Tinh thần khoan dung và sự hòa giải trong tư duy người Ấn Độ
lượt xem 0
download
Tinh thần khoan dung và sự hòa giải là những giá trị cốt lõi được đề cao trong tư duy và văn hóa người Ấn Độ từ xa xưa đến nay. Bài viết này sẽ khám phá những biểu hiện cụ thể của tinh thần này trong triết học, tôn giáo và đời sống xã hội Ấn Độ. Chúng ta sẽ phân tích vai trò của các yếu tố văn hóa, lịch sử và tôn giáo trong việc hình thành và phát triển tư tưởng khoan dung, hòa giải. Qua đó, bài viết sẽ làm rõ những bài học quý giá mà tinh thần này mang lại cho sự phát triển bền vững của xã hội.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tinh thần khoan dung và sự hòa giải trong tư duy người Ấn Độ
- Folklore nước ngoài 71 S S f v x lT iN H turn khoíĩn dong và 1 ^ 1 á á l sợ HOÀ Glfil TRONG Tơ D(IY FOLKLORE NƯỚC NGOAl NGƯỜI ẤN ĐỘ HAJINE NAKAMURA ói chung, người Ân Độ có một xu Trong các nhà triết học An Độ cổ dại hướng chấp nhận lí do tồn tại trong này, Thích Ca Mầu Ni là người đầu tiên thực tế của những th ế giới quan triết học xem xét một cách kĩ lưỡng vấn đề này. Ông và tôn giáo trên th ế giới. Họ cho rằng đã phê phán các dại diện triết học và tôn những tư tưởng khác nhau này dường như giáo vê những cuộc tranh luận không mâu thuẫn vối nhau đều dựa trên cái ngừng về “những cái liên quan đên tư Tuyệt đối. Quan điểm này, vê mặt khách tưởng của họ”(1). Và họ bị cho là đã vi phạm quan dựa trên tư tưởng tấ t cả mọi thứ trên những tội lỗi đạo đức, đó như là kết quả thê giới đều là một, và vê' mặt chủ quan của sự đê tâm đến các cuộc tranh luận mà dựa trên sự phản ánh tấ t cả những hành trong đó các quan điểm siêu hình sẽ không động của con người đều bắt nguồn từ quan bao giò được giải quyết. Bản thân Đức Phật điểm siêu hình và nguyên lí nhất nguyên đã tránh tham gia vào những cuộc tranh luận. luận này(2) và cho rằng chúng thực sự là vô nghĩa đôi với việc đạt được sự Khai sáng< ). 3 Thực tê cho thây là có nhiều học thuyết triết học khác nhau trên thế giới mâu Thích Ca Mầu Ni được xem là “luôn xa thuẫn với nhau, xuất hiện ở Ân Độ sau khi rời tất cả các cuộc tranh luận” và “dạy dỗ sự tu hành khổ hạnh” hay “bhikkhus” vượt Thích Ca ra đời và khi nhiều thành thị qua mọi “prapanca” (những cuộc tranh phát triển ở lưu vực sông Hằng. Sanjaya, luận mà không có ích cho việc đạt dến mục một người theo chủ nghĩa hoài nghi, đã né tiêu của tôn giáo)”. Đức Phật không nhấn tránh sự đánh giá với mọi vân đê siêu hình. mạnh rằng những điêu mình dạy là Chân lí Khi bị yêu cầu trả lời, ông ta thường nói Tuyệt đốì của vũ trụ và của những người một cách mơ hồ và không rõ ràng. Rất khó khác. Vì thế, ông vẫn giữ sự hài hoà với nắm được ý nghĩa đúng đắn trong các câu những nhà triết học khác. Trong các con trả lời của ông ta, nó giống như là một sự cô đường hoà hợp, ông dã đạt được và giác ngộ gắng bắt con lươn bằng tay. Nhưng về sự Khai sáng - thanh thản trong tâm M ahavira, người sán g lập đạo J a in a , đã cô hồn. Trong trường hợp này, những lời dạy gắng vượt ra khỏi chủ nghĩa hoài nghi. Ong của Đức Phật không thể so sánh với những tán thành học thuyết "Naya” và cố gắng lời dạy khác11. Chúng ta không thể nói chứng minh tính khả thi của những quan rằng lời dạy của người là “bằng”, “hơn" hay điểm về các vấn đê chung đã dược chuâìn bị “kém" so với những cái khác. Sự so sánh sẽ mà ưu điểm của quan điểm đúng đắn dó chỉ có thể có được ở m ột’điểm chung dược được thêm vào. xem xét giữa hai yếu tô. Những lời dạy của
- 78 HAJINE NAKAMURA Phật không tán thành những quan điểm và tôn giáo khác, không có ý định bô sung vai trò của các học thuyết khác. Bản thân chúng một cách tích cực. Và một kết quả là Đức Phật dường như đạt đến việc nhận Phật giáo khi truyền bá sang các nước châu thức vê lí do tồn tại của các trường phái Á, đã ít gây ra những va chạm giữa các tín triết học khác. Tất cả các nhà triết học càng ngưỡng bản xứ của những người tiếp nhận gắn vối tư tưởng của riêng họ thì sẽ càng nó. Những tín ngưỡng phong tục nguyên sai lầm. Nhưng phải có một sô' lí do trong thủy bản địa hầu như không bị phá vỡ bởi mỗi ý kiến mà chừng nào họ còn tin vào Phật giáo và có thê dễ dàng tồn tại, cho đèn nó(5 . Cũng theo Thích ca, Phật đồ - những > khi chúng được xem như là đạo đức theo người muôn xa lánh một kiêu quan niệm vê quan diêm của Phật giáo; chúng vẫn có thê triết học - phải suy ngẫm vê bản thân họ tồn tại song song với những tư tưởng Phật trong mọi thời điểm, chông lại những điêu giáo mới truyền vào và thỉnh thoảng bị thu mà họ không hề có định kiến. hút vào trong Phật giáo. Trong những thời Một quan điểm hướng vê các tôn giáo kì sau, Phật giáo tự bản thân nó thông khác có thê nhìn thấy biêu hiện trong nhất với tôn giáo nguyên thủy tạo cho Mahayana của đạo Phật, đặc biệt là trong chúng những nên tảng triết học. kinh “Saddharm apundarikasutra”((;). Ngay Trong thực tế, có rất nhiều các học cả các học thuyết thấp hơn, kinh Phật thuyết triết học và tôn giáo khác nhau trên (Sutra) cũng cho rằng đó là những “upayas” th ế giới, những nhà triết học trường phái có nghĩa là Đức Phật dạy con người đi vào Vedata cũng bày tỏ quan diểm tương tự chính đạo. Tư tưởng này được tiếp tục ỏ như Phật giáo. Dựa trên nền tảng Nhất thời Shingon thần bí (Phật giáo bí truyền). thần luận Tuyệt đôi, họ cho rằng các học Trong thời Shingon, ngay cả những giáo thuyết tôn giáo khác có cơ sở của chúng từ điêu dị giáo củng được xem như một phần Brahman. Theo họ, có rất nhiêu nguyên lí của Phật giáo. Phật giáo không phải là một tôn cơ bản - những nguyên tố, các vị thần, hơi giáo đặc biệt mâu thuẫn với các tôn giáo khác thở, thời gian... những cái được nhiêu những lại mâu thuần voi chính nó, vê Chân h' trường phái triết học khẳng định là tương Tuyệt đổi. Những tôn giáo khác không là gì dương với Nguyên lí Tuyệt đối. Và đó là lí nhưng lại là một biểu hiện của chân h' cuối do tại sao có nhiều các trường phái vối cùng. Tư tưởng tuyệt đối ở đây là một nguyên những tư tưởng đa dạng. Tuy nhiên, từ lí duy nhất được gọi là “Phật giáo“. quan điểm của phái Vedanta, không một Tinh thần khoan dung không được duy cái nào trong đó đáng được quan tâm như trì trong cách cư xừ giữa những tín đồ Phật Chân lí Tuyệt đôi. Những nhà triết học đã giáo thời kì sau ở Ân Độ. Đó là quy luật tự hiểu sai bản chất của vấn đề, trung thành nhiên của lịch sử mà trong xã hội hiện đại, với những quan điểm sai lầm của họ về cái những tầng lớp Phật đồ phải đối mặt với Tuyệt đô’ i. những tôn giáo và những học thuyết triết Tuy nhiên, những tư tưởng của họ là học khác, cho nên nó trở thành một tôn sai lầm, nhiíng những quan điểm tôn giáo giáo thiêt lập và tạo nên những nghi lễ và khác này cũng nằm trong học thuyết về phong tục đặc biệt. Tuy nhiên, hầu hết Linh hồn (Atman) của trường phái những tín đồ Phật giáo ỏ Ân Độ tin tưởng Vedanta. Những nhà triết học phái Vedata rằng, quan điểm cơ bản của đạo Phật đi đến nhận xét rằng những quan diểm tôn không mâu thuẫn với quan điểm của các giáo khác này là những biểu hiện của
- Folklore nước ngoài 19 Atman, và phẩn nào là cỉúng đắn cho dù mà còn thể hiện trong nguyên tắc cai trị bản thân chúng không hoàn thiện. đầu tiên của nhiều hoàng đê và người cầm Triêt học Vedata không bao giờ có được vị quyền trong lịch sử An Độ. Ví dụ, vua trí trong xã hội như các tôn giáo khác. Quan Asoka, bản thân ông là một đệ tử tục gia điểm của phái Vedanta thực sự khác biệt vối sốm nhất của Phật giáo, không bao giờ loại những quan điểm dị giáo khác vê tầm ảnh trừ các tôn giáo khác. Trái lại, ông còn cố hưởng. Trong kinh “Manđukyakarikas” gắng bảo vệ và giúp đỡ các tôn giáo khác - chúng ta đọc được như sau: “Họ những Bàlamôn, Jaina, Ajivikas... Ong “tôn sùng người thừa nhận tính hai mặt trong quan cả thầy tu và người thê tục của các tôn điểm của họ và mâu thuẫn với nhau. Tuy giáo” . Mong muôn chân thành của ông ta nhiên, (những người theo phái Vedanta) là “mọi người ở mọi tôn giáo chung sông không mâu thuẫn (với các m ặt khác)”(7). cạnh nhau một cách hoà bình” và hợp tác Theo Sankara, điểm này được so sánh vối với nhau đê làm tăng thêm hạnh phúc của những cánh tay không gắn vổi cơ thê của con người. Dù cho đức vua Asoka tạo cho chúng. Phật giáo là một tôn giáo có địa vị quan Trong triết học Jaina thời kì sau, ý trọng, ông cũng không ngược đãi những tôn kiến tương tự cũng được nêu ra. giáo khác trên đất nưóc mình. Hemacandra nói: “Những cuộc tranh luận Đức vua Kharavela, người giành được giữa các trường phái triết học tạo ra sự dô' quyên cai trị miền nam An Độ sau sự sụp đố kị, bởi vì một bên thì khăng khăng giữ ý của triều đại Mauryan, là một người bảo trợ kiến trong khi những bên khác thì phản cho các thần của đạo Jaina, nhưng ông cũng đổi. Nhưng trong đạo Jaina, họ chủ trương tu sửa các đền và tượng của các tôn giáo khác. không giáo điều và không thảo luận bởi vì Ông được gọi là “Sarvapasandapujaka” họ thừa nhận những lời dạy của Nava”(8). (người tôn sùng tấ t cả các tôn giáo khác). Những nhà vua của triều đại Kasana, Như một cách thức tư duy mà trong những người cai trị miên Bắc An Độ, cũng mọi quan điểm dị giáo có vài lí do tồn tại, bảo vệ các tôn giáo khác nhau. Ví dụ như những nhà triết học trung cô An Độ đã cố vua Kaniska đã đúc rấ t nhiêu tiền kim loại gắng thiết lập một “hộ thông tổng hợp triết trên đó có chạm khắc hình ảnh các vị thần học thê giói” hay một “Hệ thông quan niệm - của Hi Lạp, đạo Thờ Lửa, đạo Hindu và của th ế giới”. Phật giáo. Triều đại Gupta thê kỉ thứ tư Họ cũng rất kiên nhẫn để tìm ra những cũng có sự khoan dung tất cả các tôn lí do tồn tại với nhau mà những tư tương giáo
- 80 HAJINE NAKAMURA dung cơ bản đã được ông giữ vững trong tản thành sự tồn tại của nhưng tôn giáo chính sách tôn giáo của mình. trong quá khứ. Tôi tôn sùng Chúa cùng với họ”'1 ^. Một quan niệm về những niềm tin khác nhau là biểu hiện của sự vận dộng những Những sự kiện này như đã đê cập ở tôn giáo hiện đại ở Ân Độ. Một nhà cách trên không giông vởi phương Tây. Trong tân tôn giáo thê kỉ 19, Ram Mohan Rai đã lịch sử của châu Âu, chúng ta thường thấy thành lập một giáo hội gọi là Brahma - những tôn giáo đôi lập với nhau mà chúng Samaj, và ông ta biến nó thành một thành đã đưa đến nhũng xung đột chính trị và tố cơ bản của xã hội cho những ai tin vào quân sự không thế tránh khỏi. Nhưng cùng một thần linh bất kể giai cấp, tầng chúng ta rấ t khó tìm thấy một trường hợp lớp, dân tộc và tôn giáo của họ. Ramakrsna, chiến tranh tôn giáo ở An Độ. Tất nhiên, người đã tìm ra đạo Ram akrsna tuyên bố cũng có một số nhà cầm quyên ở An Độ đã rằng “mọi tôn giáo, đi theo các con đường đàn áp những tôn giáo phổ biến được người khác nhau, cuối cùng sẽ đi đến một vị thần Ân tạo ra bởi vì họ chỉ tin vào một sô tôn chung”* °. “Và tấ t cả các tôn giáo cùng tồn giáo bản địa. Nhưng chúng ta cũng không 1 tại là điểu có th ậ t”(12). Vivenkanada, môn tìm thấy một nhà cầm quyển nào, là tín dồ đồ của ông, đã trình bày một diễn văn nổi Phật giáo hay đạo Jaina, lại ngược đãi các tiếng ở Hội nghị tôn giáo quốc tê được tô tôn giáo khác. chức tại Chicago, ngày 27 tháng 9 năm Điều này càng trở nên rõ ràng hơn nếu 1893, nói rằng: “Oi Thánh thần duy nhất, chúng ta so sánh nó với những thực tế ở mà đạo Hindu gọi là Bharman, đạo thờ Lửa phương Tây. Ngay cả đạo Hồi hay đạo Cơ gọi là Ahura Mazdah, đạo Phật gọi là Phật, Đôc là nguyên nhân bắt đầu của những đạo Do Thái gọi là Jehovah, đạo Cơ Đốc gọi cuộc chiến tranh tôn giáo. Theo sự giải là Chúa Trời có the ban cảm hứng cho thích của trường phái Canvanh, căm ghét chúng ta. Đạo Cơ Đốc không phải là Hindu vởi những người phạm tội và những người hay Phật giáo. Phật giáo và Hin đu không dị giáo lại được xem như là một ưu điểm1 ”. 1 phải là Cơ Đốc... Tuy nhiên, mọi thứ phải Không hiếm những nhà lãnh đạo tôn giáo phát triển phù hợp với năng lực của mình, phương Tây thường bị hành hạ và bị giết. giữ cá tính của mình một cách vững chắc, Trái lại, ở An Độ, không có một cuộc chiến so sánh với các giá trị tinh thần khác... Hội tôn giáo nào. Trong luật lệ của đạo Phật và nghị này thừa nhận rằng Giáo Hoàng, Đức đạo Jaina, họ không bao giờ trừng phạt cha và các hiên nhân không nên giữ độc những người dị giáo. Những gì mà họ đối quyên bởi bất kì trậ t tự tôn giáo nào. Và nó xử vói những người dị giáo chỉ như là họ cũng xác nhận rằng không có một tôn giáo đôì xử với những người cùng đẳng cap nào trên thê giởi này mà lại phục vụ cho khác. Những nhà lãnh đạo tôn giáo ỏ Ân những cá nhân quyền quý. Tôi tin tưởng Độ ra đi trong sự bình yên và được chăm chắc chắn rằng chúng ta sẽ đọc được các sóc bởi những môn đồ và những người đi khẩu hiệu và biêu ngữ của tất cả mọi tôn theo. Sự dung hoà là cá tính rõ ràng nhất giáo trong tương lai như sau: Hãy giúp đỡ trong văn hoá Ân. lẫn nhau. Đừng tranh giành nhau. Hãy hoà Theo thông kê nghiên cứu vê cuộc sông thuận vói người khác. Đừng triệt phá người lí tưởng gần đây cho thấy là có rất nhiêu khác. Giữ sự hài hoà và hoà bình. Đừng những sinh viên An Độ, những người nghĩ quan tâm đến những vấn đề vô ích”(1:ỉ). “Tôi rằng trong rất nhiều những cách sống khác
- Folklore nước ngoài 81 nhau, thì điều cao đẹp nhất là nhận ra và thâu hiểu sự tồn tại của những con đường (I) -(5): Sutta- nipata khác. Thực tế này cho thấy rằng phương (6) Đại Lăng Già Ni Càn Tử Sở thuyết kinh, Đại Bát Niêt Bàn kinh thức tư duy có tính khoan dung vẫn sông (7) Mandukyakarika. 3-17 trong lòng những người Ân Độ(16). (8) Vitaragastuti 30 Vậy thì cái gì là lí do đằng sau tinh (9) Rock Edict, chương 12 thần dung hoà trong tâm hồn người Ân? (10) Rama Shankar Triathi: “ Religions H.Oldenberg đã liệt kê các nguyên nhân teleration under the Imperial Gustas" (Sự khoa sau: "Môi trường và hoàn cảnh tự nhiên dung tôn giáo dưới thời hoàng đế Gustas), 1939, tr. 1-12 của An Độ, sự xâm chiếm sớm và dễ dàng (II) Romain Rolland: La vie de Ramakrishna, của bộ tộc Aryan, không có các cuộc chiến tr. 93 lớn, không khí điềm tĩnh trong giai cấp (12) Sđd, tr. 186 Bàlamôn...”117’. Những cuộc chiến tranh ỏ (13) Romain Rolland: La vie de Ramakrishna, An Độ xảy ra bởi bọn lính đánh thuê, chứ tr. 47-48 không phải do người bản xứ. Thực tê này (14) Sđd, tr. 110 góp phần lí giải sự phát triển hơn nữa quan (15) . Max Weber: Die protestantische Ethik und niệm vê tính khoan dung của người An. der Geist des Kapitalismus. 121 Qua hàng thê kỉ trong lịch sử An Độ, không (16) Charles Morris: So sánh sức mạnh của lí tưởng sống trong văn hoá phương Đông và có quân đội viễn chinh đi xâm chiếm theo phương Tây (Tiểu luận triết học Đông Tây- lệnh của nhà cẩm quyên. Theo bài báo của Charles Moore, Honolulu 1951, tr. 353-370) Arianos: “Megasthenes nói rằng người Ân (17) . H. Oldenberg: Die Lehre der UpanishacLen không bao giờ tấn công những người ngoài und die Anfange des Buddhismus, s3. biên giới, và những người khác cũng không (18) Arianos. V4. V7 bao giờ tấn công người An. Alexandros là (19) Sđd, IX, 12 trường hợp ngoại lệ đã tiến đánh người An "CHÚ KHUYỂN" TRONG... Độ”ll8). “Người Ân không xâm chiếm các (Tiếp theo tr a n g 83) nước khác bởi tính công bằng trong tinh thần họ. Tình yêu hoà bình của người An có những “chú khuyển” lập công xuất sắc. hoàn toàn được nhận ra bởi các học giả Hiện thực cuộc sông thay đổi dần, những phương Tây. Từ “hoà bình” (peace) có nghĩa điêu kiện mối trong nuôi chó, sử dụng chó gốc là chấp nhận người khác hay những tư sẽ có lúc được phản ánh vào văn học nghệ tưởng khác bên cạnh mình. Vì thế quan thuật, trong đó có ca dao, tục ngữ. Trong điểm vê' tình yêu hoà bình trong người Ân tương lai, chắc quan niệm vê điêu tốt của bắt nguồn từ một phương thức tư duy mà “chú khuyển” sẽ phát triển và quan niệm các học thuyết triết học và tôn giáo khác cũ sẽ mất dần đi. trên th ế giối không có nhưng là biểu hiện N.N.D - N.H bằng Cái Tuyên Đôi.D (Phương V iệt T h u - Khoa N gữ văn (1) N gu yễn X uân K ính, P han Đ ăng N hật Trường ĐIISP 11à Nội dịch từ bản (Chủ biên), Kho tàng ca dao người Việt, tập I. II, tiêng Anh The ways of thinking of Nxb. Văn hoá - Thông tin, 2001. Eastern peoples. Yushodo co. LTD. (2) Nguyền Xuân Kính (Chú biên). Kho tàng Tokyo. Japan. 1988., tr. 159-165. tục ngữ người Việt, tập I, II. Nxb. Văn hoá - Tên của phần này trong nguyên tác Thông tin. 2002. là "Tinh thần khoan dụng và sự hoà (3) Chỉ thông kê những tục ngữ chính, giải” (trong phần về An Độ), chúng tôi đặt tiêu đê như vậy cho rõ nghĩa). không kê các dị bản.
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn