TTưư ttuuởởnngg ttrriiếếtt hhọọcc ccủủaa PPhhậậtt ggiiááoo vvàà ảảnnhh hhưưởởnngg ccủủaa nnóó đđếếnn đđờờii ssốốnngg VVHH--TTTT ccủủaa nnggưườờii VViiệệtt

I. Giới thiệu

Việt Nam là một nước nhỏ ở Đông Nam Á nhưng lại ấp ủ một nền văn

hóa khá phong phú và đặc sắc, tại đó được dung hòa bởi nhiều hệ tư tưởng

khác nhau bắt nguồn từ nhiều nền văn minh lớn trong khu vực như Trung

Quốc và Ấn Độ. Từ những cái nôi này Nho gia, Đạo gia,.v.v…đã cùng với

Phật giáo theo dòng lịch sử lần lượt tuôn chảy vào nền văn minh Đại Việt.

Phật giáo –một triết lý đi sâu vào cái “khổ” đã tồn tại cùng dân Việt

được gần 20 thế kỷ. Thời gian cứ trôi qua nhưng Phật giáo vẫn giữ được vai

trò nhất định trong đời sống văn hóa tinh thần dân tộc. “Ở hiền gặp lạnh”, “ác

lai ác báo”, “từ bi”, “hỷ xả”….rất nhiều và còn rất nhiều tư tưởng khác nữa đã

được ông cha truyền từ đời này sang đời khác mãi đến tận hôm nay nhằm răn

dạy cháu con biết tu nhơn tích đức sống hòa thuận lành mạnh… dần dần hình

thành ở người Việt ta lòng yêu chuộng hòa bình, tình tương thân tương ái..

Cái “khổ” là gì? Nó xuất phát từ đâu? Làm thế nào để diệt “khổ”?

Ngoài lý luận về cái “khổ” thì Phật giáo còn có các triết lý nào khác mà có thể

tồn tại lâu dài đến vậy trong đời sống văn hóa tinh thần người Việt? Trả lời

các câu hỏi này và việc đi sâu vào tìm hiểu Phật giáo, cũng như xem xét ảnh

hưởng của Phật giáo đến đời sống tư tưởng văn hóa tinh thần của người Việt

là hết sức quan trọng và cần thiết trong bối cảnh hiện nay do những lý do sau:

- Việc hiểu biết sâu sắc hơn và rõ ràng hơn các tư tưởng Phật giáo giúp

chúng ta có cái nhìn đúng đắn hơn và hoàn chỉnh hơn để tiếp tục phát huy

những mặt tích cực và hạn chế các mặt tiêu cực của nền triết học này

- Vấn đề xem xét ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống tư tưởng văn hóa

tinh thần của dân tộc một mặt giúp chúng ta thấy được sự phong phú của

đời sống tín ngưỡng của nhân dân đồng thời giúp nhân dân xây dựng đời

sống tinh thần lành mạnh, hạn chế tệ nạn mê tín dị đoan do hiểu không

đúng, không cặn kẽ về triết lý nhà Phật. Mặt khác sẽ giúp cấp quản lý xây

SV: N.A.Khoa Trang 1/29 GVHD: TS. B.V.Mưa Hoàn thành: 02/2010

dựng hoạch định chính sách tôn giáo phù hợp nhằm ổn định chính trị xã

TTưư ttuuởởnngg ttrriiếếtt hhọọcc ccủủaa PPhhậậtt ggiiááoo vvàà ảảnnhh hhưưởởnngg ccủủaa nnóó đđếếnn đđờờii ssốốnngg VVHH--TTTT ccủủaa nnggưườờii VViiệệtt

hội, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, và

xa hơn sẽ làm phong phú hơn nền văn minh nhân loại

II. Tiền đề cho sự xuất hiện của Phật giáo

II.1. Tiền đề về điều kiện tự nhiên, kinh tế -xã hội của Ấn Độ

Ấn Độ cổ là một đất nước rộng lớn thuộc bán đảo Nam Á. Khắp vùng

từ Đông Bắc đến Tây Bắc núi non trùng điệp với dãy Himalaya nổi tiếng kéo

dài 2600km. Dãy núi Vinđya phân chia Ấn Độ thành hai miền: Bắc và Nam.

Miền Bắc có hai con sông lớn là sông Ấn ở phía Tây và sông Hằng ở phía

Đông, chúng tạo nên hai đồng bằng màu mỡ -cái nôi của nền văn minh cổ Ấn

Độ. Trước khi đổ ra biển, sông Ấn chia làm 5 nhánh, và biến lưu vực của

mình thành đồng bằng Pungiap. Đối với người Ấn Độ, sông Hằng là dòng

sông linh thiêng có thành phố Varanaddi (Bênaret) bên bờ; nơi đây, từ ngàn

xưa, người Ấn Độ rất đa dạng và phức tạp với nhiều bộ tộc khác nhau, nhưng

về chủng tộc, có hai loại chính là người Đraviđa cư trú chủ yếu ở miền Nam,

và người Arya chủ yếu sông ở miền Bắc.

Kinh tế tiểu nông nghiệp kết hợp với thủ công nghiệp gia đình mang

tính tự cung, tự cấp, lấy gia đình, gia tộc của người Arya làm cơ sở, đã tạo

nền tảng vững chắc cho các “công xã nông thôn “ ra đời và sớm được khẳng

định.Trong mô hình “công xã nông thôn”, toàn bộ ruộng đất đều thuộc quyền

sở hữu Nhà nước của các đế vương; Nhà nước kết hợp với tôn giáo thống trị

nhân dân và bóc lột nông nô công xã; tôn giáo bao trùm mọi mặt đời sống xã

hội; con người sống nặng về tâm linh tinh thần và khao khát được giải thoát.

Cũng trong mô hình này đã hình thành 4 đẳng cấp với sự phân biệt hết sức

khắc nghiệt và dai dẳng. Đó là: Tăng lữ -đẳng cấp cao quí nhất trong xã hội –

bao gồm nhữn người hành nghề tế lễ; quí tộc –đẳng cấp thứ hai trong xã hội –

bao gồm vua chúa, tướng lĩnh; bình dân tự do –đẳng cấp thứ ba trong xã hội –

bao gồm những người có chút ít tài sản, ruộng đất; Tiện nô hay nô lệ -đẳng

SV: N.A.Khoa Trang 2/29 GVHD: TS. B.V.Mưa Hoàn thành: 02/2010

cấp thấp nhất và đông đảo nhất –bao gồm những người tận cùng không có

TTưư ttuuởởnngg ttrriiếếtt hhọọcc ccủủaa PPhhậậtt ggiiááoo vvàà ảảnnhh hhưưởởnngg ccủủaa nnóó đđếếnn đđờờii ssốốnngg VVHH--TTTT ccủủaa nnggưườờii VViiệệtt

quyền lợi gì trong xã hội. Ngoài sự phân biệt đẳng cấp như trên, xã hội Ấn Độ

cổ đại còn có sự phân biệt về chủng tộc, dòng dõi, tôn giáo, nghề nghiệp…

Những sự phân biệt này đã tạo ra những xung đột ngấm ngầm trong xã

hội nhưng bị kìm giữ bởi sức mạnh vật chất và tinh thần của Nhà nước –tôn

giáo. Xã hội vận động, phát triển một cách chậm chạp và nặng nề.

II.2. Tiền đề lý luận (các trường phái triết học Ấn Độ cổ và trung đại)

Nhìn chung các tư tưởng trong Upanisad là mạch suối ngầm phát

nguyên ra các dòng chảy của các trường phái triết học Ấn Độ gồm có:

- Tư tưởng về brátman, nghiệp báo, luân hồi, số kiếp

- Tư tưởng về tính bất biến của chế độ đẳng cấp

- Tư tưởng về thượng trí và hạ trí

Upanisad

Các trường phái triết học Ấn Độ cổ-trung đại

Các trường phái chính thống Các trường phái không chính thống

Đó thường là giáo lý của các tôn giáo lý giải đời sống tâm linh, tìm

kiếm sức mạnh của linh hồn con người và nền triết học này mang tính duy

tâm chủ quan và thần bí. Bên cạnh đó nó cũng mang tính thâm trầm, đồ sộ, nó

đã đặt ra và cố giải quyết nhiều vấn đề, song những vấn đề được ưu tiên giải

quyết là nhóm thuộc về nhân sinh, nhằm tìm kiếm con đường giải thoát chúng

SV: N.A.Khoa Trang 3/29 GVHD: TS. B.V.Mưa Hoàn thành: 02/2010

sinh ra khỏi thực tế xã hội đẳng cấp khắc nghiệt của Ấn Độ cổ-trung đại.

TTưư ttuuởởnngg ttrriiếếtt hhọọcc ccủủaa PPhhậậtt ggiiááoo vvàà ảảnnhh hhưưởởnngg ccủủaa nnóó đđếếnn đđờờii ssốốnngg VVHH--TTTT ccủủaa nnggưườờii VViiệệtt

III. Phật giáo

Phật giáo là một trường phái triết học-tôn giáo lớn của nền văn hóa Ấn

Độ cổ đại. Nó ảnh hưởng rộng rãi và lâu dài đến đời sống tinh thần của nhiều

dân tộc trên thế giới, trong đó có Việt Nam

III.1. Sơ lược sự hình thành và phát triển Phật giáo

Theo truyền thuyết, người sáng lập ra Phật giáo là Xítđácta Gôtama

(Siddhartha Gautama, 563-483 trCN), con vua Sutđôđana (Suddhodana),

thuộc bộ tộc Thích Ca (Shakya) của nước Capilavaxu- Một nước nhỏ ở miền

Đông –Bắc Ấn Độ, nằm dưới chân dãy Himalaya, nay thuộc đất Nêpan.

Năm 29 tuổi, Thái tử Xítđácta xuất gia đi tu để tìm kiếm con đường

cứu vớt những nỗi khổ của loài người. Nhưng qua 7 năm, theo các bậc chân

tu khổ hạnh của truyền thống tu luyện Ân Độ mà Ngài vẫn chưa tìm ra chân

lý. Cuối cùng, Ngài lang thang đến cánh rừng thiêng Uravela (Gaya, thuộc

tỉnh Bihar, miền Bắc Ấn Độ) và ngồi thiềng dưới gốc cây bồ đề. Sau 3 ngày

đêm suy ngẫm, Ngài phát hiện ra bản tính “vô ngã”, “vô thường” của thế giới.

Ngài tiếp tục ngồi dưới gốc cây bồ đề thêm 49 ngày nữa để chiêm nghiệm

tâm linh và giải thích thấu đáo bản chất của tồn tại, nguồn gốc của mọi khổ

đau. Ngài cho rằng mình đã tìm được con đường cứu vớt chúng sinh. Từ đó

trở đi, người ta gọi Ngày là “Phật” (Buddha), nghĩa là “người đã giác ngộ -

thấu hiểu chân lý”. Sau khi thành Phật, Ngài xây dựng “Giáo đoàn Phật giáo”

để rao giảng giáo lý của mình và được đệ tử tôn xưng là “Thích Ca Mâuni” –

nghĩa là bậc hiền triết của dòng tộc Thích Ca.

Đầu thế kỷ I, đạo Phật triệu tập đại hội 4 ở nước Cusan để thông qua

giáo lý của đạo Phật cải cách gọi là “Đại thừa”, còn giáo lý của đạo Phật cũ

gọi là “Tiểu thừa”. “Kinh điển” của Phật giáo có khỏang 5000 quyển chia

thành “tam tạng”. Tạng Kinh ghi lại những lời giảng của Phật Thích ca nhằm

giúp chúng sinh loại trừ phiền não, đạt đến niết bàn. Tạng Luật ghi lại những

giới luật đòi hỏi các đệ tử phải tuân theo để cho thân-tâm thanh tịnh.Tạng

SV: N.A.Khoa Trang 4/29 GVHD: TS. B.V.Mưa Hoàn thành: 02/2010

Luận ghi lại những lời bàn của các bậc cao tăng, trưởng lão nhằm làm sáng tỏ

TTưư ttuuởởnngg ttrriiếếtt hhọọcc ccủủaa PPhhậậtt ggiiááoo vvàà ảảnnhh hhưưởởnngg ccủủaa nnóó đđếếnn đđờờii ssốốnngg VVHH--TTTT ccủủaa nnggưườờii VViiệệtt

ý nghĩa của những lời kinh, giúp người đời phân biệt được phải –trái, chính –

tà.Tam tạng lại chia làm hai loại là Đại thừa và Tiểu thừa.

Tiểu thừa: như là một cỗ xe nhỏ, con đường cứu vớt hẹp. Phái tiểu

thừa cho rằng: chỉ có một Phật duy nhất là Phật Thích Ca, và chỉ có Phật

Thích Ca mới cứu độ chúng sinh được; chỉ có những người xuất gia đi tu mới

được Phật Thích Ca cứu vớt đưa đến Niết bàn –cảnh giới yên tĩnh gắn liền

với giác ngộ sáng suốt, không có phiền não khổ đau.

Đại thừa: như là một cỗ xe lớn, con đường cứu vớt rộng. Phái đại thừa

cho rằng: Phật Thích Ca là Phật cao nhất, ngoài ra còn các Phật khác như Phật

A Di Đà –vị Phật hiện đang giáo hóa ở cõi cực lạc phương Tây, Phật Di Lặc –

vị Phật tương lai sẽ nối nghiệp Phật Thích Ca để giáo hóa cõi đời này (cõi

Tabà), Phật Đại Dược Sư –vị Phật hiện đang giáo hóa ở cõi cực lạc phương

Đông (cõi Tĩnh lưu li); không chỉ có những người tu hành mà cả những người

trần tục quy y Phật pháp cũng đều có thể được cứu vớt đưa đến niết bàn,

nghĩa là có thể thành Phật, đó là các vị Bồ tát như: Văn Thù, Phổ Hiền, Quan

Âm, Địa Tạng…, dù đã thành Phật nhưng họ tự nguyện ở lại cõi trần để cứu

độ chúng sinh. Phái đại thừa đề cao tầng lớp tăng ni –người trung gian giữa

tín đồ và Bồ tát, coi trọng nghi thức cúng bái và chủ trương thờ tượng Phật.

Ngày nay, sự chia rẽ giáo lý tiểu thừa và đại thừa đã được Phật giáo

thống nhất ra sức khắc phục.

III.2. Một số tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo nguyên thủy

Tư tưởng triết học của Phật giáo nguyên thủy –tức tư tưởng của Phật

Thích Ca –chủ yếu nói về thế giới quan và nhân sinh quan của Phật Thích Ca,

và được trình bày trong bộ Kinh.

A. Thế giới quan

Thế giới quan của Phật giáo nguyên thủy được phản ánh trong thuyết

“duyên khởi” và được làm sáng tỏ qua phạm trù “vô ngã” và “vô thường”

Duyên khởi: là nói tắt câu “Chư pháp do nhân duyên nhi khởi” có

SV: N.A.Khoa Trang 5/29 GVHD: TS. B.V.Mưa Hoàn thành: 02/2010

nghĩa là các “pháp” đều do “nhân duyên” mà có. Pháp là tất cả mọi sự vật,

TTưư ttuuởởnngg ttrriiếếtt hhọọcc ccủủaa PPhhậậtt ggiiááoo vvàà ảảnnhh hhưưởởnngg ccủủaa nnóó đđếếnn đđờờii ssốốnngg VVHH--TTTT ccủủaa nnggưườờii VViiệệtt

bao gồm cả vật chất và tinh thần, kể cả giáo lý. Còn “nhân duyên” là nguyên

nhân và điều kiện. “Duyên” giúp cho “nhân” biến thành “quả”. Phật giáo cho

rằng mọi sự vật, hiện tượng đều do “nhân duyên” hòa hợp mà thành. Duyên

khởi từ “tâm” mà ra. “Tâm” là cội nguồn của vạn vật. Từ đây, Phật giáo

nguyên thủy chủ trương “vô tạo giả” tức không có vị thần linh tối cao nào tạo

ra thế giới. “Vô tạo giả” gắn liền với quan niệm “vô ngã”, “vô thường”.

Vô ngã: là không có một thực thể tối thượng tồn tại vĩnh hằng nào cả.

Trong thế giới, vạn vật và con người được cấu tạo từ các yếu tố “sắc” , tức vật

chất như đất, nước, lửa, gió và “danh”, tức tinh thần như: thụ, tưởng, hành,

thức mà không có “đại ngã” hay “tiểu ngã” gì cả.

Vô thường: là không có cái gì trường tồn và vĩnh cửu cả. Trong thế

giới, sự xuất hiện của vạn vật, kể cả con người cũng chỉ là kết quả hội tụ tạm

thời giữa “sắc” và “danh”; khi sắc và danh tan ra, chúng sẽ mất đi. Điều này

có nghĩa là, vạn vật luôn nằm trong chu trình “sinh –trụ -dị -diệt”; chúng luôn

bị cuốn vào dòng biến hóa hư ảo vô cùng theo luật nhân quả. “Nhân” nhờ

“duyên” mới sỉnh ra “quả”, “quả” nhờ “duyên” mà thành “nhân” mới, “nhân”

mới lại nhờ “duyên” mà thành “quả” mới…; cứ như thế vạn vật biến đổi, hợp

–tan, tan –hợp mà không có nguyên nhân đầu tiên và kết quả cuối cùng nào cả.

Như vậy, thế giới quan của Phật giáo nguyên thủy mang tính vô thần,

nhị nguyên luận ngả về phía duy tâm chủ quan và có chứa những tư tưởng

biện chứng chất phác.

B. Nhân sinh quan:

Nhân sinh quan là nội dung chủ yếu của triết lý Phật giáo nguyên thủy. Nó

thể hiện cô đọng trong câu nói của Phật Thích Ca: “ Hỡi chúng sinh, ta chỉ dạy

cho các người chỉ có một điều, đó là điều khổ và diệt khổ; Nếu nước biển có một

vị là vị mặn thì học thuyết của ta cũng có một vị là vị giải thoát. Nhân sinh quan

của Phật giáo được trình bày trong thuyết “Tứ diệu đế” với bốn bộ phận: khổ đế,

SV: N.A.Khoa Trang 6/29 GVHD: TS. B.V.Mưa Hoàn thành: 02/2010

tập đế, diệt đế và đạo đế.

TTưư ttuuởởnngg ttrriiếếtt hhọọcc ccủủaa PPhhậậtt ggiiááoo vvàà ảảnnhh hhưưởởnngg ccủủaa nnóó đđếếnn đđờờii ssốốnngg VVHH--TTTT ccủủaa nnggưườờii VViiệệtt

a. Khổ đế ((Duhkka satya):

Là lý luận về những nỗi khỗ rõ ràng ở thế gian. Theo Phật có 8 nỗi

khổ trầm luân bất tận mà bất cứ ai cũng phải gánh chịu là: sinh khổ, lão khổ,

bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, sở cầu bất đắc khổ, oán tăng hội khổ), ngũ

uẩn khổ (sự hội tụ và xung đột của ngũ uẩn –sắc, thụ, tưởng, hành, thức).

1. Sắc uẩn: Tổng thể của vật chất, có tính cách chướng ngại, trước hết

là bốn nguyên tố Địa, Thủy, Hỏa, Phong, sau là do sự kết hợp của bốn nguyên

tố thành ngũ quan là Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân và đối cảnh của ngũ quan là

ngũ trần: Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc.

2. Thụ uẩn : Sự cảm thụ của ngũ căn đối với ngũ trần sinh ra mọi cảm

giác như khổ, sướng, vui, buồn...

3. Tưởng uẩn: Sự tưởng tượng và tư duy về hình dáng của sự vật, sau

tác dụng của căn đối với cảnh.

4. Hành uẩn: Sự quan hệ tác dụng của tâm và tâm bất tương ứng hành,

khởi ra mọi hành động thiện, ác.

5. Thức uẩn:Thức uẩn là tác dụng của tinh thần, để nhận thức và phân

biệt mọi trạng thái của tâm đối với cảnh, tức là ý thức, bản thể của tâm.

b. Nhân đế: (Samudaya satya)

Là lý luận về những nguyên nhân dẫn đến nỗi khổ nơi cuộc sống con

người. Phật giáo cho rằng con người còn chìm đắm trong bể khổ khi không

thoát ra khỏi dòng sông luân hồi. Mà luân hồi là do “nghiệp” tạo ra. Sở dĩ có

“ nghiệp” là do lòng ham muốn, tham lam (ham sống, ham lạc thú, ham giàu

sang…), do sự ngu dốt và si mê, nói ngắn gọn là do “Tam độc” (tham, sân, si)

gây ra. Ngoài ra, nhân đế được diễn giải một cách lôgích và cụ thể trong

thuyết “Thập nhị nhân duyên” (12 nguyên nhân dẫn đến bể khổ): vô minh,

hành, thức, danh –sắc, lục nhập, xúc, thụ, ái, thủ, hữu, sinh, lão –tử. Trong 12

nguyên nhân ấy thì “vô minh” là nguyên nhân thâu tóm tất cả. Vì vậy, diệt trừ

SV: N.A.Khoa Trang 7/29 GVHD: TS. B.V.Mưa Hoàn thành: 02/2010

vô minh là diệt trừ tận gốc sự đau khổ nhân sinh.

TTưư ttuuởởnngg ttrriiếếtt hhọọcc ccủủaa PPhhậậtt ggiiááoo vvàà ảảnnhh hhưưởởnngg ccủủaa nnóó đđếếnn đđờờii ssốốnngg VVHH--TTTT ccủủaa nnggưườờii VViiệệtt

Thế giới vạn hữu hết thảy đều y vào sự quan hệ giữa nguyên nhân và

kết quả mà sinh hay diệt, ngay cả đến sự tượng nhỏ bé li ti chăng nữa cũng

không tránh khỏi luật nhân quả. Con người vì sinh trong thế giới vô thường,

nên tất cả mọi sinh hoạt của con người thường gặp những điều không như ý,

nhiều khổ não. Tất cả mọi hiện tượng khổ não không phải là ngẫu nhiên, mà

đều lệ thuộc vào Tập nhân rồi theo luật nhân quả chi phối. Tập nhân tức là

“vô minh”, vì y vào vô minh nên sinh ra chấp trước, vì chấp trước sinh ra dục

vọng, tạo thành các nghiệp ác về Thân, Khẩu, Ý và các nghiệp khác, nên trở

thành “nghiệp”. Nghiệp (Karma) tức là nghiệp lực, nó có cái sức tích tập, nên

trở thành nghiệp nhân, các nghiệp tương ứng với nghiệp nhân gọi là nghiệp

quả, đưa đến khổ báo, gây thành khổ quả. Tóm lại, cận nhân của quả khổ là

nghiệp, và viễn nhân của quả khổ là vô minh, hay là “hoặc”.

Mười hai nhân duyên là giáo lý nội quán của Đức Phật khi thành đạo.

Sau khi thành đạo, Ngài căn cứ vào lẽ sinh khởi của khổ giới là Khổ đế và

Nhân đế mà lần lượt nói ra sự nhân quả quan hệ của nó có mười hai thứ, được

gọi là mười hai duyên khởi. Đối với giáo lý của Phật giáo, mười hai nhân

duyên chiếm một vị trí rất quan trọng.

Khổ, Hoặc và Nghiệp cũng quan hệ lẫn nhau, nên tạo thành một vòng

tròn tuần hoàn không ngừng, mười hai nhân duyên cũng nương vào nhau để

tạo nhân kết quả, chắp thành mối dây liên lạc vô cùng vô tận.

c. Diệt đế (Nirodha satya):

Là lý luận về khả năng tiêu diệt được nỗi khổ nơi cuộc sống thế gian

để đạt tới niết bàn. Khi vô minh được khắc phục thì tam độc sẽ biến mất, luân

hôì sẽ chấm dứt…, tâm sẽ thanh thản, thần sẽ minh mẫn, niết bàn sẽ xuất

hiện… Diệt đế bộc lộ tinh thần lạc quan của Phật giáo ở chỗ nó vạch ra cho

moị người thấy cái hiện taị đen tối, xấu xa của mình, để cải đổi, kiến tạo laị

nó thành một cuộc sống xán lạn, tốt đẹp hơn. Phật giáo thể hiện khát vọng

nhân bản, muốn hướng con người đến cõi hạnh phúc “tuyệt đối”, muốn

SV: N.A.Khoa Trang 8/29 GVHD: TS. B.V.Mưa Hoàn thành: 02/2010

hướng khát vọng chân chính của con người tới chân –thiện –mỹ.

TTưư ttuuởởnngg ttrriiếếtt hhọọcc ccủủaa PPhhậậtt ggiiááoo vvàà ảảnnhh hhưưởởnngg ccủủaa nnóó đđếếnn đđờờii ssốốnngg VVHH--TTTT ccủủaa nnggưườờii VViiệệtt

Diệt đế là Giải thoát luận, và cũng là Lý tưởng luận của Phật giáo.

Khổ đế và Nhân đế là nguyên nhân và kết quả của khổ não. Diệt đế là phương

pháp diệt trừ khổ quả và khổ nhân, đưa chúng sinh tới chỗ Niết-bàn thường

trụ. Căn cứ vào giáo lý của Đức Phật, thì khổ quả của con người là do nghiệp

làm cận nhân, nghiệp nương vào hoặc mà sinh, hoặc lấy vô minh làm nguyên

nhân căn bản. Từ vô minh sinh ra ngã tưởng, y vào ngã tưởng sinh ra chấp

trước, nhận thế giới vô thường là thực tại, nên sinh ra vọng tưởng, vọng tưởng

là cơ bản để sinh ra mọi phiền não, gây ra mọi nghiệp nhân, tạo thành cái quả

khổ sinh tử. Vì vậy, nếu muốn diệt khổ quả, trước hết phải đừng tạo nghiệp

nhân, muốn không tạo nghiệp nhân, trước hết cần phải diệt ngã tưởng. Ngã

tưởng đã đoạn, thì nhận được chân tướng của thế giới là “Bản lai vô ngã”.

Biết được chân tướng của thế giới là Bản lai vô ngã, tức là ngã tưởng đoạn

diệt, cắt đứt được xiềng xích luân hồi, thoát mọi khổ não trong bể sinh tử,

không bị luân hồi trong lục thú, tới chốn giải thoát Niết-bàn, đó là Diệt đế.

d. Đạo đế (Màrga satya).:

Là lý luận về con đường diệt khỏ, giải thoát. Nội dung cơ bản của nó

thể hiện trong thuyết “ Bát chính đạo” (tám con đường đúng đắn) đưa chúng

sinh đến niết bàn, đó là: chính kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp,

chính mệnh, chính tinh tấn, chính niệm, chính định. Chung quy, bát chính đạo

là suy nghĩ, nói năng, hành động đúng đắn…; nhưng về thực chất, thực hành

bát chính đạo là khắc phục “tam độc” bằng các thực hiện “tam học (giới, định,

tuệ). Trong đó, “tham” được khắc phục bằng “giới” (chính ngữ, chính nghiệp,

chính mệnh); “sân” được khắc phục bằng “định” (chính tinh tấn, chính niệm,

chính mệnh); “si” được khắc phục bằng “tuệ” (chính kiến, chính tư duy).

1. Giới (Sila). - Ý nghĩa của giới là sự tích cực làm điều thiện, ngăn

điều ác, để tránh mọi lỗi lầm của ba nghiệp: Thân, Khẩu, Ý. Tại gia Phật tử

thì giữ các điều giới là Ngũ giới và Thập thiện.

Ngũ giới: Không được sát sinh; không được trộm cắp; không được tà

SV: N.A.Khoa Trang 9/29 GVHD: TS. B.V.Mưa Hoàn thành: 02/2010

dâm; không được uống rượu; và không được vọng ngữ.

TTưư ttuuởởnngg ttrriiếếtt hhọọcc ccủủaa PPhhậậtt ggiiááoo vvàà ảảnnhh hhưưởởnngg ccủủaa nnóó đđếếnn đđờờii ssốốnngg VVHH--TTTT ccủủaa nnggưườờii VViiệệtt

Thập thiện.:Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, là ba thiện

nghiệp thuộc về thân nghiệp; không nói dối, không nói lưỡi đôi chiều, không

ác khẩu, không nói thêu dệt, là bốn thiện nghiệp thuộc khẩu nghiệp; không

tham, không sân, không tà kiến, ba thiện nghiệp này thuộc về ý nghiệp.

2. Định (Samàdhi)Định còn gọi là Đẳng trì, hay là Thiền-na . Tâm tập

trung vào một cảnh, không để cho tán loạn, không thiên về lạc quan hay bi

quan, thân tâm khinh an, quán suốt mọi pháp, để phát sinh ra trí tuệ vô lậu.

3.Tuệ (Prajnà). - Nhờ ở kết quả của tu định, dần dần chân tâm được

sáng tỏ, trí tuệ đại vô lậu được hiển hiện, phân biệt được phần tự tướng tính

đặc hữu và cộng tướng (tính cộng thông) của mọi pháp, chứng ngộ được lý

Tứ đế, đoạn trừ được mọi hoặc

Sau hết là phép tu tổng quát cho tất cả các hàng Phật tử là Lục độ tức

là Bố thí,Trì giới, Nhẫn nhục,Tinh tiến, Thiền định, Trí tuệ

Ngoài ra, Phật giáo còn khuyên chúng sinh thực hành “Ngũ giới”

(không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không ẩm

tửu); rèn luyện “Tứ đẳng” (từ, bi, hỉ, xả)…Phật giáo phản đối chế độ đẳng

cấp, tố cáo xã hội bất công, đòi bình đẳng công bằng xã hội, khuyên chúng

sinh luôn suy nghĩ về điều thiện và làm điều thiện…

Ý nghĩa niết bàn: (Nirvàna) –có nghĩa là diệt độ. Tức là đã đoạn diệt

hết mọi khổ sinh tử tới cõi hoàn toàn yên vui giải thoát. Nguyên lai ý nghĩa

đó có hai phương diện là tiêu cực và tích cực. Cần phải đoạn hết phiền não là

nghĩa tiêu cực, cần phải đạt tới chỗ an lạc giải thoát là nghĩa tích cực. Vậy bậc

tu hành đã chứng tới Niết-bàn, thời không còn phải sinh tử, tới chốn đại an lạc.

Niết-bàn còn có nghĩa là hết mọi vọng động tới chỗ tịch tĩnh, lìa mọi pháp

hữu vi tới chỗ vô vi, lìa mọi hư vọng tới chỗ chân như, lìa mọi giả tướng tới

chỗ thực tướng, siêu việt mọi nghĩa đoạn thường của thế gian tới chỗ trung

đạo, vượt mọi ngã và phi ngã của thế gian thường kiến tới chỗ chân ngã.

Người đời thường ngộ nhận về nghĩa Niết-bàn là hư vô, là tiêu cực.

SV: N.A.Khoa Trang 10/29 GVHD: TS. B.V.Mưa Hoàn thành: 02/2010

Nhưng thực ra chỉ vì người đời ngộ nhận, chấp trước vào mọi hiện tượng sinh

TTưư ttuuởởnngg ttrriiếếtt hhọọcc ccủủaa PPhhậậtt ggiiááoo vvàà ảảnnhh hhưưởởnngg ccủủaa nnóó đđếếnn đđờờii ssốốnngg VVHH--TTTT ccủủaa nnggưườờii VViiệệtt

diệt biến hóa ở thế gian, nhận là thực hữu, vì mục đích phá ngộ nhận đó, nên

Đức Phật nói có Niết-bàn. Như vậy, Niết-bàn không phải là nghĩa tiêu cực, hư

vô, mà là nghĩa tích cực, chân thật. Tức là, đối với thường thì thường trụ, đối

với Khổ là Lạc, đối với Ngã là Chân ngã, đối với Bất tịnh là Thanh tịnh, đối

với Hư vọng là Chân thực, đối với Sai biệt là Bình đẳng, đối với Hiện tượng

là Bản thể thực tại. Tóm lại, Niết-bàn phải là cái đích tối cao, để con người

quy y, là nơi an lạc cho từng cá nhân, nơi hiệp đồng trụ xứ cho trăm ngàn vạn

người, cho toàn thể chúng sinh.

Như vậy, dù nhân sinh quan của Phật giáo nguyên thủy mang tính

nhân bản sâu sắc; nhưng, nó cũng chứa đầy tinh chất duy tâm chủ quan thể

hiện qua các quan niệm bi quan yếm thế, không tưởng về đời sống xã hội, và

thần bí về đời sống con người.

III.3. Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đến xã hội Ấn Độ cổ -trung đại

Xã hội Ấn Độ thời kỳ này chịu ảnh hưởng của chế độ phân chia đẳng

cấp và chủng tộc. Tầng lớp thống trị gồm Tăng lữ và quí tộc đã sử dụng công

cụ tinh thần của mình là đạo Bàlamôn và sức mạnh vật chất tiến hành thống

trị xã hội. Tầng lớp bị trị gồm người bình dân và đặc biệt là nô lệ chiếm một

tỷ lệ rất lớn trong xã hội. Họ không có sức mạnh vật chất để tiến hành cách

mạng giải phóng bản thân. Họ bi ru ngủ bởi các tư tưởng giáo lý của đạo

Bàlamôn và mất đi sức mạnh về tinh thần và thật sự lún sâu dưới đáy xã hội.

Nhằm đáp ứng đơn đặt hàng của lịch sử, Phật giáo xuất hiện và cố

gắng trở thành công cụ tinh thần nhằm giúp cho tầng lớp bình dân và nô lệ

thoát khỏi sự thống trị hiện tại. Triết lý Phật giáo xét cho cùng cũng là lý luận

về cái “khổ” tìm hiểu về cái khổ và đưa ra cách diệt khổ. Nhờ có Phật giáo

mà các giai cấp bị trị trong xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ đã có thể giải phóng ít

nhất về mặt tinh thần. Tuy nhiên Phật giáo chỉ đưa ra các lý luận về tinh thần

giúp con người thoát khỏi “bể khổ”, nhưng lại không đưa ra đường lối đấu

tranh bằng sức mạnh vật chất nên bản thân các tầng lớp bị trị vẫn chưa thoát

SV: N.A.Khoa Trang 11/29 GVHD: TS. B.V.Mưa Hoàn thành: 02/2010

ra khỏi sự áp bức bóc lột của tăng lữ và vua chúa.

TTưư ttuuởởnngg ttrriiếếtt hhọọcc ccủủaa PPhhậậtt ggiiááoo vvàà ảảnnhh hhưưởởnngg ccủủaa nnóó đđếếnn đđờờii ssốốnngg VVHH--TTTT ccủủaa nnggưườờii VViiệệtt

Với chủ trương bình đẳng, xóa bỏ giai cấp, triết học Phật giáo đã được

tầng lớp bình dân và nô lệ đón nhận nồng nhiệt và phát triển nó đặc biệt là ở

khu phía Đông Ấn Độ. Các tầng lớp này đã tìm thất được sức mạnh tinh thần

cùng với cơ sở vật chất tích lũy được nhằm cố gắng xóa bỏ sự bất bình đẳng

trong xã hội lúc bấy giờ. Tuy nhiên sau một thời gian tồn tại khá lâu, thì triết

học Phật giáo nguyên thủy đã không đáp ứng được yêu cầu mà thời đại tại Ấn

Độ đặt ra nên đã dần mai một và biến mất khỏi Ấn Độ. Tuy nhiên, nó vẫn

được truyền bá sang các nước Đông Á và Đông Nam Á và lưu truyền đến

ngày hôm nay, đặc biệt là tại Việt Nam.

IV. Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đến đời sống văn hóa

tinh thần của người Việt

IV.1. Khái quát lịch sử Phật giáo Việt Nam

Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, ngay từ đầu Công

nguyên với truyện cổ tích Chử Đồng Tử (ở Hưng Yên ngày nay) học đạo của

một nhà sư Ấn Độ. Luy Lâu (thuộc tỉnh Bắc Ninh) là trị sở của quận Giao Chỉ

sớm trở thành trung tâm Phật giáo quan trọng. Do tiếp thu Phật giáo trực tiếp

từ Ấn Độ nên từ Buddha (bậc giác ngộ) được phiên âm trực tiếp thành "Bụt",

từ "Bụt" được dùng nhiều trong các truyện dân gian. Phật giáo Việt Nam lúc

ấy mang màu sắc của Tiểu thừa, Bụt được coi như một vị thần chuyên cứu

giúp người tốt, trừng phạt kẻ xấu. Sau này, vào thế kỷ thứ 4-5, do ảnh hưởng

của Đại thừa đến từ Trung Quốc mà từ "Bụt" bị mất đi và được thay thế bởi

từ "Phật". Trong tiếng Hán, từ Buddha được phiên âm thành "Phật đà", "Phật

đồ" rồi được rút gọn thành "Phật".

Lịch sử Phật giáo Việt Nam có thể chia thành bốn giai đoạn:

- Từ đầu công nguyên đến hết thời kỳ Bắc thuộc là giai đoạn hình thành và

phát triển rộng khắp

- Thời Nhà Lý - Nhà Trần là giai đoạn cực thịnh

- Từ đời Hậu Lê đến cuối thế kỷ 19 là giai đoạn suy thoái

SV: N.A.Khoa Trang 12/29 GVHD: TS. B.V.Mưa Hoàn thành: 02/2010

- Từ đầu thế kỷ 20 đến nay là giai đoạn phục hưng.

TTưư ttuuởởnngg ttrriiếếtt hhọọcc ccủủaa PPhhậậtt ggiiááoo vvàà ảảnnhh hhưưởởnngg ccủủaa nnóó đđếếnn đđờờii ssốốnngg VVHH--TTTT ccủủaa nnggưườờii VViiệệtt

Khi Phật giáo được truyền vào Việt Nam đã được các vị thiền sư

người Việt bản địa hóa, khiến Phật giáo hòa mình vào lòng dân tộc tạo nên

một sắc thái đặc biệt của riêng Việt Nam. Dù được bản địa hóa để quyện

mình vào lòng dân tộc nhưng tam tạng kinh điển Phật giáo Việt Nam vẫn

được truyền thừa trong suốt hơn 2000 năm lịch sử Phật giáo Việt Nam.

IV.2. Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của

người Việt

1..Ảnh hưởng của Phật giáo đến tư tưởng triết học và đạo lý

a. Ảnh hưởng của Phật giáo đến tư tưởng triết học của dân tộc

Tư tưởng căn bản của Phật Giáo là đạo lý Duyên Khởi, Tứ Diệu Đế

và Bát chánh đạo. Ba đạo lý này là nền tảng cho tất cả các tông phái Phật giáo

nguyên thủy cũng như Đại Thừa đã ăn sâu vào lòng của người dân Việt.

Có thể nói mọi người dân Việt đều ảnh hưởng ít nhiều qua giáo lý này.

Vì thế, lý nghiệp báo luân hồi đã in dấu đậm nét trong văn chương bình dân,

trong văn học chữ nôm, chữ hán, từ xưa cho đến nay để dẫn dắt từng thế hệ

con người biết soi sáng tâm trí mình vào lý nhân quả nghiệp báo mà hành

động sao cho tốt đẹp đem lại hòa bình an vui cho con người. Mặt khác họ

hiểu rằng nghiệp nhân không phải là định nghiệp mà có thể làm thay đổi, do

đó họ tự biết sửa chữa, tu tập cải ác tùng thiện. Sống ở đời, đột nhiên những

tai họa, biến cố xảy ra cho họ, thì họ nghĩ rằng kiếp trước mình vụng đường

tu nên mới gặp khổ nạn này. Không than trời trách đất, cam chịu và tự cố

gắng tu tỉnh để chuyển hóa dần ác nghiệp kia. Như Nguyễn Du đã viết:

“Cho hay muôn sự tại trời. Trời kia đã bắt làm người có thân. Bắt

phong trần phải phong trần. Cho thanh cao mới được phần thanh cao”

“Có trời mà cũng có ta. Tu là cội phúc, tình là dây oan ”

Nếu ta nắm vững nguyên tắc nhân quả nghiệp báo như trên, thì chúng

ta có thể chuyển nghiệp ngay trong hiện kiếp. Khởi đầu của việc chuyển

SV: N.A.Khoa Trang 13/29 GVHD: TS. B.V.Mưa Hoàn thành: 02/2010

nghiệp là bắt đầu thay đổi hành nghiệp thiện và ác từ ba nghiệp Thân, Khẩu

TTưư ttuuởởnngg ttrriiếếtt hhọọcc ccủủaa PPhhậậtt ggiiááoo vvàà ảảnnhh hhưưởởnngg ccủủaa nnóó đđếếnn đđờờii ssốốnngg VVHH--TTTT ccủủaa nnggưườờii VViiệệtt

và Ý của chính mỗi cá nhân. Hành nghiệp thiện, giảm bớt điều ác, dần dần ta

sẽ chuyển hóa và tạo cho ta có một cuộc sống yên vui cho hiện tại và mai sau.

b. Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đến nền đạo lý dân tộc

Giáo lý từ bi, tinh thần hiếu hòa, hiếu sinh của Phật giáo đã ảnh hưởng

và thấm nhuần sâu sắc trong tâm hồn của người Việt. Như Nguyễn Trãi:

« Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn. Đem chí nhân để thay cường bạo »

« Thần vũ chẳng giết hại. Thuận lòng trời ta mở đường hiều sinh »

Tinh thần thương người này đã biến thành ca dao tục ngữ rất phổ biến

trong quần chúng Việt Nam như "lá lành đùm lá rách", hay: “Nhiễu điều phủ

lấy giá gương Người trong một nước phải thương nhau cùng”

Đó là những câu ca dao, tục ngữ mà bất cứ người Việt Nam nào cũng

đều thấm nhuần và thuộc nằm lòng, nói lên lòng nhân ái vị tha của dân tộc.

Ngoài đạo lý Từ Bi, người Việt còn chịu ảnh hưởng sâu sắc một đạo

lý khác của Phật giáo là đạo lý Tứ Ân, gồm: ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân quốc

gia và ân chúng sanh. Đạo lý này được xây dựng theo một trình tự phù hợp

với bước phát triển của tâm lý về tình cảm của dân tộc Việt. Tình thương ở

mọi người bắt đầu từ thân đến xa, từ tình thương cha mẹ, họ hàng lan dần đến

tình thương trong các mối quan hệ xã hội với thầy bạn, đồng bào quê hương

đất nước và mở rộng đến cuộc sống của nhân loại trên vũ trụ này. Đặc biệt

trong đạo lý tứ ân, ta thấy ân cha mẹ là nổi bật và ảnh hưởng rất sâu đậm

trong tình cảm và đạo lý của người Việt. Vì đạo Phật rất chú trọng đến hiếu

hạnh, và Đức Phật đã thuyết giảng đề tài này trong nhiều kinh khác nhau như

Kinh Báo Phụ Mẫu Ân, kinh Thai Cốt, kinh Hiếu Tử, kinh Nhẫn Nhục, kinh

Vu Lan.. nhắc đến công lao dưỡng dục của cha mẹ, Phật dạy: "muôn việc ở

thế gian, không gì hơn công ơn nuôi dưỡng lớn lao của cha mẹ" (Kinh Thai

Cốt), hay kinh Nhẫn Nhục dạy: "cùng tốt điều thiện không gì hơn hiếu, cùng

tốt điều ác không gì hơn bất hiếu". Bởi Phật Giáo đặc biệt chú trọng chữ hiếu

SV: N.A.Khoa Trang 14/29 GVHD: TS. B.V.Mưa Hoàn thành: 02/2010

như thế nên thích hợp với nếp sống đạo lý truyền thống của dân tộc Việt.

TTưư ttuuởởnngg ttrriiếếtt hhọọcc ccủủaa PPhhậậtt ggiiááoo vvàà ảảnnhh hhưưởởnngg ccủủaa nnóó đđếếnn đđờờii ssốốnngg VVHH--TTTT ccủủaa nnggưườờii VViiệệtt

Nhìn chung, đạo lý hiếu ân trong ý nghĩa mở rộng có cùng một đối

tượng thực hiện là nhắm vào người thân, cha mẹ, đất nước, nhân dân , vũ trụ,

đó là môi trường sống của chúng sanh gồm cả mặt tâm linh nữa. Đạo lý Tứ

Ân còn có chung động cơ thúc đẩy là Từ Bi, Hỷ Xã khiến cho ta sống hài hòa

với xã hội, với thiên nhiên để tiến đến hạnh phúc chân thực và niên trường.

Từ cơ sở tư tưởng triết học và đạo lý trên đã giúp cho Phật Giáo hình

thành được một bản sắc đặc thù rất riêng tại Việt Nam, góp phần làm phong

phú và đa dạng hóa nền văn hóa tinh thần của dân tộc Việt.

2. Ảnh hưởng của thuyết nhân quả:

Nói đến giáo lý nhân quả là nói đến một quy luật tất yếu của nhân

sanh và vũ trụ. Nó không chỉ dành riêng cho những người tu sĩ hay cho những

tín đồ Phật giáo mà còn dành chung cho toàn xã hội. Điều này đã khiến cho

Phật giáo có được những ảnh hưởng sâu sắc đối với gia giáo cổ truyền của

người Việt trong xã hội trước đây.

Không biết từ bao giờ, con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam đã biết

đến tính chất nhân quả như một nếp sống đạo đức được thiết lập từ bên trong

gia đình cho đến ngoài xã hội. Phải chăng cha ông ta đã tiếp nhận những điều

hay lẽ phải trong tinh thần cầu tiến để phục vụ cho cuộc sống của nhân dân.

Vả lại, giáo lý nhân quả lại rất phù hợp với bản chất con người Việt Nam, dân

tộc Việt Nam, một dân tộc vốn hiền hòa dễ mến.

Đất nước Việt Nam, một trong những đất nước nằm trong nền văn hóa

chung của khu vực Đông Nam Á, đó là nền văn hóa lúa nước. Do vậy, cuộc

sống sinh hoạt xã hội Việt Nam lúc bấy giờ dường như gắn liền với thiên

nhiên, gắn liền với những lễ hội sinh hoạt cộng đồng. Con người luôn đặt

niềm tin và hy vọng vào sự chở che và giúp đỡ của một đấng thần linh nào đó.

Trên quan niệm đó, trong xã hội đã bắt đầu có sự xuất hiện của

những khái niệm về các vị thần linh như: thần mưa, thần gió, thần sông, thần

biển, thiên lôi, hà bá…Nên một khi nói điều gì, làm một việc gì con người hết

SV: N.A.Khoa Trang 15/29 GVHD: TS. B.V.Mưa Hoàn thành: 02/2010

sức dè dặt và cẩn trọng trước sự uy hiếp vô hình của các đấng thần linh. Nhờ

TTưư ttuuởởnngg ttrriiếếtt hhọọcc ccủủaa PPhhậậtt ggiiááoo vvàà ảảnnhh hhưưởởnngg ccủủaa nnóó đđếếnn đđờờii ssốốnngg VVHH--TTTT ccủủaa nnggưườờii VViiệệtt

vậy, con người đã biết chọn lựa những cái hay cái đẹp xử sự lẫn nhau, lấy cái

thiện làm chất liệu cho cuộc sống. Bấy giờ, con người tin rằng một khi gây

nên điều gì làm Phật lòng đến các đấng thần linh thì con người sẽ bị trừng

phạt bằng những hình thức như: hạn hán, mất mùa, lũ lụt, bão tố, dịch bệnh…

Đặc biệt trong sinh hoạt xã hội xưa ông cha ta rất coi trọng và tôn kính

đối với những người đã khuất. Đây là nhân tố quan trọng, là tiền đề cho sự ra

đời của tục lệ thờ cúng ông bà sau này. Dựa trên những sinh hoạt, phong tục,

tập quán của người Việt xưa, ta dễ dàng nhận thấy sự gắn bó mật thiết giữa

triết lý nhân quả của Đạo Phật với đời sống xã hội thông qua những giá trị

đạo đức chuẩn mực. Bởi triết lý nhân quả của Đạo Phật rất phù hợp với nếp

sống, với quan niệm nhân sanh và vũ trụ xưa nay của dân tộc.

Trong quảng đại quần chúng thì dấu ấn của thuyết nhân quả được thể

hiện rõ nét qua những bài học giáo dục đạo đức làm người, đó là phải “ăn

hiền ở lành”. Bài học giá trị đạo đức ấy đã được phản ánh tích cực trong đời

sống sinh hoạt từ gia đình cho đến xã hội. Đúc kết từ những kinh nghiệm

sống thiết thực, cha ông ta đã nhắn gởi cho thế hệ con cháu những bài học

luân lý mang tính giáo dục rất lớn. Từ xa xưa, ông cha ta đã ý thức được giá

trị cao quý của con người không phải ở địa vị và danh vọng mà chỉ có nơi

những con người đức hạnh. Thời gian qua đi mọi sự vật đều đổi thay, địa vị,

tiền tài, danh vọng kia rồi cũng tan biến, duy chỉ có danh thơm tiếng tốt của

những con người đức hạnh sẽ còn lưu mãi với thời gian.

“Hương của các loài hoa. Không thể bay ngược gió

Hương người đức hạnh đó. Ngược gió bay muôn phương.”

Từ đây chúng ta đã thấy được mức độ ảnh hưởng to lớn và sâu sắc của

triết lý nhân quả đối với tư tưởng văn hóa tinh thần dân tộc.

3. Ảnh hưởng của tư tưởng Phật Giáo qua góc độ nhân văn và xã hội:

a. Qua ca dao, dân ca:

Ca dao dân ca phổ biến dưới dạng thơ lục bát bao gồm nhiều đề tài

SV: N.A.Khoa Trang 16/29 GVHD: TS. B.V.Mưa Hoàn thành: 02/2010

khác nhau, tư tưởng đạo lý của Phật giáo cũng thường được ông cha ta đề cập

TTưư ttuuởởnngg ttrriiếếtt hhọọcc ccủủaa PPhhậậtt ggiiááoo vvàà ảảnnhh hhưưởởnngg ccủủaa nnóó đđếếnn đđờờii ssốốnngg VVHH--TTTT ccủủaa nnggưườờii VViiệệtt

đến trong ca dao dân ca dưới đề tài này hay khía cạnh khác để nhắc nhở,

khuyên răng dạy bảo, với mục đích xây dựng một cuộc sống an vui phù hợp

với truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam.

Có thể nói trong tâm hồn của mỗi con người Việt Nam đều có chứa

đựng ít nhiều triết lý nhà Phật và những hình ảnh về ngôi chùa, về Phật, trải

qua hàng ngàn năm gắn bó mật thiết với làng xã Việt Nam:

“Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt”

Đất vua, chùa làng là một hình ảnh gần gũi với dân, với làng, vơí nước

như vậy, nếu ai xúc phạm đến chùa, đến Phật thì cũng có thể hiểu là xúc

phạm đến đạo lý, đến quốc gia. Trên tinh thần đó người dân Việt Nam quyết

một lòng bảo vệ ngôi chùa quê hương của mình:

“Bao giờ cạn nước Đồng Nai. Nát chùa Thiên Mụ mới sai lời nguyền”

Đôi khi đâu đó ta có thể thấy được hình ảnh chuông chùa trong cách

định thời gian của người Việt: “Gió đưa cành trúc la đà. Tiếng chuông Trấn

Vũ, canh gà thọ Xương”. “Trên chùa đã động tiếng chuông. Gà Thọ Xương

đã gáy, chim trên nguồn đã kêu”

Khi đã là người Việt Nam không thể không hiếu kính cha mẹ, niềm tri

ơn và báo ơn ấy đã trở thành bản tính tự nhiên, ăn sâu vào tâm khảm của

người dân Việt. Tinh hoa và tinh thần cao đẹp này không phải tự nhiên mà có,

mà chính là nhờ ảnh hưởng của cả một nền giáo dục, một tổ chức văn hóa từ

ngàn xưa để lại, tương xứng với tư tưởng và phong tục của dân tộc Việt.

Trong tất cả những ảnh hưởng, lớn nhất và sâu rộng nhất cũng vẫn là sự ảnh

hưởng của đạo Phật, một tôn giáo, một nền giáo dục đã có mặt với dân tộc từ

buổi đầu của công nguyên, mà đạo Phật là đạo hiếu, lời dạy của Phật về việc

nhớ ơn và báo ơn cha mẹ là những cảm giác suy tư in đậm trong lòng của

người Việt, và đã thể hiện linh động và triền miên ngang qua ca dao dân ca,

mà chúng ta thấy tràn ngập khắp dân gian Việt Nam:

“Công cha như núi Thái Sơn. Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

SV: N.A.Khoa Trang 17/29 GVHD: TS. B.V.Mưa Hoàn thành: 02/2010

Một lòng thờ mẹ kính cha. Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”

TTưư ttuuởởnngg ttrriiếếtt hhọọcc ccủủaa PPhhậậtt ggiiááoo vvàà ảảnnhh hhưưởởnngg ccủủaa nnóó đđếếnn đđờờii ssốốnngg VVHH--TTTT ccủủaa nnggưườờii VViiệệtt

Hay:“Núi cao biển rộng mênh mông. Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi”

Mến cảnh chùa chiền, Phật tượng, nhưng hiếu hạnh của người con vẫn

đặt lên trên vì công ơn trời biển của cha mẹ trong suốt quá trình dưỡng dục

sinh thành, biết bao nhọ nhằn, gian khổ đối với con. Do đó:

“Vô chùa thấy Phật muốn tu. Về nhà thấy mẹ công phu chưa đành.”

Cũng vì thương kính cha mẹ, nên người con luôn luôn cầu nguyện

Phật trời gia hộ cho hai đấng từ thân:

“Đêm đêm khấn nguyện Phật trời. Cầu cho cha mẹ sống đời với con”

Người Việt Nam thường nhắn nhủ nhau chớ có vì danh lợi phù hoa,

làm ác hại người để rồi chuốc lấy đau khổ. Hãy ăn ở cho lương thiện rồi thế

nào cũng gặp điều tốt lành, may mắn và hạnh phúc:

“Ai ơi hãy ở cho lành. Kiếp này chẳng gặp đề dành kiếp sau”

Cha mẹ lại càng tu nhân tích đức cho con cháu về sau được nhờ:

“Cây xanh thì lá cũng xanh. Cha mẹ hiền lành để đức cho con”

Ngang qua các câu ca dao về hình ảnh của ngôi chùa, về quan niệm

hiếu hạnh, quan niệm nhân quả, ta thấy sự ảnh hưởng của Phật giáo đã ăn sâu

vào đời sống của dân tộc Việt Nam.

b. Qua tác phẩm văn học

Bên cạnh ca dao bình dân, trong các tác phẩm văn học của các nhà thơ,

nhà văn chúng ta cũng thấy ít nhiều chịu ảnh hưởng của Phật giáo. Ở đây

chúng ta không đề cập đến dòng văn học chính thống của Phật giáo, tức là tác

phẩm do các thiền sư sáng tác trong quá trình tu tập của mình, mà chỉ nói đến

các thơ văn Việt Nam chịu sự ảnh hưởng của triết lý Phật giáo mà thôi. Cái

ảnh hưởng đó có ngay từ khi Phật giáo du nhập vào nước Việt, nghĩa là khi

chữ Hán còn thịnh hành, nhưng để thấy rõ ràng hơn, ta chỉ đề cập đến sự ảnh

hưởng của Phật giáo trong thơ văn từ khi người Việt Nam đã viết chữ Nôm,

chữ Việt thành thạo nghĩa là bắt đầu thừ thế kỷ thứ 18 trở về sau.

Tác phẩm chữ nôm nổi tiếng trong thế kỷ thứ mười tám là Cung Oán

SV: N.A.Khoa Trang 18/29 GVHD: TS. B.V.Mưa Hoàn thành: 02/2010

Ngâm Khúc của nhà thơ Việt Nam Nguyễn Gia thiều (1741-1798). Nội dung

TTưư ttuuởởnngg ttrriiếếtt hhọọcc ccủủaa PPhhậậtt ggiiááoo vvàà ảảnnhh hhưưởởnngg ccủủaa nnóó đđếếnn đđờờii ssốốnngg VVHH--TTTT ccủủaa nnggưườờii VViiệệtt

tác phẩm chịu nhiều ảnh hưởng của Phật giáo, nhất là triết lý ba pháp ấn Vô

Thường, Khổ, Vô Ngã. Khi diễn tả thân phận con người vốn khổ đau và mang

tính vô thường, ông viết:

« Gót danh lợi bùn pha sắc xám. Mặt phong trần nắng rám mùi dâu

Nghĩ thân phù thế mà đau. Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê. »

Qua thế kỷ thứ mười chín, với thi hào Nguyễn Du ta có được một án

văn bất hủ là Truyện Kiều. Đây là một truyện thơ chịu nhiều ảnh hưởng của

Phật Giáo, trong đó ta thấy nổi bật nhất là thuyết về Khổ Đế, một phần quan

trọng của giáo lý Tứ Diệu Đế, kế đó là tinh thần về hiếu đạo và thuyết về

nhân quả và nghiệp báo. Điều đó có lý, vì lẽ chính Nguyễn Du đã tự nhận

mình là một Phật tử và từng đọc Kinh Kim Cang Bát Nhã đến cả ngàn lần.

« Đã mang lấy nghiệp vào thân. Thì đừng trách lẫn trời gần trời xa »

Nhưng theo Phật Giáo thì nghiệp không phải là định nghiệp, là bất khả

chuyển, cho nên ông mới tự tin:

« Sư rằng phúc họa đạo trời.Cội nguồn cũng bởi lòng người mà ra

Có trời mà cũng có ta. Tu là cội phúc, tình là dây oan »

Điểm qua một số thơ văn Việt nam có những ảnh hưởng của Phật

Giáo như trên ta thấy tư tưởng, triết học Phật Giáo đã để lại dấu ấn của mình

sâu đậm trên diễn đàn tư tưởng của Việt Nam.

c. Qua phong tục, tập quán :

Phong tục tập quán thể hiện đặc sắc và tính đặc thù về văn hóa của

mỗi dân tộc. Thông qua việc tìm hiểu phong tục tập quán, người ta tìm lại

được những giá trị văn hóa mang bản chất truyền thống của các dân tộc. Đối

với người Việt Nam, những phong tục tập quán chịu ảnh hưởng Phật giáo khá

nhiều. Song ở đây người viết chỉ đề cập đến những tập tục phổ biến trong đời

SV: N.A.Khoa Trang 19/29 GVHD: TS. B.V.Mưa Hoàn thành: 02/2010

sống hằng ngày của người Việt.

TTưư ttuuởởnngg ttrriiếếtt hhọọcc ccủủaa PPhhậậtt ggiiááoo vvàà ảảnnhh hhưưởởnngg ccủủaa nnóó đđếếnn đđờờii ssốốnngg VVHH--TTTT ccủủaa nnggưườờii VViiệệtt

c.1. Ảnh hưởng Phật giáo qua tập tục ăn chay, thờ Phật, phóng sanh

và bố thí:

Về ăn chay, hầu như tất cả người Việt Nam đều chịu ảnh hưởng nếp

sống văn hóa này. Ăn chay hay ăn lạt xuất phát từ quan niệm từ bi của Phật

giáo. Vì khi đã trở về với Phật pháp, mỗi người Phật tử phải thọ giới và trì

giới, trong đó giới căn bản là không sát sanh hại vật, mà trái lại phải thương

yêu mọi loài. Trong hành động lời nói và ý nghĩa, người Phật tử phải thể hiện

lòng từ bi. Điều không thể có được khi con người còn ăn thịt, còn uống máu

chúng sanh. Để đạt được mục đích đó, người Phật tử phải dùng đến phương

pháp ăn chay. Cố nhiên người xuất gia ăn chay trường, còn Phật tử tại gia còn

nhiều trở ngại nên chỉ ăn chay kỳ.

Ăn chay và thờ Phật là việc đi đôi với nhau của người Việt Nam. Việc

thờ Phật trong dân gian cũng có nhiều điều thú vị. Người Phật tử, người mộ

đạo thờ Phật đã đành, nhiều người không phải là Phật tử cũng dùng tượng

Phật hay tranh ảnh có yếu tố Phật giáo để chiêm ngưỡng và trang trí cho cảnh

nhà thêm đẹp và trang nghiêm. Theo quan niệm của nhóm người này, Phật

giáo là một thành tựu về tư tưởng văn hóa của dân tộc và nhân loại.

Cũng xuất phát từ tinh thần từ bi của đạo Phật tục lệ bố thí và phóng

sanh đã ăn sâu vào đời sống sinh hoạt của quần chúng. Đến ngày rằm và

mùng một, người Việt thường hay mua chim, cá, rùa….để đem về chùa chú

nguyện rồi đi phóng sanh. Người Việt cũng thích làm phước bố thí và sẵn

sàng giúp đỡ kẻ nghèo khó, hoạn nạn, vào các ngày lễ hội lớn họ tập trung về

chùa. Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại những biểu hiện mang tính chất hình

thức trên này càng bị thu hẹp. Thay vào đó mọi người tham gia vào những đợt

cứu trợ, tương tế cho các đồng bào gặp thiên tai, hoạn nạn, hoàn cảnh sống

gặp khó khăn đúng với truyền thống đạo lý của dân tộc: lá lành đùm lá rách.

c.2 Ảnh hưởng Phật giáo qua tập tục cúng rằm, mùng một và lễ chùa.

Theo đúng truyền thống tập tục cúng rằm, mùng một là tập tục cúng

SV: N.A.Khoa Trang 20/29 GVHD: TS. B.V.Mưa Hoàn thành: 02/2010

sóc vọng, tức là ngày mặt trời mặt trăng thông suốt nhau, cho nên thần thánh,

TTưư ttuuởởnngg ttrriiếếtt hhọọcc ccủủaa PPhhậậtt ggiiááoo vvàà ảảnnhh hhưưởởnngg ccủủaa nnóó đđếếnn đđờờii ssốốnngg VVHH--TTTT ccủủaa nnggưườờii VViiệệtt

tổ tiên có thể liên lạc, thông thương với con người, sự cầu nguyện sẽ đạt tới

sự cảm ứng với các cõi giới khác, là ngày trong sạch để các vị tăng kiểm điểm

hành vi của mình, gọi là ngày Bố tát và ngày sám hối, người tín đồ về chùa để

tham dự lễ sám hối, cầu nguyện bỏ ác làm lành và sửa đổi thân tâm. Quan

niệm ngày sóc vọng là những ngày trưởng tịnh, sám hối, ăn chay là xuất phát

từ ảnh hưởng của Phật giáo Đại thừa. Ngoài việc đi chùa sám hối, ở nhà vào

ngày rằm và mùng một, họ sắm đèn, nhang, hương hoa để dâng cúng Tam

Bảo và tổ tiên Ông Bà, thể hiện lòng tôn kính, thương nhớ những người quá

cố và cụ thể hóa hành vi tu tâm dưỡng tánh của họ.

Bên cạnh việc đi chùa sám hối vào ngày rằm, mùng một , người Việt

còn có tập tục khác là đi viếng chùa, lễ Phật vào những ngày hội lớn như rằm

tháng giêng, rằm tháng tư (Phật Đản) và rằm tháng bảy (lễ Vu Lan). Đây là

một tập tục, một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống người Việt.

Tuy nhiên, đi viếng chùa cũng tùy thuộc vào mục đích và quan niệm của mỗi

người. Cánh cửa chùa bao giờ cũng rộng mở đối với thập phương bá tánh,

nhất là các ngày hội lớn của Phật giáo, của dân gian (tết Nguyên Đán) hoặc

những ngày kỷ niệm lớn của lịch sử dân tộc, (giổ tổ Hùng Vương). Vào

những ngày này, đông đảo các tầng lớp nhân dân, các giới trong xã hội đều

qui tụ về đây. Trước cánh cửa thiền môn, những khuôn mặt trang nghiêm, vẻ

đẹp thanh thoát của hoa huệ, hoa cúc chen lẫn với hương trầm quyện tỏa tạo

nên bầu không khí ấm cúng, linh thiêng, thể hiện tấm lòng thành kính của họ

đối với Đức Phật và các bậc Thánh Hiền. Những hình ảnh đó đã góp phần tạo

nên bản sắc và nét đẹp văn hóa của dân tộc Việt.

c.3 Ảnh hưởng Phật giáo qua nghi thức ma chay, cưới hỏi :

Đây cũng là sinh hoạt thường xảy ra trong đời sống người Việt.

Về ma chay, theo phong tục của người Việt Nam và Trung Hoa trước

đây rất là phiền phức và hao tốn. Tuy nhiên nhờ có sự dẫn dắt của chư tăng

thì tang lễ diễn ra đơn giản và trang nghiêm hơn. Khi trong gia đình (theo

SV: N.A.Khoa Trang 21/29 GVHD: TS. B.V.Mưa Hoàn thành: 02/2010

Đạo Phật) có người qua đời, thân quyến đến chùa thỉnh chư tăng về nhà để

TTưư ttuuởởnngg ttrriiếếtt hhọọcc ccủủaa PPhhậậtt ggiiááoo vvàà ảảnnhh hhưưởởnngg ccủủaa nnóó đđếếnn đđờờii ssốốnngg VVHH--TTTT ccủủaa nnggưườờii VViiệệtt

giúp đỡ phần tang lễ (thường gọi là làm ma chay). Ở những gia đình không

theo Đạo Phật nhưng do người quá cố hoặc gia chủ mến chuộng Đạo Phật nên

họ thỉnh chư tăng, ni đến tụng kinh cầu siêu cho hương linh và tổ chức tang lễ

giống như những tín đồ theo Đạo Phật. Nhìn chung, tập tục ma chay tại Việt

Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm từ những nghi thức của Phật giáo.

Việc cưới hỏi, tầm ảnh hưởng của Phật giáo tỏ ra ít phức tạp hơn so

với Thiên Chúa giáo, Khổng giáo hay Hồi giáo. Trước khi tiến tới hôn nhân,

nhiều đôi bạn trẻ theo tín ngưỡng Phật giáo, thường đến chùa khấn nguyện

với chư Phật phù hộ cho mối lương duyên của họ được thuận buồm xuôi gió.

Đến ngày cưới hỏi, họ được hướng dẫn về chùa để chư tăng làm lễ "hằng

thuận quy y" trước khi rước dâu. Đó là một lễ chúc lành ngắn gọn và được

chư tăng khuyên dạy một số nguyên tắc đạo đức Phật giáo, để làm kim chỉ

nam cho cuộc sống mới.

Ngoài những phong tục của người Việt Nam chịu ảnh hưởng Phật giáo

đã được kể trên, chúng ta còn thấy một số tập tục khác cũng tương đối phổ

biến và có ít nhiều liên quan đến Phật giáo mà chúng ta phải ghi nhận.

c.4 Các phong tục tập quán khác.

* Tập tục đốt vàng mã:

Đây là tập tục rất phổ biến ở Việt Nam mà người Việt đã tiếp nhận từ

Phật giáo Trung Quốc. Nhiều người ngộ nhận rằng tập tục này xuất phát từ

quan điểm nhân quả luân hồi của Phật giáo, do đó nó đã tồn tại trong Phật

giáo từ xưa cho tới ngày nay. Nếu đời này ai ăn ở hiền lành, tu tâm dưỡng

tánh thì đời sau sẽ tái sinh trở lại làm người hạnh phúc, sung sướng giàu sang

hoặc vãng sanh về thế giới cực lạc. Còn nếu kiếp này ăn ở tệ bạc, làm nhiều

điều ác, sau khi chết sẽ bị đọa xuống địa ngục cõi âm ti chịu nhiều đau khổ.

Người nhiều tội lỗi hay không có ai thờ cúng, cầu siêu thì ở nơi địa ngục bị

oan ức, đói lạnh, không thể siêu thoát được hoặc đầu thai được. Cho nên

những người thân ở nơi dương thế phải thờ cúng, tụng kinh cầu siêu để người

SV: N.A.Khoa Trang 22/29 GVHD: TS. B.V.Mưa Hoàn thành: 02/2010

thân của mình dưới cõi âm ti bớt đi phần tội lỗi hoặc được ấm no mà thoát

TTưư ttuuởởnngg ttrriiếếtt hhọọcc ccủủaa PPhhậậtt ggiiááoo vvàà ảảnnhh hhưưởởnngg ccủủaa nnóó đđếếnn đđờờii ssốốnngg VVHH--TTTT ccủủaa nnggưườờii VViiệệtt

kiếp. Sau khi cúng giỗ, ngày vọng người chết sẽ nhận được những vật dụng,

tiền bạc đã cúng và đốt đó. Trong các đồ mã và giấy tiền vàng bạc để cúng

thường có hình ảnh (Phật Di Lặc hay Bồ Tát Quan Âm) hoặc chữ nghĩa (chú

vãng sanh, chữ triện) có yếu tố của Phật giáo với ý đồ mong sự cứu độ của

Chư Phật đối với người đã khuất.

* Tập tục coi ngày giờ :

Đây là một tập tục ăn sâu vào tập quán của người Việt nói riêng và cả

Châu Á nói chung. Mỗi khi sắp làm một việc gì quan trọng như xây dựng nhà

cửa, đám chết, đám cưới, xuất hành đầu năm... người ta thường về chùa để

nhờ các thầy coi giúp giùm ngày nào tốt thì làm ngày nào xấu thì tránh.

Thông thường người ta hay tránh ba ngày: mùng 05, 14, 23, họ cho ba ngày

này là xuôi xẻo, là bất hạnh, cần phải tránh.

Theo cái nhìn của Phật giáo thì đây là một loại hình mê tín, người Phật

tử không nên chạy theo. Đức Phật dạy rằng với người làm điều lành, ngày nào

cũng là ngày tốt với người làm việc tốt, ngày nào cũng là ngày lành. Năm

tháng đối với người làm thiện đều là ngày tốt cả, gieo nhân thiện thì sẽ gặt

quả lành. Giáo lý nhân quả của Đạo Phật là cán cân công bằng với khổ đau và

hạnh phúc của con người chứ không phải là sự phân định của hên xuôi.

* Tập tục xin xăm, bỏi quẻ :

Xin xăm bói quẻ là một việc cầu may. Cũng bắt nguồn từ Trung Quốc,

một loại hình sinh hoạt khá rầm rộ tại các chùa, đình, miếu vào dịp đầu năm

mới hoặc các ngày lễ lớn. Các chùa làng có thờ Quan Thánh Đế Quân thường

có đi đôi với việc xin xăm. Đây là một tập tục không lành mạnh do tin tưởng

vào sự may rủi của số phận đã được sắp đặt, an bài từ trước. Như sách xưa co

câu "phước chí tâm linh, hoa lai thần ám". Nghĩa là người gặp lúc phước đến

thì giở quẻ ra đều tốt, khi họa lại thi rút lá xăm nào cũng xấu. Thế là tốt xấu

tại mình, không phải tại xăm quẻ. Người Phật tử chân chính cần phải loại bỏ

SV: N.A.Khoa Trang 23/29 GVHD: TS. B.V.Mưa Hoàn thành: 02/2010

những loại hình mê tín này.

TTưư ttuuởởnngg ttrriiếếtt hhọọcc ccủủaa PPhhậậtt ggiiááoo vvàà ảảnnhh hhưưởởnngg ccủủaa nnóó đđếếnn đđờờii ssốốnngg VVHH--TTTT ccủủaa nnggưườờii VViiệệtt

Phong tục tập quán tại Việt Nam trong quá trình tồn tại và phát triển

đã chịu nhiều tác động của trào lưu văn hóa khác nhau. Nhất là từ Trung

Quốc. Trong đó Phật giáo đã dự phần quan trọng trong việc định hình và duy

trì không ít các tập tục dân gian mà chúng ta thấy vẫn còn tồn tại cho tới ngày

nay. Tuy nhiên, không phải các tập tục có sự ảnh hưởng của Phật giáo là tốt

tất cả, mà trong đó có tập tục cần phải chắc lọc lại để phù hợp với chánh pháp.

Đó là nhiệm vụ nặng nề của các nhà truyền giáo trong thời hiện đại. Bên cạnh

sự ảnh hưởng trong các phong tục tập quán của dân tộc. Phật giáo còn ảnh

hưởng qua các loại hình nghệ thuật như nghệ thuật sân khấu.

d. Phật giáo thể hiện qua nghệ thuật sân khấu

Nghệ thuật sân khấu cũng là một loại hình văn hóa dân tộc song song

với những phần đã nêu ra ở trên. Tính triết lý "nhân quả báo ứng" của Phật

giáo đóng vai trò quan trọng trong các bài ca tuồng, vở diễn phù hợp với đạo

lý phương đông và nếp sống truyền thống của dân tộc.

Trước hết, loại hát chèo xuất hiện ban đầu chủ yếu ở các tỉnh đồng

bằng Bắc Bộ, thu hút nhiều tinh hoa nghệ thuật dân gian như múa, hát và diễn

các vở truyện Nôm truyền thống. Đáng kể nhất là vở "Quan Âm Thị Kính" đã

đi vào dạng tuồng tiêu biểu chính thống khi nhắc đến môn nghệ thuật này.

Còn có các vở "Trương Viên", "Lưu Bình Dương Lễ", "Kim Nhan", "Chu

Mãi Thần"... đều mang tính thưởng thiện phạt ác và các vở này gọi là tiêu

biểu nên có tên gọi là "chèo cổ".

Thứ hai, “hát bội” ban đầu đi vào nếp sống cung đình, khác với chèo

cổ, nghệ thuật này trở nên một loại hình giải trí cao cấp dành cho vua chúa và

giới thượng lưu. Ngoài ra, nó dành cho những ai có trình độ thưởng thức nghệ

thuật tương đối thì mới có thể xem và cảm nhận được chủng loại độc đáo này.

Có thể nói xuyên suốt thế kỷ thứ 19 là thời đại hoàng kim của nghệ thuật hát

bội. Các vở "San Hậu"; "Tam Nữ Đồ Vương"; "Diễn Võ Đình", "Nghiêu Sò

Ốc Hến"... là những vở mang tính chất dân tộc chính thống và chứa đựng toàn

SV: N.A.Khoa Trang 24/29 GVHD: TS. B.V.Mưa Hoàn thành: 02/2010

vẹn triết lý "nhân quả báo ứng" và hướng thiện một cách cao đẹp.

TTưư ttuuởởnngg ttrriiếếtt hhọọcc ccủủaa PPhhậậtt ggiiááoo vvàà ảảnnhh hhưưởởnngg ccủủaa nnóó đđếếnn đđờờii ssốốnngg VVHH--TTTT ccủủaa nnggưườờii VViiệệtt

Từ nhạc cổ, nhạc tài tử trở thành hình thái "ca ra bộ", để từ đó trở

thành nghệ thuật sân khấu cải lương từ đầu những năm hai mươi (1922) của

thế kỷ này ở Nam Bộ. Có thể nói chưa có nghệ thuật dân tộc nào phát triển

nhanh chóng, có sức cuốn mạnh mẽ và dung nạp nhiều mãng dân ca như bộ

môn cải lương. Chính vì yếu tố phóng khoáng đó, cải lương dễ dàng tiến sâu

vào chân lý của Phật giáo, mở ra cánh cửa được sự tích Phật Thích Ca và

nhiều điển tích khác của Phật giáo vào gia sản nghệ thuật của mình. Đây là

một loại hình nghệ thuật được đông đảo bà con lao động Việt Nam nhất là các

vùng ngoại ô mến chuộng và ưa thích. Giáo lý "nhân quả báo ứng, thưởng

thiện phạt ác"... được các soạn giả thể hiện các vở cải lương và đã được khán

giả say mê thưởng thức và đã đứng vững trên diễn đàn sân khấu trong suốt

mấy chục năm qua. Tiêu biểu như các vở "Thích Ca Đắc Đạo", "Quan Âm

Thị Kính", "Quan Âm Diệu Thiện", "Mục Liên Thanh Đề", đặc biệt gần đây

(đầu thập niên 90) có hai vở đáng chú ý là "Thoát Vòng Tục Lụy" và 'Thái Tử

A Xà Thế" của soạn giả Giác Đạo Dương Kinh Thành. Ngoài ra còn có các

vở chịu ảnh hưởng ít nhiều tư tưởng Phật giáo như các vở "Phạm Công Cúc

Hoa", "Tấm Cám", "Kim Vân Kiều"... do sự ảnh hưởng tinh thần từ bi hỷ xả

của Phật giáo nên luôn luôn các tuồng cải lương ở phần kết thúc đều có hậu.

Đến đây, chúng ta có thể kết luận rằng những tư tưởng và hình ảnh

của Phật giáo đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong đời sống tư tưởng văn

hóa tinh thần của người Việt Nam và nó sẽ tiếp tục tỏa sáng cái tinh hoa độc

đáo của dân tộc Việt nói riêng và cả nhân loại nói chung trong tương lai.

V. Kết luận

Các tư tưởng Phật giáo đi tìm hiểu về cái “khổ”, và hướng chúng sanh

phương pháp diệt “khổ” nhằm giúp con người đạt đến cõi “niết bàn”. Tuy

nhiên, phương pháp diệt “khổ” chỉ là tiếng kinh, lời kệ chứ không vạch ra con

đường đấu tranh giai cấp, đấu tranh vũ lực nhằm xây dựng xã hội bình đẳng

SV: N.A.Khoa Trang 25/29 GVHD: TS. B.V.Mưa Hoàn thành: 02/2010

mà ở đó con người sống kiếp người theo đúng nghĩa “con người”.

TTưư ttuuởởnngg ttrriiếếtt hhọọcc ccủủaa PPhhậậtt ggiiááoo vvàà ảảnnhh hhưưởởnngg ccủủaa nnóó đđếếnn đđờờii ssốốnngg VVHH--TTTT ccủủaa nnggưườờii VViiệệtt

Mặc dù tư tưởng mang tính duy tâm chủ quan, thần bí, không tưởng

nhưng triết lý Phật giáo vẫn mang tính nhân bản, nhân đạo sâu sắc, vẫn muốn

xây dựng một xã hội tốt đẹp cho con người mà đại diện tiêu biểu là tư tưởng

“niết bàn”. Đến nay qua hơn 2000 năm lịch sử, Phật giáo đã tồn tại và phát

triển đồng hành cùng nền văn hóa Việt Nam. Các tư tưởng bình đẳng, từ bi hỉ

xả đặc biệt là thuyết nhân quả đã ăn sâu bám rễ vào tâm hồn dân Việt, qua

bao năm tháng các triết lý này đã được chọn lọc và thấm nhuần vào truyền

thống đạo đức của dân ta. Nó được phản ánh một cách sinh động sâu sắc

trong đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc từ những hoạt động thường nhật

giản đơn đến đời sống tâm linh phong phú. Điều đó càng khẳng định các giá

trị đạo đức tốt đẹp mà Phật giáo đã và đang mang cho tâm hồn người dân Việt.

Cuộc sống hiện nay, trong hoàn cảnh hội nhập quốc tế với nhiều nền

văn hóa khác nhau đang dần tuôn chảy vào nước ta, thì việc chọn lọc, gìn giữ

và phát huy các giá trị cao đẹp của đạo Phật là điều hết sức cần thiết. Song

song đó, việc loại bỏ các hạn chế trong tư tưởng Phật giáo cũng là điều hết

sức quan trọng nhằm loại bỏ các tệ nạn mê tín dị đoan, xây dựng đời sống

tinh thần lành mạnh. Giữ gìn và phát huy, kết hợp và hòa nhập với những tinh

hoa của các nền triết học khác như Khổng giáo, Đạo giáo… nhằm làm phong

phú thêm đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc, đồng thời cũng tô điểm

thêm cho nền văn minh nhân loại.

VI. Tài liệu tham khảo

1. Nguyễn Ngọc Thu, Bùi Văn Mưa (chủ biên), giáo trình Đại cương

lịch sử Triết học, Nhà xuất bản tổng hợp TP.HCM, 2003

2. Bùi Văn Mưa, bài giảng triết học lớp cao học, 2009.

3. http://daitangkinhvietnam.org

4. http://baocao.vn

5. http://tailieu.vn

SV: N.A.Khoa Trang 26/29 GVHD: TS. B.V.Mưa Hoàn thành: 02/2010

6. www.quangduc.com

TTưư ttuuởởnngg ttrriiếếtt hhọọcc ccủủaa PPhhậậtt ggiiááoo vvàà ảảnnhh hhưưởởnngg ccủủaa nnóó đđếếnn đđờờii ssốốnngg VVHH--TTTT ccủủaa nnggưườờii VViiệệtt

PHỤ LỤC: MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ ĐỨC PHẬT Hình 1: Tượng Phật được làm từ ngọc thạch

SV: N.A.Khoa Trang 27/29 GVHD: TS. B.V.Mưa Hoàn thành: 02/2010

TTưư ttuuởởnngg ttrriiếếtt hhọọcc ccủủaa PPhhậậtt ggiiááoo vvàà ảảnnhh hhưưởởnngg ccủủaa nnóó đđếếnn đđờờii ssốốnngg VVHH--TTTT ccủủaa nnggưườờii VViiệệtt

SV: N.A.Khoa Trang 28/29 GVHD: TS. B.V.Mưa Hoàn thành: 02/2010

Hình 2: Phật Quan Thế Âm

TTưư ttuuởởnngg ttrriiếếtt hhọọcc ccủủaa PPhhậậtt ggiiááoo vvàà ảảnnhh hhưưởởnngg ccủủaa nnóó đđếếnn đđờờii ssốốnngg VVHH--TTTT ccủủaa nnggưườờii VViiệệtt

MỤC LỤC

I. Giới thiệu ....................................................................................................................... 1

II. Tiền đề cho sự xuất hiện của Phật giáo ........................................................................ 2

II.1. Tiền đề về điều kiện tự nhiên, kinh tế -xã hội của Ấn Độ ..................................... 2

II.2. Tiền đề lý luận (các trường phái triết học Ấn Độ cổ và trung đại) ........................ 3

III. Phật giáo ..................................................................................................................... 4

III.1. Sơ lược sự hình thành và phát triển Phật giáo ...................................................... 4

III.2. Một số tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo nguyên thủy ............................... 5

III.3. Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đến xã hội Ấn Độ cổ -trung đại .................. 11

IV. Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt 12

IV.1. Khái quát lịch sử Phật giáo Việt Nam ................................................................ 12

IV.2. Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người

Việt .............................................................................................................................. 13

1..Ảnh hưởng của Phật giáo đến tư tưởng triết học và đạo lý ............................. 13

a. Ảnh hưởng của Phật giáo đến tư tưởng triết học của dân tộc .............................. 13

b. Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đến nền đạo lý dân tộc ................................. 14

2. Ảnh hưởng của thuyết nhân quả: ...................................................................... 15

3. Ảnh hưởng của tư tưởng Phật Giáo qua góc độ nhân văn và xã hội: .............. 16

a. Qua ca dao, dân ca: ............................................................................................... 16

b. Qua tác phẩm văn học .......................................................................................... 18

c. Qua phong tục, tập quán : ..................................................................................... 19

c.1. Ảnh hưởng Phật giáo qua tập tục ăn chay, thờ Phật, phóng sanh và bố thí: .. 20

c.2 Ảnh hưởng Phật giáo qua tập tục cúng rằm, mùng một và lễ chùa. ............... 20

c.3 Ảnh hưởng Phật giáo qua nghi thức ma chay, cưới hỏi : ................................ 21

c.4 Các phong tục tập quán khác. ......................................................................... 22

d. Phật giáo thể hiện qua nghệ thuật sân khấu ......................................................... 24

V. Kết luận ...................................................................................................................... 25

VI. Tài liệu tham khảo .................................................................................................... 26

SV: N.A.Khoa Trang 29/29 GVHD: TS. B.V.Mưa Hoàn thành: 02/2010