khoản thu từ
việc bán đi một phần vàng đang nắm giữ của quỹ để tăng khả năng cho vay đối với các
nước nghèo, chịu ảnh hưởng nặng ề của cuocj khủng hoảng.
IMF dang thực hiện tốt tiến độ mục tiêu cho vay 250 tỉ USD đối với chính phủ các
nước thành viên, được xem là một phần trong quá trình gia tăng nguồn vốn cho vay của
Quỹ lên gấp 3 lần để đạt được mục tiêu 750 tỉ USD. Hành động này cũng nằm trong quá
trình bơm tiền mặt cho nền kinh tế toàn cầu thông qua việc giải ngân 250 tỉ đô trong tài
sản dự trữ của IM F bằng hình thức quyền rút vốn đặc biệt (SDRs)
IMF đang trong quá trình hoàn thành mục tiêu vay song phương với các nước
thành viên. M ột số thỏa thuận vay đã ký kết với Nhật Bản (100 tỉ USD), Canada (10 tỉ
USD) và Nauy (4,5 tỉ USD).
Ngoài ra, các thành viên của công đồng Châu Âu cam kết khoảng 100 tỉ USD và
Thụy Sỹ cam kết 10 tỉ USD.
Mỹ :
Đứng trước tình hình hết sức khó khăn của phố Wall, Bộ Tài Chính và Cục dự trữ
liên bang M ỹ đã công bố kế hoạch giải cứu thị trường với tổng giá trị là 700 tỷ USD chủ
Hình 3: Gói cứu trợ kinh tế của Mỹ
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
45
yếu để mua lại các khoảng nợ xấu của các định chế tài chính.
Khủng hoảng tài chính thế giới
Dưới đây là 3 nhóm giải pháp can thiệp chính của chính phủ M ỹ:
Giải pháp 1 - Các nghiệp vụ hoán đổi tài sản - TAF (Term Auction Facility) và
TSLF (Term Securities Lending Facility): Vào cuối năm 2007 và đầu 2008, cuộc khủng
hoảng cho vay bất động sản dưới chuẩn đã khiến cho nhiều ngân hàng thương mại
(NHTM ) và tổ chức đầu tư tài chính lớn rơi vào tình trạng không còn khả năng chi trả, có
thể rơi vào tình trạng phá sản. Vì các tổ chức đầu tư tài chính không được phép tiếp cận
FED thông qua thị trường mở và vì các tổ chức tài chính đã cạn kiệt trái phiếu chính phủ
(T-bonds), nên FED đã đưa ra hai công cụ điều hành tiền tệ hoàn toàn mới là TAF và
TSLF để đối phó với tình trạng này. Về bản chất, hai công cụ này cho phép các NHTM và
một số tổ chức tài chính lớn được phép dùng các loại trái phiếu thương mại để vay tiền mặt
hoặc tráo đổi (swap) lấy trái phiếu chính phủ từ FED. FED hy vọng rằng hai công cụ này
có thể giải quyết được vấn đề thanh khoản, đồng thời vẫn duy trì được các nghiệp vụ
truyền thống của mình (như thiết lập các mức lãi suất cơ sở và lãi suất chiết khấu, và các
nghiệp vụ thị trường mở).
Nghiệp vụ hoán đổi tài sản này tuy không làm thay đổi tổng tài sản của FED
nhưng đã làm giảm chất lượng tài sản của FED, tức đồng USD. Đồ thị trong Hình 2 dưới
đây thể hiện cấu trúc tài sản của FED. Nó cho ta thấy từ tháng 12/2007 những tài sản tốt của
FED như trái phiếu chính phủ (sercurity held outright) đã bị giảm đáng kể, và thay vào đó là
những tài sản xấu mà các NHTM và tổ chức tài chính mang ra hoán đổi (thể hiện trên đồ
Biểu đồ 13: Cấu trúc tài sản trong bảng cân đối tài sản của FED, 6/28/2007-1/15/2009
Đơn vị: triệu USD
Nguồn: Bagus and Schiml (2010).
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
46
thị là các mục term auction credits, commercial paper và other assets).
Khủng hoảng tài chính thế giới
Giải pháp 2 - Gói kích cầu trị giá 168 tỷ USD. Vào tháng 3/2008, chính quyền Bush
đưa ra một gói kích cầu trị giá 168 tỷ USD nhằm giảm thuế cho tất cả những người đóng
thuế ở M ỹ cũng như cho các doanh nghiệp đầu tư mới. Gói kích cầu này, như ta đã
thấy, không những không ngăn chặn được suy thoái do chu kỳ kinh doanh, mà lại còn
khiến cho các nhà đầu tư tiếp tục lao vào đầu cơ các loại nguyên liệu thô vì hy vọng rằng
nền kinh tế sẽ hồi phục. Hệ quả là giá các loại nguyên liệu thô đã bị đấy lên cao chưa từng
có, đẩy hệ thống sản xuất toàn cầu vào tình trạng mất cân đối nghiêm trọng.
Giải pháp 3 - Chính sách giải cứu các tổ chức tài chính sắp phá sản. Chính sách
này được chính phủ Mỹ thực hiện từ tháng 3-2008. Những gói giải cứu này tất nhiên đã
giúp cho những tổ chức được nhận tiền cứu trợ không bị phá sản. Tuy nhiên, hậu quả mà
nó gây ra không chỉ đơn thuần là làm tăng gánh nặng cho những người đóng thuế cũng
như ngăn cản những doanh nghiệp tốt còn lại phát triển. Điều nguy hiểm nhất của những
chương trình cứu trợ này là chúng tạo ra sự bất định chính quyền (regime uncertainty),
tương tự như New Deal của chính quyền Roosevelt tạo ra trong thời kỳ 1933-1938.
Ngoài ra, ngay khi khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp nổ ra, Fed bắt đầu can thiệp
bằng cách hạ lãi suất và tăng mua MBS. Đến khi tình hình phát triển thành khủng hoảng
tài chính từ tháng 8 năm 2007, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (Fed) đã tiếp tục tiến hành
các biện pháp nới lỏng tiền tệ để tăng thanh khoản cho các tổ chức tài chính. Cụ thể là lãi
suất cho vay qua đêm liên ngân hàng đã được giảm từ 5,25% qua 6 đợt xuống còn 2% chỉ
trong vòng chưa đầy 8 tháng (18/9/2007-30/4/2008).[34] Lãi suất này sau đó còn tiếp tục
giảm và đến ngày 16/12/2008 chỉ còn 0,25%, mức lãi suất gần 0 hiếm thấy.
Fed còn thực hiện nghiệp vụ thị trường mở (mua lại các trái phiếu chính phủ Hoa
Kỳ mà các tổ chức tài chính nước này có) và hạ lãi suất tái chiết khấu. Giữa tháng 12 năm
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
47
2008, Fed tuyên bố có kế hoạch thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ mặt lượng.
Khủng hoảng tài chính thế giới
Biểu đồ 14: Mua repo MBS của Fed tăng vọt vào cuối năm 2007.
Với việc FED cho các định chế tài chính như AIG, Citigroup vay trực tiếp cũng như
mua lại các khoản nợ xấu của Fannie Mae, Freddie Mae, và các ngân hàng cho vay cầm
cố khác, FED đã không chỉ dừng ở việc hoán đổi tài sản tốt lấy tài sản xấu mà còn trực
tiếp bơm ra ngoài thị trường hàng ngàn tỷ USD để đối lấy những tài sản ngày càng xấu
hơn. Hình 2 cho thấy đến cuối năm 2008, tài sản tốt của FED chỉ còn chiếm khoảng hơn
30% so với mức 95% của cuối năm 2007.
Các nước Châu Âu
Ngày 08/10/2008, trong một động thái chưa từng có, Chính phủ Anh vừa tuyên bố
một chương trình giải cứu khổng lồ dành cho hệ thống ngân hàng của nước này.
Nội dung kế hoạch :Chính phủ Anh sẽ mua lại lượng cổ phiếu ưu đãi trị giá tới 50 tỷ
Bảng, tương đương 87 tỷ USD, của nhiều ngân hàng và tổ chức tín dụng nhà ở, 200 tỷ
Bảng để tái cấp vốn cho các ngân hàng và 250 tỷ Bảng để bảo lãnh nợ cho các ngân
hàng. Số tiền đầu tư vào mỗi ngân hàng sẽ khác nhau và phụ thuộc vào một số yếu tố như
cổ tức, lương lãnh đạo của các ngân hàng… Chính phủ Anh cũng yêu cầu các ngân hàng
được rót vốn phải cho các doanh nghiệp nhỏ và người sở hữu nhà được vay tiền. Hiện đã
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
48
có 8 ngân hàng và tổ chức tín dụng nhà ở của Anh khẳng định họ sẽ tham gia vào chương
Khủng hoảng tài chính thế giới
trình này là Abbey, Barclays, HBOS, HSBC, Lloyds TSB, Nationwide Building Society,
RBS và Standard Chartered.
Ngày 13/10/08, 3 ngân hàng hàng đầu của Anh là Royal Bank of Scotland, HBOS
và Lloyds đã tiếp nhận khoản vốn khổng lồ 37 tỷ Bảng (64 tỷ USD) từ Chính phủ nước
này như một phần trong kế hoạch giải cứu ngành ngân hàng của Anh.
13/10/08 Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) cho biết, các ngân hàng trung ương lớn
sẽ cung cấp USD với khối lượng không giới hạn cho các tổ chức tài chính nhằm phục hồi
niềm tin và đảm bảo thanh khoản cho thị trường. Theo đó, Ngân hàng Trung ương Anh
(BoE), Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và Ngân hàng Trung ương Thụy Sỹ
(SNB) sẽ tiến hành đấu giá các khoản vay bằng USD có kỳ hạn 7 ngày, 28 ngày và 84
ngày với mức lãi suất cố định và khối lượng không giới hạn. Ngân hàng Trung ương
Nhật Bản (BoJ) cũng sẽ cân nhắc áp dụng các biện pháp tương tự.
Ngày 16/10/2008, Chính phủ Thụy Sỹ đã công bố gói hỗ trợ trị giá 59,2 tỷ USD
dành cho ngân hàng lớn nhất nước này là UBS. Bên cạnh đó, Chính phủ Thụy Sỹ cũng
đang có kế hoạch nâng trần bảo hiểm tiền gửi tiết kiệm và sẵn sàng đảm bảo cho các
khoản vay ngắn hạn và trung hạn trên thị trường liên ngân hàng - tương tự như các biện
pháp mà hầu hết các nước châu Âu đã áp dụng, mà đi đầu là nước Anh. Theo kế hoạch
này, UBS sẽ nhận được 6 tỷ Franc Thụy Sỹ, tương đương 5,2 tỷ USD, từ Chính phủ. Đổi
lại, Chính phủ Thụy Sỹ sẽ có được lượng cổ phần 9,3% trong UBS. Bên cạnh đó, UBS
cũng chuyển lượng tài sản xấu trị giá 60 tỷ USD sang một quỹ do Ngân hàng Trung ương
Thụy Sỹ (SNB) hỗ trợ. SNB sẽ dành cho quỹ này một khoản vay 54 tỷ USD.
Châu Á
Đối với khu vực Châu Á, mặc dù không nằm trong trung tâm của cuộc khủng
hoảng nhưng nguy cơ đối với khu vực này ngày càng tăng trước những diễn biến tiêu
cực trong môi trường tài chính và kinh tế vĩ mô toàn cầu. Điều này là do độ mở lớn của
nền kinh tế trong khu vực và mối quan hệ phức tạp giữa khu vực sản xuất và tài chính đã
làm tăng tốc độ và mức độ lây lan của cuộc khủng hoảng. Tác động lan truyền khủng
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
49
hoảng diễn ra qua các kênh thương mại, tài chính và đầu tư do nhiều nước trong khu vực
Khủng hoảng tài chính thế giới
theo đuổi mô hình tăng trưởng dựa trên xuất khẩu và phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn
bên ngoài. Do vậy, khi cuộc khủng hoảng xảy ra, nhiều nước phải đối mặt với tình trạng
xuất khẩu giảm sút mạnh và các luồng vốn đảo chiều (bao gồm cả đầu tư trực tiếp và
gián tiếp). Vừa qua, IMF đã giảm một nửa con số dự báo tăng trưởng của Châu Á trong
năm 2009 xuống còn 2,5% do các nền kinh tế mở của Châu Á đặc biệt phụ thuộc vào
xuất khẩu và do vậy dễ bị tác động bởi tình t rạng cầu giảm đang diễn ra ở Mỹ và Châu
Âu.
- Gói kích thích của Trung Quốc chủ yếu hướng tới xây dựng cơ sở hạ tầng (45%
của tổng gói kích thích 4000 tỷ, hay tương đương 1800 tỷ nhân dân tệ) và tranh thủ giải
quyết các vấn đề xã hội mà hậu quả của quá trình phát triển quá nóng trong một thời
gian dài vừa qua (gần 700 tỷ). Theo như kế hoạch, thì 1800 tỷ là cho xây dựng cơ bản
theo kiểu đầu tư công truyền thông, và gần 700 tỷ là chi cho khu vực nông thôn vốn đã
trở nên lạc hậu rất xa so với các vùng phía Đông.
- Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc và 10 quốc gia thành viên Đông Nam Á
(ASEAN) đã thống nhất về việc thiết lập một quỹ chung trị giá 80 tỷ USD để giải quyết
cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ có thể xảy ra.
Cuộc thảo luận trên cơ sở bài học của cuộc khủng hoảng tài chính cách đây 11
năm. Trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, quỹ đầu tư từ bên ngoài khu vực này
đã gây ra bất ổn trên thị trường và ảnh hưởng nghiêm trọng đến các nền kinh tế châu Á.
Các quốc gia này đã chuẩn bị một hiệp định khung cho việc thiết lập quỹ chung có
thể được sử dụng để ngăn chặn một cuộc khủng hoảng tiền tệ tái diễn. Bộ Tài chính
Nhật Bản đưa ra kết luận rằng quỹ này cần kêu gọi khoản tiền trị giá 80 tỷ USD. 80%
tổng số tiền của quỹ trên sẽ được 3 nước Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc đóng góp.
Phần còn lại do ASEAN đóng góp.
Ngoài ra, từng nước cũng có những giải pháp riêng để giúp nước mình thoát khỏi
tình trạng khủng hoảng hiện :
- Ngày 17/10/2008 Singapore và Malaysia tuyên bố sẽ bảo đảm cho tất cả tài
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
50
khoản tiền gửi của người dân trong ngân hàng - giải pháp tương tự như nhiều nước châu
Khủng hoảng tài chính thế giới
Âu và nền kinh tế láng giềng khác trong khu vực như Hồng Kông, Indonesia, Australia
và New Zealand đã áp dụng trước đó.
- Ngày 19/10/2008, Hàn Quốc đã công bố kế hoạch giải cứu nói trên. Theo đó,
Chính phủ nước này sẽ dành 100 tỷ USD cho việc bảo đảm các khoản vay giữa các ngân
hàng và chi 30 tỷ USD để bơm tiền vào hệ thống tài chính nhằm tăng cường tính thanh
khoản. Giá trị gói giải cứu này tương đương với 13% GD P của Hàn Quốc. Đồng Won
của Hàn Quốc từ đầu năm tới nay đã mất giá 37% so với USD, trở thành đồng tiền mất
giá nặng nhất ở châu Á. Theo các nhà phân tích, nợ ngắn hạn của Hàn Quốc hiện tương
đương với mức 76% dự trữ ngoại hối của nước này, đưa Hàn Quốc vào thế rủi ro nhất ở
châu Á trong khủng hoảng tài chính.
- Ngày 20/10/2008 Ngân hàng Trung ương Ấn Độ đã tiến hành cắt giảm lãi suất
cơ bản lần đầu tiên trong vòng 4 năm qua nhằm ngăn chặn sự giảm tốc kinh tế, bất chấp
lạm phát nước này vẫn đang ở mức cao. Theo đó, lãi suất cơ bản đồng Rupee đã giảm từ
mức 9% xuống còn 8%. Trước đó, vào ngày 11/10, Ngân hàng Trung ương Ấn Độ đã
giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng thương mại từ mức 6,5% xuống còn
2,5%.
4.2. Giải pháp của Việt Nam
4.2.1. Giải pháp về chính sách tài chính:
Đề nghị chưa thực hiện việc giảm vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước mà chỉ thực
hiện các biện pháp rà soát, cắt giảm, cho dừng những dự án chưa cấp bách hoặc kém hiệu
quả, tập trung và điều chuyển vốn cho các dự án có khả năng hoàn thành sớm, có tác
động lớn đối với nền kinh tế và xã hội. Đưa vấn đề hiệu quả vốn đầu tư là chỉ tiêu quan
trọng nhất trong năm 2008 để rà soát lại các danh mục đầu tư đã được phê duyệt. Thực
hiện kiên quyết việc cắt giảm chi tiêu ngân sách trong năm 2008 nhằm đạt mục tiêu bội
chi ngân sách dưới 5% và có lộ trình trong những năm còn lại của kế hoạch 5 năm đạt
được mức an toàn theo kinh nghiệm quốc tế. Có chính sách thu hút nguồn vốn đầu tư
gián tiếp bảo đảm tương thích với khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế và khả năng
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
51
quản lý kinh tế vĩ mô.
Khủng hoảng tài chính thế giới
Kiểm soát chặt chẽ việc vay vốn đầu tư của các doanh nghiệp, đặc biệt là các Tổng
công ty, tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp nhà nước lớn, bảo đảm sử dụng vốn đúng mục
đích, có hiệu quả. Kiểm soát việc thành lập và hoạt động của các công ty chứng khoán,
bảo đảm an ninh tài chính – tiền tệ. Đẩy mạnh cổ phần hoá, tiếp tục thực hiện lộ trình đấu
giá cổ phiếu lần đầu của các DNN N lớn để ổn định thị trường chứng khoán. Giao Bộ Tài
chính hướng dẫn triển khai thực hiện các nội dung, cụ thể như sau:
a) Giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của quý IV năm 2008 và số thuế
thu nhập doanh nghiệp phải nộp của năm 2009 đối với thu nhập từ hoạt động sản xuất,
kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
b) Giãn thời hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp trong thời gian 9 tháng đối với số thuế
thu nhập doanh nghiệp phải nộp năm 2009 của các doanh nghiệp nhỏ và vừa nói trên
(70% số thuế còn lại sau khi giảm) và của các doanh nghiệp có hoạt động sản xuất, gia
công, chế biến nông, lâm, thuỷ sản, dệt may, da giày, linh kiện điện tử.
c) Tạm hoàn 90% số thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với hàng hoá thực xuất khẩu trong
trường hợp doanh nghiệp chưa có chứng từ thanh toán qua ngân hàng và hoàn tiếp 10%
khi có chứng từ thanh toán. Bộ Tài chính hướng dẫn thủ tục hoàn thuế bảo đảm chặt chẽ,
đúng đối tượng.
d) Điều chỉnh thuế suất thuế xuất khẩu đối với một số loại tài nguyên, khoáng sản và
trình Chính phủ sửa đổi thuế suất thuế tài nguyên theo hướng hạn chế xuất khẩu, bảo đảm
nguồn nguyên liệu cho sản xuất trong nước.
đ) Điều chỉnh giảm thuế suất thuế nhập khẩu đối với một số nhóm hàng là nguyên liệu
đầu vào của sản xuất, trong nước chưa sản xuất được hoặc có sản xuất nhưng không đáp
ứng đủ nhu cầu để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp giảm chi phí, nâng cao sức cạnh
tranh. Điều chỉnh tăng thuế trong khuôn khổ cam kết WTO, tạo điều kiện cho phát triển
sản xuất trong nước, kiềm chế nhập siêu.
e) Giãn thời gian ân hạn nộp thuế đối với một số ngành hàng phù hợp với chu kỳ sản xuất
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
52
và tiêu thụ sản phẩm (đóng tàu, sản xuất cơ khí....). Thực hiện tốt chính sách về ân hạn
Khủng hoảng tài chính thế giới
thời hạn nộp thuế nhập khẩu (275 ngày) đối với vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất
hàng xuất khẩu.
g) Cải cách thủ tục xuất nhập khẩu, rút ngắn thời gian thông quan hàng hoá, đơn giản hoá
thủ tục hoàn thuế, quyết toán thuế đối với nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất, gia công
hàng xuất khẩu.
h) Quy định rõ và phù hợp tỷ lệ phế liệu, phế phẩm thu được trong quá trình nhập khẩu
nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu không phải chịu thuế nhập khẩu.
i) Trong tháng 12 năm 2008, Bộ trưởng Bộ Tài chính thừa ủy quyền Thủ tướng Chính
phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc triển khai thực hiện Luật Thuế thu nhập cá
nhân theo hướng hỗ trợ khó khăn cho một số đối tượng nộp thuế.
Thêm vào đó, Ngân sách chỉ nên dùng để hỗ trợ những người lao động bị mất việc
làm thay vì tìm cách cứu giúp các doanh nghiệp thua lỗ. Với một ngân sách liên tục bị
thâm hụt và khủng hoảng kinh tế thế giới có khả năng còn kéo dài, việc đẩy mạnh chi tiêu
chính phủ ngay trong giai đoạn đầu suy thoái rất dễ khiến cho môi trường kinh tế vĩ mô
của Việt Nam bị rơi vào bất ổn trong nay mai. Các biện pháp giãn thuế ngắn hạn trong
khi nguồn thu bị thu hẹp sẽ tạo ra bất ổn cho doanh nghiệp thay vì giúp doanh nghiệp
vượt khó. Chính phủ cũng nên xây dựng kế hoạch dài hạn để giảm chi tiêu thường xuyên,
chuyển các khoản đầu tư công sang cho khu vực tư nhân, qua đó góp phần vào việc giảm
thuế dài hạn cho khu vực doanh nghiệp và cá nhân mà vẫn đảm bảo được cân đối ngân
sách.
Trong những tháng đầu năm 2009, NHN N, Bộ Công thương, Văn phòng Chính
phủ và các bộ, ngành liên quan đã phối hợp, triển khai các cơ chế hỗ trợ lãi suất do Thủ
tướng Chính phủ ban hành. Các tổ chức, cá nhân vay vốn được hỗ trợ lãi suất tại NHTM
và công ty tài chính theo cơ chế cho vay thông thường (Quyết định số 131/QĐ-TTg ngày
23/01/2009, Quyết định số 443/QĐ-TTg ngày 04/4/2009, Quyết định số 497/QĐ-TTg
ngày 17/4/2009); vay vốn được hỗ trợ lãi suất tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam và Q uỹ
đầu tư phát triển địa phương (văn bản số 667/TTg-KTTH ngày 05/5/2009); vay vốn tại
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
53
Ngân hàng Chính sách xã hội theo cơ chế cho vay ưu đãi (Quyết định số 579/QĐ-TTg
Khủng hoảng tài chính thế giới
ngày 06/5/2009). Phương thức hỗ trợ lãi suất là khi các NHTM, công ty tài chính, Ngân
hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng Phát triển Việt Nam và Quỹ đầu tư phát triển địa
phương thu lãi tiền vay của khách hàng, thì giảm trừ số lãi tiền vay phải trả cho khách
hàng bằng với số lãi tiền vay được hỗ trợ lãi suất; NH NN chuyển số lãi tiền vay đã hỗ trợ
cho khách hàng vay trên cơ sở báo cáo của các ngân hàng .Cơ chế hỗ trợ lãi suất đã có
tác động tích cực nhiều mặt về kinh tế - xã hội:
Một là, cơ chế hỗ trợ lãi suất được triển khai kịp thời, nhanh chóng, đúng đối
tượng và có tính giám sát cao của các cơ quan hữu quan và đối tượng thụ hưởng; vì thế,
đã sớm tạo lòng tin, sự đồng thuận và động lực cho doanh nghiệp và người dân thực hiện
các giải pháp kích thích kinh tế của Chính phủ;
Hai là, cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp, hộ sản xuất mà nòng cốt là
hệ thống ngân hàng, đã triển khai cơ chế hỗ trợ lãi suất, khá thông suốt, phù hợp với quy
định của pháp luật;
Ba là, đồng thời với việc thực hiện cơ chế hỗ trợ lãi suất, chính sách tiền tệ được
thực thi nới lỏng một cách thận trọng, tạo điều kiện cho các N HTM duy trì lãi suất kinh
doanh ở mức hợp lý, tăng vốn huy động từ nền kinh tế để cho vay với lãi suất thấp (4-
6%/năm sau khi được hỗ trợ lãi suất) làm cho tăng trưởng tín dụng 7 tháng đầu năm ở
mức cao (22,61%), góp phần ngăn chặn suy giảm kinh tế;
Bốn là, theo báo cáo khảo sát của các địa phương và Phòng Thương mại và công
nghiệp Việt Nam, việc thực hiện cơ chế hỗ trợ lãi suất đã đạt được mục tiêu là tạo điều
kiện cho doanh nghiệp, hộ sản xuất giảm chi phí vay vốn khoảng 30 - 40%, giảm giá
thành từ 2,5 - 6%, duy trì và mở rộng sản xuất - kinh doanh, tạo được việc làm cho người
lao động, có 91% doanh nghiệp nhỏ và vừa duy trì, phát triển sản xuất - kinh doanh.
Năm là, mặt bằng lãi suất thị trường tương đối ổn định, các NHTM huy động vốn
từ thị trường để cho vay hỗ trợ lãi suất, NHNN không phát hành thêm tiền ra lưu thông;
thông qua thực hiện cơ chế hỗ trợ lãi suất đã kiểm chứng được sự tác động và khả năng
thực thi chính sách có hiệu quả của hệ thống ngân hàng. Tuy vậy, thực tế triển khai các
cơ chế hỗ trợ lãi suất nổi lên một số vấn đề:
(1) Có sự trùng lắp về đối tượng hỗ trợ lãi suất giữa Quyết định số 131/QĐ -TTg,
Quyết định 443/QĐ-TTg và Quyết định số 497/QĐ -TTg; thủ tục cho vay hỗ trợ lãi suất
theo Quyết định số 497/QĐ -TTg chặt chẽ hơn so với cho vay theo cơ chế thông thường,
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
54
nên kết quả đạt thấp;
Khủng hoảng tài chính thế giới
(2) Cơ chế hỗ trợ lãi suất được thực hiện trong ngắn hạn, có phạm vi rộng về đối
tượng, địa bàn và các TCTD, định chế tài chính tham gia cho vay, gây khó khăn đáng kể
cho việc thanh tra, giám sát của NH NN và các bộ, ngành liên quan;
(3) Cơ chế hỗ trợ lãi suất tác động làm cho tín dụng VND tăng trưởng ở mức cao,
lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất tiền gửi, làm “méo mó” khối lượng vốn huy động và lãi
suất thị trường, ảnh hưởng không thuận lợi đến việc kiểm soát lạm phát, ổn định lãi suất
và tỷ giá.
Phân tích gói kích thích kinh tế của các nước, giải pháp điều hành kinh tế nước ta
trong nhiều năm qua và kết quả của cơ chế hỗ trợ lãi suất mang lại, thì việc thực hiện hỗ
trợ lãi suất tiền vay ngân hàng 17.000 tỷ đồng là giải pháp được lựa chọn theo phương
thức riêng và tối ưu, phù hợp với điều kiện của nước ta, có hiệu quả và chi phí thấp, đạt
được sự nhất trí, đồng thuận cao của các cấp, các ngành và xã hội, kể cả các tổ chức tài
chính quốc tế.
4.2.2. Giải pháp về chính sách tiền tệ:
Đầu năm 2008 NHN N thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ để kiềm chế lạm phát
thì sau đó NH NN đã linh hoạt đổi hướng chính sách, thực hiện nới lỏng chính sách tiền tệ
do tình hình đã đảo ngược nhanh chóng. Chỉ trong vòng 1 tháng từ 20/10/2008 đến
20/11/2008 NH NN đã 3 lần điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản từ 14%/ năm xuống còn
11%/ năm, tăng lãi suất cho dự trữ bắt buộc lên 10%/ năm, giảm tỷ lệ cho dự trữ bắt buộc
từ 11% xuống còn 8% và tiến hành thanh toán trước hạn cho 20,300 tỷ đồng tín phiếu bắt
buộc phát hành hồi đầu năm.
Trước những diễn biến ngày càng xấu trên thế giới và những khó khăn ngày càng
hiện rõ của kinh tế trong nước, ngày 3/12/2008 NHN N tiếp tục giảm lãi suất cơ bản
xuống 10%/năm, giảm lãi suất tái cấp vốn từ 12% xuống 11%/năm, lãi suất tái chiết khấu
giảm từ 10%/năm xuống 9%/năm, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên
ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của NHN NVN đối với các
ngân hàng giảm từ 12% xuống 11%/năm, giảm tỉ lệ dự trữ bắt bộc từ 8% xuống 6%.
Trong những tháng đầu năm 2009, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHN N) đã
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
55
từng bước nới lỏng chính sách tiền tệ (CSTT) để thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh
Khủng hoảng tài chính thế giới
và chủ động hạn chế tác động của khủng hoảng tài chính, ngăn chặn nguy cơ suy giảm
kinh tế. Tuy nhiên, cùng với đà tăng trưởng trở lại của kinh tế trong nước cũng như thế
giới, càng về những tháng cuối năm diễn biến thị trường tài chính - tiền tệ càng trở nên
phức tạp, áp lực lạm phát trở lại đối với nền kinh tế ngày càng rõ nét. Với mục tiêu duy
trì sự ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh tế bền vững trong năm
2010, chủ động đối phó với diễn biến phức tạp của thị trường tài chính và kinh tế thế
giới, NH NN đã quyết định điều chỉnh lãi suất cơ bản tăng từ 7%/năm lên 8%/năm (Quyết
định số 2665/QĐ-NH NN ), tăng lãi suất tái cấp vốn tăng từ 7%/năm lên 8%/năm, lãi suất
chiết khấu tăng từ 5%/năm lên 6%/năm (Quyết định số 2664/QĐ-NHNN ) áp dụng từ
Bảng 3: Lãi suất cơ bản từ năm 2004-2010
01/12/2009.
Lãi suất cơ bản
Văn bản quyết đ ịnh
Ngày áp dụng
8,0%
QĐ 2665/QĐ -NHNN ngày 25/ 11/2009
01/12/2009
7,0%
172/QĐ -NHN N ngày 23/1/ 2009
01/02/2009
8,5%
3161/QĐ -N H NN
22/12/2008
10,0%
2948/QĐ -N H NN
05/12/2008
11,0%
2809/QĐ -N H NN
21/11/2008
12,0%
2559/QĐ -N H NN Ngày 3/ 11/2008
05/11/2008
13, 0%
2316/QĐ -N H NN ngày 20/ 10/2008
21/10/2008
14,0%
1317/QĐ -N H NN ngày 10 tháng 6 năm 2008
11/06/2008
8.75%
305/QĐ -NHN N Ngày 30/ 1/2008
01/02/2008
8.25%
1746/QĐ -N H NN ngày 1/12/2005
01/12/2005
7,8%
93/ QĐ-N HNN ngày 27 tháng 1 năm 2005
01/02/2005
7,5%
QĐ số 2210/QĐ -NHN N ngày 27/02/2004
01/03/2004
Nguồn: http://www.sbv.com.vn
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
56
Khủng hoảng tài chính thế giới
Bên cạnh đó, với mục tiêu điều hành tỷ giá trong mối quan hệ với lãi suất, chỉ số
giá tiêu dùng, diễn biến của cán cân thanh toán quốc tế phù hợp với tín hiệu của thị
trường, có sự điều tiết của Nhà nước, NHN N công bố mức tỷ giá bình quân liên ngân
hàng áp dụng cho ngày 26/11/2009 là 17.961(tăng 5,16%) và áp dụng biên độ tỷ giá mới
cho giao dịch mua bán giao ngay giữa USD và VND là ± 3% từ ngày 26/11/2009. NHN N
cũng cam kết sẽ hỗ trợ mạnh mẽ trong việc bán ngoại tệ cho các ngân hàng thương mại
kèm nhiều biện pháp hỗ trợ khác nhằm bình ổn thị trường ngoại hối. Các TCTD có trạng
thái ngoại tệ từ âm 5% trở xuống được NH NN cam kết bán ngoại tệ hỗ trợ nhằm đảm bảo
hệ thống ngân hàng cung cấp đủ ngoại tệ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, đặc biệt
Bảng 4: Biến động biên độ dao động tỷ giá USD/VND năm 2007-2009
ưu tiên những mặt hàng nhập khẩu phục vụ sản xuất.
Năm
2007
1/1/2008
10/3/2008
27/6/2008
7/11/2008
24/03/2009
26/11/2009
Biên độ
0,5%
0,75%
1%
2%
3%
5%
3%
Ngay sau khi mức lãi suất cơ bản mới có hiệu lực, các NH TM đồng loạt đều tăng
lãi suất huy động lên mức cao (10,5 % sau đó giảm xuống 10,499 %). Lãi suất cho vay ở
các kỳ hạn đều tăng trần lên mức 12%. Như vậy lãi suất huy động và cho vay của các
ngân hàng đã gần tiến gần tới lãi suất thực của thị trường; Tín dụng đối với nền kinh tế
tháng 12/2009 ước tăng 0,87% so với mức tăng 3,57% của tháng 11 và mức tăng 2,04%
của tháng 10. Ngoài ra, sự điều chỉnh tỷ giá lần này của NHNN đã lập tức có hiệu quả,
tác động ngay đến giá USD trên thị trường tự do. Ngay trong ngày 25/11/2009, khi
NHNN công bố thông tin về việc điều chỉnh tỷ giá, giá USD trên thị trường tự do đã
giảm từ mức 19.750-19.800 buổi sáng xuống còn 19.500-19.700 vào buổi chiều. Sang
ngày 26/11, tỷ giá tự do tiếp tục giảm còn 19.300-19.500 VND /USD.
Về hệ thống ngân hàng:
Để đối phó với khủng hoảng trong năm 2008 và 2009, NHN NVN đã thực hiện
chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm giảm CPI. Một loạt các biện pháp được đưa ra như tăng
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
57
các mức lãi suất chiết khấu, lãi suất cơ bản và tỷ lệ dự trữ bắt buộc; yêu cầu các ngân
Khủng hoảng tài chính thế giới
hàng mua trái phiếu bắt buộc; và hạn chế cho vay bất động sản, hạn chế cho vay chứng
khoán. Những biện pháp này đã khiến cho lãi suất huy động của ngân hàng thương mại
có nơi lên đến 21%, đẩy lãi suất cho vay cũng tăng ở mức tương ứng. Hậu quả là nền
kinh tế bị phanh gấp, khiến cho nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng thua lỗ. Một danh
sách dài những doanh nghiệp thua lỗ trong quí IV/2008 là một minh họa rõ nét cho hậu
quả tiêu cực của chính sách phanh gấp này. Rất may cho nền kinh tế Việt Nam là khủng
hoảng kinh tế toàn cầu xảy ra vào cuối năm 2008. Nhờ giá cả các nguồn nguyên liệu và
máy móc thiết bị nhập khẩu giảm mạnh, áp lực lạm phát và mất cán cân thanh toán được
giải tỏa, giúp cho NH NN có thể tăng tín dụng và giảm lãi suất. Các hoạt động của ngân
hàng thương mại và khu vực sản xuất đã hồi sinh trở lại.
Tuy nhiên chúng ta cần cần có những giải pháp kiên quyết đồng bộ theo hướng tái
cấu trúc lại hệ thống ngân hàng cho hiệu quả hơn, tăng cường kiểm soát rủi ro và nân cao
tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng. Cụ thể là:
- Tiến hành rà soát lại hệ thống văn bản điều chỉnh hoạt động ngân hàng bao gòm
luật ngân hàng nhà nước năm 1997 và Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 và các văn
bản dưới luật về ngân hàng.
- Tăng cường kiểm soát rủi ro trong hoạt dộng ngân hàng: cần đẩy mạnh công tác
kiểm tra, giám sát, thanh tra việc thực hiện các quy định về cá tỷ lệ bảo đảm an tòan trong
hoạt động ngân hàng của các ngân hàng và tổ chức tín dụng theo quy định Luật các tổ
chức tín dụng và Quyết định số 457/2005 ngày 19 tháng 04 năm 2005 quy định cụ thể các
tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng và các văn bản khác. Đặc biệt,
cần nghiên cứu xây dựng và giám sát chặt chẽ hạn mức tín dụng đối với các lĩnh vực
nhạy cảm như cho vay kinh doanh, đầu tư chứng khoán, bất động sản. về lâu dài ngân
hàn nhà nước cần xây dựng hệ thống quản trị rủi ro phù hợp với thông lệ quốc tế theo
tiêu chẩn an toàn vốn của Basel, rà soát và xây dựng mới các quy định về phân loại nợ,
trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro..
Cần nâng cao vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong kiềm chế lạm phát và khai
thông thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, thực hiện nhất quán, đồng bộ chính sách “thắt
chặt tiền tệ”, bảo đảm kiểm soát tăng tổng phương tiện thanh toán ra thị trường không
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
58
quá 25- 30%, phối hợp đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ như lãi suất, tỷ giá... Thực
Khủng hoảng tài chính thế giới
hiện chính sách tỷ giá linh hoạt, đáp ứng nhu cầu chuyển đổi ngoại tệ của các nhà đầu tư
và doanh nghiệp xuất khẩu để đảm bảo ổn định sản xuất, xuất khẩu. Từng bước điều
chỉnh lãi suất ngân hàng phù hợp với yêu cầu kiềm chế lạm phát; rà soát, bổ sung, nâng
cao yêu cầu đối với việc thành lập mới các ngân hàng thương mại phù hợp với chiến lược
phát triển ngành ngân hàng; kiểm soát tốc độ tăng dư nợ tín dụng không quá 30%. Cụ thể
như sau:
a) Có các biện pháp cụ thể để tạo điều kiện tăng cường khả năng tiếp cận nguồn vốn tín
dụng cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa; doanh nghiệp sản
xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu và doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm
như: tiếp tục xem xét điều chỉnh giảm dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng; điều
chỉnh giảm lãi suất cơ bản phù hợp để hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh.
b) Nghiên cứu, hướng dẫn các tổ chức tín dụng thực hiện việc cho vay theo lãi suất thoả
thuận quy định tại Nghị quyết số 23/2008/QH 12 ngày 06 tháng 11 năm 2008 của Quốc
hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2009 trong quý I năm 2009.
c) Các ngân hàng thương mại thực hiện việc cơ cấu lại thời hạn nợ và áp dụng các giải
pháp xử lý nợ vay vốn ngân hàng phù hợp với quy định của pháp luật đối với các hộ
nông dân bị thiệt hại do thiên tai và các doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ sản
phẩm:
d) Điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, hiệu quả; điều chỉnh linh hoạt tỷ giá ngoại tệ
theo tín hiệu thị trường, khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, ổn định kinh tế
vĩ mô, phấn đấu điều hành cán cân thanh toán quốc tế theo hướng không để thâm hụt.
đ) Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chỉ đạo các ngân hàng thương mại xem xét điều
chỉnh áp dụng lãi suất cho vay của các hợp đồng tín dụng xuống phù hợp theo mức lãi
suất hiện hành; không phạt do quá hạn đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp khó khăn.
Giao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn triển khai thực hiện các nội dung trên.
e) Giao Ngân hàng Phát triển Việt Nam thực hiện nhiệm vụ bảo lãnh tín dụng cho các
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
59
doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm hỗ trợ tốt hơn cho các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn
Khủng hoảng tài chính thế giới
vay để phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo thêm nhiều việc làm mới. Bộ Tài chính chủ
trì cùng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn triển khai thực hiện ngay trong tháng
12 năm 2008.
4.2.3. Giải pháp nhằm hạn chế thâm hụt ngân sách
Trước những khó khăn của các doanh nghiệp, Chính phủ hiện đang nổ lực nhằm
tạo điều kiện cho các mặt hàng truyền thống của Việt Nam như: nông sản, thủy sản, may
mặc…giữ vững tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Thực tế thời gian qua các doanh
nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu luôn được ưu tiên trong tiếp cận vốn ngân hàng và tỷ giá
USD/VND được duy trì theo hướng có lợi cho xuất khẩu.
Các cơ quan chức năng còn sử dụng hàng rào kỹ thuật nhằm hạn chế nhập khẩu,
áp thuế tiêu thụ đặc biệt với những mặt hàng thuộc nhóm xa xỉ phẩm, những mặt hàng
không cần thiết như: vàng, điện thoại di động, mỹ phẩm, ô tô… các ngân hàng không
cho vay để nhập khẩu trong thời gian qua.
Kiểm soát bội chi ngân sách nhà nước ở mức dưới 5% GDP; nâng cao hiệu quả
đầu tư từ khu vực nhà nước (ngân sách, tín dụng và doanh nghiệp nhà nước), giảm hệ số
ICOR xuống mức tương ứng với các nước trong khu vực, giảm dần chênh lệch giữa tỷ lệ
đầu tư và tiết kiệm so với GDP.
4.2.4. Giải pháp nhằm kích thích đầu tư và tiêu dùng
Phát biểu tại hội nghị ngành Kế hoạch đầu tư được tổ chức tại Hà Nội ngày
22/11/2008, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nhấn mạnh phải gấp rút thực hiện gói giải
pháp về kích cầu đầu tư để ngăn chặn suy giảm kinh tế. tuy nhiện, việc kích cầu đầu tư
này không thực hiện tràn lan, mà chỉ tập trung vào những dự án hiệu quả vì thực tế đang
đối diện với lạm phát cao.
Ngân sách NN cấp cho đầu tư phát triển năm 2009 là 112.000 tỉ đồng, thấp hơn so
với thực hiện 2008 gần 6.000 tỉ đồng, để bù đắp khoản này chính phủ đã đồng ý tăng
thêm 6.000 tỉ đồng trái phiếu chính phủ.
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
60
Hơn nữa từ cuối tháng 12/2008 đến nay, chính phủ đã thông qua 2 gói kích cầu
Khủng hoảng tài chính thế giới
Bên cạnh đó, cần thực hiện quyết liệt các chính sách kiềm chế nhập khẩu đã có,
nhất là với nhóm hàng tiêu dùng, đồng thời nghiên cứu các giải pháp mới để đẩy mạnh
xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu để giảm nhập siêu, tiến tới cân bằng cán cân thanh toán.
Thực hiện hỗ trợ cho doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu gặp khó khăn do việc thực
hiện chính sách tài chính, tiền tệ “thắt chặt” gây ra.
Ngoài ra, đề nghị Chính phủ tăng cường chỉ đạo công tác phối hợp trong điều
hành thực hiện các giải pháp đã được thông qua giữa các bộ, ngành và địa phương; đồng
thời phân giao nhiệm vụ cụ thể cho các bộ, ngành, địa phương để việc kiểm tra, đôn đốc
chỉ đạo sâu sát, thường xuyên hơn, tạo sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ, ngành, địa
phương, phát hiện kịp thời các biến động của tình hình thực hiện các giải pháp để có
điều chỉnh kịp thời.
Đặc biệt, về nhóm các biện pháp hỗ trợ: Tiếp tục có chính sách thoả đáng hỗ trợ
nông dân vượt qua thiên tai, dịch bệnh, tiếp tục đẩy mạnh sản xuất, chăn nuôi để góp
phần kiềm chế tăng giá nhóm mặt hàng lương thực, thực phẩm, bảo đảm an ninh lương
thực quốc gia, đồng thời bảo đảm duy trì sản lượng lương thực phục vụ nhu cầu xuất
khẩu trong tình hình giá đang có lợi. Trước mắt, cần có giải pháp tăng cung trên thị
trường, góp phần giảm giá nhóm mặt hàng có tốc độ tăng cao thời gian vừa qua ảnh
hưởng lớn đến đời sống nhân dân. Tăng cường sự phối hợp giữa các bộ để đảm bảo hệ
thống chính sách đồng bộ, thống nhất.
Bên cạnh những giải pháp nhằm ổn định tình hình kinh tế, cần xem xét một số giải
pháp mang tính ổn định lâu dài:
Thứ nhất là tận dụng thời cơ, sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư của Nhà nước để
thực hiện chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế;
Thứ hai là nâng cao năng lực dự báo và điều hành vĩ mô;
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
61
Thứ ba là từng bước hoàn chỉnh chính sách tài chính - tiền tệ;
Khủng hoảng tài chính thế giới
Thứ tư là xây dựng và thực hiện các chính sách an sinh xã hội phù hợp với sự phát
triển của nền kinh tế, ưu tiên cho giáo dục đào tạo nguồn nhân lực và hỗ trợ ổn định đời
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
62
sống nhân dân, nhất là hộ có thu nhập thấp, hộ nghèo.
Khủng hoảng tài chính thế giới
KẾT LUẬN
Nền kinh tế cũng như sức khỏe của con người, có những lúc “ khỏe mạnh”, cũng
như cũng có lúc “suy yếu”. Và hiện nay, nền kinh tế thế giới nói chung cũng như nền
kinh tế Việt Nam nói riêng đang lâm vào tình trạng khủng hoảng. Từ một sự khủng
hoảng thanh khoản của Mỹ đến sự khủng hoảng tài chính trên toàn thế giới, là một sự
minh chứng cho sự liên kết và ảnh hưởng chặt chẽ giữa các nền kinh tế trên thế giới. Sự
khủng hoảng không dừng lại trên phạm vi 1 quốc gia mà đã lan khắp các châu lục.
Để vượt qua sự khủng hoảng này, tất cả các nước không những cần có những
chính sách riêng cho từng quốc gia của mình mà phải kết hợp với nhau để thực hiện các
chính sách liên kết về tỷ giả, lãi suất…Việt Nam, chúng ta cũng có những chính sách để
giúp đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng chung của thế giới như chính sách kích
cầu, hỗ trợ doanh nghiệp…
Không những thế muốn mau chóng thoát khỏi cuộc khủng hoảng này đòi hỏi nước
ta p hải có sự thay đổi về thể chế quản lý một cách trật tự và vững chắc. Một thể chế quản
lý nhấn mạnh tới trách nhiệm, hiệu quả của từng tế bào của bộ máy quản lý Nhà Nước,
của từng tổ chức tài chính và công nghiệp đối với lợi ích của toàn xã hội và với yêu cầu
phát triển bền vững. Điều đó đòi hỏi một sự minh bạch về thông tin quản lý, về hiệu quả
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
63
kinh tế- xã hội của từng đơn vị hay tổ chức trong từng địa p hương và trong nền kinh tế.
Khủng hoảng tài chính thế giới
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. NGND , PGS,TS. Ngô Hướng, Nguyên nhân và bản chất của khủng hoảng kinh tế tài
chính hiện nay – những giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn, Đại học Ngân
hàng Tp .HCM .
2. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học “Tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu đối với nền
kinh tế Việt Nam” do Khoa Kinh tế, ĐQG TP.HCM tổ chức tháng 12/2008.
3. GS. Trần Văn Thọ, Khủng hoảng tài chính và những ảnh hưởng, Đại học Waseda,
Tokyo (Nhật Bản), hiện đang nghiên cứu ở Đại học Harvard, Cambridge.
4. GS. Trần Lê Anh, Khủng hoảng tài chính và những ảnh hưởng, Đại học Lasell,
Boston (Mỹ).
5. Xuân Đảng, Cái nhìn tổng quan việc thay đổi chính sách tiền tệ của NHN N là linh
hoạt, thận trọng.
6. TS. Nguyễn Văn Giàu, Chính sách tiền tệ đối với ổn định và p hát triển kinh tế - xã hội
trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới, UVBCHTW Đảng,
Thống đốc NH NN Việt Nam.
7. Các tài liệu công bố tại website của NH NN Việt Nam, http://www.sbv.gov.vn
8. Các tài liệu công bố tại website của Tổng cục thống kế Việt Nam,
http://www .gso.gov.vn
9. Các tài liệu công bố tại website của Bộ công thương Việt Nam,
http://www .moit.gov.vn
10. Website Uỷ ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế:
http://www .nciec.gov.vn/index.nciec?1937
11. Website Bách khoa toàn thư mở Wikipedia:
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
64
http://vi.wikipedia.org/wiki/Khủng_hoảng_tài_chính_Hoa_Kỳ_2007-2009.
Khủng hoảng tài chính thế giới
BẢNG PHÂN CÔNG
STT
Họ và tên
Công v iệc
Cao Thanh Hùng
Nguyên nhân
1
Trần Viết Quang Khánh
Tổng hợp tài liệu, thuyết trình phần nguyên nhân, diễn biến
2
Nguyễn Thành Luân
Tác động, thuyết trình phần tác động
3
Ngô Vũ Mai Ly
Diễn biến
4
Nguyễn Thị Thùy Nga
Tổng hợp tài liệu
5
Phạm Thị Hoàng Nhung Nguyên nhân
6
Huỳnh Phạm Loan Thảo Tác động
7
Võ Trần Anh Thư
Tổng hợp tài liệu
8
Tiêu Vân Trang
Giải pháp, thuyết trình phần giải pháp
9
10 Dương Tường Vy
Diễn biến
Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế
65