LUẬN VĂN:

Tình hình hoạt động sản

xuất kinh doanh của

NHCT Đống Đa

Lời nói đầu

Một nền kinh tế phát triển là mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài của đất nước.

Trong điều kiện nền kinh tế thế giới đang hôị nhập một cách nhanh chóng trên mọi

phương diện, nền kinh tế nước ta còn nhiều yếu kém chúng ta cần thiết phải xây dựng

những ngành mang tính chất chiến lược như thông tin, năng lượng, ngân hàng…

Ngân hàng là ngành đòi hỏi phải có sự phát triển nhanh hơn một bước so với

các ngành kinh tế khác. Hoạt động ngân hàng là một trong những mắt xích quan trọng

câú thành sự vận động nhịp nhàng của nền kinh tế. Bởi vì, ngân hàng là một ngành

kinh doanh tiền tệ mà tiền tệ là một “ hàng hoá “ đặc biệt cho nên một sự biến động

nhỏ trên thị trường cũng tác động đến nền kinh tế.. Cùng với sự chuyển đổi cơ cấu

kinh tế của đất nước, hệ thống ngân hàng cũng có những bước chuyển mình cho phù

hợp với điều kiện và hoàn cảnh kinh tế mới. Trải qua hơn mười năm đổi mới ngân

hàng công thương Đống Đa đã đạt được nhiều thành tựu to lớn góp phần tích cực trong

việc đảm bảo cho tăng trưởng kinh tế với mức độ cao liên tiếp ở nước ta. Sau một thời

gian thực tế tại NHCTKV Đống Đa cùng với sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của giáo

viên hướng dẫn và các cán bộ hướng dẫn thực tập, em đã từng bước hoàn thành bản

báo cáo thực tập tổng hợp này. Đây là bản báo cáo tổng quan về tình hình hoạt động

và cơ cấu tổ chức của NHCTKV Đống Đa.

Bản báo cáo thực tập này gồm hai phần:

Phần I: Mạng lưới tổ chức ngân hàng công thương khu vực Đống Đa.

Phần II: Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của NHCT Đống Đa.

Phần I: mạng lưới tổ chức ngân hàng

công thương đống đa.

I- lịch sử hình thành của ngân hàng.

Ngân hàng công thương khu vực Đống Đa (NHCTKV Đống Đa) là một ngân

hàng thương mại quốc doanh trực thuộc ngân hàng Nhà nước Việt Nam được thành

lập vào năm 1957, có trụ sở hiện nay tại 187 phố Tây Sơn, quận Đống Đa, thành phố

Hà Nội. Trước tháng 6/1988, NHCTKV Đống Đa là ngân hàng Nhà nước quận Đống

Đa trực thuộc chi nhánh ngân hàng Nhà nước thành phố Hà Nội, hoạt động của ngân

hàng lúc đó vừa mang tính kinh doanh vừa mang tính quản lý Nhà nước. Từ tháng

7/1988 thực hiện nghị định 53/HĐBT về “Đổi mới hoạt động ngân hàng “ hệ thống

ngân hàng Việt Nam được chuyển từ hệ thống ngân hàng một cấp sang hệ thống ngân

hàng hai cấp. Ngân hàng Nhà nước quận Đống Đa được chuyển thành ngân hàng Công

thương Đống Đa, trực thuộc ngân hàng công thương thành phố Hà Nội. Thực hiện đổi

mới công nghệ ngân hàng gắn với đổi mới tổ chức của ngân hàng Công thương Việt

Nam, từ 1/04/1993 ngân hàng Công thương Đống Đa chuyển thành ngân hàng công

thương khu vực Đống Đa, là một chi nhánh của ngân hàng công thương Việt Nam

thực hiện kinh doanh tiền tệ, tín dụng, dịch vụ ngân hàng và kinh doanh ngoaị hôí với

phạm vi hoạt động chủ yếu trên địa bàn quận Đống Đa .

Hiện nay, cùng với sự phát triển của hệ thống ngân hàng có thể nói là rất nổi bật

luôn đổi mới và trở thành trung tâm thực sự của nền kinh tế, NHCT Đống Đa đã và

đang tìm ra cách đi thích hợp cho riêng mình. Cách đi đó trước hết phải đảm bảo hai

yếu tố :An toàn vốn và lợi nhuận hợp lý sau đó là góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế.

II- cơ cấu tổ chức :

Trong hai năm 1997- 1998 thành phố Hà Nội được Nhà nước cho phép mở rộng

nhiều quận huyện mới: quận Thanh Xuân, quận Tây Hồ. Hệ thống ngân hàng không

thể một lúc thành lập mới ngay được vì vậy NHCTKV Đống Đa được mở thêm chi

nhánh ở quận Thanh Xuân. Năm 1998 ngân hàng đã tách 1/3 khả năng hiện có cho

ngân hàng Thanh Xuân. Đây là đặc thù riêng của NHCTKV Đống Đa vì đến nay chưa

có ngân hàng nào tách ra như vậy. Hoạt động trong phạm vi hai năm thì ngân hàng

Thanh Xuân được tách ra thành một ngân hàng chi nhánh trực thuộc ngân hàng Nhà

nước, hoạt động độc lập . Nếu trước khi tách NHCTKV Đống Đa chỉ còn 70% khả

năng thì đến nay nó đã đạt được 100% như cũ được thực hiện thông qua các phòng ban

chức năng cụ thể của mình.

1. Chức năng của ngân hàng.

NHCT Đống Đa thực hiện đầy đủ các chức năng của một NHTM hiện đại:

-Nhận tiền gửi có và không có kỳ hạn bằng Việt Nam đồng và ngoại tệ

của các tổ chức kinh tế cá nhân trong và ngoài nước.

-Cho vay ngắn, trung và dài hạn bằng Việt Nam đồng và ngoại tệ đối với

mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư.

-Cho vay vốn bằng các nguồn tài trợ của Đài loan, EC.. .

-Thực hiện nghiệp vụ cầm đồ, cầm cố bất động sản, cho vay tiêu dùng

đối với tất cả đối tượng dân cư và mọi thành phần kinh tế.

-Dịch vụ thanh toán chuyển tiền nhanh qua mạng vi tính hiện đại với các

tỉnh, thành phố trong cả nước và tất cả các nước trên thế giới.

-Dịch vụ thu chi tiền mặt tại cơ sở cho các tổ chức kinh tế và dân cư mở

tài khoản tại NHCT Đống Đa.

-Dịch vụ bảo quản tuyệt đối, an toàn tài sản quý cho mọi tổ chức kinh tế

và tư nhân.

-Dịch vụ tư vấn, lập luận chứng kinh tế đầu tư phát triển sản xuất kinh

doanh.

-Thực hiện nghiệp vụ tín dụng, thuê mua bất động sản, tư vấn liên

doanh,liên kết sản xuất với các tổ chức kinh tế.

-Mua bán chuyển đổi ngoại tệ và chi trả kiều hối theo nhu cầu của khách

hàng bằng tiền mặt,ngân phiếu,séc.

-Kinh doanh vàng,bạc,đá quý,cung cấp dịch vụ chế tác sửa chữa tư

trang,vàng, bạc, đá quý.

2. Cơ cấu tổ chức.

NHCTKV Đống Đa có tổng số 283 cán bộ công nhân viên chức làm việc tại chi

nhánh, phòng giao dịch và 14 quỹ tiết kiệm được đặt rải rác trên khắp địa bàn của

quận. Ngân hàng hoạt động dưới sự điều hành của ban lãnh đạo gồm một giám đốc và

ba phó giám đốc phụ trách ba mảng công việc khác nhau. Bộ máy hành chính của

NHCT Đống Đa được tổ chức thành 10 phòng ban với quy định rõ ràng cụ thể về

chức năng và nhiệm vụ.

2.1 -Phòng nguồn vốn (phòng đầu vào của ngân hàng): gồm mạng lưới 14 quỹ

tiết kiệm rải rác trên địa bàn hai quận Đống Đa, Thanh Xuân có nhiệm vụ giao dịch

với khách hàng để thực hiện huy động tiền gửi có và không có kỳ hạn của mọi tổ chức

kinh tế, cá nhân trong và ngoài nước theo văn bản của NHCTVN ban hành. Mỗi quỹ

gồm ít nhất 3 cán bộ với 4 chức danh: trưởng quỹ, phó quỹ, kế toán và thủ quỹ.

Tạo nguồn vốn là tiền đề để ngân hàng mở rộng thị trường hoạt động, đóng vai

trò quyết định đối với kinh doanh dịch vụ ngân hàng. Thế mạnh của NHCTKV Đống

Đa là có nguồn vốn lớn thứ 2 trong toàn hệ thống ngân hàng công thương Việt Nam,

tăng trưởng vững chắc, luôn giữ thế chủ động, có uy tín với khách hàng, đảm bảo khả

năng thanh toán và đáp ứng kịp thời nhu cầu cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh góp

phần tăng trưởng kinh tế.

Biểu 1: Tình hình sử dụng vốn của ngân hàng.

(Đơn vị: Tỷ đồng)

Hình thức huy động Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000

1. Tiền gửi tiết kiệm 760 970 1180 1200

- Không kỳ hạn 35 20 14 20

- Có kỳ hạn. 725 950 1166 1180

2. Tiền gửi tổ chức kinh tế 180 350 245 650

3. Kỳ phiếu 11 55 4.5 0

Tổng số 951 1375 1425 1850

Nguồn vốn huy động ngày càng tăng trưởng do nhiều yếu tố, trong đó yếu tố chủ

quan là ngân hàng đã cải tiến lề lối làm việc, đổi mới tác phong và thái độ phục vụ ,

đảm bảo chữ tín với khách hàng, mở rộng mạng lưới giao dịch. Số khách tham gia gửi

tiết kiệm và giao dịch ngày càng tăng. Tuy nhiên cơ cấu nguồn của ngân hàng chủ yếu

là nguồn tiền gưỉ chi phí cao hơn so với nguồn giao dịch.

2.2. Phòng kinh doanh đối nội

Đây là phòng có vai trò quan trọng nhất trong hoạt động kinh doanh của ngân

hàng, là nơi thực hiện cho vay và đầu tư các dự án đối với doanh nghiệp đem lại hiệu

quả kinh doanh .

Phòng bao gồm:

 Phòng tín dụng công nghiệp.

 Phòng tín dụng thương nghiệp.

 Phòng tín dụng ngoài quốc doanh.

 Phòng tín dụng kinh doanh tổng hợp.

Phòng có chức năng cơ bản là thực hiện các nghiệp vụ cho vay ngắn, trung

và dài hạn đối với mọi loại hình doanh nghiệp. Cán bộ tín dụng được trưởng phòng

phân công giải quyết các nghiệp vụ tín dụng với quy trình chặt chẽ. Đối với doanh

nghiệp Nhà nước có nhu cầu vay không cần tài sản thế chấp nhưng doanh nghiệp đó

phải có tình hình tài chính lành mạnh, quan hệ tín dụng sòng phẳng. Đối với doanh

nghiệp ngoài quốc doanh, muốn vay đơn vị phaỉ có tài sản thế chấp. Tài sản đó phải

thuộc quyển sở hữu hợp pháp của người vay hoặc người bảo lãnh thứ 3 có qua công

chứng Nhà nước. Mức cho vay không vượt quá 70% giá trị tài sản thế chấp. Đối với

dịch vụ cầm cố tài sản mức vay thường đạt 60% giá trị tài sản cầm cố. Giá trị tài sản

được đánh giá tại thời điểm vay, thường theo định kỳ 6 tháng ngân hàng phải xác định

giá trị tài sản một lần. Nếu giá trị tài sản giảm, ngân hàng yêu cầu bên vay bổ sung

thêm tài sản hoặc tiến hành thu hồi nợ về bảo đảm an toàn khi bên vay mất khả năng

thanh toán.

Công tác tín dụng duy trì sự ổn định về hoạt động khắc phục nhanh chóng và có

hiệu quả các khoản nợ quá hạn, chấn chỉnh kịp thời những tồn tại thiếu sót trong chấp

hành thể lệ nghiệp vụ. Ngân hàng đã chủ động và tích cực lựa chọn những khách hàng

sản xuất kinh doanh có hiệu quả có dự án khả thi đủ điều kiện để cho vay và tăng dư

nợ lành mạnh đặc biệt là đối với doanh nghiệp Nhà nước. Những doanh nghiệp, hộ tư

nhân làm ăn không nghiêm túc, kinh doanh thua lỗ, thiếu trách nhiệm trả nợ và lãi vay,

có hành vi thiếu trung thực sớm bị loại nhanh ra khỏi lĩnh vực tín dụng của ngân hàng.

Qua số liệu 4 năm gần đây, công tác tín dụng tăng trưởng vững chắc, khách hàng

được chọn lọc theo tinh thần kỷ cương tín dụng trong các văn bản mới được bổ sung.

Biểu 2: Tình hình sử dụng vốn của ngân hàng .

(Đơn vị:tỷ đồng)

Sử dụng vốn Năm 1997 Năm 1998 Năm 1998 Năm 2000

Doanh số cho vay 1472 1850 1120 1410

Ngắn hạn 1402 1730 1070 1160

Dài hạn 70 120 50 250

Doanh số thu nợ 1404 1565 1230 1060

Ngắn hạn 1351 1465 1211 1036

Dài hạn 53 100 19 24

Dư nợ 525 810 700 950

Ngắn hạn 450 715 574 550

Dài hạn 75 95 126 400

2.3. Phòng kinh doanh đối ngoại.

Được thành lập từ tháng 7/1994, phòng kinh doanh đối ngoại có nhiệm vụ bao

quát các hoạt động thanh toán dịch vụ quốc tế, bảo lãnh quốc tế, kinh doanh mua

bán ngoại tệ.

Nghiệp vụ chủ yếu của phòng là kiểm tra các hợp đồng kinh tế và hướng dẫn

khách hàng ký kết hợp đồng kinh tế với nước ngoài. Phòng cũng thực hiện mở L/C

thanh toán hàng nhập khẩu, các khách hàng có nhu cầu cho vay chiết khấu bộ chứng từ

cho thế chấp làm nhiệm vụ thanh toán L/C khi đến hạn. Để thực hiện các chức năng

trên, CBCNV của phòng phải có trình độ cao về nghiệp vụ, thông thạo ngoaị ngữ ,

nắm bắt nhanh sự biến động của giá trị các loại ngoại tệ, tỷ giá mới bảo đảm sự thông

suốt. Dù mới được thành lập chưa có nhiều kinh nghiệm nhưng trong năm 2000

phòng đã thu được kết quả đáng kể.

Thời gian qua phòng kinh doanh đối ngoại đã kết hợp chặt chẽ với phòng kinh

doanh đôí nội thực hiện cho vay có hiệu quả, tăng vòng quay vốn ngoại tệ, tạo môi

trường giúp các doanh nghiệp nhập nguyên liệu máy móc,thiết bị phát triển sản xuất

kinh doanh . Hiệu quả hoạt động của hai phòng là rất lớn, nó không chỉ đơn thuần là

đem lại lợi nhuận mà còn góp phần nâng cao vị thế, uy tín của ngân hàng trên thị

trường.

2.4. Phòng kế toán - tài chính.

Số liệu kế toán là tấm gương phản chiếu tình hình hoạt động kinh doanh dịch vụ

tiền tệ ngân hàng và cũng phản ánh một phần thực trạng sản xuất kinh doanh của các

doanh nghiệp thông qua quản lý và hạch toán nội, ngoại bảng. Phòng kế toàn – tài

chính có chức năng:

- Hạch toán mọi khoản phát sinh, đảm bảo mọi khoản thu chi. Thanh toán kịp

thời, đảm bảo bí mật và an toàn tuyệt đối cho khách hàng.

- Tham gia giám sát từng hoạt động của doanh nghiệp thông qua các tài khoản

có liên quan.

Phòng được bố trí thành 2 bộ phận: kế toán ngân hàng và kế toán tiết kiệm. Phòng

kế toán luôn phối hợp chặt chẽ với phòng kinh doanh đối nội, đối ngoaị trong khâu

quản lý tài sản có, theo dõi chặt chẽ các kỳ hạn nợ, nắm chắc các khế ước ngắn hạn để

thu nợ, thu lãi kịp thời, hạn chế nợ quá hạn, lãi treo, góp phần chống thất thu.

2.5. Phòng tiền tệ kho quỹ.

-Phòng tiền tệ kho quỹ có 72 CBCNV trong tổng số 283 CBCNV của ngân hàng,

chiếm 1/3 lao động. Phòng gồm 2 bộ phận chính là thu và chi nghiệp vụ. Phòng tiền tệ

– kho quỹ đảm trách thực hiện các hoạt động có liên quan đến vấn đề thu chi và quản

lý tiền mặt, ngân phiếu và ngoại tệ, thu đủ và chi đủ trên cơ sở chứng từ kế toán

chuyển sang; thực hiện công tác điều chuyển tiền. Chi nhánh cũng đã đáp ứng kịp thời

nhu cầu thu chi tiền mặt của khách hàng bằng việc cử các tổ chức thu trực tiếp tại chỗ

các đơn vị có nguồn tiền mặt lớn, nhằm tăng khả năng tập trung vốn nhanh, tạo tiện

ích cho khách hàng bằng việc giảm khó khăn cho khách hàng về kiểm đếm và vận

chuyển tiền.

2.6. Phòng thông tin - điện toán.

Phòng thông tin - điện toán có nhiệm vụ tập hợp số liệu phát sinh trong ngày vào

mạng, xử lý và lập báo các hạch toán. Phòng có khoảng 10 cán bộ. Đây là phòng tập

trung số liệu trong ngày có lãi vay, lãi trả. Nghiệp vụ thông tin điện toán đã có nhiều

tiến bộ, nhận chuyển tiền kịp thời, số liệu nhanh chóng, chính xác và đầy đủ, tạo điều

kiện cho ban lãnh đạo trong công tác quản lý điều hành kinh doanh đạt hiệu quả.

2.7. Phòng kiểm soát nội bộ.

Phòng kiểm soát nội bộ thực hiện kiểm tra, kiểm soát toàn bộ hoạt động của

ngân hàng đảm bảo an toàn và đúng pháp luật. Phòng có một kiểm tra trưởng và một

hoặc hai kiểm tra phó. Cán bộ ở phòng phải yêu cầu phải có trình độ cao, nhiều kinh

nghiệm, công tác ít nhất 5 năm trở lên trong lĩnh vực kiểm tra, kiểm soát và phải nắm

bắt thông thạo tất cả các nghiệp vụ của mình. Trọng tâm công tác kiểm soát là góp

phần chấn chỉnh hoạt động ngân hàng, đôn đốc nhắc nhở các phòng ban có liên quan,

kịp thời chấn chỉnh những thiếu sót, tồn tại trong ngân hàng. Thông qua công tác kiểm

tra, kiểm soát nội bộ, phòng kịp thời góp phần đề ra các biện pháp để uốn nắn sai lệch,

sửa chữa khuyết điểm, phát huy các mặt mạnh, kiên quyết xử lý các trường hợp sai

phạm.

2.8. Phòng tổ chức - hành chính.

Phòng làm nhiệm vụ quản lý cán bộ,quản lý lao động, quản lý tiền lương. Phòng

tham mưu cho Giám đốc trong việc tuyển dụng, đào tạo nguồn nhân lực, đề bạt nâng

lương cho CBCNV đáp ứng các nhu cầu cần thiết của các nghiệp vụ. Ngoài ra phòng

thực hiện các chính sách về BHYT, công đoàn... cho CBCNV. Phòng còn có nhiệm vụ

quản lý tài sản, bảo quản lý tài sản, phục vụ các phòng, các hoạt động kinh doanh.

Phòng tổ chức – hành chính đảm nhiệm các công tác hành chính hỗ trợ cho hoạt động

kinh doanh đạt hiệu quả cao.

2.9. Phòng giao dịch Kim Liên và Cát Linh.

Cả hai phòng giao dịch Kim Liên và Cát Linh đều có một trưởng phòng và một

phó phòng. Mỗi phòng được chia ra thành hai phòng nhỏ: phòng tín dụng và phòng kế

toán. Trưởng phòng phụ trách phòng tín dụng, phó phòng phụ trách phòng kế toán.

Cuối ngày hai phòng giao dịch thu thập các chứng từ và đem nộp trụ sở chính.

Trên đây là một vài nét sơ lược về chức năng nhiệm vụ cũng như cơ cấu

tổ chức của NHCT Đống Đa.

Phần II: Tình hình hoạt động sản xuất

kinh doanh của NHCT Đống Đa.

I. tình hình chung.

Trong những năm gần đây,tình hình sản xuất kinh doanh dịch vụ trên địa

bàn kinh tế thủ đô tiếp tục phát triển.Tuy nhiên,tình hình biến động của thị trường

không thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước dẫn đến sức mua của dân

có phần chững lại và có chiều hướng giảm sút làm cho nhiều doanh nghiệp kinh

doanh dịch vụ kém hiệu quả. Tình trạng khó khăn của các doanh nghiệp gây ảnh

hưởng trực tiếp đến kinh doanh dịch vụ ngân hàng.Tình trạng gia hạn nợ,chuyển nợ

quá hạn,lãi treo đang có chiều hướng gia tăng, hoạt động tín dụng bị hạn chế.

Để đối phó với tình trạng trên,trong công tác chỉ đạo kinh doanh dịch vụ

tiền tệ ngân hàng, NHCT Đống Đa đã kết hợp công tác chấn chỉnh hoạt động ngân

hàng với việc thực hiện kinh doanh lấy mục tiêu “Kinh tế phát triển,an toàn vốn,tôn

trọng pháp luật, lợi nhuận hợp lý”, với phương châm: “Kịp thời chấn chỉnh những tồn

tại thiếu sót cũ, ngăn chặn những sai lầm thiếu sót phát sinh mới, tiếp tục phát triển tín

dụng, đặc biệt với lĩnh vực kinh tế nhà nước, gắn hiệu quả cho vay với an toàn vốn.”

Đến nay NHCTKV Đống Đa đã khẳng định được vai trò của mình đối với kinh tế thủ

đô đứng vững và phát triển trong cơ chế đổi mới chủ động mở rộng mạng lưới giao

dịch, đa dạng hoá các mặt kinh doanh dịch vụ tiền tệ ngân hàng, thường xuyên tăng

cường các nguồn vốn và sử dụng vốn, thay đổi cơ cấu đầu tư phát triển kinh tế, tăng

cường cơ sở vật chất kỹ thuật để từng bước đổi mới công nghệ ngân hàng.

Trong năm 2000 hoạt động kinh doanh của NHCTKV Đống Đa vẫn được duy trì

ổn định và phát triển. Trong năm đã có thêm một số đơn vị có quan hệ lớn về tiền gửi

và vay vốn đến giao dịch với ngân hàng. Hoạt động của ngân hàng ngày càng tăng

trưởng về nguồn vốn và dư nợ. Đặc biệt đã có thay đổi trong cơ cấu nguồn vốn, đó là

tỷ trọng nguồn tiền gửi của doanh nghiệp tăng lên trong tổng nguồn vốn, tỷ trọng dư

nợ trung dài hạn tăng lên so với tổng dư nợ và so với cùng kỳ năm trước. Điều này đã

tạo lợi thế cho kinh doanh đem lại hiệu quả hơn so với trước. Trong năm 2000, hoạt

động giữa các ngân hàng có sự cạnh tranh về lãi suất tiền gửi,lãi suất tiền vay

và tỷ giá giữa Việt Nam đồng và ngoại tệ. Những tác động này và một số nguyên

nhân khác nữa đã dẫn đến thiếu nguồn ngoại tệ, không đáp ứng đủ nhu cầu nhập khẩu

cho khách hàng, khó khăn cho hoạt động kinh doanh đối ngoại. Tính đến thời điểm

ngày 31/12/2000 NHCT Đống Đa đã đạt được một số kết quả cụ thể sau:

1. Công tác huy động vốn.

Tính đến 31/12/2000 tổng nguồn vốn huy động của NHCT Đống Đa

gồm cả VND và ngoại tệ đạt 1.847 tỷ bằng 107,3% kế hoạch tăng 21,75% so với năm

1999 trong đó nguồn vốn VNĐ đạt 1.379 tỷ chiếm tỷ trọng 75% tổng nguồn vốn, tăng

13,7% so với năm 1999. Nguồn huy động ngoại tệ quy VNĐ đạt 468 tỷ chiếm tỷ trọng

25% tăng 52,6% so với năm 1999.

Cụ thể :

-Nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế đạt 649 tỷ, tăng 221 tỷ so với

cuối năm 1999 chiếm tỷ trọng 35% so với tổng nguồn vốn huy động.

-Nguồn huy động tiết kiệm cuả dân cư đạt 1.198 tỷ, tăng 45 tỷ chiếm tỷ

trọng 65% so với tổng nguồn.

Nguồn vốn và sử dụng vốn tăng lên đáng kể nhưng nguồn vốn mới sử dụng hết

54,2% số vốn, trừ tỷ lệ ký quỹ còn lại được chuyển về Ngân Hàng Công Thương Việt

Nam để điều hoà hệ thống, nhưng do lãi suất điều hoà vốn giảm thấp, mặt khác tiền

gửi tiết kiệm chủ yếu là tiền gửi có kỳ hạn lãi suất cao gây bất lợi trong kinh doanh

tiền tệ của ngân hàng.

2- Công tác tín dụng:

Doanh số cho vay năm 2000 đạt 1.181 tỷ, doanh số thu nợ đạt 891 tỷ đồng.

Tính đến 31/12/299 số khách hàng có quan hệ tín dụng là 167 khách hàng, trong đó có

89 đơn vị quốc doanh. Dư nợ đạt 1.001 tỷ tăng 289 tỷ đồng so 31/12/1999 vượt 19%

so kế hoạch được giao. Cụ thể:

Dư nợ VNĐ :641 tỷ chiếm tỷ trọng 64,1% tổng dư nợ.

Dư nợ ngoại tệ :360 tỷ chiếm tỷ trọng 35,9% tổng dư nợ.

Dư nợ ngắn hạn :579 tỷ chiếm tỷ trọng 48% tổng dư nợ.

Dư nợ trung và dài hạn :422 tỷ chiếm tỷ trọng 42% tổng dư nợ.

Dư nợ kinh tế quốc doanh: 884 tỷ chiếm tỷ trọng 88% tổng dư nợ.

Dư nợ kinh tế ngoài quốc doanh: 117 tỷ chiếm tỷ trọng 12% tổng dư nợ.

Nợ quá hạn chiếm tỷ trọng 2,4% trong tổng dư nợ giảm so cuối năm 1999

1,4%.

Hoạt động bảo lãnh trong nước đạt 313 tỷ, bảo lãnh nước ngoài đạt trên 3 triệu

USD. Ngân hàng cũng thực hiện cho sinh viên của 5 trường đại học trên địa bàn với số

sinh viên là 377 người và dư nợ là 222 triệu đồng. Ngân hàng còn cho vay có hiệu quả

các chương trình Việt-Đức, chương trình Đài Loan, cho vay xuất, nhập khẩu, cho vay

theo chương trình chỉ định của Chính phủ với tổng dư nợ 12 tỷ đồng. Trong năm 2000

ngân hàng đã thu hút thêm 22 khách hàng mới có quan hệ tín dụng với dư nợ tăng

thêm 290 tỷ đồng, đó cũng là do hai phòng giao dịch đã làm tốt công tác tiếp thị góp

phần tăng thêm số lượng khách hàng mơí.

3-Công tác tiền tệ kho quỹ:

Tổng thu tiền mặt năm 2000 là 2.034 tỷ đạt 103,4% so 1999

Tổng chi tiền mặt đạt 1957 tỷ bằng 144,6% năm 1999.

Bội thu tiền mặt 76 tỷ 862 triệu bằng 112,5% kỳ năm 1999.

Điều chuyển về NHNN Thành phố 407 tỷ 965 triệu bằng 61,6% so1999.

Nhận tiền mặt từ NHNN Thành phố 290.954 triệu bằng 318,6%so 1999

Khối lượng thu chi tiền mặt, ngân phiếu qua quỹ ngân hàng ngày càng

tăng lớn có ngày thu được hàng chục tỷ đồng.

Các gương tốt trong thu chi tiền mặt ngày càng nhiều ở các bàn tiết kiệm

cũng như tại phòng kho quỹ. Trong năm đã có 152 lần trả tiền thừa lại cho khách hàng

với số tiền 194.917.000 đồng. Việc làm trên đã được khách hàng khen ngợi trực tiếp,

ghi sổ hoặc gửi thư ca ngợi và cám ơn. Nhân viên kho quỹ, kiểm ngân luôn thực hiện

nghiêm chỉnh các quy trình và nguyên tắc thu chi tiền mặt và quản lý kho tiền,đảm bảo

tuyệt đối và an toàn tiền mặt trong vận chuyển cũng như trong kho quỹ,chưa để xảy ra

tình trạng thiếu mất tiền.

4- Công tác kinh doanh đối ngoại:

Mặc dù là nghiệp vụ mới mẻ chưa có nhiều kinh nghiệm lại gặp nhiều khó

khăn nhưng năm 2000 kinh doanh đối ngoại thu đá khắc phục khó khăn thu kết quả

đáng kể. Hoạt động kinh doanh đối ngoại ngày càng nâng cao uy tín, góp phần thu hút

thêm nhiều khách hàng đến với ngân hàng công thương Đống Đa. Lĩnh vực kinh

doanh đối ngoại đã tạo lợi nhuận hạch toán chiếm 3% tổng lợi nhuận của ngân hàng

gồm phí thanh toán mở L/C và lãi mua bán ngoại tệ cụ thể là :

- Dịch vụ thanh toán quốc tế: Đã mở được 286 L/C nhập khẩu số tiền

22.042.000 USD, mở được 20 L/C xuất khẩu số tiền là 313.000 USD.

- Kinh doanh ngoại tệ:

+ Doanh số mua vào :26.844.176 USD và 2.837.515 DEM.

+ Doanh số bán ra :21.289.847 USD và 3.217.675 DEM

- Thanh toán kiều hối: nhận chuyển và chi trả tiền kiều hối trong năm đạt

262.449 USD và 419.094 DEM.

5. Công tác kế toán, thanh toán:

Doanh số thanh toán cả năm 2000 đạt 25.757 tỷ trong đó tỷ trọng thanh toán

không dùng tiền mặt chiếm 91,21%

-Thu nhập cả năm đạt 111 tỷ 848 triệu đồng, bằng 87,5% so 1999.

-Thu nhập hạch toán đạt 111tỷ 387 triệu.

-Lợi nhuận hạch toán đạt 26 tỷ 490 triệu đồng bằng 114,68% so 1999, vượt

20,04% chỉ tiêu kế hoạch NHCTVN giao.

6-Công tác kiểm soát nội bộ :

Trọng tâm của công tác kiểm soát là góp phần chấn chỉnh hoạt động ngân

hàng.Thông qua nghiệp vụ được giao phòng kiểm soát đã kết hợp chắt chẽ với phòng

kinh doanh, các phòng giao dịch tiến hành kiểm tra rà soát lại 100% hồ sơ tín dụng còn

dư nợ. Qua công tác kiểm soát đã giúp cán bộ tín dụng bổ sung các giấy tờ và các yếu

tố có liên quan đến món vay để đảm bảo tính hợp pháp của hồ sơ tín dụng. Kiểm tra

phân loại nợ quá hạn để có đối sách, có giải pháp cụ thể đối với khách hàng từng món

nợ quá hạn. Thông qua công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ kịp thời đề ra các biện

pháp để uốn nắn sai lệch, sửa chữa khuyết điểm, phát huy các mặt mạnh, kiên quyết

xử lý các trường hợp sai phạm.

7-Công tác tổ chức-hành chính quản trị:

Nhằm tạo điều kiện đưa kinh doanh đạt hiệu quả, ngân hàng luôn quan tâm

đổi mới công tác tổ chức gắn với việc nâng cao chất lượng cán bộ kết hợp với đaò tạo

bồi dưỡng nghiệp vụ đã được làm một cánh nghiêm túc thận trọng, đúng năng lực sở

trường của cán bộ.

Công tác thi đua khen thưởng ngày càng được đổi mới phù hợp với thực tế

kinh doanh tiền tệ trong cơ chế thị trường. Tổ chức nhiều hình thức thi đua phong phú

xoay quanh mục tiêu kinh doanh phát triển, gắn với nâng cao chất lượng nghiệp vụ,

động viên khen thưởng kịp thời có tác dụng động viên khí thế thi đua sôi nổi trong

toàn ngân hàng.

8-Công tác thông tin điện toán:

Công tác thông tin điện toán trong năm qua tiếp tục phát huy có hiệu quả,

ngày càng đáp ứng được yêu cầu đổi mới công nghệ hiện đại hoá ngân hàng. Nghiệp

vụ điện toán đã có nhiều tiến bộ, nhận và chuyển tin kịp thời tổng hợp,cân đối các dữ

liệu, số liệu trong công tác quản lý điều hành kinh doanh đạt kết quả.

II. Phương hướng nhiệm vụ năm 2001

Phát huy những kết quả đã đạt được trong năm 2000, triển khai thực hiện nhiệm

vụ kinh doanh dịch vụ tiền tệ năm 2001 trong năm 2001, năm đầu tiên của thiên niên

kỉ mới và cũng là nưam đầu của kế hoạch 5 năm 2001-2005 với mục tiêu “Phát triển –

An toàn – Hiệu quả” NHCTKV Đống Đa đề ra một số nhiệm vụ kinh doanh năm 2001

về các chỉ tiêu kinh doanh như sau:

- Nguồn vốn huy động đến 31-12-2001 đạt 1.950 tỷ đồng.

- Tổng dư nợ đạt: 1.100 tỷ đồng, trong đó khối quốc doanh đạt 88%.

- Dư nợ trung dài hạn đạt tỷ trọng 45%.

- Tỷ lệ nợ quá hạn không quá 3,5%.

- Tăng tỷ trọng thu phí dịch vụ 1% so với năm 2000.

- Lợi nhuận hạch toán đạt 22 tỷ đồng.

III Tình hình thẩm định tín dụng dự án đầu tư trung và dài hạn tại NHCTKV

Đống Đa.

1. Tình hình chung.

Tổng nguồn huy động của NHCTKV Đống Đa tăng trưởng đều qua các năm,

năm sau cao hơn năm trước. Cơ cấu nguồn cũng đang thay đổi theo xu hướng tiến bộ.

Trên cơ sở nguồn vốn huy động được NHCTKV Đống Đa tập trung cho vay với các tổ

chức, đơn vị kinh tế trên địa bàn một cách năng động.

Biểu 4

(Đơn vị: tỷ đồng)

Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000

Tổng thu nhập 90,8 98,5 105 85,1

Lãi tiền gửi 38,1 44,3 42 39,9

Lãi tiền vay 48,3 49,4 60,1 41,7

Lãi khác 4,4 4,8 2,9 3,5

Biểu trên cho thấy thu nhập từ hoạt động tín dụng là nguồn thu quan trọng nhất trong

hoạt động kinh doanh của NHCTKV Đống Đa. Do đó yêu cầu nâng cao chất lượng

hoạt động thẩm định dự án đầu tư ngày càng trở lên bức thiết hơn bao giờ hết. Chúng

ta biết rằng, trên nguyên tắc, tất cả các dự án xin vay đều phải qua bước thẩm định kỹ

càng trước khi duyệt cho vay. Tuy nhiên, đối với các món vay ngắn hạn thì việc thẩm

định sẽ đơn giản hơn rất nhiều so với các dự án cho vay trung và dài hạn. Sở dĩ như

vậy là vì các dự án đầu tư trung và dài hạn có thời gian thu hồi vốn lâu, do vậy khó xác

định các yếu tố liên quan quyết định đến hiệu quả của vốn vay trong tương lai. Trong

những năm gần đây, công tác thẩm định dự án đầu tư được các ngân hàng đặc biệt coi

trọng. Sự coi trọng ấy đã mang lại những kết quả đáng khích lệ. Nỗ lực của cán bộ tín

dụng đã góp phần nâng cao hiệu quả của công tác thẩm định dự án đầu tư ở ngân hàng

một cách đáng kể, nhằm loại bỏ những dự án không hiệu quả và ra quyết định đầu tư

đối với những dự án được đánh giá là khả thi.

Các dự án đầu tư thuộc diện quản lý và xem xét của NHCTKV Đống Đa chủ yếu

là trang bị lại kỹ thuật, mở rộng và cải tạo lại sản xuất nên thời hạn đầu tư của dự án

thường ngắn chỉ từ ba đến năm năm. Đặc trưng này giúp ngân hàng có khả năng thu

hồi vốn nhanh, tính chính xác của dự án đầu tư cao hơn. Ngân hàng có thể dự đoán

được những biến động của thị trường, các yếu tố khách quan dễ hơn đồng thời khả

năng xảy ra rủi ro thấp. Chính vì vậy tốc độ tăng trưởng cho vay trung, dài hạn tăng

khá nhanh trong các năm qua. Tuy nhiên, vì đây chỉ là những dự án cải tạo và trang bị

lại kỹ thuật nên quy mô đầu tư không lớn, điều này cũng tác động đến quy trình nội

dung, chỉ tiêu thẩm định của ngân hàng. Quá trình này bị đơn giản đi, chưa nêu bật

hết các chỉ tiêu, nội dung kinh tế cần thiết. Trong quy trình này có hai nội dung cơ bản:

- Xem xét tình hình tài chính của doanh nghiệp.

- Phân tích đánh giá trên các mặt của dự án xin vay vốn.

Hiện nay, việc phân tích tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như tình

hình tài chính của từng năm được thực hiện dựa trên các báo cáo quyết toán năm do

doanh nghiệp lập và gửi lên ngân hàng. Phân tích tính khả thi của dự án đầu tư chủ yếu

dựa trên các số liệu tính toán của luận chứng kinh tế kỹ thuật, kết hợp với việc thu thập

đánh giá chính xác các thông tin đó của cán bộ thẩm định. Sau đó cán bộ thẩm định

phải làm một tờ trình thẩm định với phần nhận xét về doanh nghiệp cũng như về dự

án, trong đó người thẩm định phải nêu rõ ý kiến của mình rồi trình cấp trên phê duyệt.

Theo quy trình thì các dự án có nhu cầu vay vốn từ 5 tỷ đồng trở xuống với món vay

dài hạn và tổng dư nợ đối với một doanh nghiệp là 20 tỷ đồng thì ngân hàng có quyền

quyết định liệu có thể đáp ứng nhu cầu vay vốn hay không còn vượt quá số tiền trên

nhất thiết phải có sự xem xét, quyết định của Ngân hàng Công thương Việt Nam.

- Trong những năm gần đây, công tác thẩm định dự án đầu tư được NHCTKV

Đống Đa đặc biệt coi trọng đã đạt được thành tựu đáng kể tuy nhiên vẫn không tránh

khỏi những hạn chế, thiếu sót nhất định.

2. Tồn tại

1. Xét về khía cạnh tài chính.

1.1 Theo như lý thuyết thì “Hệ số tài trợ”, “ năng lực đi vay” là những chỉ

tiêu kinh tế tài chính được xem xét trước tiên khi quyết định cho vay, đầu tư các dự án

trung và dài hạn. Trong thực tế hiện nay, ngân hàng vẫn chấp nhận những dự án có hệ

số tài trợ nhỏ (< 0,5) điều này theo lý thuyết là không được bởi vì nó phản ánh năng

lực tài chính của doanh nghiệp yếu kém.

1.2 Để cho dự án có tính khả thi doanh nghiệp phải có nguồn vốn đối ứng

lớn ít nhất là 30% tổng số vốn đầu tư. Điều này đảm bảo cho khả năng an toàn các dự

án, tăng trách nhiệm của doanh nghiệp đối với dự án, sẽ làm tăng hiệu quả và giảm rủi

ro cho dự án. Đây là một yêu cầu bắt buộc đối với các dự án trình Ngân hàng nhất là

các dự án lớn mang tính cháat sản xuất kinh doanh. Nhưng trong công tác thẩm định

tại Ngân hàng cho thấy ngân hàng đã bỏ qua điều này

1.3 Ngân hàng rất ít quan tâm đến hiệu quả tài chính cuối cùng của toàn bộ

dự án đầu tư.. Xuất phát từ quan điểm như vây, Ngân hàng đã lựa chọn các dự án đầu

tư không dựa nhiều vào các hiệu quả NPV, IRR mà dựa trên khả năng của nguồn trả

nợ hằng năm về mối quan hệ nào khác là không đúng.

1.4 Việc phân tích và đánh giá độ nhạy cảm của dự án không được thực

hiện. Cho nên quá trình đánh giá hiệu quả kinh tế của dự án mới chỉ dựng lại ở việc

xem xét ở trạng thái tĩnh. Không đi sâu xem xét xác định tính chính xác, những thay

đổi có thể có của các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án trong điều kiện biến đổi của

nền kinh tế, của thị trường (như biến đổi tỷ giá, lãi suất chiết khấu, lạm phát giá cả,

tăng giảm vốn đầu tư...).

Ngoài ra một điều đáng quan tâm là sự ảnh hưởng của giá cả các yếu tố đầu

vào, đầu ra, mức cung cầu của các sản phẩm của dự án. Bởi lẽ, sự biến động này sẽ

làm tăng, giảm chi phí và ảnh hưởng tới thu chi dự kiến của dự án. Do đó, cần dự báo

những tác động đó trong tương lai để có những biện pháp hỗ trợ biểu hiện.

2. Xét về khía cạnh phi tài chính.

2.1 Những con số trong các báo cáo, quyết toán hàng năm, những thông tin liên

quan đến dự án đầu tư mà khách hàng vay vốn, các chủ đầu tư cung cấp cho Ngân

hàng không thật tin cậy, nhất là đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.

2.2 Khi thẩm định về phương diện kỹ thuật thì Ngân hàng thường là người thụ

động. Mỗi doanh nghiệp có một ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh nhất định cho nên

các thiết bị công nghệ trong dự án đầu tư có những thông số kỹ thuật đặc thù của nó.

Cho nên khi thẩm định các yếu tố kỹ thuật Ngân hàng phải dựa hoàn toàn vào chủ đầu

tư, hay các cơ quan giám định và chỉ nắm được những thông số cơ bản như sản lượng

hàng hoá sản xuất, chất lượng máy móc thiết bị (tổng quát nhất…) mà yếu tố công

nghệ, thiết bị là yếu tố mang tính chất quyết định đem lại sự thành công của dự án. Do

đó, Ngân hàng hoàn toàn xác định theo cảm tính khi thẩm định phương diện kỹ thuật.

2.3. Về xác định tài sản thế chấp, Ngân hàng đã thực hiện chủ trương của

Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước nhằm từng bước giảm bớt sự phụ thuộc qua lớn vào

tài sản thế chấp đối với các dự án có tính khả thi cao. Nhưng trên thực tế của doanh

nghiệp mà hầu hết là các doanh nghiệp phi quốc doanh chưa đủ điều kiện nào cho nên

vẫn cần có tài sản thế chấp cho các khoản vay. ở Ngân hàng cán bộ tín dụng nào phụ

trách dự án nào thì sẽ thực hiện luôn mọi công đoạn trong đó tức là vừa là cán bộ thẩm

định về dự án đầu tư vừa là cấn bộ thẩm định tài sản thế chấp. Ngân hàng chưa có một

bộ phận chuyên môn, hay có giải pháp nào để công tác này được chuyên nghiệp, nên

nhiều khi đánh giá tài sản thế chấp không chính xác dẫn đến cho vay quá tỷ lệ an toàn

gây tình trạng mất vốn Ngân hàng khi doanh nghiệp gặp rủi ro.

III. Giải pháp và một vài kiến nghị góp phần nâng cao chất lượng thẩm định

dự án đầu tư tại NHCTKV Đống Đa.

1. Giải pháp

-Coi công tác bồi dưỡng năng lực cán bộ như điểm khởi đầu, mấu chốt của nâng

cao chất lượng công tác thẩm định trong toàn hệ thống.

- Hoàn thiện các chỉ tiêu trong thẩm định tài chính dự án đầu tư.

Tổ chức trang bị một cách đầy đủ cơ sở vật chất phục vụ công tác thẩm định

- Từng bước triển khai và áp dụng các kỹ thuật phân tích rủi ro hiện đại vào

công tác thẩm định các dự án đầu tư .

- Từng bước đổi mới và hoàn thiện phương thức thẩm định theo hướng đáp ứng

yêu cầu thẩm định một cách toàn diện các dự án đầu tư .

- Ngân hàng cần chủ động hơn trong việc tìm kiếm dự án.

- Tăng cường quan hệ của ngân hàng với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh

3. Kiến nghị.

2.1 Đối với ngân hàng công thương Việt Nam.

- Nắm bắt thông tin kinh tế xã hội và định hướng cho các ngân hàng thương

mại

- Thu thập và xử lý các thông tin tín dụng, thông tin về doanh nghiệp

- Hướng dẫn thống nhất về nội dung các chỉ tiêu thẩm định cho các ngân hàng

thương mại và tổng kết kinh nghiệm.

2.2 Đối với Nhà nước.

- Quy hoạch tổng thể nền kinh tế.

- Củng cố các cơ quan tư vấn và hoạt động tư vấn:

- Cải cách lại các doanh nghiệp nhà nước:

- Giải pháp mở đường tín dụng đối với các thành phần kinh tế khác

kết luận

NHCTKV Đống Đa đã đạt được thành tựu đáng kể trên một phần lớn là do kết quả

của công cuộc đổi mới kinh tế đất nước do Đảng ta khởi xướng và tổ chưc thực hiện.

Trước hết do sự chỉ đạo sát sao có hiệu quả của ngân hàng trung ương, ngân hàng Nhà

nước thành phố , trực tiếp là ban lãnh đạo và các phòng ban ngân hàng Công thương

Việt Nam, sự tham gia chỉ đạo của quận uỷ, UBND quận Đống Đa, các cơ quan hữu

quan. Đặc biệt đó là sự nỗ lực phấn đấu của 283 CBCNV toàn chi nhánh, nội bộ chi

nhánh phát huy truyền thống đoàn kết, nhất trí trong cơ quan, sự phối hợp lãnh đạo giữa

Đảng uỷ, chính quyền và các đoàn thể, sự nỗ lực của tập thể cán bộ công nhân viên của

ngân hàng từ các phòng giao dịch, các quỹ tiết kiệm, các tổ chức thu phát đến toàn chi

nhánh. Đây là sức mạnh tổng hợp để vượt qua mọi khó khăn hoàn thành kế hoạch Trung

ương giao. Hơn thế nữa để phát huy và làm phong phú những thành tích đạt được ngân

hàng luôn cố gắng tự hoàn thiện các quy trình nghiệp vụ, các hoạt động kinh doanh dịch

vụ của mình. Trong đó công tác thẩm định dự án đầu tư đóng vai trò quan trọng trong

việc thúc đẩy hoạt động ngân hàng. Chính vì vậy, sau một thời gian thực tập tại

NHCTKV Đống Đa em đã chọn đề tài: “ Nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư

trung và dài hạn của doanh nghiệp tại ngân hàng công thương khu vực Đống Đa”

cho chuyên đề tốt nghiệp. Tuy nhiên đây là một lĩnh vực hết sức phức tạp còn nhiều vấn

đề cần được tiếp tục trao đổi nghiên cứu để giải quyết nhưng em sẽ cố gắng vận dụng

những kiến thức đã có và tham khảo các tài liệu, bài viết có liên quan để hoàn thành

chuyên đề của mình.