Luận văn Tình hình hoạt động của các DNNN và một số các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay

1

Lời nói đầu

Trong quá tình hội nhập Kinh tế quốc tế, vấn đề nâng cao hiệu quả và khả

năng cạnh trạnh của doanh ngiệp nhà nước ( DNNN) được đặt ra hết sức cấp

bách. Đảng ta cũng chỉ rõ “ Chính sách tài chính quốc gia hướng vào việc tạo

ra vốn và sử dụng vốn có hiệu quả trong toàn xã hội, tăng nhanh sản phẩm xã

hội và thu nhập quốc dân”. Trong đó vấn đề sử dụng vốn có hiệu quả là một

trong những vấn đề được Chính Phủ, xã hội và các Doanh nghiệp đặc biệt

quan tâm. Đại hội §ảng toàn quốc lần thứ VI đánh dấu một bước ngoặc đổi

với chính sách và cơ chế kinh tế nói chung, thị trường và Sản xuất kinh doanh

nói riêng. Các DNNN được quyền tự chủ hơn trong hoạt động sản xuất kinh

doanh, nhưng cùng với nó, DNNN phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt trên

thị trường. Các DNNN đều phải chịu trách nhiệm trước đồng vốn mình bỏ ra,

làm sao cho có lãi để hòng mong sự tồn tại và phát triển được. Chế độ này không còn như chế độ bao cấp ngày xưa, nếu làm ăn thua lỗ sẽ do Nhà nước

gánh hết. Vì vậy DN luôn tìm mọi giải pháp sao cho sử dụng vốn có hiệu quả

nhất. Vốn là một yếu tố cần thiết và quan trọng để tiến hành sản xuất kinh

doanh, đồng thời nó cũng là tiền đề để các doanh nghiệp tồn tại, phát tiển và đứng vững trong cơ chế thị trường.

Tuy nhiên, hiện nay DNNN cũng đang đứng trước khó khăn bất lợi về vốn,

bộ máy chậm thích ứng với sự biến đổi của thị trường, lắm tầng nấc, trung

gian, nhiều sự ràng buộc lẫn nhau, phần lớn cán bộ rất thụ động.

Mặt khác, DNNN là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc gia, giữ

vai trò chủ đạo trong nền kinh tế Nhà nước. Có ý nghĩa quyết định đến sự

nghiệp Công nghiệp hoá, hiện Đại hoá đất nước và trong quá trình hội nhập.

Vậy huy động vốn ở đâu- sử dụng vốn đầu tư như thế nào cho hiệu quả

không chỉ là câu hỏi cho các DNNN mà con cho hầu hết các doanh nghiệp

đang hoạt động trong nền kinh tế thị trường. Do đó, đi tìm lời giải về vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho khu vực DNNN là vấn đề mang

tính thời sự và thiết thực.

Qua nghiên cứu em quyết định chọn đề tài “ Tình hình hoạt động của các

DNNN và một số các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu

2

tư trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay”.

I. VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ- ĐIỀU KIỆN TỒN

TẠI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA DOANH NGHIỆP NN TRONG NẾN

KINH TẾ THỊ TRƯỜNG:

1. Khái niệm về vốn:

Để tiến hành bất kỳ một quá trình sản xuất kinh doanh nào cũng cần

phải có một lượng vốn nhất định. Trong nền kinh tế thị trường, vốn là điều

kiện tiên quyết, có ý nghĩa quyết định tớI các bước tiếp theo của quá trình

kinh doanh. Với vai trò và tầm quan trọng như vậy, việc nghiên cứu phải bắt

đầu từ việc làm rõ khái niệmcơ bản của vốn sản xuất kinh doanh của Doanh

nghiệp.

Theo quan điểm của Mac, vốn là giá trị đem lại giá trị thặng dư, là một

đầu vào của quá tình sản xuất. Tuy định nghĩa của Mac mang một tầm khái

quát lớn nhưng do bị hạn chế bởI những điều kiện khách quan lúc bấy giờ nên

Mac đã quan niệm chỉ có khu vực sản xuất vật chất mới tạo ra giá trị thặng dư

cho nền kinh tế.

Paul. A, Samuelson, nhà kinh tế học thuộc trường phái “ tân cổ điển”

đã thừa kế quan niệm về yếu tố sản xuất của trường phái cổ điển và phân chia

các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất ra thành ba loại chủ yếu là đất đai,

lao động và vốn. Theo ông, vốn là các hàng hoá được sản xuất ra để phục vụ

cho một quá tình sản xuất mới, là đầu vào cho hoạt động sản xuất của một

DN, đó là máy móc, trang thiết bị, nhà xưởng, nguyên vật liệu, công cụ, dụng

cụ… Trong quan niệm về vốn của mình, Samuelson

không đề cập đến các tài sản tài chính, những giấy tờ có giá có thể

chuyển đổi đem lại lợi nhuận cho DN, ông đã đồng nhÊt vốn với tài sản cố

định của DN.

Còn trong cuốn kinh tế học của David Begg, tác giả đã đưa ra hai định

nghĩa: Vốn hiện vật và vốn tài chính của DN. Vốn hiện vật là dự trữ các hàng

hoá đã sản xuất ra các hàng hoá khác, vốn tài chính là tiền và các giấy tờ có giá của DN. Như vậy, David Begg đã bổ sung vốn tài chính vào định nghĩa

3

vốn của Samuelson.

Nhìn chung, thực chất vốn chính là biểu hiện bằng tiền, là giá trị bằng

tiền, là giá trị cuả tài sản mà doanh nghiệp đang nắm giữ. Trong nền kinh tế

thị trường, vốn được quan niệm là toàn bộ giá trị ứng ra ban đầu và trong các quá trình sản xuất tiếp theo của doanh nghiệp. Vốn là một đầu vào của quá

trình sản xuất kinh doanh, các tác giả đã thống nhất vốn với tài sản của DN.

Vốn và tài sản là hai mặt hiện vật và giá trị của một bộ phận nguồn gốc sản

xuất mà DN huy động vào quá trình sản xuất vµ kinh doanh.

2. Đặc trưng cơ bản của vốn:

- Vốn phaỉ Đại diện cho một lượng tài sản nhất định , có nghĩa là vốn

được biểu hiện bằng giá tị của tài sản hữu hình và vô hình của doanh nghiệp. - Vốn phải vận động sinh lời, đạt được mục tiêu kinh doanh của doanh

nghiệp

- Vốn phải được tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định, có như vậy

mới có thể phát huy tác dụng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh.

- Vốn phải gắn liền với chủ sở hữu nhất định, không thể có đồng vốn vô

chủ và không ai quản lý.

- Vốn được quan niệm như một hàng hoá đặc biệt, có thể mua bán quyến

sử dụng vốn trên thị trường.

3. Phân loại vốn:

Hiện nay, có rất nhiều cách phân loại vốn theo các giác độ tiếp cận

khác nhau.

a. Theo nguồn hình thành, vốn doanh nghiệp chia làm hai loại là vốn chủ sở hữu và vốn vay:

- Vốn chủ sở hữu là nguồn vốn của các chủ sở hữu, nguồn đóng góp của

các nhà đầu tư. Vốn này không phải là khoản nợ và doanh nghiệp không cần

phải cam kết thanh toán. Nguồn vốn này cho biết được tiềm lực tài chính của

một doanh nghiệp vì đây là cái mà DN thực sự có. Vốn chủ sở hữu bao gồm vốn pháp định và vốn tự bổ sung. Vốn pháp định là số vốn tối thiểu để các

DN phải có để thành lập. Là số vốn do pháp luật quy định đối với từng hoạt

động và nghành nghề kinh doanh. Vốn tự bổ sung là vốn do DN tự huy động

4

đựơc , chủ yếu lấy từ lợi nhuận để lại của DN.

- Vốn vay là nguồn vốn chiếm tỷ lệ lớn trong hoạt động kinh doanh của

doanh nghiệp. Vì đối với một DN hoạt động trong nền kinh thế thị trường,

vốn chủ sở hữu đóng vai trò quan trọng nhưng chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn vốn. Để đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, DN phải tăng

cường huy động các nguồn vốn khác dướI hình thức vay nợ, liên doanh liên

kết, phát hành trái phiếu và các hình thức khác.

b. Căn cứ vào thời gian huy động và sử dụng vốn có thể chia vốn của

DN thành hai loại là vốn thường xuyên và vốn tạm thời:

- Vốn thường xuyên bao gồm vốn của chủ sở hữu và vốn vay dài hạn,

đây là nguồn vốn có tính chất ổn định mà DN có thể sử dụng. Nguồn vốn này

được dành cho việc đầu tư mua sắm tài sản cố định và một số tài sản lưu động tối thiểu thường xuyên cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của

Doanh nghiệp

- Vốn tạm thời là nguồn vốn có tính ngắn hạn mà DN có thể sử dụng để

đáp ứng những nhu cầu tạm thời, bất thường trong hoạt động sản xuất kinh

doanh. Nguồn vốn này là các khoản vay ngắn hạn từ ngân hàng và các tổ chức

tín dụng.

c. Căn cứ vào vai trò và đặc điểm chu chuyển giá trị của vốn khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, có thể chia vốn sản xuất

kinh doanh của DN thành hai bộ phận là vốn cố định và vốn lưu động.

- Vốn cố định là một bộ phận của vốn sản xuất kinh doanh ứng ra hình

thành tài sản cố định của DN. Vốn CĐ dùng để mua sắm các tài sản cố định

có hình thái vật chất và không có hình thái vật chất. Vì thế, vốn cố định quyết định quy mô của tài sản CĐ, đặc điểm vận động của tài sản cố định lại quyết

định đạec điểm tuần hoàn và chu chuyển của vốn CĐ. Giá trị của tài sản cố

định được khấu hao dần vào quá trình sản xuất.

- Vốn lưu động là những tài sản ngắn hạn thường xuyên luân chuyển trong quá trình sản xuất kinh doanh. Nó chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất

đến chu kỳ sản xuất sau lại phải sử dụng các đối tượng lao động khác. Vì vậy,

5

giá trị của nó được dịch chuyển một lần vào giá trị sản phẩm tiêu thụ. Đặc

điểm này quyết định sự vận động của vốn lưu động hay hình thái vốn lưu

động.

d. Căn cứ vào cơ cấu vốn, vốn trong SXKD của DN được chia thành vốn

sản xuất và vốn đầu tư.

- Vốn sản xuất là toàn bộ giá trị tư liệu sản xuất được DN sử dụng hợp lý

và có kế hoạch vào việc sản xuất những sản phẩm theo kế hoạch. Vốn này được huy động từ nhiều nguồn khác nhau, tuỳ từng loại hình của DN. Vốn

sản xuất bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Đây là hai yếu tố cơ

bản để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong bất kỳ đơn vị

kinh tế nào. Đối tượng lao động tạo nên thực thể sản phẩm còn tư liệu lao

động là phượng tiện để chuyển hoá đối tượng lao động thành thực thể sản phẩm . Giữa chúng có mốI quan hệ khăng khít không thể tách rờI trong quá

trình sản xuất.

- Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh

doanh, dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các nguồn khác

được đưa vào sử dụng trong quá trình sản xuất xã hội, nhằm duy trì tiềm lực

sẵn có và tạo ra tiềm lực mới. Quá trình sử dụng vốn đầu tư xét về mặt bản

chất chính là quá trình thực hiện sự chuyển hoá vốn bằng tiền thành vốn hiện

vật để tạo nên những yếu tố cơ bản của sản xuẩt kinh doanh.

4. Vai trò của vốn đối với DNNN trong nền cơ chế thị trường:

Về mặt pháp lý: Khi muốn thành lập, điều kiện đầu tiên là DN phải có

một lượng vốn nhất định do pháp luật quy định cho từng loại DN.Ngược lại,

việc thành lập DN không thể thực hiện được theo điều 4-chượng II Quy chế

quản lý Tài chính và Hạch toán kinh doanh đối với DNNN. Nếu trong quá trình hoạt động kinh doanh, vốn điều lệ của DN không đạt điều kiện mà pháp

luật quy định,thì cơ quan có thẩm quyền quyết định thành lập DN đó phải cấp

bổ sung vốn điều lệ cho DN, hoặc giảm nghành nghề kinh doanh cho doanh

nghiệp hoặc phải tuyên bố chấm dứt hoạt động như: phá sản, giải thể, sát nhập…Như vậy, vốn có thể được xem như là điều kiện tiên quyết đảm bảo sự

tồn tại tư cách pháp nhân của DN trước PL.

Về mặt kinh tế: Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn là yếu tố

6

quyết định sự tồn tại và phát triển của DN. Vốn không những đảm bảo khả

năng mua sắm máy móc thiết bị, nhà xưởng mà nó còn đảm bảo quá trình sản

xuất được diễn ra liên tục.

Vốn quyết định năng lực của DN, nó xác lập vị thế của DN đó trên

thương trường. Điều kiện cần trọng thời buổI hiện nay là phải khộng ngừng

nâng cao máy móc thiết bị, công nghệ để có thể tiến kịp với các nước khác..

muốn đạt được điều này thì cần phải có vốn.

Vốn cũng quyết định sự mở rộng phạm vi hoạt đoọng của doanh

nghiệp. Có vốn giúp DN đầu tư và mở rộng sản xuất, xâm nhập thị trường mới, từ đó mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, nâng cao uy tín của DN trên

thị trường.

5 . Những vấn đề liên quan đến hiệu quả sử dụng vốn:

5.1 Quan niệm về hiệu quả sử dụng vốn trong sản xuất kinh doanh:

ĐÓ đánh giá trình độ quản lý, điều hành hoạt động s¶n xuất kinh doanh

của DN, Người ta sử dụng thước đo hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh

doanh cuả DN đó. Hiệu quả SXKD được đánh giá trên hai giác độ là hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Trong phạm vi của DN, người ta chủ yếu quan tâm

đến hiệu quả kinh tế. Đây là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng

các nguồn lực của các DN để đạt được kết quả cao nhất trong quá trình kinh

doanh với chi phí thấp nhất. Hiệu quả là một khái niệm được sử dụng khá rộng rãi trong ngôn ngữ hiện Đại. Đặc biệt, trong khoa học kinh tế, khái niệm

này có mọt vị trí rất quan trọng. Tuy nhiên, không phải khi nµo nó cũng được

hiểu một cách rõ ràng, thống nhất.

Trong “ Kinh tế học “ của P.A. Samuenlson và W.D>Nordhaus, dướI

góc độ toàn bộ nền kinh tế “ Hiệu quả tức là sử dụng một cách hữu hiệu nhất

các nguồn lực của nền kinh tế đÓ thoả mãn nhu cầu mong muốn của con

người”.

Trong cuốn “Đại từ điển kinh tế thị trường: Hồ Vĩnh Đaß viết:” Hiệu

quả kinh tế còn gọi là “hiệu ích kinh tế , là so sánh giữa chiếm dụng và tiêu

hao trong hoạt động kinh tế ( bao gồm lao động vật hoá và lao động sống )

với thành quả có ích đạt được. Nói một cách đơn giản, đó là sự so sánh giữa

7

đầu vào và đầu ra, giữa chi phí và kết quả. Nó là thước đo khách quan để đánh

giá các chính sách kinh doanh, hoạt động kinh tế. Nói chung, sản phẩm có ích

cho xã hội được sản xuất ra cùng một số lượng, chất lượng thì lượng lao động

chiếm dụng và tiêu hao ít thì hiệu quả kinh tế sẽ cao, ngược lại là kém.

Trong hoạt động kinh tế, dướI góc độ tổng thể, để sản xuất ra của cảI

vật chất cần sử dụng các nguồn lực như vốn, lao động, đất đai…Vốn ở đây

được hiểu là máy móc, thiết bị…những sản phẩm không được sử dụng cho

tiêu dùng của các hộ gia đình, mà tiếp tục đóng vai trò đầu vào, là phượng

tiện sản xuất cho quá trình sản xuất tiếp theo.

Các nguồn lực trên là khan hiếm. Do đó, nảy sinh vấn đề cần sử dụng

như thế nào để có lợi ích cao nhất từ những nguồn lực hạn chế cho trước. Đó

là vấn đề hiệu quả. Hiệu quả kinh tế là khái niệm phản ánh mức độ sử dụng có

ích các nguồn lực khan hiếm nhằm thoả mãn nhu cầu của mọi người. Nâng cao hiệu quả kinh tế là mục tiêu của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và

cũng là mục tiêu chung của toàn xã hội.

Về mặt lượng, hiệu quả kinh tế biểu hiện mốI tương quan kết quả thu

được và chi phí bỏ ra để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Kết quả thu

được càng cao so với chi phí bỏ ra thì hiệu quả kinh tế càng cao.

Về mặt chất, việc đạt được hiệu quả kinh tế cao phản ánh năng lực và

trình độ quản lý, đồng thời cũng đòi hỏi sự gắn bó giữa việc đạt được những

mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội.

Trong nền kinh tế thị trường, khi tiến hành sản xuất kinh doanh, mỗi

DN đều có mục tiêu khác nhau tuỳ thuộc vào giai đoạn phát triển và điều kiện

của từng DN. Các DN đều theo đuổI nhiều mục tiêu khác nhau nhưng suy cho

cùng đều hướng tớI việc làm tăng giá trị tài sản của mình. Vì vậy, DN hết sức

quan tâm vấn đề làm sao để việc sử dụng nguồn vốn mình có nhằm đạt hiệu quả cao nhất với chi phí đầu vào thấp nhất có thể.

Hiệu quả sử dụng vốn của DN là quan hệ giữa đầu ra và đầu vào cuả

quá trình kinh doanh hay cụ thể là quan hệ giữa toàn bộ kết quả kinh doanh

với toàn bộ chi phí của quá trình sản xuất kinh doanh đó.

5.2 Vai trò của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư:

Trước hết, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ đầu tư sẽ đem lại cái lợi

8

cho DN là nhiều nhất. Vì vậy, đây là mục tiêu của hầu hết các DN. Để đảm

bảo quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh cuả các DN, cần phải có ba yếu

tố cơ bản : Vốn, lao động, kỹ thụât, công nghệ. Hiện nay, nước ta đang có

nguồn lao động dồI dào, việc thiếu lao động chủ yếu chỉ ở những ngành đòi hỏi công nghệ, chuyên môn cao. Những vấn đề này chúng ta hoàn toàn có thể

khắc phục được nếu chúng ta có tiền để đào tạo và đào tạo lại. Vấn đề công

nghệ, kỹ thuật cũng không khó khăn phức tạp vì có thể nhập kỹ thuật, công

nghệ, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài nếu chúng ta có khả năng về vốn và quản lý sử dụng vốn có hiệu quả trong hoạt động này.

Vốn gốc, nếu biết khai thác và sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả sẽ

làm cho nguồn vốn này sẽ tăng dần và giúp cho việc giải quyết các vấn đề

trên nêu ra. Tạo điều kiện cho DN tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị

trường , mở rộng xuất khẩu, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.

Mỗi DN lại là một tế bào kinh tế trong tổng thể các thành phần kinh tế.

Nếu mỗi DN làm ăn có lãi, tất nhiên là phải sử dụng vốn có hiệu quả, thì sẽ

đóng góp nên một phần nhỏ của nó cho toàn nền kinh tế phát triển.

Hiệu quả kinh doanh cao nhất khi số vốn bỏ vào kinh doanh là tối thiểu

và đạt hiệu quả kinh doanh cao nhất. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tức là

một hình thức tiết kiệm tối đa số vốn bỏ ra và sử dụng hợp lý số vốn đó để có

thể thu được một đơn vị lợi nhuận max.

Trước đây, trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, DNNN coi nguồn

vốn cấp phát từ ngân sách nhà nước đồng nghĩa với “ cho không” , nên khi sử

dụng nhiều doanh nghiệp không cần quan tâm đến hiệu quả , kinh doanh thua

lỗ đã có Nhà nước bù đắp. Điều đó gây ra tình trạng vô chủ trong quản trị và

sử dụng vốn dẫn đến lãng phí vốn và hiệu quả kinh donah thấp. Theo số liệu thống kê cho thấy việc sử dụng tài sản cố định chỉ đạt 50%-60% công suất

thiết kế, phổ biến chỉ hoạt động 1 ca trên ngày, vì vậy hệ số sinh lời của đồng

vốn thấp.

Khi nước ta chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường có sự điều tiết của

nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các doanh nghiệp buộc phải

chuyển mình theo cơ chế mới, mới có thể tồn tại và phát triển được. Cạnh

9

tranh gay gay gắt giữa thành phần DNNN với các thành phần kinh tế khác.

BởI vậy, không chỉ DNNN mà đã là DN thì luôn phải đặt hiệu quả sử dụng

vốn lên hàng đầu.

Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp phaỉ đảm bảo các

điều kiện sau:

- Phải khai thác nguồn vốn một cách triệt để nghĩa là không để vốn nhàn

rỗI mà không sử dụng, không sinh lời

- Phải sử dụng vốn một cách hựp lý và tiết kiệm

- Phải quản trị vốn một cách chặt chẽ nghĩa là không để vốn bị sử dụng sai

mục đích , không để vốn thất thoát do buông lỏng quản trị.

Ngoài ra ,doanh nghiệp phaỉ thường xuyên phân tích đánh giá hiệu quả

sử dụng vốn để nhanh chóng có biện pháp khắc phục những mặt hạn chế và

phát huy những ưu điểm của DN trong quản trị và sử dụng vốn.

6. Các chỉ tiêu nhằm đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của DN:

6. 1. Các chỉ tiêu đánh giá tổng hợp

Từ định nghĩa chung về hiệu quả là đánh giá mức độ sử dụng có ích các

nguồn lực, một số tác giả đã cụ thể hoá thành so sánh giữa kết quả và chi phí

và đã ứng ụng 2 phương pháp so sánh trong toán học là hiệu số và tỷ số. Từ

đó:

a. Hiệu quả = Kết quả - Chi phí = Doanh thu – Chi phí = Lợi nhuận.

b. Hiệu quả = Kết quả/Chi phí.

Hoặc có thể sử dụng :

Hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn =

doanh thu Tæng sè vèn sö dông b×nh qu©n trong kú

Chỉ tiêu này còn được gọi là vòng quay của toàn bộ vốn, nó cho biết

một đồng vốn đem lại bao nhiêu đồng doanh thu, vì vậy nó càn lớn càng tốt. Lợi nhuận

Doanh lợi vốn= 

10

Tổng số vốn sử dụng bình quân trong kỳ

Chỉ tiêu này còn được gọi là tỷ suất lợi nhuận trên vốn. Nó phản ánh

khả năng sinh lợi của một đồng vốn đầu tư. Nó cho biết một đồng vốn đầu tư

đem lại bao nhiêu đồng lựI nhuận. Lợi nhuận

Doanh lợi vốn chủ sở hữu = 

Vốn chủ sở hữu bình quân trong kỳ

Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu, tình độ sử

dụng vốn của người quản trị doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt.

Tuy nhiên chỉ itêu này có hạn chế là nó phản ánh một cách phiển diện. Do

mẫu số chỉ đề cập đến vốn chủ sở hữu bình quân trong kỳ, trong khi hầu hết các doanh nghiệp , nguồn vốn huy động từ bên ngoài chiếm một tỷ lệ không

nhỏ trong tổng nguồn vốn. Do đó, nếu chỉ nhìn vào chỉ tiêu này nhiều khi

đánh giá thiếu chính xác.

Ba chỉ tiêu trên cho ta một cái nhìn tổng quát về hiệu quả sö dụng vốn

của doanh nghiệp. Ngoài ra, người ta còn sử dụng một số chỉ tiêu khác như tỷ

suất thanh toán ngắn han, số vòng quay các khoản phải thu.. Tuy nhiên như ta

đã biết nguồn vốn của doanh nghiệp được phân làm hai loại là vốn cố

định(VC§ ) và vốn lưu động (VLĐ). Do đó, các nhà phân tích không chỉ quan tâm đến việc đo lường hiệu quả sử dụng vốn cuả tổng nguồn vốn mà còn

chú trọng đến hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành nguồn vốn của

doanh nghiệp đó là VCĐ và VLĐ.

6.2. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định

Để đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ người ta sử dụng những chỉ tiêu

sau:

Doanh thu thuần

Hiệu suất sử dụng VCĐ=  Vốn cố định sử dụng bình quân trong kỳ

Chỉ tiêu này cho biết một đông vốn cố định tạo ra được bao nhiêu đồng

doanh thu thuần trong một năm.

11

Lợi nhuận Sức sinh lợi của vốn cố định =  Vốn cố định sử dụng bình quân trong kỳ

Chỉ tiêu này cho biết trung bình một đồng VCĐ tạo ra vbao nhiêu đồng

lựI nhuận. Chỉ tiêu này càng lớn càng chứng tỏ việc sử dụng VCĐ là có hiệu

quả.

Ngoài hai chỉ tiêu trên , người ta còn sử dụng nhiều chỉ tiêu khác để đánh giá

hiệu quả sử dụng VCĐ như: hệ số đổi mới tái sản cố định, hệ số loại bỏ tài

sản cố định..

6. 3. chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động

Khi phân tích đánh gía hiệu quả sử dụng VLĐ, người ta thường dùng

các chỉ tiêu sau:

Doanh thu thuần

Hiệu suất sử dụng VLĐ =  VLĐ sử dụng bình quân trong kỳ

Chỉ tiêu này cho biết một đồng VLĐ sử dụng bình quân trong kỳ tạo ra

được bao nhiêu đồng doanh thu thuần

Lợi nhuận

Sức sinh lợi của VLĐ =  VLĐ sử dụng bình quân trong kỳ

Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng VLĐ tham gia vào hoạt dộng sản

xuất kinh doanh trong kỳ thì tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu

này càng lớn càng tốt.

Đồng thời, để đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ, người ta cũng đặc biệt

quan tâm đến tốc độ luân chuyển VLĐ, vì trong quá trình sản xuất kinh doanh

VLĐ không ngừng vận động qua các hình thái khác nhau. Do đó, đẩy nhanh

tốc độ luân chuyển VLĐ sễ góp phần giải quyết về nhu cầu vốn cho doanh

nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Để xác định tốc độ luân

chuyển VLĐ, người ta sử dụng các chỉ tiêu sau”

Doanh thu thuần

12

Số vòng quay của VLĐ =  VLĐ sử dụng bình quân trong kỳ

Chỉ tiêu này còn được gọi là hệ số luân chuyển VLĐ, nó cho biết VLĐ

được quay mấy vòng trong kỳ. Nếu số vòng quay tăng thì chững tỏ hiệu quả

sử dụng VLĐ tăng và ngược lại.

Thời gian của một kỳ phân tích

Thời gian của một vòng luân chuyển =  Số vòng quay của VLĐ trong kỳ

Chỉ tiêu này thể hiện số ngày cần thiết cho VLĐ quay được một vòng,

thời gian của một vòng luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển của VLĐ

càng lớn và làm rút ngắn chu kỳ kinh doanh, vốn quay vòng hiệu quả hơn.

6. 4 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của hoạt động đầu tư khác:

Là mức độ đáp ứng nhu cầu phát triển hoạt động SXKD dịch vụ và nâng cao đờI sống người lao động trọng dự án đầu tư trên cơ sở số vốn đầu tư

mà dự án đã sử dụng so với các kỳ khác nhau

Các kết quả thu được do thực hiện đầu tư

Etc=  Số vốn đầu tư đã thực hiện để tạo ra kết quả trên

Etc có hiệu quả khi Etc> Etc0

- Giá trị thời gian của tiền:

Chính là giá trị của đồng tiền khi muốn mua một thứ ở hiện tại so với

việc cũng mua thứ đó ở thời điểm quá khứ.

Nó cũng phụ thuộc vào

-Việc giá trị gia tăng do sử dụng việc này mà ko sử dụng vào việc khác

- Vào các yếu tố ngẫu nhiên tác động, hay lạm phátv..v

+Tỷ suất sinh lời vốn đầu tư :

Đánh giá mức độ Lợi nhuận thuần thu được từ 1 đơn vị vốn đầu tư

13

WiPV RRi = --------------------------- IV0

Trong đó WiPV là lợi nhuận thuần thu được năm i theo mặt bằng giá trị

khi hiệu quả đầu tư phát huy tác dụng

IV0 Tổng số tiền vốn đầu tư

+ Thời hạn thu hồi của vốn đầu tưT:

Xác định khoảng thời gian số Vốn đầu tư bỏ vào thu hồi lại được hoàn

toàn.

Thời hạn thu hồi vốn đầu tư có thể xác định theo thời hạn thu hồi vốn đầu tư

giản đơn( ký hiệu là T) và thời hạn thu hồi vốn đầu tư có tính đến yếu tố thời

gian của tiền ( thời hạn thu hồi vốn đầu tư có chiết khấu( ký hiệu là T’)

Thời hạn thu hồi vốn đầu tư giản đơn T xác định khoảng thời gian số

vốn đầu tư bỏ vào thu hồi lại được hoàn toàn với giả định tỷ lệ chiết khấu r=0.

Nó thoả mãn phương trình sau:

K = ∑Cfi trong đó I=(1,n)

T: Thời hạn thu hồi vốn đầu tư giản đơn

Cfi- Dòng tiền năm I ( Cfi= Bi-Ci= lựI nhuận + khấu hao)

K- Tổng vốn đầu tư ban đầu

+ Thời hạn thu hồi vốn đầu tư có tính đến yếu tố thời gian của tiền (

phương pháp trừ dần hoặc cộng dồn)

Gọi Ki là số vốn đầu tư quy về năm i để thu hồi tiếp

Cfi là lợi nhuận + khấu hao năm i

Di= Ki-Cfi là số vốn đầu tư đã thu hồi một phần tại năm i sẽ chuyển

sang năm i + 1 để thu hồi tiếp

Cộng dồn theo công thức

K= ∑ (Bi-Ci)/(1+r)i , i= (1,t)

+ Tỷ lệ thu hồi nội tại (IRR)

Có thể hiểu tỷ lệ thu hồi nội tại IRR là tỷ lệ lãi do dự án đem lại.

Nếu ta huy động vốn với lãi suất r để thực hiện một dự án đem lại lãi suất IRR

thì

14

- nếu IRR

- nếu IRR =r dự án sẽ hoà vốn tức NPV=0

- nếu IRR >r dự án sẽ lãi tức NPV>0

+ Thông qua chỉ tiêu NPV lãi quy về thời điểm hiện tại

NPV=Cfi/(1+r)n

+ Thông qua chỉ tiêu NFV lãi quy về thời điểm trong tương lai

NFV=Cfi*(1+r)n

Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả Kinh tế xã hội

-Phụ thuộc vào mức đóng góp vào ngân sách nhà nước

-Số chỗ làm việc tăng thêm từng năm và cả đờI dự ¸n

Số làm việc tăng thêm = Số lao động thu hút thêm - Số lao động mất việc làm

II. Khái quát tình hình hoạt động và hiệu quả sử dụng vốn trong các

DNNN ở Việt Nam hiện nay:

1. Vai trò của DNNN trong nền kinh tế thị trường:

Kết thúc năm 2000, nước ta đã đạt dược những thành tựu đáng phấn

khởi. mặc dù tốc độ phát triển có chậm hơn những năm trước đây, song về cơ bản nền kinh tế- xã hội vẫn ổn định. Đóng góp vào thành tựu chung đó có vai

trò to lớn của các DN, trong đó đặc biệt nhấn mạnh là hệ thống doanh nghiệp

nhà nước.

Nhìn lại trong những năm đổi mới, DNNN đã không ngừng được củng cố phát triển nhằm phát huy vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị

trường theo định hướng XHCN. Trong cuộc khủng khoảng tài chính khu vực

từ giữa năm 1997 đến năm 1998 càng cho thấy rõ vai trò của DNNN trong

nền kinh tế quốc dân. Trong đóng góp chung đó thể hiện trên hầu hết các lĩnh vực công nghiệp và hoạt động XNK.

Trong sản xuất công nghiệp, năm 2000, DNNN đạt giá trị sản lượng

69.588 tỷ VNĐ bằng 46% giá trị sản lượng công nghiệp. Đáng chú ý là những

sản phẩm điện, than, dầu khí, dịch vụ bưu chính viễn thông.v. v Nhà nước

15

thông qua những DNNN hoặc các liên doanh do Nhà nước tham gia thực hiện vai trò chủ đạo, chi phốI sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. So với năm

1997, giá trị sản lượng công nghiệp khu vực DNNN tăng 7,9%, các số liệu

tương ứng của khu vực DN ngoài quốc doanh là 6,7%; khu vực có vốn đầu tư

nước ngoài tăng 23,3%- là năm tăng cao nhÊt so với các năm trước. Phải

chăng, sự tăng trưởng đáng quý tại khu vực DNNN đã tạo điều kiện gián tiếp

cho khu vùc DN có vốn đầu tư nước ngoài tăng trưởng mạnh. Đặc biệt, tháng

11,12/1999 khu vùc DN này đã tăng nhanh là dầu thô đạt 12,5 trệu tấn- tăng

23,9%; sữa hộp tăng 22,8%; quần áo dệt kim tăng 23%; giấy , bìa các loại

tăng 18,3%/ chất tẩy rửa tăng 31%/ xi măng tăng 93,7%..

Trong hoạt động XNK, DNNN vẫn giữ vai trò chủ đạo về kim ngạch và

những mặt hµng trọng yếu, mũi nhon và quyết định trong mở rộng hoặc thâm

nhập thị trường mới. Dù cơ chế XNK đã rất thông thoáng, mở rộng đến mọi

thành phần kinh tế nhưng không lực lượng nào có thể thay thế được DNNN

trong việc XK dầu thô, gạo, thuỷ sản, dệt may, cà phê, chè, cao su.. và NK

xăng dầu , phân bón, sắt thép, thức ăn CN cho gia súc v…v Và chỉ có DNNN

mới thực sự đóng vai trò điều tiết thị trường, cân đối cung cầu, bình ổn giá cả

đối với nhữngmặt hàng thiết yếu của nền kinh tế quốc dân.

Trong bối cảnh có nhiều biến động ở thị trường khu vực và trên thế

giới, năm 1998 mức tăng giá đối với hàng tiêu dùng là 9,2% trong khi tốc độ

tăng trưởng GDP khoảng 6%…thể hiện những cố gắng lớn của chúng ta cũng là thể hiện sự đóng góp đáng ghi nhận của DNNN.

Đến nay qua nhiều lần sắp xếp, khu vực DNNN đã hình thành những

DN lớn, tạo thế đøng vững chắc và giữ vai trò trụ cột trong liên doanh liên

kết. Chỉ tính trong số dự án vốn đầu tư được cấp giấy phép đến giữa năm 1995, thì đối tác Việt Nam là các tæ chức kinh tế ngòai quốc doanh chiếm 2%

số dự án và chưa đến 1% vốn đăng ký. Cơ cấu kinh tế quốc doanh đang

chuyển biến có lợi cho sản xuất công nghiệp và dịch vụ, từ đó tạo đà cho sản

xuất nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá.

Những năm gần ®©y, thực hiện ®æi mới DNNN, chóng ta đã sắp xếp

theo hướng hình thành những Tcty nhà nước có quy mô lớn, đáp ứng đòi hỏi

của bước phát triển mới nền kinh tế nước ta. Thực hiện quyết định 91/Ttg và

Quyết định 90/Ttg( ban hành ngày 7/3/1994), đã có 17 Tcty 91 do Thủ tướng

16

Chính phủ ký quyết định thành lập, phê chuÈn về tổ chức hoạt động và chỉ

định các đơn vị thành viên, trên 70 Tcty 90- theo uỷ quyền của Thủ tướng

Chính phủ các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các

tỉnh , thành phố trực truộc Trung ương ký quyết đinj thành lập. Tính chung các Tcty 90 và 91 thu hút khoản 2 ngàn DN( xấp xỉ 30% số lượng DNNN)

thành lập lại theo Nghị định số 388 và chiếm khoảng 70% số DN do Trung

ương quản lý.

Điều đáng chú ý là việc đồng EURO ra dờI , bắt đầu tham gia vào thị

trường tiền tệ thế giới từ ngày 1/1/1999 tạo ra đối trọng với đồng USD> Đồng

EURO đi vào lưu thông, tạo thị trường rất rộng lớn cho lưu thông hàng hoá

dịch vụ, đầu tư.. cùng với nó là quá tình sát nhập thành Cty khổng lồ, có sức

cạnh tranh mạnh, chiếm thị phần lớn của hàng hoá hoặc dịch vụ..

Những DNNN quy mô nhỏ, sửa đổi DNNN theo hướng chuyển các

DNNN hoạt động kinh donah ( kể cả DN 100% vốn Nhà nước và DN đã cổ

phần hoá) thanh Cty cổ phần hoặc Cty TNHH( một thành viên) hoạt động tho

Luật chung đôids với DN công ích 100% vốn Nhà nước, xác định chức năng

chủ sở hữu Nhà nước đối với từng loại DN.Những đổi mới trên sẽ tạo nhiều thuận lợi hơn cho DNNN tăng sức mạnh trong hoạt động và phát triển , tăng

sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước, tranh thủ cơ hội trên thế

giới để thâm nhập vào thị trường mới, giữ vững và phát tiển thị trường đã có ,

thu hút đầu tư từ các khu vực khác.

Trong tình hình và điều kiện mới, vai trò của DNNN đối với sự phát

triển đất nước sẽ được khẳng định ở tầm cao mới. Luôn là đơn vị đi đầu trong

quá tình công nghiệp hoá , hiện Đại hoá theo hướng hôi nhập với nến kinh tế

thế giới. Chất lượng và hiệu quả sản xuất- kinh doanh, khả năng cạnh tranh

trên thị trường rong và ngoài nước , khả năng giữ vững và phát triển XK, thu hút đầu tư… là những tiêu thức không thể thiếu đối với mỗi DN để tự khẳng

định mình. Kết quả đổi mới trong tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh

DNNN những năm qua tạo ra những điều kiện thuận lợi để DNNN hoàn thành

17

vai trò chủ đạo của nó trong sự phát triển kinh tế đất nước.

2. Thực trạng vốn và sử dụng vốn trong các DNNN

2.1 Đánh giá chung

2.1.1 Thời kỳ trước đổi mới kinh tế:

Trong cơ chế kế hoạch hoá tập chung bao cấp, DNNN tồn tại dưới hình

thức các xí nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước đã hình thành một mạng lướI

thống nhất trên khắp địa bàn cả nước, từ trung ương đến cơ sở. Các xí nghiệp

thuộc sở hữu Nhà nước thâm nhập vào mọi lĩnh vực, sản xuất kinh doanh hầu hết mọi sản phảm hàng hoá, dưói hình thức chỉ tiêu, định mức cảu nhà nước.

Thích ứng với thời kỳ này, vốn của xí nghiệp đều do ngân sách nhà nước cấp.

Thực hiện nguyên tắc cấp phát, giao nộp nhan sách, các xí nghiệp không tự

khai thác và huy động vốn để đảm bảo vốn kinh donah, dẫn đến tình trạng các

xí nghiệp không quan tâm đến việc bảo toàn và phát triển vốn. Vốn của xí nghiệp thất thoát nghiêm trọng, nhiều xí nghiệp lãi giả, lỗ thật và báo cáo sai

lệch trong hạch toán kinh doanh.

2.1.2 Thời kỳ đổi mới kinh tế từ 1986 đến nay:

Chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản trị ®iều tiét cuả nhà

nước, các DNNN được tự chủ ®éng sản xuất kinh doanh. Từ đây vấn đề vốn

trở thành vấn đề sống còn của mỗi DNNN.

Trong thời kỳ 1986-1990, các DNNN được hình thành trên quy mô rộng lớn cả ở cấp quận huyện và không có sự liên kết chặt chẽ giữa các doanh

nghiệp Trung ưong và địa phương. Đến năm 1990, cả n­íc có 12080 DNNN.

Các doanh nghiệp trong thời kỳ này có quy mô nhỏ, vốn ít và công nghệ lạc

hậu. Sự dàn trảI của các DNNN làm hco nguồn vốn đầu tư của nhà nước

khong thể tập trung cho các ngành trọng điểm dẫn tớI sự thiếu hụt vốn thường

xuyên, hiệu quả sử dụng vốn rất thấp.

Từ năm 1990, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách như Nghị định

338/HĐBT, Quyết định 315/HĐBT, Chỉ thị 500/Ttg..nhằm sắp xếp và tổ chức lại các DNNN. Qua nhiều lần sắp xếp, sát nhập và giải thể, đến nay còn lại

khoảng 5280 DNNN. Các DNNN đã nâng cao hơn trình độ tích tụ và tập

trung, tăng quy mô và kinh doanh có hiệu quả hơn. Tuy nhiên hiện nay

18

DNNN đang đứng trước thực trạng yếu kém về nhiều mặt: sức cạnh tranh còn

quá yếu kém, quy mô quá nhỏ, thiếu vốn nghiêm trọng, lãi suất kinh doanh

bình quân thấp hơn lãi suất ngân hàng, hiệu quả sút kém. Hầu hết các DNNN

đang trong tình trạng “đói vốn” trầm trọng. Theo báo các tổng kết của Bộ thương mạI năm 1998, trên 90% số doanh nghiệp không đủ mức vốn pháp

đinh theo quy định tại Nghị định số 50/ Chính phủ ngày 28/8/1996 của Nhà

nứoc có tớI 70% doanh nghiệp đang trong tình trạng thiếu vốn. Xét chung các

DNNN hiÖn nay có tớI 60% số DNNN không đủ vốn pháp định theo quy định . Nghiêm trọng hơn là do thiếu vốn nên các DNNN không có khả năng

đầu tư đổi mới trang thiết bị, hiện Đại hoá công nghệ, không có khả năng

cạnh tranh.

Hiện tượng ứ đọng vật tư kém phẩm chất là rất lớn trong các DNNN

hiện nay, một số DN lại trông chờ vào nhà nước, không có biện pháp xử lý

kịp thời. Tại Hồ Chí Minh, ứ đọng hàng kém phẩm chất là 2256 tỷ chiếm

10% trong tổng vốn Nhà nước. Tổng công ty 91, lượng tồn kho 4164 tỷ, Công

ty Mía I và II tồn kho 1000 tỷ, xi măng tồn kho 500 tỷ, Hàng dệt may tồn 500

tỷ.

Tỷ lệ góp vào NSNN của DNNN là lớn tuy nhiên nếu so sánh lượng

vốn NN đã cấp cho DNNN thì kết quả đó thật không đáng tự hào. Xuất khẩu

của DNNN chiếm 55,8% tổng kim nghạch, nó thể hiện tầm quan trọng trong

hoạt động kinh tế đối ngoại. Xét hiệu quả thì không được vì sản phẩm xuất khẩu từ tài nguyên thiên nhiên, sản phẩm thô chiếm 60% tæng kim ngạch,

chủ yếu lớn do ưu đãi khai thác tài nguyên. Nếu trừ dầu khí, than( chiếm 25%

tổng kim ngạch) thì khu DNNN chiếm 30% tổng kim ngạch, gần bằng tỷ

trọng khu vực ngoài quốc doanh. Hầu hết các DNNN đều được hưởng ưu đãi về vốn, đất đai, nguồn nhân lực nhưng với kết quả như vậy thì chưa thật xứng

đáng với số vốn đã bỏ ra và công sức cho việc thực hiện các phương án đó.

2.2 Thực trạng về hiệu quả sử dụng vốn của các DNNN

Nhìn chung từ sau khi đổi mới nền kinh tế đến nay, hiệu quả sản xuất

kinh doanh nói chung, hiệu quả sử dụng vốn nói riêng của các DNNN đã tăng

lên. Tuy nhiên nó vẫn còn ở mức thấp. Nhiều doanh nghiệp chưa bảo toàn

19

được vốn, tình trạnh thua lỗ xảy ra trong nhiều doanh nghiệp. Năm 1995 tài

sản cố định trong các DNNN chiếm 70-80% nhưng chỉ cung cấp 44% Tổng

sản phẩm trong nước. Năm 1998, số DNNN thực sự có hiệu quả chỉ chiếm

khoảng 40%, số bị thua lỗ liên tục chiếm tớI 20%( nếu tính đủ khấu hao TSCĐ thì tỷ lệ này còn cao hơn), còn lại 40% là các doanh nghiệp trong tình

trạng bấp bênh, nói chung là chưa có hiệu quả. Chỉ xét riêng các DNNN thuộc

Thành phố Hà Nội từ 1995 dến 1998 ta thấy nhiều doanh nghiệp thuộc thành

phố quản trị làm ăn có lãi, trong đó có một số doanh nghiệp đạt doanh thu lớn, đóng góp ngân sách cao. Tuy nhiên số doanh nghiệp bị lỗ có chiều hướng gia

tăng, tỷ trọng donah nghiệp bị lỗ của Thành phố vẫn còn nhiều. Điều đó được

thể hiện ở bản sau:

Tình hình hoạt động của DNNN thuộc Thành phố Hà nội:

Loại doanh 1997 1998 1999 2000

nghiệp TW TP TW TP TW TP TW TP

DN có lãi 468 273 465 251 481 258 241

DN hoà vốn 18 15 15 28 36 38 13

DN bị lỗ 48 36 52 47 35 32 43

(Nguồn : Tạp chí kinh tế và phát triển số 38/2000)

Qua bảng trên cho ta thấy các DNNN do trung ương quản lý có hiệu

quả kinh doanh cao hơn các DNNN do Thành phố quản lý. Các DNNN làm

ăn thua lỗ có xu hướng giảm đối với các DNNN do TW quản lý, nhưng lại có

xu hướng tăng đối với các DNNN do Thành phố quản lý trong một số năm

gần đây, hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung, hiệu quả sử dụng vốn nói

riêng có xu hướng giảm xuống. Năm 1995, một đồng vốn Nhà nước tạo ra

được 3.46 đồng doanh thu và 0.19 đồng lợi nhuận. Năm 1998, các chỉ tiêu

tương ứng chỉ dạt 2.9 đồng và 0.14 đồng. Thậm chí trong ngành công ngiệp, một đồng vốn chỉ tạo ra được 0.024 đồng lợi nhuận.

Hiệu quả sử dụng vốn giảm xuống đi kèm với nó là tốc độ tăng trưởng

20

của các DNNN cũng giảm dần.

STT Chỉ tiêu 1997 1998 1996

Tốc độ tăng trưởng GDP nền kinh tế 8.15 5.8 9034 1

Tốc độ tăng trưởng GDP của DNNN 11.28 9.67 5.48 2

Tỷ trọng nộp ngân sách của DNNN 56 - 64 3

- Tỷ trọng GDP của DNNN trong toàn 40.48 40.07 4

bộ nền kinh tế

5 Tỷ suất lợi nhuận trên vốn của 0.19 0.11 0.14

DNNN

6 Tỷ suất nộp ngân sách trên vốn 0.32 0.21 0.35

Đơn vị ( %)

(Nguồn tạp chí Tài chính doanh nghiệp Tháng 2/2000)

Qua bảng số liệu trên cho thấy tốc độ tăng trưởng của DNNN năm

1996 và 1997 cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP của nền kinh tế, nhưng đến

năm 1998 thì ngược lại, thấp hơn. Cũng qua bảng số liệu trên cho thấy mặc dù

năm 1998 tỷ suất lợi nhuận trên vốn của DNNN có giảm so với năm 1996,

nhưng lại tăng so với năm 1997.

Nhìn chung, tình hình huy động và sử dụng vốn trong thời gian qua đã

đạt được những kết quả nhất định, song bên cạnh đó , nó đang gặp phải những

khó khăn cần phải được giải quyết.

Gần đây, khi vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta có xu hướng giảm,

chững lại và giảm nhịp độ tăng trưởng kinh tế giảm, việc huy động vốn trong

nước để đáp ứng các nhu cầu đầu tư gặp không ít khó khăn thì yêu cầu nâng

cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư sao cho để với số vốn huy động được có thể

duy trì nhịp độ tăng trưởng ở mức 5-6% như Nghị quyết của Quốc hội đề ra là

vấn đề hết sức thiết thực và cấp bách.. Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn ở

nước ta cho thấy, để đảm bảo nhịp độ tăng trưởng cao,, bền vững, cần tăng

cương đầu tư. Tuy nhiên , trong những điều kiện như nhau, để đạt được cùng

một mức tăng trưởng nhất định, có thể phải đầu tư các khối lượng vốn khác

21

nhau, tuỳ thuộc vào chất lượng đầu tư và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Nếu

vốn được sử dụng có hiệu quả cao, sẽ cần ít vốn hơn, hiệu quả thấp sẽ đòi hỏi

nhiều vốn hơn.

Kết quả của nhiều công trình nghiên cứu cho thấy, bên cạnh sự cố gắng

tăng vốn cho đầu tư phát triển, thời gian qua ở nước ta đã có sự quan tâm hơn

đối với vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Tuy nhiên trên thực tế một số

thiếu sót đã tồn tại trong nhiều năm trong lĩnh vực đầu tư vẫn chưa được xử lý

dứtdieemr. Vốn từ ngân sách nhà nước vẫn còn bị phân tán, dàn mỏng; việc

cấp phát thường thiếu kịp thời và vẫn còn nặng về cơ chế xin-cho; Vốn đầu tư

trực tiếp của nước ngoài và của kinh tế ngoài quốc doanh chưa được quản lý

chặt chẽ; vốn vay trong và ngoài nước ở nhiều đơn vị, doanh nghiệp được sử

dụng kém hiệu quả, dẫn đến hạn chế khả năng trả nợ và tăng nợ quá hạn..Do

vậy, việc tìm kiếm các giải pháp xử lý một cách tương đối có hệ thống triệt để và hữu hiệu hơn các thiếu sót, tồn tại trên nhằm giảm bớt lãng phí, thất thoát

và nâng cao hơn nữa hiệu quả vốn đầu tư vẫn còn mang tính thời sự nóng hổi.

2.3. Thực tế tình hình sử dụng vốn đầu tư trong một số DNNN của nước

ta:

Ví dụ sau đây giúp chúng ta có thể thấy rõ hiệu quả sử dụng vốn của

một số DNNN trong những năm gần đây, điển hình tại Tcty 90 thuộc Bộ

Thương Mại. Đó là tình hình đầu tư sản xuất xe máy Wave@ đang rất sôi động trong thị trường của ta hiện nay. Hoạt động sản xuất xe máy này đã đem

lại cho công ty một khoản lãi rất lớn do dự án sản xuất này có tính khả thi cao

cả về mặt kinh tế lẫn hiệu quả xã hội. HIện nay, số xe máy này còn không đủ

số lượng để bán cho một lực lượng tiêu dùng đông đảo như hiện nay. Ngoài

chất lượng của xe ra, xe lại bán với giá rất khiêm tốn nên không một người tiêu dùng nào lại không muốn có được một sản phẩm như vậy. Hiện nay, số

xe này đã được xuất sang các nước lân cận như Philippin với hơn 7.000 chiếc.

Và đang chiếm lĩnh thị trường rất lớn. Qua dự án này, công ty Machino đã

liên kết liên doanh với các bạn hàng cùng nhau góp vốn và nhập các thiết bị mà nếu sản xuất trong nước sẽ có giá thành cao hơn v..v . Tổng nguồn vốn

của dự án sản xuất và lắp ráp xe này là 18 477 436. 00 $ Mỹ. Trong dó vốn

22

pháp định của công ty là 6 000 000 $ . và sẽ được các bên đóng góp như sau:

Bên A góp 1 800 000$ chiếm 30% tổng vốn, bên B là 3000 000$ chiếm 50%,

bên C góp 600 000$ chiếm 10%, bên D góp 600 000 $ chiếm 1%. Tổng vốn

vay của công ty la 5000 000 $. Công ty đã có kế hoạch tái đầu tư 7 477 436 $ từ lợi nhuận của công ty ở giai đoạn 2 ( 2000 – 2003).

Như vậy, từ khi thành lập và hoạt động sản xuất kinh doanh ( 1997),

công ty đã sản xuất rất có hiệu quả dựa trên nguồn vốn có được. Thông qua

bản báo cáo này, chúng ta có thể biết thêm chi tiết về lãi lỗ của công ty.

Báo cáo lãi lỗ.

Doanh thu 401 971 846 nghìn đồng

Giá vốn hàng năm 303 220 056

Lãi gộp 98 751 790

Thu nhập từ hoạt động kinh doanh 63 098 494

Lãi trong năm trước thuế 88 255 425

Lãi trong năm sau thuế 82 078 895

Lãi luỹ kế để phân chia 147 104 510

Lãi luỹ kế chuyển sang năm sau 146 786 200 nghìn đồng.

Qua bảng báo cáo trên, ta có thể thấy được một phần hoạt động của

công ty tính đến ngày 31/12/2001 vừa qua. Rõ ràng công ty đã làm ăn rất hiệu

quả chỉ sau 6 năm, từ năm 1997. NPV của công ty hàng năm luôn tăng và kết

quả là sau 5 năm đã thu hôì được số vốn bỏ ra và hoạt động có lãi, hàng năm đạt mức tăng trưởng do lợi nhuận thu về luôn cao hơn năm trước 20%.

Cũng có một ví dụ khác, đó là hoạt động xây dựng nhà máy đường mới

ở Lam Sơn – Thanh Hoá, nhằm cảI tiến kỹ thuật và nâng cao năng suất nhằm

phục vụ không chỉ nhu cầu trong nước mà còn phục vụ cho hoạt động xuất

khẩu. Dự án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyêt tại Quyết đinh số 775/TTg ngày 21 tháng 10 năm 1996.

Mục tiêu dự án- đầu tư xây dựng cơ sở II- công suất 4.000 tấn mía/

ngày. Với tổng mức đầu tư là 451 098 000 000 đồng.

Sau 368 ngày đêm xây dựng, ngày 27/3/1999 công tình phân xưởng

đường II- Công ty đường Lam Sơn đã hoàn thành đưa vào sử dụng phát huy

23

ngay hiệu quả. Thiết bị luôn đạt thông số kỹ thuật và an toàn thiết bị. Sau hai

vụ sản xuất chính thức, nhà máy đều vận hành vượt công suất, sản phẩm đạt

tiêu chuẩn chất lượng . Ngay từ vụ ép đầu tiên nhà máy mới đưa vào chạy thử

và sản xuất trong thời gian 2 tháng dã ép được 150. 000 tấn mía. Kể từ vụ ép thứ hai trở đi, nhà máy đều đạt và vượt công suất cụ thể. Điển hình là vụ ép

năm1999-2000 nhà máy ép được 633.000 tấn mía, nhập kho 66850 tấn đường

trong đó có 41 000 tấn đường đạt và vựot công suất cụ thể. Năm 2000-2001,

nhà máy ép được 671 140 tấn mía, nhập kho 78 769 tấn đường các loại.. Các chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách nhà nước năm sau đều cao hơn

năm trước là 5,66%. Và số đường nhập kho và chuẩn bị cho xuất khẩu tăng

15,1 % Đặc biệt là do đạt công suất cho nên công ty đã thực hiện vịêc trích đủ

khấu hao theo quy định của Nhà nước có nguồn trả nợ vay của Ngân hàng. Và

còn rất nhiều các DNNN khác đã cảI tiến không chỉ bộ máy, cơ cấu quản lý mà các cảI tiến kỹ thuật lại được nâng cao rất nhiều. Do vậy, hiệu quả sử

dụng vốn của các công ty cảI thiện đáng kể. Nhưng bên cạnh đó, vẫn còn khá

nhiều các DNNN khác đang đứng trước bờ phá sản. Vì vậy, cần xác định

hướng kinh doanh và nắm chắc môi trường đầu, cơ hội đầu tư không đến cho

tất cả mọi người mà chỉ đến với những ai nắm chắc môi trường đầu tư.

2.4 Một số nhận xét về hiệu quả kinh tế năm 2001 thông qua chỉ tiêu

năng suất nhân tố tổng hợp:

Hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp Nhà nước cũng đã được

thể hiện qua hiệu quả kinh tế của nước ta. Vấn đề sử dụng vốn có hiệu quả

hay không giữa các thành phần kinh tế cũng được thể hiện thông qua sự phát

triển kinh tế của đất nước. Thông qua chỉ tiêu năng suất nhân tố tổng hợp, đây

cũng là một chỉ tiêu giúp ta có thể đánh giá tình hình kinh tế của nước ta như thế nào thông qua năm vừa qua.

Sự tăng trưởng kinh tế thường được phản ánh qua chỉ tiêu tổng hợp.

Tổng sản phẩm quốc nội GDP. Sự tăng trưởng GDP là do đóng góp của sự

tăng về vốn, lao động, sự tiến bộ của khoa học công nghệ, quản lý.. Có một số cách để đánh giá hiệu quả của nền kinh tế. Trong phần này, chúng ta sẽ đánh

giá hiệu quả kinh tế của 3 khu vực thông qua chỉ số năng suất nhân tố tổng

hợp. Năng suất nhân tố tổng hợp (TFP)là phương pháp ước lượng dựa trên cơ

24

sở nghiên cứu bản vào ra:

GDP= A + K +  L

Ở đây:

GDP thể hiện tốc độ tăng trưởng GDP

A tốc độ tăng trưởng năng suất nhân tố tổng hợp

K tốc độ tăng trưởng của vốn sản xuất

L tốc độ tăng trưởng của lao động

 tỷ trọng của thặng dư sản xuất và khấu hao tài sản cố định trong tổng

giá trị tăng thêm của nền kinh tế

 tỷ trọng của thù lao lao động trong tổng giá trị tăng thêm của nền

kinh tế.

Điểm phần trăm đóng góp của TFP càng cao, chứng tỏ nền kinh tế hoặc

khu vực kinh tể càng hiệu quả và ngược lại.

Theo ước tính sơ bộ, vốn đầu tư sơ bộ năm 2001 tăng 8.01% so với

năm 2000. Trong đó khu vực I tăng 6.83% khu vực II tăng 9.07%. và khu vực III tăng 7.58. Lao động xã hội năm 2001 tăng 2.66% so với năm 2000 trong

đó khu vực I tăng 0.81%, khu vực II tăng 3.86% và khu vực III ăng 8.33%.

Với tăng tưởng GDP năm 2001 là 6.84% thì đóng góp của RFP vốn và lao

động của cả nền kinh tế và chia ra 3 khu vực được thể hiện trong bảng sau :

2001

25

I. Đóng góp của TFP Chia ra: Khu v ực I Khu v ực II Khu v ực III II Đóng góp của vốn Chia ra Khu vực I Khu vực II Khu vực III III Đóng góp của lao động Chia ra Khu vực I Khu vực II Khu vực III 2000 1.86041 2.47471 3.54752 -1.97779 3.47683 1.22849 4.62673 3.91055 1.45276 0.9268 1.89575 3.38724 2.6824 1.42623 4.17912 -1.98747 2.24352 0.62604 3.96662 2.11971 1.91404 0.73772 2.17426 5.99776

Mặc dù tốc độ tăng trưởng của năm 2001 tăng hơn so với tốc độ tăng

trưởng của năm 2000 chỉ là 0.79%, nhưng xét trên góc độ hiệu quả thông qua

chỉ tiêu năng suất nhân tố tổng hợp thì năm 2001 toàn nền kinh tế có hiệu quả hơn hẳn năm 2000 (44.1%).

Năm 2001, tăng trưởng GDP là 6.84% thì đóng góp của năng suất nhân

tố tổng hợp là 2.68% ( chiếm tỷ ệ 39.22% trong tăng trưởng GDP trong khi đó

với tăng trưởng GDP 6.79% của năm 2000 thì TFP đóng góp là 1.86%( chiếm

tỷ lệ 27.4%trong tăng trưởng GDP) . Đóng góp của yếu tố vốn đầu tư năm

2001 là 2.24%( chiếm tỷ lệ 32.8% trong tăng trưởng GDP). Đóng góp của yếu

tố lao động năm 2001 là 1.91%( chiếm tỷ lệ 27.98% tăng trưởng GDP)

2.5 Những kết quả đạt được và những tồn tại trong các doanh nghiệp

Nhà nước hiện nay:

2.5.1 Những kết quả đạt được

Từ khi đổi mới nền kinh tế đến nay, hệ thống DNNN đã đạt được một

số kết quả như sau:

Một là , giảm 68% số DNNN từ 12080 DNNN vào đầu năm 1990

xuống còn 5280 DNNN hiện nay. Số doanh nghiệp NN ngày càng giảm đi

chủ yếu là do sát nhập giải thể. Trong đó, giải thể hầu hết các DNNN cấp

huyện, quy mô quá nhỏ bé, không có điều kiện tồn tại trong cơ chế thị trường.

Điều này góp phần tăng sự tích tụ tập trung vốn, tăng quy mô doanh nghiệp.

Chỉ còn có 17 tổng công ty 91 và 70 tổng công ty 90.

Hai là, nâng cao rõ rệt trình độ tích tụ và tập trung , tăng quy mô vốn

của DNNN , Số DNNN có vốn dướI 1 tỷ đồng đã giảm từ 50% ( năm 1994)

xuống còn 26% ( 1998). Số DNNN có số vốn trên 10 tỷ đồng đã tăng tương ứng từ 10% lên gần 20%. Đến năm 1999 số DNNN có vốn trên 10 tỷ đồng đã

tăng lên gần 21%. Vốn bình quân của một DNNN tăng từ 3,3 tỷ đồng năm

1994 lên gần 22 tỷ đồng hiện nay. Đã hình thành các DNNN dướI dạng các

tổng công ty 90,91. Tính đến cuèi tháng 2/2000, cả nước đã có 76 tổng công

ty 90 và 17 tổng công ty 91, đã chiếm tớI 56% tỏng số vốn kinh doanh, bình

quân số vốn của một tổng công ty 91 hiện nay lên đến gần 3900 tỷ đồng (

26

tương đương 280 triệu USD).

Ba là, tổng số lượng DNNN giảm gần 70%, song hệ thống DNNN vẫn

phát triển ổn định thích nghi dần với cơ chế thị trường, góp phần quan trọng

trong việc phát huy vai trò chủ đạo của kinh té nhà nước.. Tỷ trọng trong tổng sản phẩm quốc nội ( GDP) do các DNNN tạo ra tăng từ 36,5%( năm 1991)

lên 40,2%( năm 1999).Tỷ lệ nộp ngân sách trên vốn Nhà nước tăng từ 14,7%

năm 1991 lên gần 35% năm 1998.

Bốn là đã cổ phần hoá được hơn 400 DNNN. Hầu hết các DNNN sau

khi cổ phần hoá , đều hoạt động có hiệu quả. Tính đến năm 1999, đã có 370

DNNN cỏ phần hoá đã thu hút thêm từ trong xã hội gần 1432nghìn tỷ đồng,

bằng 111% tổng số vốn có tại thời điểm cổ phần hoá của các DNNN này đẻ

mở rộng sản xuất kinh doanh.

Năm là, hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung, hiệu quả sử dụng vốn

nói riêng tăng lên rõ rệt. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn nhà nước năm 1993 là

6,8% đã tăng lên 14% năm 1998.

Tuy nhiên các DNNN vẫn có những tồn tại nhất định.

2.5.2 Những tồn tại trong các DNNN hiện nay :

Theo đánh giá chung của Ban Đổi mới quản lý doanh nghiệp trung

ương, năm 1998, số DNNN thực sự có hiệu quả chỉ chiếm khoảng 40%, số

DN làm ăn không có hiệu quả bị lỗ liên tục chiếm 20%( nếu tính đủ khấu hao

tài sản cố đinh thì tỷ lệ này còn lớn hơn) còn lại 40% là các DN kinh doanh

khi lãI khi lỗ, có lãI cũng chỉ là tượng trưng. HIệu quả sử dụng vốn trong các

DNNN đạt rất thấp và giảm sút. Nếu năm 1995 một đồng vốn Nhà nước tạo ra

3.46 đồng doanh thu và 0.19 đồng lợi nhuận, thì đến năm 1998 chỉ còn tạo ra

2.9 đồng doanh thu và 0.14 đồng lợi nhuận, thậm chí trong ngành công nghiệp, một đòng vốn chỉ làm ra 0.024 đồng lợi nhuận.

Thứ nhất, quy mô cña các DNNN còn bé và dàn trảI, trùng chéo vÒ

ngành nghề. Đến nay, vốn bình quân trong các DNNN chỉ khoảng 22 tỷ đồng

( tương đương 1.5 triệu USD). Đây là số vốn quá nhỏ bé so với vai trò của

DNNN và so với các DNNN của các nước trong khu vực. Số DNNN có vốn 5

tỷ đồng trở xuống chiếm tớI 65,45% số DNNN có vốn trên 10 tỷ đồng chỉ

27

chiếm gần 21%. Các DNNN dàn trảI trên tất cả các ngành nghề từ sản xuất

đến thương mạI, dịch vụ gây tình trạng phân tán manh mún về vốn, trong khi

vốn đầu tư nhà nước rất hạn chế, không tập trung được vào những ngành ,

lĩnh vực chủ yếu, then chốt.

Thứ hai, trình độ kỹ thuật ,công nghệ các DNNN lạc hậu, năng lực

cạnh tranh kém, rất hạn chế và thua thiệt trong hội nhập thị trường quốc tế.

Hầu hết, các DNNN được trang bị máy móc , thiết bị từ nhiều nước khác nhau

và thuộc nhiều thế hệ, chủng loại. Theo kết quả khảo sát của bộ Khoa học,

công nghệ và môi trường tại nhiều DNNN thuộc 7 ngành thì dây truyền sản

xuất máy móc thiết bị của ta lạc hậu so với thế giới từ 10 đến 20 năm, mức độ

hao mòn hữu hình từ 30-50%, có tớI 38% ở dạng phải thanh lý. Thời hạn

khấu hao tài sản cố định kéo dài bình quân từ 10 đến 12 năm, trong khi mức

khấu hao bình quân của khu vực và Thế giới chỉ từ 7 đến 8 năm. Báo cáo điều tra ở Hà Nội và TP HCM cho biết số máy móc có tuổI trung bình trên 10 năm,

chiếm tớI 40% và chỉ có 30% dướI 5 năm. Thiết bị cũ kỹ, lạc hậu đã ảnh

hưởng lớn đến chất lượng, giá cả và hạn chế năng lực cạnh tranh của sản

phẩm được tạo ra. Điều này đòi hỏi phải có lượng vốn đủ lớn để đầu tư đổi mới trang thiết bị, hiện Đại hoá công nghệ nhằm tăng khả năng cạnh tranh của

các DNNN trên thị trường. Chính sự kém cỏI trong công nghệ cùng với một

độI ngũ cán bộ không được đào tạo lại liên tục dẫn đến tình trạng không áp

dụng được công nghệ tiên tiến cũng như các biện pháp quản lý khoa học làm cho hiệu quả sử dụng vốn trong các năm gần đây không cao. Mặc dù nước ta

đã khắc phục nhược điểm này một cách từ từ rồI tuy nhiên vẫn còn nhiều bất

cập.

Thứ ba, nợ của các DNNN là quá lớn. Năm 1996 là 174,797 tỷ đồng,

năm 1999 là 199.060 tỷ đồng. So với tổng số vốn DNNN, nợ phải trả bằng 109% tương đương 126.366 tỷ đồng, nợ phải thu bằng 62% tương đương

72644 tỷ đồng, trong khi khả năng thanh toán của các DNNN rất thấp. Nợ quá

hạn hoặc khó đòi chiếm tỷ lệ không nhỏ đang là gánh nặng đối với các

DNNN. Ngoài phần vốn đầu tư ban đầu khi thành lập, hàng năm DNNN còn

phải vay tớI 85% vốn từ nhà nước với lãi suất ưu đãi. Trong khi ngân sách

luôn thiếu hụt nhưng Nhà nước vẫn dành một tỷ lê đáng kể để hỗ trợ cho một

số DNNN.Trong ba năm 1997-1999, ngân sách Nhà nươc đã đầu tư trực tiếp

28

cho các DNNN gần 8000 tỷ đồng Trong đó 6482 tỷ đồng cấp bổ sung vốn 1

464.4 tỷ đồng bù lỗ, hỗ trợ cho các DNNN để giảm bớt khó khăn về tài chính.

Ngoài ra từ năm 1996 đến nay, Nhà nước còn miễn giảm thuế 2288 tỷ đồng,

xoá nợ 1088.5 tỷ đồng, cho vay tín dụng ưu đãI 8685 tỷ đồng. Thực tế, số nộp vào ngân sách của các DNNN này ít hơn phần mà Nhà nước đã hỗ trợ. Đó

đang là gánh nặng của ngân sách Nhà nước.

Thứ tư, hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung , hiệu quả sử dụng vốn

nói riêng giảm . Năm 1995, một đồng vốn NN tạo ra 3.46 đồng doanh thu và

0.19 đồng lợi nhuận. Năm 1998, các chỉ tiêu tương ứng chỉ đạt 2.9 đồng và

0.14 đồng. Thậm chí, trong ngành công nghiệp, một đồng vốn chỉ tạo ra được

0.024 đồng lợi nhuận. Năm 1998 số DNNN thực sự có hiệu quả chỉ chiếm

khoảng 40%, số doanh nghiệp bị lỗ liên tục chiếm tới 20%, còn lại 40% là

những DNNN trong tình trạnh bấp bênh khi l? khi lãi.

Hiện nay, cả nước có khoảng 5280 doanh nghịệp nhà nước với tổng

vốn gần 116 ngàn tỷ đồng. Hàng năm DNNN đóng góp một phần đáng kể

trong tỷ trọng GDP của cả nước, nắm giữ rên 98% tổng số dự án liên doanh

với nước ngoài; tốc độ tăng trưởng của kim ngạch xuất khẩu bình quân hàng năm vào khoảng 20%..Chính vì thế, trong nền kinh tế thị trường có sự điều

tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, DNNN có vị trí quan

trọng góp phần làm cho kinh tế Nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo .

Có thể nói trong 10 năm tổ chức sắp xếp lại các DNNN vẫn phát triển

ổn định. Trong 5 năm ( 1991-1995), tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm

của kinh tế quốc donah là 11,7%. Gần gấp rưỡi tốc độ tăng trưởng bình quân

của toàn bộ nền kinh tế, gần gấp đôI kinh tế ngoài quốc doanh. Tỷ trọng của

DNNN trong tổng sản phẩm trong nước ( GDP) đã tăng từ 36.5% lên 40.07%

năm 1998. Tỷ lệ nộp ngân sách trên vốn Nhà nước tăng tương ứng từ 14.7% lên 27.89%; tỷ suất lợi nhuận trên vốn Nhà nước năm 1993 là 6.8% thì đến

năm 1998 đã là 12,31%. Riêng năm 1999 các DNNN đã làm ra 40.2% GDP,

trên 50% giá trị xuất khẩu, đóng góp 39,25% trong tổng nộp ngân sách Nhà

nước.

2.5.3 Những tồn tại kể trên là do những nguyên nhân cơ bản sau:

Có thể dẫn ra nhiều nguyên nhân dẫn tới tình hình trên như: trong các

29

DN, tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự bao cấp của Nhà nước còn khá nặng nề,

còn nhỏ về quy mô, chồng chéo về cấp quản lý, lạc hậu về kỹ thuật và công

nghệ v.v. Một nguyên nhân hết sức quan trọng không thể không đề cập đến :

Cơ chế, chính sách hiện hành , đặc biệt là cơ chế quản lý tài chính đối với DNNN, mặc dù đã qua nhiều lần bổ sung, sửa đổi, nhưng vẫn chưa tạo được

động lực mạnh mẽ cho DNNN phát triển .

Những kết quả đạt được của các DNNN tuy có ý nghĩa quan trọng

nhưng chưa tương xứng với yêu cầu và năng lực. Trong những năm gần đây,

tốc độ tăng trưởng và hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNNN chưa cao và

đang giảm dần. Tốc độ tăng trưởng bình quân của DNNN sau liên tục đạt

13% . Đến năm 1999 đã giảm xuống còn khoảng 8-9%. Hiệu quả sử dụng vốn

giảm. Năm 1995 một đồng vốn tạo ra được 3.46 đồng doanh thu và 0.19 đồng

lợi nhuận, đến năm 1998 chỉ tạo ra được 2.9 đồng doanh thu và 0.14 đồng lợi nhuận. Số doanh nghiệp làm ăn thực sự có hiệu quả chỉ chiếm khoảng 40% là

những doanh nghiệp làm ăn không có hiệu quả bị lỗ liên tục chiếm 20%, còn

lại 40% là những doanh nghiệp nằm trong tình trạng khi lỗ khi lãi. Công nợ

trong doanh nghiệp quá lớn. Năm 1996 tổng số nợ của DNNN là 174 797 tỷ đồng, năm 1999 đã lên tới 199 060, trong đó nợ phải trả bằng 109% vốn Nhà

nước trong donah nghiệp và khả năng thanh toán nợ của các doanh nghiệp lại

rất thấp. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng luôn phải dành một tỷ lệ nhất định

trong ngân sách để hỗ trợ cho các doanh nghiệp. Trong 3 năm 1997- 1999, ngân sách nhà nước đã đầu tư cho doanh nghiệp gần 8 ngàn tỷ đồng; miễn

giảm thuế 2288 tỷ đồng, xoá nợ 1088.5 tỷ đồng; khách nợ 3392 tỷ đồng, giãn

nợ 540 tỷ đồng, cho vay tín dụng ưu đãI 8685 tỷ đồng.. Ngoài ra, theo số liệu

của Bộ Lao động Thương binh Xã hội, số lao động không có việc trong

DNNN là khoảng 6% ở một số địa phương tỷ lệ này còn cao hơn như HảI Dương, Nam Định, Hà Tĩnh v..v. Để năng cao hơn nữa hiệu quả kinh tế xã

hội và sức cạnh tranh của các DNNN, đề án sắp xếp DNNN đã được xây

dựng. Theo đó, dự kiến đến năm 2003 cả nước sẽ còn khoảng 3000 DNNN.

Năm 2005 còn 2000 DNNN. Như vậy , trong 3 năm từ 2000-2002 số DNNN phải sắp xếp là 2280 DN ( trong đó DNNN có vốn trên 10 tỷ đồng là 216 DN,

chiếm 9.5% từ 1 đến 10 tỷ đồng là 1233 DN, chiếm 54% vàdưới 1 tỷ đồng là

831 DN chiếm 36,5% theo các hình thức cổ phần hoá, đa dạng sở hữu (

30

65,3%) sáp nhập, hợp nhất vào các doanh nghiệp khác ( 16,7%)giải thể, phá

sản ( 16%) chuyển thành đơn vị sự nghiệp ( 2%). Số lượng lao động làm việc

trong các DNNN thuộc diện sắp xếp là 429 095 người; tổng số nợ phải trả xử

lý là 21 165 tỷ đồng trong đó nợ ngân hàng 7260 tỷ đồng.

Nguyên nhân:

Một là, vai trò tích cực của động lực đổi mới theo nguyên tắc dỡ bỏ

cản trở , xoá bao cấp, khuyến khích tự hạch toán lỗ lãi… cạn dần, nhưng sự tiếp sức cho động lực mới ở DNNN vẫn chưa hình thành đồng bộ. Cơ chế

quản trị tài chính của DNNN còn quá cứng nhắc, sửa đổi chắp vá một cách bị

động, thiếu quan điểm hệ thống, chính sách đối với kết quả tự tích luỹ của

DNNN quá bất hợp lý đã hạn chế khả năng mở rộng quy mô của DNNN.

Hai là, Nhà nước cần tập trung vốn cho yêu cầu phát ttiển cư sở hạ tằng kỹ thuật và hạ tầng xã hội, còn doanh nghiệp cần nhiều vốn cho yêu cầu

đổi mới công nghệ và mở rộng sản xuất nhưng các kênh huy động vốn của

DNNN thiếu các điều kiện thế chấp an toàn, các doanh nghiệp không có sự

đảm bảo và tài sản thế chấp. Các DNNN thiếu vốn vay trung hạn và dàI hạn, còn Ngân hàng thừa chủ yếu là vốn cho vay ngắn hạn. Trong khi đó các quy

định về thủ tục xác nhận tài sản thế chấp, cầm cỗ đối với DNNN không sát

thực tế. Khỗng chế mức tiền vay bằng 70% giá trị tài sản thế chấp và tổng

mức huy động vốn không vượt quá vốn điêù lệ của doanh nghiệp tại thời điểm công bố gần nhất đã gây ách tắc lưu thông tín dụng. Thủ tục công chứng

hợp đồng thế chấp, cầm có, bảo lãnh vay vốn ngân hàng rườm rà, phức tạp,

xét thấy không cần thiết trong mỗi lần vay vốn. Mặt khác, tổ chức triển khai

đăng ký tài sản thế chấp ở các cơ quan chuyên ngành có liên quan như cơ

quan ddịa chính, cơ quan xây dựng chưa đồng bộ cũng góp phần làm ách tắc lưu thông tín dụng.

Ba là, về phía các DNNN, hiệu quả sử dụng vốn còn kém, vốn sử dụng

không được quản trị chặt chẽ, điều đó một phần làm cho hiệu quả sản xuất

kinh doanh giảm sút, gây ra tình trạng lỗ vốn kéo dài. ĐIều đó đã hạn chế khả

năng vay vốn từ bên ngoài.

Bốn là, hầu hết các DNNN khi chuyển sang cơ chế kinh tế mới, vẫn

31

còn bị ảnh hưởng của cơ chế cũ, chậm thay đổi so với sự biến động của thị

trường. Một số DNNN còn dựa dẫm, trông chờ vào vốn hỗ trợ từ ngân sách

nhà nước.

Năm là, hiện nay một số cơ quan sáng lập DNNN với tư cách là chủ sở

hữu nhưng lại không đảm bảo đủ vốn toói thiểu ban đầu cho DNNN gây khó

khăn cả cho việc huy động thêm vốn từ bên ngoài cho các doanh nghiệp. Bởi

hầu hết những người góp vốn và các tổ chức tín dụng trước khi cho vay đều

xem xét tình hình tài chính nói riêng và hoạt động sản xuất kinh doanh nói

chung của doanh nghiệp.

Ngoài ra còn rất nhiều các nguyên nhân khác. Nhưng nhìn chung

nguyên nhân chủ yếu vẫn là từ chính bản thân doanh nghiệp.

III Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong cho các DNNN:

1 Một số giải pháp tổng quát nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu

tư trong các DNNN:

Để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ,hiêu quả phục vụ hội của

các DNNN phải giải quyết đồng bộ các vấn đề vi mô, vĩ mô, có sự cảI tiến

mạnh mẽ trong điều hành của Nhà nứơc, các cơ quan công quyền và các DN.

Về quản lý vĩ mô, trước hết phải tạo lập đầy đủ các yếu tố của các loại

thị trường như: thị trường tư liệu sản xuất, thị trường hàng tiêu dùng và dịch

vụ, thị trường sức lao động, thị trường vốn, thị trường bất động sản, thị trường khoa học công nghệ…Nhưng quan trọng hơn phải đồng thời tạo ra môI

trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế để buộc và tạo điều

kiện giúp các DNNN năng động hơn trong ivệc tiếp cận các loại thị trường kể

trên và tích cực chủ động hơn nữa hội nhập vào thị trường thế giới.

* Nhận thức trong phân bổ và sử dụng vốn đầu tư:

Trước hết, kháI niệm đầu tư cần được hiểu theo nghĩa rộng, là quá trình

bỏ ra các chi phí cần thếp để hoàn thiện và nâng cao chất lượng, năng lực cuả

các yếu tố nhằm đẩy mạnh phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh

doanh, bảo vệ môI trường, duy trì quá trình táI sản xuất mở rộng đảm bảo phát triển kinh tế- xã hội với nhịp độ cao , bền vững. Do vậy, khi tiến hành

32

đầu tư, không nên chỉ tính riêng các chi phí và hiệu quả trực tiếp cuả mỗi yếu

tố mà cần tính đến các chi phí và hiệu quả gián tiếp của từng yếu tố được đặt

trong mối quan hệ tác động qua lại với các yếu tố khác để đảm bảo tính khả

thi và lựa chọn phương án đầu tư với hiệu quả tổng thể cao nhất.

+ Cần nhận thức rõ việc tăng cường đầu tư và nâng cao hiệu quả sử

dụng vốn đầu tư để đảm bảo sự phát triển nhanh và bền vững, làm cho đất

nước ngày càng giàu mạnh, đời sống nhân dân được cảI thiện. Do vậy, mỗi tổ

chức cá nhân cần nâng cao tinh thần trách nhiệm, phát huy tài năng, sáng kiến

để các nguồn vốn dành cho đầu tư đem lại hiệu quả cao nhất

+ Cần hiểu đầy đủ vốn đầu tư theo nghĩa rộng: Vốn đầu tư không nên

hiểu chỉ là vốn bằng tiền mà còn gồm cả nguồn lao động, tài nguyên, đất đai,

công nghệ, tri thức… Bên cạnh đó, cần nhận thức rằng các nguồn vốn dành

cho đầu tư là rất khan hiếm. Do vậy, cần đặt ra yêu cầu và thực hiện sử dụng hợp lý, có hiệu quả đối với tất cả các nguồn vốn này trong quá trình đầu tư và

sử dụng kết quả đầu tư.

+ Cần nâng cao ý thức tiét kiệm có sự thay đổi mạnh trong nhận thức

về việc sử dụng các nguồn vốn đầu tư theo hướng nâng cao trách nhiệm và

quyền hạn của từng cơ quan tham gia vào quá trình đầu tư, tiếp tục xoá bỏ

triệt để hơn tàn dư của cách thức xin- cho theo cơ chế tập trung quan liêu, bao

cấp trong đầu tư, chuyển từ cố gắng xin được cấp phát, được vay càng nhiều

càng tốt sang cố gắng đạt mục đích đầu tư đề ra với số vốn càng ít càng tốt.

* Đổi mới cơ chế quản lý sử dụng vốn đầu tư:

Cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách để tạo môI trường pháp lý rõ

ràng, thuận lợi cho việc tăng cường quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn

đầu tư, giảm thiểu các sơ hở, thiếu sót, tăng trách nhiệm cá nhân, tạo điều kiệm để thực hiện tốt hơn cơ chế dân biết, dân bàn , dân tham gia kiểm tra

việc sử dụng các nguồn vốn đầu tư.

Cần tăng cường quản lý và nâng cao chất lượng của những khâu và giai

đoạn trọng yếu của quá tình đầu tư: Quá tình đầu tư gồm nhiều giai đoạn trong đó ra quyết định đầu tư là giai đoạn rất quan trọng. Quyết định đúng

đắn, hợp lý trong đầu tư có vai trò quyết định đối với hiệu quả sử dụng vốn

33

đầu tư ( một số công tình nghiên cứu đã cho thấy , trong đầu tư xây dựng cơ

bản, sai sót trong quyết định đầu tư nhiều khi chiếm tới 80% các lãng phí, tổn

thất….) Do vậy, cần năng cao tính khoa học, thực tiễn để đảm bảo các quyết

định đầu tư có các luận cứ vững chắc, đảm bảo hiệu quả không chỉ trong thời gian ngắn, trước mắt mà còn cố gắng đạt hiệu quả lâu dàI, tránh được sự lãng

phí do thiếu sự nhìn xa, trông rộng Tránh ra quyết định thiếu căn cứ, nóng

vội, chủ quan, tuỳ tiện…

Tăng cường quản lý không chỉ đối với các công trình lớn được thực

hiện bằng nguồn vốn của Nhà Nước mà còn phải quản lý chặt chẽ việc sử

dụng đối với tất cả các nguồn vốn đầu tư của xã hội, kể cả của tư nhân, của

nước ngoài tại Việt Nam và ở mọi cấp độ Trung ương, địa phương, doanh

nghiệp, cá nhân. Thời gian qua việc quản lý việc sử dụng vốn đầu tư ở một số

địa phương và doanh nghiệp đã bị buông lỏng nhất là đối với các công trình thuộc hạng mục B, C. Nhiều địa phương tuy biết Ngân sách Nhà nước không

cấp hoặc chưa thể cấp vốn, nhưng họ vẫn cố “ khởi công”, đặt nền móng để

tạo ra sự đã rồi, sau đó tìm mọi cách xin Ngân sách Nhà nước cấp phát để

hoàn tất những việc đã rồi.

Cần chú trọng nâng cao chất lượng xây dựng và tổ chức thực hiện các

chương trình đầu tư lớn của Nhà nước như chương trình trồng rừng, chương

tình tạo việc làm… Một số lĩnh vực đầu tư quan trọng, sử dụng nhiều vốn đầu

tư như đầu tư XDCB, đầu tư cho khu vực kinh tế quốc doanh cũng cần được chú trọng hơn, trong đó cần hoàn thiện hệ thống các định mức chi phí đầu tư,

nâng cao chất lượng thẩm định dự án, tăng cường kiểm tra, giám sát nhằm

đảm bảo tính khả thi, đồng bộ trong đầu tư, nâng cao tình độ kỹ thuật, công

nghệ của máy móc, thiết bị, dây chuyền đưa vào sản xuấtm, rút ngắn thời tian

và nâng cao chất lượng các công tình xây dựng.

Đối với co chế quản lý vốn đầu tư bằng vốn vay ODA: Việc đầu tư

bằng vốn này cần hạch toán riêng biệt, rõ ràng và có sự theo dõi chặt chẽ quá

tình vận động của nguồn vốn này, bao gồm tất cả các khâu: cho vay, thu nợ,

trả nợ. Trên cơ sở đó, định kỳ có sự tính toán hiệu quả sử dụng nguồn vốn này và báo cáo cho các cơ quan có trách nhiệm và công bố trên các phương tiện

thông tin Đại chúng để mọi người cùng biết và có chính sách, cơ chế khuyến

khích phù hợp, thí dụ, những đơn vị đã sử dụng nguồn vốn này có hiệu quả,

34

khi có nhu cầu sẽ được ưu tiên xem xét cho vay tiếp.

* Đổi mới tổ chức bộ máy quản lý vốn đầu tư:

Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan quản lý vốn đầu tư ở mỗi ngành và

địa phương. Hiện nay, ở mỗi ngành, mỗi địa phương, mỗi doanh nghiệp đều

thực hiện việc đầu tư cho rất nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng cũng như ở

Trung ương, ở các ngành và địa phương hầu như chưa có cơ quan nào chịu

trách nhiệm theo dõi tổng hợp về hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cuả tất cả các

lĩnh vực, ngành nghề. Trong thời gian tới, cần phân công cho một cơ quan

chịu trách nhiệm quản lý, theo dõi tổng hợp tình hình và hiệu quả sử dụng vốn

đầu tư, định kỳ có sự đánh giá về vấn đề này và có báo cáo cho các cấp uỷ và

chính quyền kịp thời xử lý các vấn đề phát sinh, đồng thời thông qua các

phương tiện thông tin Đại chúng, kịp thời công bố cho cán bộ, nhân dân biết

để cùng tham gia vào quá trình quản lý.

Đối với các ban quản lý chương trình, công trình: Bên cạnh các cơ quan

quản lý tổng hợp, cũng cần tiếp tục đổi mói phương thức hoạt động của các

đơn vị chịu trách nhiệm trực tiếp quản lý việc sử dụng các nguồn vốn đầu tư

như ban quản lý các chương tình, công trình sao cho mỗi khoản mục đầu tư đều có người Đại diện chủ sở hữu và người quản lý cụ thể với quyện hạn,

trách nhiệm rõ ràng, đúng đắn. Ngoài việc cần chấp hành nghiêm chỉnh hơn

chế độ báo cáo, cần có quy định buộc các đơn vị quản lý trực tiếp đi sâu phân

tích, đánh giá và định kỳ có báo cáo về kết quả và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của chương trình, công trình do mình phụ trách. Đối với các chương trình,

công trình có giá trị lớn, trọng điểm, ngoài việc thực hiện chế độ báo cáo định

kỳ, hàng năm cần có báo cáo tài chính và được kiểm toán bởi một công ty

kiểm toán độc lập. Báo cáo kiểm toán này càn phải gửi cho các cơ quan quản

lý cấp trên và các cơ quan chức năng của Nhà nước, trong đó có cơ quan theo dõi tổng hợp hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cuả Nhà nước. Trừ các thông tin

được quản lý theo quy định bảo mật của Nhà nước , mọi thông tin về số vốn

đã thực hiện, kết quả và hiệu quả sử dụng số vốn của từng chương tình ở mỗi

địa phương nên được công bố trên các phương tiện thông tin Đại chúng và

lưu trữ công khai, thuận tiện cho bất cứ ai quan tâm tìm hiểu , theo dõi , đối

chiếu với thực tế để có cơ sở tham gia quản lý, giám sát một cách có hiệu quả

35

hơn.

Một là: Tiếp tục sắp xếp lại DNNN nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động

của doanh nghiệp trên thị trường. Cần xác định chủ sở hữu đích thực đối với

những tài sản thuộc DNNN, để việc sử dụng chúng có hiệu quả và tránh lãng phí. Cần tiếp tục đẩy nhanh việc chuyển đổi một số DNNN không thiết yếu

sang hình thức đa sở hữu hoặc sang các hình thức kinh tế khác như:

Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần,…Nhà nước cần tạo môI

trường pháp luật và thể chế thuận lợi cho cổ phần hoá DNNN và coi đây là

một trong những giải pháp cơ bản để tạo vốn trong các doanh nghiệp.

Hai là: thực hiện liên doanh liên kết giưã DNNN với các thành phần

kinh tế khác. Nhờ đó có thể thu hút nguồn vốn, trình độ quản trị, công nghệ

của những đối tác này. Song nhà nước cần quan tâm hơn đến quyền lợi của

DNNN trong liên doanh. HIện tại, hình thức liên doanh mới được triển khai với các đối tác nước ngoài, nhưng quyền lợi phía bên Việt Nam vẫn còn nhỏ,

luôn bị đối tác liên doanh chèn ép. Hình thức liên donah, liên kết giữa DNNN

với các thành phần kinh tế khác trong nước chưa phát triển. Đây là vấn đề cần

phải được chú trọng trong thời gian tới.

Bên cạnh những giải pháp trên Nhà nước cần phải có chính sách tạo

thuận lợi cho việc huy động vốn của các DNNN. Trước hết, Nhà nước cần

đưa ra giải pháp tháo gỡ những vướng mắc về tài sản thế chấp của DNNN

nhỏ hơn nhiều so với nhu cầu vay vốn, dẫn đến doanh nghiệp thiếu vốn, ngân

hàng thừa vốn không cho vay được. Một mặt, nhà nước cần sớm hoàn thiện

hành lang pháp lý để tạo đều kiện cho ngân hàng hoạt động. Mặt khác, ngân

hàng nên xem xét đến những yếu tố như năng lực quản trị của donah nghiệp,

khả năng sinh lời cũng như khả năng đối phó với những bất lợi của doanh

nghiệp, cuối cùng mới xem xét đến tài sản thế chấp của doanh nghiệp.

Nhà nước nên kiểm kê, đánh giá lại tài sản của các DNNN để thấy

được thực trạng tài sản hiện nay tại các doanh nghiệp. Đồng thời nhà nước

nên dành một tỷ lệ vốn ngân sách để đầu tư thêm vốn điều lệ cho các DNNN

tương xứng với quy mô và nhiệm vụ sản xuất kinh doanh được giao. Nhà nước cần cảI tiến, đơn giản hoá thủ tục cho vay, bãI bỏ chế độ xin phép cơ

quan nhà nước có thẩm quyền và xác nhận cuả cơ quan quản trị vốn khi đưa

36

tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh vay vốn ngân hàng. Nhà nước cũng nên bãI

bỏ chế độ công chứng Nhà nước trong mỗi lần vay vốn mà chỉ thực hiện một

làan công chứng, chỉ công chứng lại khi doanh nghiệp thay đổi tài sản thế

chấp.

2 Cổ phần hoá DNNN góp phần giải quyết những khó khăn về vốn:

Các DN luôn trong tình trạng đói vốn, tình trạng DN phải ngừng sản

xuất do đói vốn đã xuất hiện và có nhiều hướng tăng.. Trong khi đó, hiệu quả

sử dụng đồng vốn thấp, nguy cơ thất thoát vốn gia tăng, DNNN làm ăn thua

lỗ tăng nhanh trong vàI năm lại gần đây. Hệ quả của nó là công nghệ lạc hậu thấp xa so với các nước trên thế giới thường từ hai đến ba thế hệ, cá biệt có

công nghệ lạc hậu đến năm sáu thế hệ.

Thiếu vốn đang là khó khăn lớn nhất cho hoạt động hiên tại và cho phát

triển trong tương lai của các DN Việt nam. Số vốn thực tế cho hoạt động sản xuất kinh doanh của một DN hiện nay chỉ mới đạt 70% mức yêu cầu về vốn

cố định, 50% mức yêu cầu về vốn lưu động. Thêm vào đó , với cơ cấu tài sản

cũ lạc hậu thì rõ ràng nhu cầu về vốn hiện nay của các DN là rất đảm bảo cho

sự tồn tại của chính bản thân DN và cho sự phát triển của nền kinh tế.

Bên cạnh đó tiềm lực vốn trong dân và trong các tổ chức trong xã hội là

rất lớn lại chưa được tận dụng khai thác và sử dụng có hiệu quả cho sản xuất.

Thị trưòng vốn của Việt Nam còn phát triển chậm nên nguồn vốn duy nhất

mà các DN có thể khai thác hiện nay là nguồn vốn tín dụng. Song nguồn vốn tín dụng chỉ có thể đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn lại rất han chế. Hơn nữa,

ngay cả các DN ngân hàng cũng đang gặp khó khăn bất cập về quản lý, về

hoạt động kinh doanh.

Việc cổ phần hoá các DNNN tạo điều kiện bán cổ phần thu hút vốn đầu

tư của nhiều thành phần kinh tế, mở cửa cho việc đa dạng hoá sở hữu, không riêng gì các nhà DNNN được cổ phần hoá, mà còn góp phần đa dạng hoá sở

hữu cuả cả nền kinh tế. Việc chuyển các DNNN thành công ty cổ phần chính

là dể tận dụng ưu điểm vốn có của nó trong công ty cổ phần về huy động vốn,

đó là:

Các công ty cổ phần có thể thu hút được các nguồn vốn ở quy mô rất

lớn đến các ngân hàng ( các ngân hàng tham gia với tư cách là các cổ đông)

37

đến các khoản vốn vô cùng nhỏ bé của các tầng lớp dân cư, đầu tư dàI hạn,

gắn trách nhiệm của người sở hữu vốn với kết quả hoạt động kinh doanh của

công ty cổ phần ở trình độ xã hội hoá rất cao so với huy động vốn của các

ngân hàng.

Với sự nhìn nhận của công chúng sẽ càng được nhân lên khi thị trường

trao đổi cổ phiếu được hình thành trên thị trường này, có những công ty cổ

phần mới thực sự là đối tượng để các nhà đầu tư rót vốn. Xong điều cốt lõi

của bàI toán về vốn là hiệu quả sản suất kinh doanh của các DN sau khi cổ

phần hoá có đựơc nâng lên hay không. Hoạt động dưới hình thức công ty cổ

phần các DN hoàn toàn tự chủ trong hoạt động kết quả hoạt động gắn liền với

tiền vốn của bản thân người lãnh đạo và những người lao động trong DN, sản

xuất kinh doanh thực sự gắn kết vói thị trường lấy thị trường là thước đo đánh

giá kết quả hoạt động của DN.

Với việc huy động một lượng vốn lớn , hiệu quả hoạt động kinh doanh

không ngừng được nâng cao thì việc đổi mới những công nghệ lạc hậu là việc

làm đương nhiên để không ngừng phát triển mở rộng DN.

3 Giảm phí tổn về vốn

Để giảm bớt phí tổn về vốn cần lựa chọn các nguồn vốn có phí tổn

thấp nhất và tối thiểu hoá lượng vốn sử dụng cho việc sản xuất ra một đơn vị

sản lượng, hoặc thực hiện một khối lượng dịch vụ nhất định. Do đó, cần khai thác các nguồn vốn khác nhau, đặc biệt nguồn vốn nợ, vì đó là một nguồn vốn

đòi hỏi tưong đối thấp đối với các DN và tạo khả năng mang lại thu nhập cao

hơn.

Trong các nguồn vốn được sử dụng hiện nay, có nguồn vốn viện trợ

chính thức của chính phủ ( ODA) thường được sử dụng trong các dự án phát triển công nghiệp. Tuy nhiên, cũng cần chú ý đặc thù của loại vốn này là điều

kiện ràng buộc tương đối, đôI khi dẫn đến phí tổn cao và sử dụng kém hiệu

quả, đặc biệt xem xét trên phương diện kinh tế vĩ mô. Vì vậy, cần có biện

38

pháp phân bổ và kiểm tra việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn nói trên, nhằm tránh tình trạng thêm gánh nợ.

Ngoài ra, cần tìm các biện pháp giảm bớt nhu cầu về vốn, như giảm

nhu cầu về vốn dự trữ, giải quyết tốt khâu thanh toán, rút ngắn chu kì sản xuất

trong phạm vi công nghệ cho phép.

4 Những giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ

Đánh giá và đánh giá lại tài sản cố định

Trong thời Đại khoa học kỹ thuật phát triển như hiện nay, tài sản cố

định thường xuyên phải đối mặt với nguy cơ hao mòn vô hình. Do đó, để có

cơ sở cho viẹc tính toán khấu hao thu hồi vốn đầy đủ, doanh nghiệp cầc phải

giảm thiểu sự chênh lệch giữa giá trị thực tế và giá trị trên sổ sách của tài sản.

Muốn vậy, doanh nghiệp phaỉ có kế hoạch và biện pháp đánh giá và đánh giá

lại tài sản một cách thường xuyên, chính xác. Nhờ vậy mà doanh nghiệp xác định được giá trị thực của tài sản cố định, từ đó xác định mức khấu hao hợp lý

để thu hồi vốn hoặc kịp thời xử lý những tài sản cố định bị mất giá để chống

lại sự thất thoát vốn.

Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định

Các doanh nghiệp cần tận dụng tối đa công suất của máy móc thiết bị,

giảm thời gian tác nghiệp, hợp lý hoá dây chuyền công nghệ, đảm bảo nghiêm

ngặt chế độ duy tu bảo dưỡng máy móc thiết bị, áp dụng chế độ khuyến khích vật chất và trách nhiệm đối với quản trị và sử dụng tài sản cố định. Đồng thời

doanh nghiệp cần tổ chức tốt quá trình sản xuất theo nguyên tắc cân đối, nhịp

nhàng và liên tục.

Xuất phát từ sử dụng tài sản cố định của DNNN là hiệu quả sử dung tài

sản cố định còn thấp, chưa khai thác tối đa công suất của máy móc thiết bị. Mặc dù có sự tăng lên nguyên giá tài sản cố định nhưng tốc độ tăng hiệu suất

sử dụng lại thấp hơn tốc độ tăng quy mô tài sản cố định, chứng tỏ DN chưa sử

dụng tối đa hiệu quả nguồn vốn đầu tư và tài sản cố định.

Một trong các yếu tố có thể đảm bảo cho DN thu hồi đủ vốn đầu tư là

phát huy năng lực hiện có về đầu tư mà cụ thể là khai thác tối đa công suất

39

thiết bị. Muốn vậy, các DN phaỉ đẩy mạnh hơn nữa công tác tìm kiếm mở

rộng thị trường tiêu thụ, tìm những khách hàng mới. Thực tế cho thấy, trong

thời gian qua hoạt động sản xuất của các DNNN diễn ra không đều, ít ổn

định, tình trạng sản xuất khi thì thong thả, cầm chừng, khi thì vội vã khẩn trương gây nên những lãng phí về sức người, sức của. Nhất là các DN thuộc

ngành giày, ngành dệt may, bảo hành sản xuất thực phẩm, đồ uống. Sản phẩm

do ngành da giày sản xuất ra hiện nay trên thị trường có nhiều chủng loại do

nhiều hãng, nhiều DN khác nhau sản xuất. Thị trường trong nước thì hạn hẹp, trong khi đó thị trường nước ngoài rất rộng lớn nhưng lại cạch tranh gay gắt.

Do vậy, để thu hút được một khách hàng nào đó cho DN đã khó mà giữ lại

thành khách hàng truyền thống lại càng khó. Chẳng hạn các sản phẩm tiêu

dùng khác. Thông thường sản phẩm này nhu cầu tiêu dùng của xã hội vào

mùa đông thường cao hơn mùa hè và trong những tháng này các DN sản xuất liên tục thậm chí ba ca/ 1 ngày. Nhưng sang mùa hè, do thời tiết nóng nực nhu

cầu mặt hàng này giảm xuống rất nhiều, nhất là trong nước, khiến cho thị

trường tiêu thụ vốn đã nhỏ bé lại càng trở nên eo hẹp hơn. Tốc độ tiêu thụ

hàng hoá bị giảm sút, không có đơn giản , tốc độ sản xuất chậm lại thậm chí

có tháng không có việc làm máy móc thiết bị lúc đó để không hoặc sử dụng

không hết công suất, giảm hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.

Thị trường không ổn định làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu suất sử

dụng TSCĐ. Để khắc phục tình trạng này một mặt các DN cần nâng cao chất lượng sản phẩm, cảI tiến mẫu mã, đẩy mạnh công tác Marketing ( khâu này

hiện nay rất yếu trong các DNNN ), mặt khác tích cực tìm kiếm thị trường,

vươn ra thị trường xuất khẩu để ổn định sản xuất kinh doanh do htị trương

nước ngaòi nhu cầu lớn. Tuy nhiên, thị trường xuất khẩu luôn đòi hỏi sản

phẩm chất lượng với mẫu mã đẹp đồng thời mức độ cạnh tranh lại cao hơn.

Đồng thời với việc mở rộng hơn nữa thị trường sản phẩm của DN, các

DN cần cân đối không để cấc chế độ khuyến vật chất đối với người quản lý và

sử dụng tài sản cố định.

5 .Tăng cường đầu tư đổi mới tài sản cố định đặc biệt là đổi mới,

hiện Đại hoá máy móc thiết bị phục vụ trực tiếp cho sản xuất.

Hầu hết các DN hiện nay đều có trang thiết bị máy móc cũ kỹ lạc hậu

40

do không chú trọng đầu tư mới, hiện Đại hoá táI sản cố định. Do vậy, sản

phẩm mà DN sản xuất có chất lượng kém, khả năng cạnh tranh thấp, chưa tạo

được vị trí trên thương trường. Những năm qua, ngân sách nhà nứơc đang dần

cắt giảm để tăng cường tính năng động tự chủ cho các DN. Nhu cầu về vốn rất lớn, nhưng việc vay vốn ngân hàng và các tổ chức tín dụng rát khó khăn,

mà khó khăn lớn nhất là DN gặp phaỉ là lãI suất cao. Vì vậy các DN chỉ có

thể vay những khoản nhỏ, đủ để cảI thiện chút ít tình hình sản xuất và đủ để

bổ sung thiết bị.

Nhu cầu vốn cho đổi mới máy móc thiết bị thì nhiều nhưng các DN lại

không xây dựng được những phương án sản xuát kinh doanh, những dự án có

tính khả thi.

Như vậy, các DN cần cố gắng hơn nữa trong việc tìm tòi nghiên cứu , xây

dựng được những phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả để thu hét được vốn đầu tư của nhà nước và các tổ chức tín dụng. Đồng thời, tích cực tìm

kiếm đối tác kinh doanh nhằm huy động nguồn vốn và thông qua việc liên

doanh liên kết các DN. Có cơ hội được tiếp xúc với các trang thiết bị, công

nghệ tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý.

6 Kiểm tra tài chính đối với hiệu quả sử dụng VCĐ của doanh nghiệp

Sau mỗi kỳ kế hoạch, nhà quản trị phải tiến hành phân tích, đánh giá

tình hình sử dụng tài sản cố định thông qua các chỉ tiêu phân tích hiệu quả sử dụng vốn. Từ đó , doanh nghiệp có thể đưa ra những quyết định đầu tư, điều

chỉnh lại quy mô, cơ cấu sản xuất cho phù hợp, khai thác đựơc những tiềm

năng sẵn có và khắc phục những tồn tại trong quản trị

Ngoài các biện pháp trên, doanh nghiệp có thể sử dụng một số biện

pháp khác như sử dụng quỹ khấu hao hợp lý, kịp thời xử lý những máy móc thiết bị lạc hậu, mất giá, giải phóng những máy móc thiết bị không cần dùng,

mua bảo hiểm tài sản để đề phòng rủi ro….

7. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động

Để đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục, VLĐ luôn

41

thay đổi giá trị và vận động theo chu kỳ sản xuất từ cung ứng đến sản xuất và

lưu thông. Cứ như vậy VLĐ được tiếp tục tuần hoàn và chu chuyển theo chu

kỳ sản xuất. Do phương thức vận động có tính chu kỳ như trên, nên để nâng

cao hiệu quả sử dụng VLĐ, các doanh nghiệp cần phải áp dụng các biện pháp sau:

Xác định chính xác VLĐ ở từng khâu luân chuyển

Đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong công tác quản trị VLĐ

nhằm:

- Tiết kiệm VLĐ sử dụng trong sản xuất kinh doanh.

- Thông qua việc xác định VLĐ ở từng khâu để nắm được lượng VLĐ

cần phải đi vay, tránh ứ đọng. Đảm bảo đủ VLĐ cần thiết cho sản xuất kinh

doanh được tiến hành liên tục, thúc đẩy tốc đọ luân chuyển VLĐ nhằm nâng

cao hiệu quả sử dụng vốn.

- Tổ chức khai thác tốt nguồn VLĐ phục vụ cho sản xuất kinh doanh

- Trước hết, doanh nghiệp cần phỉa khai thác triệt để các nguồn vốn nội

bộ và các nguồn vốn có thể chiếm dụng một cách thường xuyên( nợ định

mức), sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả nhất nguòon vốn này. Nếu còn thiếu

doanh nghiệp phải tìm đến các nguồn vốn từ bên ngoài như vốn vay ngân

hàng và các tổ chức tín dungj, vốn liên doanh liên kết, vốn phát hành cổ

phiếu, tráI phiếu.. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cần cân nhắc , tính toán lựa

chon phương thức huy động sao cho chi phí là thấp nhất.

Thường xuyên phân tích tình hình sử dụng VLĐ

Tăng cường việc kiểm tra tài chính đối với việc sử dụng VLĐ, thực

hiện công việc naỳu thông qua phân tích một số chỉ tiêu như: Vòng quay

VLĐ, sức sinh lợi của VLĐ.. Trên cơ sở đó biết được rõ tình hình sử dụng

VLĐ trong doanh nghiệp, phát hiện những vướng mắc và sửa đổi kịp thời, nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ.

Ngoài các biện pháp nêu trên , doanh nghiệp cần áp dụng một số biện

pháp tổng hợp như: đẩy mạnh khâu tiêu thụ hàng hoá, xử lý kịp thời những

vật tư, hàng hoá chậm luân chuyển để giải phóng vốn. Thường xuyên xác định phần chênh lệch giữa giá mua ban đầu với giá thị trường tại thời điểm

42

kiểm tra tài sản cố định tồn kho để có biện pháp xử lý kịp thời, hiệu quả. Thực

hiện nghiêm túc, triệt để công tác thanh toán công nợ, chủ động phòng ngừa

rủi ro, hạn chế tình trạng chiếm dụgn vốn mà từ đó làm phát sinh nhu cầu

VLĐ dẫn đến doanh nghiệp phải đi vay ngoài kế hoạch, tăng chi phí vốn mà đáng ra không có. Vốn bị chiếm dụng ngày càng trở thành gánh nặng cho

donah nghiệp khi trở thành nợ khó đòi, gay thất thoát vốn của doanh nghiệp.

Bởi vậy, để chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp nên lập

43

các quỹ dự phòng tài chính để có thể bù đắp khi vốn bị thiếu hụt.

MỤC LỤC

Lời nói đầu

I, Tạo vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn- một trong những yếu tố

quyết định sự tồn tại và phát triển của DNNN trong nền kinh tế thị

trường

1. Khái niệm về vốn

2. Đặc trưng cơ bản của vốn

3. Phân loại vốn

4. Vai trò của vốn đối với DNNN trong nền KTTT

a. Tính pháp lý

b. Tính kinh tế

5. Những vấn đề liên quan hiệu quả sử dụng vốn đầu tư

5.1 Quan niệm về hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trong sản xuất kinh

doanh

5.2 Vai trò của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư

6. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư

6.1 Chỉ tiêu đánh giá tổng hợp

6.2 Chỉ tiêu đánh giá vốn cố định

6.3 Chỉ tiêu đánh giá vốn lưu động

6.4 Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tàI chính của hoạt động đầu tư khác

II, Khái quát tình hình hoạt động và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trong

các DNNN ở Việt Nam hiện nay

1. Vai trò DNNN trong nền KTTT

2. Thực trạng về vốn đầu tư và sử dụng vốn trong các DNNN

Đánh giá chung

Tình hình các DNNN trước thời kỳ đổi mới

Tình hình các DNNN sau thời kỳ đổi mới

44

Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn của các DNNN

Thực tế tình hình sử dụng vốn đầu tư trong một số DNNN ở nước ta

Một số nhận xét về hiệu quả kinh tế năm 2001 thông qua chỉ tiêu năng suất

nhân tố tổng hợp

Những kết quả đạt được và những tồn tại trong DNNN

Những kết quả đạt được

Những tồn tại cần khắc phục

III, Những giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong các DNNN

1. Một số giải pháp tổng quát

2. Cổ phần hoá DNNN, góp phần giải quyết khó khăn về vốn

3. Giảm phí tổn về vốn

4. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định

5. Tăng cường đầu tư, đổi mới tài sản cố định, đặc biệt là đổi mới hiện đại

hoá máy móc thiết bị, phục vụ trực tiếp cho sản xuất.

6. Kiểm tra tài chính đối với hiệu quả sử dụng vốn cố định của DN.

45

Kết luận

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình quản trị kinh doanh tổng hợp ( sách mới)

2. Kinh tế xã hội Việt Nam- thực trạng , xu thế và giải pháp

PTS Lê Mạnh Hùng 3. Tạp chí Kinh tế phát triển số 21/97, 22/98,38/2000, 40/2000 4. Kinh tế và dự báo số 1/96, 9/97, 4/2000, 4/2001 ,5/2002. 5. Phát triển kinh tế số 89,97,108/99, 6. Con số và sự kiện số 2/97, 6/2000 7. Thương mại số 3,4/99, 6/2001 8. Quản lý thị trường 5/2000 9. Lý luận chính trị số 6/2001 10. Tạp chí ngân hàng và thông tin khoa học ngân hàng số

7,10/97,9,98, 6/99 11. Tài chính 6/2000

12. Kết quả điều tra thực trạng DNNN, doanh nghiệp có vốn đầu tư

nước ngaòi hoạt động Thương nghiệp, khách sạn, nhà hàng, du lịch và dịch vụ.

13. Nghị định 338/HDBT, Quyết định 315/ HĐBT, chỉ thị 500/ TTg,

nghị định 59/CP của Chính phủ.

46

14. Luật doanh nghiệp nhà nước. 15. Một số tạp chí và báo khác. 16. Một số tài liệu, số liệu thực tế trong một số cơ quan nhà nước.