intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Từ thuần Việt và từ vay mượn trong tiếng Việt

Chia sẻ: Bùi Đức Chiến | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:24

324
lượt xem
36
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận: Từ thuần Việt và từ vay mượn trong tiếng Việt với mục đích giúp người đọc biết được nguồn gốc, vai trò xuất hiện của từ thuần việt và từ vay mượn, làm rõ vai trò của từ thuần Việt và từ vay mượn trong ngôn ngữ tiếng Việt, làm rõ cách sử dụng của từ thuần Việt và từ vay mượn trong ngôn ngữ tiếng Việt.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Từ thuần Việt và từ vay mượn trong tiếng Việt

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HỒ CHÍ MINH KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ   ĐỀ TÀI: TỪ THUẦN VIỆT VÀ TỪ VAY MƯỢN TRONG  TIẾNG VIỆT Tiểu luận kết thúc môn MÔN HỌC: TIẾNG VIỆT THỰC HÀNH Nhóm Thực hiện: Số 8 SVTH: 1 Bùi Đức Chiến 16124100 2 Lê Thị Loan 15125901 3 Nguyễn Văn  15146160 Hiếu 4 Ngô Phước Thọ 16125173
  2. Giảng viên:  PHẠM THỊ HẰNG HỌC KỲ: 2 – NĂM HỌC: 2016­2017 TP. Hồ Chí Minh, ngày 22 tháng 05 năm 2017
  3. Mục Lục
  4. LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Tiếng Việt có nguồn gốc rất cổ xưa và đã trải qua một quá trình phát triển  lâu dài, đầy sức sống. Sức sống đó biểu hiện tinh thần dân tộc mạnh mẽ  và  sáng tạo của nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh anh dũng vì tiền đồ của  đất nước, trong sự phấn đấu bền bỉ để xây dựng và phát triển một nền quốc   ngữ, quốc văn, quốc học Việt Nam Ngôn ngữ dân tộc không bất biến mà luôn vận động và phát triển qua nhiều  giai đoạn.Trong một giai đoạn lịch sử cụ thể bao giờ cũng xảy ra hiện tượng  giữ  lại từ  cũ, cấu tạo từ mới, vay mượn những từ ngữ từ tiếng nước ngoài.  Qua nhiều thời kì, việc xác định từ vay mượn và từ thuần không phải là việc  làm đơn giản. Hiểu được điều đó, nhóm chúng tôi quyết định chọn đề tài “Từ thuần Việt  và từ vay mượn trong tiếng Việt” để làm rõ hơn lớp từ vựng trong tiếng Việt  và giúp chúng ta hiểu rõ hơn về vai trò cũng như cách sử dụng của chúng trong  đời sống hàng ngày. Từ đó, chúng ta sẽ  có ý thức hơn về giữ gìn và phát huy   sự trong sáng của tiếng Việt 2. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Từ thuần Việt và từ vay mượn trong tiếng Việt 3. Mục đích nghiên cứu Giúp người đọc biết được nguồn gốc, vai trò xuất hiện của từ  thuần việt   và từ vay mượn Làm rõ vai trò của từ thuần Việt và từ vay mượn trong ngôn ngữ tiếng Việt 4
  5. Làm rõ cách sử  dụng của từ  thuần Việt và từ  vay mượn trong ngôn ngữ  tiếng Việt 4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp phân tích, tổng hợp. Phương pháp logic, thống kê. Sưu tầm tài liệu và sắp xếp theo mục tiêu đề bài. Truy cập internet 5
  6. CHƯƠNG 1: TỪ THUẦN VIỆT 1.1  Nguồn gốc của từ thuần Việt   Về  mặt nguồn gốc, cơ sở hình thành của lớp từ thuần Việt là các từ  gốc   Nam phương, bao gồm cả Nam Á và Tày Thái. Những kết quả  nghiên cứu  gần đây cho thấy rằng nhiều bộ phận, nhiều nhóm của lớp từ thuần Việt có   những tương ứng, những quan hệ hết sức phức tạp với nhiều ngôn ngữ hoặc   nhóm ngôn ngữ trong vùng ­ miền. Ví dụ1 ­ Tương ứng Việt­Mường:  Về  tiếng Mường có 29 thổ  ngữ được xếp vào 9 nhóm nằm rải rác tại các  tỉnh Bắc Bộ và bắc Trung Bộ, từ Mường Phong, Mường Thái, Mường Bi đến  Giai   Xuân,   Tân   Hợp,   Sông   Con,   v.v.   Cũng   là   tiếng   Mường,   nhưng   người   Mường vùng này gọi là con trâu con, thì vùng kia gọi là con nghé; vùng này gọi   là chiêng, thì vùng kia gọi là cồng; vùng này gọi là chân, vùng kia gọi là giò…   Cũng để  chỉ  một con vật như  nhau, nhưng người Mường nhóm 6 gọi là con  dải, trong khi người Mường nhóm 7 lại gọi là con ba ba. Cũng là một hành  động như  nhau, nhưng người Mường nhóm 8 gọi là chửi, trong khi người  Mường nhóm 9 lại gọi là bới … ­ Tương ứng Việt – Tày Thái:  Đường, rẫy, bắt, bóc, buộc, ngắt, gọt, đẵn, bánh, vắng, mo, ngọn, mọn,   méo, vải, mưa, đồng, móc, nụ, gà, chuột, đâm...  ­ Tương  ứng với các ngôn ngữ  nhóm Việt Mường đồng thời với nhóm Bru­ Vân Kiều: 1 Theo Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu & Hoàng Trọng Phiến. Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt. Nhà xuất bản Giáo dục, H., 1997, trang 213–219. 6
  7. Trời, trăng, đêm, bụng, ruột, kéo, bốc, ngáy, khạc, củi, hột, rắn, khô...  ­ Tương ứng với nhóm ngôn ngữ Mon­Khmer ở Tây Nguyên Việt Nam:  Trời, mây, mưa, sấm, sét, bàn chân, đầu gối, da, óc, thịt, mỡ, bố, mẹ, mày,   nó, nuốt, cắn, nói, kêu, còi, mặc, nhắm, bếp, chổi, đọi...  ­ Tương ứng với nhóm Việt­Mường và các ngôn ngữ Mon­Khmer khác:  Sao, gió, sông, đất, nước, lửa, đá, người, tóc, mặt, mắt, mũi, răng, lưỡi, cổ,   lưng, tay, chân, máu, xương, cằm, đít, con, cháu...  ­ Tương ứng với nhóm Việt Mường và Tày Thái:  Bão, bể, bát, dao, gạo, ngà voi, than, phân, cày, đen, gạo, giặt...  ­ Tương ứng Việt – Indonesia:  Bố, ba, bu, mẹ, bác, ông, cụ, đất, trâu, sông, cái, cây, núi, đồng, mất, nghe,   đèn, đêm, trắng, tuổi, ăn, cướp, bướm, sáng, rất, nấu, này/ni, là, rằng, ngày... Các ví dụ  trên đây chứng tỏ  rằng cội rễ  của từ  vựng tiếng Việt hết sức   phức tạp. Chúng gồm nhiều nguồn đan xen, chồng chéo, thậm chí phủ lấp lên  nhau. Nghiên cứu chúng sẽ  có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc khảo  cứu nguồn gốc tiếng Việt nói chung. Cùng với sự du nhập truyền bá của đạo giáo, đặc biệt là văn hóa Công giáo,  văn hóa Việt Nam cũng được làm giàu thêm bởi những yếu tố văn hóa phương   Tây, và đặc biệt thành công trong vấn đề chữ viết. Khi truyền đạo cho người  Việt Nam, khó khăn đầu tiên mà các giáo sĩ (các vị  linh mục) vấp phải là sự  khác biệt về  ngôn ngữ  và văn tự; các giáo sĩ có thể  học tiếng Việt được,  nhưng học chữ Nôm thì quá khó. Bởi vậy họ  đã dùng bộ  chữ  cái Latinh quen  thuộc có bổ  sung thêm các dấu phụ  (mà một số  ngôn ngữ  phương Tây như  7
  8. chữ  Bồ  Đào Nha đã từng làm) để  ghi âm tiếng Việt – thứ  chữ  này về  sau  được gọi là chữ Quốc ngữ. 1.2  Cách sử dụng từ thuần Việt Từ thuần Việt là cái gốc, cái bản chất của tiếng Việt. Vì vậy từ thuần Việt  được sử dụng phổ biến trong đời sống hàng ngày, trong giao tiếp và được sử  dụng trong các trường hợp cụ thể sau:    ­ Chỉ các sắc thái ý nghĩa cụ thể, mang các tính chất sinh động, gợi hình Ví dụ  các từ láy: lung linh, long lanh, khúc khích,leo teo, loắt thoắt, rì rào,   rầm rầm, kềnh càng, xanh xao…  ­ Mang sắc thái biểu cảm thân mật và trung hòa, khiêm nhã Ví dụ: vợ, chồng, mắt mũi, chết, xơi,… ­ Nhìn chung từ  thuần Việt đa phong cách, một số  thích hợp với tất cả  các  phong cách, một số khác chỉ phù hợp với phong cách sinh hoạt Ví dụ: núi, song, anh em… ­ Được xây dựng trên phương thức ghép theo trật tự yếu tố chính đứng trước,   yếu tố phụ đứng sau Ví dụ: với từ kiến có kiến càng, kiến cánh…; với từ ốc có ốc sên, ốc bưu,   ốc sắt, ốc vít… 8
  9. Có thể  thấy từ  thuần Việt   do có sắc thái ý nghĩa cụ  thể, có sắc thái biểu  cảm trung hoà nên thường đem đến cho ta những hình  ảnh quen thuộc, giản  dị, sinh động, lắm sắc màu, mang hơi thở  của hiện thực khách quan nên rất  thích hợp khi miêu tả  những chi tiết cụ  thể, sinh động. Cụ  thể  qua các tác   phẩm văn học nghệ thuật giúp ta thấy rõ như “Truyện Kiều” của Nguyễn Du  … 1.3  Vai trò của từ thuần Việt Từ  thuần Việt ra đời là cơ  sở  nền tảng tạo chữ  viết, là cơ  sở  hình thành  Tiếng Việt, thể hiện những điều con người Việt muốn nói, muốn truyền đạt  thông qua ngôn ngữ tiếng Việt Từ  thuần Việt là cốt lõi, là cái bản chất, cái gốc của từ  vựng tiếng Việt.   Lớp từ  thuần Việt làm chỗ  dựa (nơi bắt đầu) và có vai trò điều khiển, chi   phối sự hoạt động của mọi lớp từ khác. Từ thuần Việt còn mang đậm nét bản   sắc văn hóa của con người Việt, nó không chỉ  đơn thuần là phương tiện để  ghi chép lại từ ngữ, là phương tiện để  giao tiếp mà từ  thuần Việt mà còn là  tinh hoa văn hóa của người Việt trong quá trình lịch sử  tạo dựng, bảo vệ  và  phát triển đất nước. Từ  thuần Việt thể  hiện tính cách, bản chất của con  người Việt trải qua các giai đoạn thời gian lịch sử khác nhau. Từ thuần Việt mang trong nó những sắc thái ý nghĩa cụ thể, những sắc thái  biểu cảm, đa phong cách giúp cho các nghệ  sĩ, nhà thơ, nhà văn dễ  dàng sử  dụng sáng tác những tác phẩm văn học hay mang đậm bản sắc nghệ  thuật.  Những tác phẩm đó được lưu truyền không chỉ  cho con cháu, các thể  hệ  mai   sau được học hỏi mà còn lan truyền ra thế  giới góp phần làm rạng danh văn  học đất nước Việt Nam 9
  10. CHƯƠNG 2: TỪ VAY MƯỢN TRONG TIẾNG VIỆT 2.1 Nguồn gốc của từ vay mượn trong tiếng Việt Từ mượn là từ vay mượn từ tiếng nước ngoài (ngôn ngữ cho) để làm phong   phú thêm cho vốn từ vựng của ngôn ngữ nhận.  Nước ta đã trải qua hơn 1000 năm Bắc thuộc, hơn 100 năm bị đế quốc thực  dân xâm lược nên ít nhiều bị ảnh hưởng bởi văn hóa du nhập trong đó có chữ  viết. Gần như tất cả các ngôn ngữ trên thế giới đều có từ mượn, vì một ngôn  ngữ  vốn dĩ không có đủ  vốn từ  vựng để  định nghĩa cho tất cả  các khái niệm  và việc chuyển ngữ từ vựng từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác để là xu thế  tất yếu trong quá trình hội nhập của một nền văn hóa. Việc tạo mới và sử dụng các từ mượn cũng cần hết sức quan tâm để  tránh  làm mất đi bản sắc ngôn ngữ  nhận, đánh mất sự  đa dạng của ngôn ngữ; để  10
  11. tránh điều đó chỉ nên sử  dụng từ mượn trong một ngôn ngữ  khi ngôn ngữ  đó  không có từ thay thế hoặc từ thay thế quá dài và phức tạp. 2.2 Vai trò của từ vay mượn trong tiếng Việt Sự du nhập của các nền văn hóa khác vào nước ta sẽ làm cho các giá trị văn  hóa thay đổi một cách mạnh mẽ  kèm theo sự  thay đổi các lĩnh vực khác như  kinh tế, chính trị, xã hội,… đã góp phần làm phong phú vốn từ của tiếng Việt Các sự  vật hiện tượng mới, hiện đại được du nhập vào nước ta trong khi  Tiếng Việt vẫn chưa thực sự hoàn thiện đòi hỏi phải có những ngôn ngữ diễn  đạt mới phù hợp hơn và từ mượn ra đời như một lẽ tất yếu. Từ mượn được  vay mượn từ  ngôn ngữ  nước ngoài nhưng được Việt hóa về  hình thức chữ  viết, ngữ âm, ngữ nghĩa và ngữ pháp nhằm diễn tả một cách dễ dàng, đầy đủ  các sự  vật hiện tượng mới mà Tiếng Việt chưa diễn tả  được một cách trọn   vẹn. Từ  mượn có vai trò nhất định trong tiếng Việt, nó bổ  sung những từ  còn  thiếu, tạo ra một lớp từ  có sắc thái nghĩa khác với từ  đã có trong tiếng Việt  những lớp từ này thể hiện sự trang trọng, khái quát    Đồng thời, từ  mượn giúp cho vốn từ  của Tiếng Việt trở  nên đa dạng,  phong phú và phù hợp hơn với xu thế hội nhập thời đại. 2.3  Phân loại từ mượn trong tiếng Việt 2.3.1Từ mượn tiếng Hán 2.3.1.1 Từ tiếng Hán và từ Hán­Việt Quá trình tiếp xúc lâu dài với tiếng Hán đã để lại trong tiếng Việt một tỉ lệ  lớn các từ vay mượn của tiếng Hán, gọi là từ gốc Hán hay từ Hán­Việt. Theo  11
  12. các nhà nghiên cứu thì khoảng hơn 60% số từ của tiếng Việt là từ vay mượn   của tiếng Hán. Tuy nhiên, các từ tiếng Hán khi đi vào tiếng Việt đã được Việt   hóa về  cách đọc cho phù hợp với hệ  thống ngữ  âm của tiếng Việt. Đó gọi   là cách đọc Hán­Việt. Cách đọc này đã được hoàn thiện từ  khoảng thế  kỉ  X­   XI và được sử  dụng  ổn định cho đến nay. Điều đó có nghĩa là các từ  vay   mượn của tiếng Hán được người Việt đọc theo âm cổ  – âm tiếng Hán đời  Đường – có sự  Việt hóa ít nhiều cho phù hợp với hệ  thống ngữ  âm tiếng   Việt. Trong khi đó tại Trung Quốc, trải qua các thời kì khác nhau, cách phát  âm của các từ  đã thay đổi nhiều. Điều này giải thích tại sao từ tiếng Trung  hiện đại và từ  Hán­Việt có cách đọc không giống nhau. Ví dụ: từ dìfēng của  tiếng Trung được người Việt đọc là địa phương. Mặt khác, các từ  gốc Hán  trong tiếng Việt cũng có sự  khác biệt về  nghĩa và cách sử  dụng so với từ  tương   đương   trong   tiếng   Trung   hiện   nay.   Chẳng   hạn,   trong   tiếng   Việt,   từ ngoại   ô được dùng  để  biểu thị   ý nghĩa “khu vực bên ngoài thành phố”  nhưng tiếng Trung lại dùng thị giao, thành giao để biểu thị ý nghĩa này. Không  những thế, tiếng Việt còn dùng các yếu tố gốc Hán để tạo ra từ mới chỉ dùng  trong tiếng Việt, ví dụ: tiểu đoàn, đại đội, hoặc kết hợp một yếu tố gốc Hán  với một yếu tố thuần Việt để tạo ra từ mới, ví dụ:  binh lính, tàu hỏa, đói khổ.  Ngoài ra, trong tiếng Việt còn có một số từ gốc Hán nhưng không đọc theo âm   Hán­Việt,   ví   dụ: rồng –   long; sức –   lực, xin –   thỉnh,   hoặc   các   từ   gốc   Hán  mượn qua khẩu ngữ, ví dụ: mì chính, xì dầu… 2.3.1.2 Mục đích vay mượn từ tiếng Hán   Nhìn chung, tiếng Việt vay mượn các từ  tiếng Hán để  phục vụ  cho hai  mục đích: 12
  13. Thứ nhất: bổ sung những từ còn thiếu Tiếng Việt thời kì đầu còn thiếu rất nhiều từ, nhất là trong các lĩnh vực văn  hóa, văn học – nghệ thuật, luật pháp, chính trị, kinh tế, quốc phòng, giáo dục.  Để bổ sung những từ còn thiếu, người Việt một mặt đã tạo ra một số từ mới   trên cơ  sở  các nguyên tắc cấu tạo từ  tiếng Việt, song mặt khác cũng đã vay   mượn một số lượng lớn từ ngữ tiếng Hán. Việc vay mượn các từ  ngữ  tiếng   Hán đã diễn ra trong một thời gian rất dài, ngay từ khi tiếng Việt còn chưa trở  thành ngôn ngữ  độc lập. Tuy nhiên, những từ  ngữ  vay mượn từ  xa xưa của   tiếng Hán đã bị thay đổi nhiều trong tiếng Việt và chúng hoạt động giống như  từ   thuần   Việt   nên   nhiều   người   vẫn   nghĩ   rằng   đó   là   từ   thuần   Việt,   ví  dụ: buồng (phòng), buồn, mây, chè… Vì vậy, khi nói đến từ  ngữ  gốc Hán  trong tiếng Việt, thường người ta nghĩ đến những từ  được vay mượn trong   thời kì tiếng Việt đã trở thành ngôn ngữ độc lập và được đọc theo một nguyên  tắc chung giống nhau: đọc theo âm Hán­Việt. Ví dụ: – Các từ trong lĩnh vực văn hóa: lễ nghi, lễ hội, tôn giáo, giáo phái, văn minh. – Các từ  trong lĩnh vực văn học­nghệ  thuật:  tiểu thuyết, hội họa, điêu khắc,  trữ   tình. – Các từ trong lĩnh vực luật pháp: hiến pháp, luật sư, tòa án, quy định, hình sự. – Các từ trong lĩnh vực chính trị: chính phủ, độc lập, phụ thuộc, dân chủ, liên  minh. – Các từ trong lĩnh vực kinh tế: công nghiệp, tư bản, tỷ giá, chứng khoán. Có thể thấy rằng, đây chủ yếu là những thuật ngữ khoa học­chuyên môn. Thứ  hai: Tạo ra một lớp từ  có sắc thái nghĩa khác với từ  đã có trong tiếng   Việt 13
  14. Do được sử dụng nhiều nên từ ngữ tiếng Việt thường có đặc điểm của từ  ngữ  giao tiếp hàng ngày. Điều đó làm cho chúng không thể  dùng để  biểu thị  các sắc thái nghĩa trang trọng hay khái quát. Để  khắc phục tình trạng này,  tiếng Việt vay mượn một số từ ngữ tiếng Hán có nghĩa cơ  bản giống với từ  tiếng Việt nhưng được bổ  sung thêm một sắc thái nghĩa khác. Điều này làm  xuất hiện những cặp từ đồng nghĩa, trong đó từ thuần Việt và từ Hán­Việt chỉ  có sắc thái nghĩa khác nhau. Ví dụ: ­ Từ thuần Việt gây cảm giác thô tục, ghê sợ  hoặc đau đớn còn từ  Hán­Việt   tạo cảm giác lịch sự, trung hòa. Ví dụ: Từ thuần Việt: chảy máu, chết, nôn Từ Hán­Việt: xuất huyết, từ trần, thổ ­ Từ Hán­Việt tạo ra cảm giác trang trọng hơn từ thuần Việt. Ví du: Từ thuần Việt: cưới nhau, đàn bà, người già Từ Hán­Việt: hôn nhân, phụ nữ, phụ lão 2.3.2 Từ mượn tiếng Ấn­Âu 2.3.2.1 Lịch sử vay mượn từ ngữ Ấn­Âu Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp vào nửa cuối thể  kỉ XIX và thời kì   cai trị của thực dân Pháp kéo dài trên 80 năm. Trong thời kì đó, tiếng Pháp đã  được đưa vào giảng dạy và sử  dụng trong các trường học và là ngôn ngữ  chính thức của nhà nước thuộc địa. Do vậy, các từ  ngữ  tiếng Pháp đã xâm  nhập vào tiếng Việt khá nhiều, và thông qua tiếng Pháp, một số  từ  ngữ  của  những ngôn ngữ  Ấn­Âu khác như  tiếng Anh hay tiếng Nga cũng đi vào tiếng   Việt. 14
  15. Tuy nhiên, sự  tiếp xúc của tiếng Việt với các ngôn ngữ   Ấn­Âu diễn ra   muộn hơn nhiều so với tiếng Hán và một số  ngôn ngữ châu Á khác. Lúc này,  tiếng Việt đã tiếp nhận một cách có hệ  thống những từ  ngữ  tiếng Hán cần  thiết để bổ sung cho vốn từ vựng của mình, do đó các từ ngữ Ấn­Âu chỉ được  tiếp nhận một cách lẻ  tẻ  và thường tập trung vào các lĩnh vực khoa học­kĩ  thuật. Thời kì đầu, tiếng Việt thường không tiếp nhận các từ  ngữ   Ấn­Âu một  cách trực tiếp mà tiếp nhận gián tiếp qua tiếng Hán, do đó các âm Ấn­Âu đều  có dáng dấp của âm Hán­Việt, ví dụ: câu lạc bộ; Nã Phá Luân; Ba Lê; Anh Cát  Lợi, Ba Lan… Về sau, cách tiếp nhận này đã được thay thế bằng cách tiếp nhận trực tiếp   hoặc thông qua tiếng Pháp. Thời gian gần đây, xu hướng tiếp nhận trực tiếp  không qua tiếng Pháp ngày càng trở  nên phổ  biến. Ví dụ: makéttinh (t. Anh:  marketing); cátxê (t. Anh: cash); sô (t. Anh: show), Vácsava … Ngoài việc tiếp nhận hình thức và ý nghĩa của các từ  ngữ   Ấn­Âu, tiếng   Việt còn mô phỏng cấu trúc của một số từ ngữ Ấn­Âu, khiến cho trong tiếng  Việt có những từ ngữ và cách nói có cấu trúc nghĩa giống như trong các tiếng  Ấn­Âu. Ví dụ: chiến tranh lạnh; giết thời gian (t.Pháp); vũ trang tận răng, đĩa  cứng, đĩa mềm (t. Anh); vườn trẻ, nhà văn hóa (t.Nga) 2.3.2.2 Mục đích và các lớp từ ngữ Ấn­Âu trong tiếng Việt Mục đích Tiếng Việt vay mượn từ ngữ Ấn­Âu trước hết là để bổ sung những từ ngữ  còn thiếu mà chủ yếu là những từ ngữ thuộc các lĩnh vực khoa học­kĩ thuật.  Tuy nhiên, trong một số trường hợp, các từ ngữ Ấn­Âu được mượn vào tiếng  15
  16. Việt còn nhằm mục đích bổ sung một lớp từ có nghĩa chính xác hơn từ thuần  Việt hoặc Hán­Việt (ví dụ: xúp lơ, mù tạt), nhất là trong lĩnh vực thuật ngữ.  Trong một số trường hợp đặc biệt, nguyên nhân vay mượn từ ngữ Ấn­Âu vào  tiếng Việt chỉ là ý thích mang tính thời thượng (ví dụ: nhạc dance, cátxê) Các lớp từ ngữ Ấn­Âu trong tiếng Việt Tuy đều là từ ngữ gốc Ấn­Âu nhưng giữa các từ ngữ này có sự khác biệt về  mức độ  Việt hóa. Nhìn chung, có thể phân biệt những lớp từ ngữ  Ấn­Âu sau  đây: ­ Từ được Việt hóa cao độ. Đó là những từ ngữ Ấn­Âu mà xét về hình thức và   cách thức hoạt động không khác gì với một từ  thuần Việt. Nói chung, đây  thường là những từ  ngữ thông dụng, mức độ  Việt hóa phải đủ  cao để  người  Việt có thể  sử  dụng giống như  những từ  của tiếng Việt. Có thể  nêu ra đây  một vài cách Việt hóa từ ngữ Ấn­Âu như sau: Thêm thanh điệu cho các âm tiết, ví dụ: cà phê, vét tông, cà rốt …     Bỏ bớt phụ âm trong các nhóm phụ âm, ví dụ phanh (frein), gam (gramme),  kem (crème), van (valse) …     Thay đổi một số âm cho phù hợp với hệ thống ngữ âm tiếng Việt, ví dụ:  bốc (box), ba tê (paté), búp bê (poupée), pê đan (pédall) …      Rút gọn từ, ví dụ: xăng (essence) ; lốp (enveloppe); săm (chambre à air) … ­ Từ chỉ được Việt hóa một phần. Thường thì đây là những từ ngữ khoa học –   kĩ thuật thông dụng. Xét trên chữ  viết, những từ  ngữ  này thường được viết  các   âm   tiết   liền   nhau   hoặc   giữa   các   âm   tiết   có   dấu   gạch   nối,   Ví   dụ: xêmina (xê­mi   na), côngtơ (công­tơ), ampe (am­pe), đôping (đô­ ping), tuốcbin (tuốc­bin), comblê (com­plê), phécmơtuya (phéc­mơ­tuya) 16
  17. ­ Những từ không được Việt hóa hoặc chỉ được Việt hóa rất ít. Đây thường là  những thuật ngữ khoa học­kĩ thuật, cần phải giữ được tính chính xác và tính   quốc tế, đồng thời cũng là những từ có phạm vi sử dụng hẹp. Ví dụ:  electron,  miliampe, microphon, automat Đương nhiên, trong những trường hợp cần thiết, người ta còn phải chuyển  tự các từ vay mượn của các ngôn ngữ Ấn­Âu, ví dụ: dicdac (zigzag), xeemina  (seminar)   17
  18. CHƯƠ NG 3: TÌNH TRẠ NG S Ử D ỤNG TỪ VAY M ƯỢ N HI ỆN NAY 3.1 Tính thi ết y ếu cần ph ải b ảo v ệ, gi ữ gìn tiế ng Việ t Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời  và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó, làm  cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp. Của mình có mà không dùng, lại đi  mượn cái của nước ngoài, đó chẳng phải là đầu óc quen ỷ lại hay sao?”. Trong tình hình toàn cầu hóa đang diễn ra trong mọi mặt của đời sống xã  hội, hiện tượng vay mượn từ  nước ngoài đã trở  thành một hiện tượng tự  nhiên của mọi ngôn ngữ  trên thế  giới, không chỉ   ở  Việt Nam. Mượn từ  là  chính đáng, nó đáp ứng đáp ứng một nhu cầu về ngôn ngữ, nhưng làm sao để  khi dùng những từ  vay mượn  ấy vẫn biểu hiện ý thức tôn trọng, nghiêm túc  đối với ngôn ngữ của dân tộc là vấn đề  cần được quan tâm. Hiện nay là một   bộ  phận giới trẻ  cũng như  báo chí, truyền hình đã vay mượn từ  nước ngoài  một cách không có chọn lọc, làm mất đi sự trong sáng vốn có của tiếng Việt.  Nhưng thực tiễn hiện nay cho thấy việc dùng từ trong đời sống có những vấn  đề báo động Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm Văn Đồng ý thức rất   cao về giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, làm cho tiếng Việt ngày càng giàu  và đẹp hơn.Giữ  gìn sự  trong sáng tiếng Việt không có nghĩa là loại bỏ  hoàn  toàn lớp từ  vay mượn. (Điều này là không thể, vì vay mượn là một trong  18
  19. những qui luật của các ngôn ngữ) Bác Hồ  đã dẫn ra: không ai nói “  nữ  dân   quân” bằng “  dân quân gái”, “du kích” bằng “đánh chơi”, “độc lập” bằng  “đứng một mình”…  Mục đích của việc giữ gìn đó là dùng từ đúng lúc đúng nơi, đúng đối tượng   và gọi đúng tên sự vật hiện tượng cần thông báo kèm theo thái độ  của người  nói, viết … Chúng ta cần phải chung tay bảo vệ  sự trong sáng và phát triển  của tiếng Việt. 3.2 Tình trạng sử dụng từ vay mượn hiện nay 3.2.1 Lạm dụng ngôn ngữ mạng ở lớp trẻ Trong kỷ  nguyên của công nghệ  thông tin, với sự  trợ  giúp của các công  nghệ đa phương tiện, việc phát triển này rất cần thiết đối với một nước đang  phát triển như  nước ta nhưng nó cũng mang lại những mặt trái. Với sự  phát  triển chóng mặt của công nghệ  thông tin, mọi việc trở  nên nhanh hơn rất   nhiều và một bộ  phận giới trẻ  tự  trao cho mình cái quyền “cải biến” tiếng  Việt theo tiêu chí: ngắn, gọn, khó hiểu và sành điệu. Ngay khi điện thoại di   động   trở   nên   phổ   biến   thì   hiện   tượng   “tạo   từ   mới”   lại   ngày   một   nhiều.   Nguyên nhân dẫn tới tình trạng này là bởi các từ  viết tắt rất tiết kiệm thời   gian Có thể  tóm tắt cách “tạo từ  mới” của một bộ  phận giới trẻ hiện nay khi sử  dụng trên điện thoại di động như  sau: Thay chữ  cái chuẩn thành 1 chữ  cái   khác có âm giống như: b = p, chữ i = j, chữ c = k, tr = ch, I = y, qu = w... và  ngược lại... ví dụ  như: pan lam gj thja? (bạn làm gì thế), nhiều = nhiu; yêu =  iu; biết = bit, pjt, pit..; thôi = thui.... Với các nguyên âm được hoán đổi vị  trí  cho nhau như a, i, o, u, y... ví dụ: rồi = roai. Cùng với đó, là việc thay các bán  19
  20. nguyên âm, như  oa, oe, uy, các phụ  âm ghép như  gh, nh, ph, ngh... bằng các  nguyên âm, phụ âm đơn có âm tiết "gần gận" như: nghe = nge, nhanh = nhah...   Và rất nhiều các cách khác, mà mỗi ngày giới trẻ lại sáng tạo thêm. 3.2.2 Lạm dụng tiếng nước ngoài khi không cần thiết Trong các trang sách báo tiếng Việt bị  tiếng Anh lấn át nghiêm trọng bởi  các từ như hot boy, hot girl, tuổi teen, cute... Giới trẻ dần quen với cách dùng  từ  kiểu như  trên của báo chí và sử  dụng nó nhưng một thói quen. Trước kia  chúng ta không hề dùng từ  tuổi teen. Trong tiếng Việt có rất nhiều từ hay và  cụ  thể  cho từng độ  tuổi để  chỉ  lứa tuổi học trò như: thiếu nhi, thiếu niên,  thanh niên.. những từ  trên rất hay và phù hợp tại sao chúng ta lại “thay thế”   bằng tuổi teen? Hiện nay từ  “tuổi teen” xuất hiện tràn lan trên các tờ  báo   giành cho giới trẻ, nó dần thay thế các từ thuần Việt khác mà chúng ta vẫn sử  dụng nhiều năm về trước. Tiếng Việt có rất nhiều từ có thể thay thế  những từ tiếng Anh sử dụng  ở  những tít báo trên. Vậy tại sao không dùng tiếng Việt?! Hiện nay tại các  chương trình giải trí trên truyền hình người ta thường gọi: người hâm mộ  là   fan, tiền thù lao là cat­xê (cachet), chạy suất biểu diễn là chạy sô (show) chơi  đẹp là fair play, người hâm mộ cuồng nhiệt, quá khích là crazy fan, trò chuyện  là chat hay nhiều các từ  khác như: live show, topic, forum... Liệu rằng  ở các  vùng quê người dân có hiểu được hết nghĩa của các từ trên? 3.2.3 Lạm dụng và dùng sai nghĩa của nhiều từ Hán­Việt Tại Hội thảo “Đào tạo và nghiên cứu Ngôn ngữ học ở Việt Nam” do Khoa  Ngôn ngữ, Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn – Đại học Quốc Gia Hà Nội   tổ chức mới đây, TS Bùi Mạnh Hùng (Đại học Sư phạm TP.HCM) khi nói về  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2