TRÁCH NHIỆM CỦA NHÀ BÁO TRONG VIỆC GIỮ GÌN SỰ TRONG SÁNG CỦA TIẾNG VIỆT

Các phương tiện thông tin đại chúng luôn có rất nhiều người sử dụng;

thêm vào đó, chúng vẫn thường được coi là mẫu mực trong việc dùng ngôn

từ. Chính vì thế các sai sót về mặt này của các phương tiện thông tin đại

chúng rất nhanh chóng trở thành sai sót chung của toàn xã hội. Và từ đây,

nảy sinh một vấn đề khá quan trọng nhưng chưa được quan tâm đúng mức:

vấn đề trách nhiệm của nhà báo trong việc nói đúng và viết đúng, nhằm góp

phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, và cũng có nghĩa là góp phần giữ

gìn bản sắc văn hoá dân tộc.

Hiện nay, do nhiều nguyên nhân khác nhau, cả khách quan lẫn chủ

quan, mà không ít nhà báo mới chỉ chú trọng phần nội dung chứ chưa để ý

nhiều tới hình thức diễn đạt thông tin. Bởi vậy, họ bỏ qua khá nhiều lỗi về

ngôn từ ở mọi cấp độ: từ, câu, đoạn văn, thậm chí ở cả bố cục toàn văn bản.

Nếu điểm qua một vài tờ báo, kể cả những tờ báo lớn, chắc hẳn chúng ta sẽ

tháy rõ điều này. Không nói đâu xa, ngay cả báo Văn nghệ, - cơ quan trung

ương của Hội Nhà văn Việt Nam, diễn đàn của các bậc thầy về sử dụng

ngôn từ - cũng tương đối thường xuyên mắc phải các lỗi như: chính tả thiếu chuẩn xác, câu thiếu thành phần nòng cốt, từ dùng không đúng nghĩa...1 Có

lẽ, chẳng cần phải luận bàn, chúng ta cũng biết là những sai sót như vậy sẽ

gây ra những tác hại nghiêm trọng tới mức nào. Ít nhất, chúng cũng làm cho

hiệu quả tiếp nhận thông tin của người đọc bị giảm sút. Còn cao hơn, chúng

có thể làm cho người đọc không hiểu hoặc hiểu sai vấn đề. Song, vượt lên

trên tất cả là điều như chúng tôi đã nói ở trên: những sai sót này không bị

phát hiện ( nghĩa là được xem như đúng ) và chúng lan truyền trong cộng

đồng như một thứ dịch bệnh.

Vậy nhà báo phải làm gì đây để có thể hoàn thành được trách nhiệm

nặng nề của mình trong việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt? Về vấn

đề này, chúng tôi có vài ý kiến nhỏ như sau:

1. Nhà báo cần nắm chắc các tri thức cơ bản liên quan tới việc sử

dụng tiếng Việt thuộc 4 phương diện chính là ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp

và phong cách.

Để làm được điều đó, chắc chắn chúng ta phải học một cách bài bản,

nghiêm túc. Có thể học ở trường, lớp mà cũng có thể tự học. Song dù hình

thức học có thế nào đi chăng nữa thì kết quả cuối cùng đạt được phải đáp

ứng yêu cầu: nói đúng, viết đúng. Chưa nói đúng, viết đúng thì chưa thể kỳ

vọng nói hay, viết hay được. Có những điều tưởng như rất đơn giản, nhưng

nếu chúng ta không học, chúng ta vẫn có thể bị mắc lỗi. Chẳng hạn, quan hệ

ngữ đoạn trong ngôn ngữ là một vấn đề hoàn toàn không khó, nhưng do

không được trang bị kiến thức cần thiết, nhiều nhà báo thường xuyên ngắt

đoạn sai khi nói, khi đọc. Ấy là còn chưa kể đến những mảng đầy " gai góc

" thuộc phần ngữ pháp mà nếu không đầu tư thời gian và công sức để

nghiên cứu và rèn luyện, chúng ta khó có thể làm chủ được hoạt động ngôn

từ của mình.

Tuy nhiên, việc sử dụng tiếng Việt đúng với chuẩn mực không đồng

nghĩa với sự phủ nhận hoàn toàn những sáng tạo riêng của cá nhân. Có

điều, những sáng tạo ấy phải tuân thủ những quy luật nhất định, nghĩa là có

cơ sở khoa học. Chẳng hạn, khi tạo ra từ mới, người ta phải dựa vào những

từ đã có sẵn nào đó mà có quan hệ trực tiếp với nó về phương diện âm

thanh hay ý nghĩa.

2. Nhà báo nên hạn chế tối đa việc vay mượn từ ngữ nước ngoài

Có thể nói, chưa bao giờ các từ ngữ vay mượn từ tiếng nước ngoài lại

xuát hiện trên báo chí tiếng Việt với mật độ dày như hiện nay. Người ta sử

dụng chúng khá tuỳ tiện, bất chấp người đọc, người nghe có hiểu được hay

không. Thật phi lý khi nhà báo là người Việt Nam, mà để hiểu được ngôn từ

của họ, nhiều lúc chúng ta phải mở từ điển song ngữ ra tra cứu. Phải chăng

tiếng Việt của chúng ta nghèo nàn tới mức phải vay mượn tràn lan như vậy?

Hoàn toàn ngược lại! Tiếng Việt của chúng ta vô cùng phong phú, và trong

tuyệt đại đa số các trường hợp, có thể tìm thấy các từ tương đương với các

từ vay mượn từ tiếng nước ngoài ( thậm chí nhiều từ tiếng Việt còn có khả

năng diễn đạt khái niệm tinh tế hơn, rõ ràng hơn ). Sở dĩ một số nhà báo

không dùng từ tiếng Việt vì có lẽ họ muốn làm phong phú thêm ngôn từ của

mình hoặc muốn tăng cường tính biểu cảm. Đây là dự định tốt nhưng cách

làm chưa hợp lý. Sự phong phú của một chỉnh thể không thể được tạo bởi

các thành tố mới lạ nhưng lại phá vỡ tính thống nhất của nó. Tương tự, tính

biểu cảm không thể được tạo bởi các phương tiện cản trở quá trình nhận

thức.

Các từ ngữ vay mượn từ tiếng nước ngoài càng trở nên khó chấp nhận

hơn khi bị dùng sai, do người dùng chưa hiểu thấu đáo ý nghĩa cũng như

cách đọc, cách viết chúng. Vì lúc này chúng không chỉ gây nên những hậu

quả như: làm giảm sút hiệu quả tiếp nhận tác phẩm, tuyên truyền cho cái

sai; mà còn hạ thấp uy tín của tác giả ( người đọc, người nghe khó tránh

khỏi có ấn tượng rằng anh ta là người " sính chữ ngoại " )và bằng việc đó,

hạ thấp uy tín của chính cơ quan báo chí là nơi tác giả làm việc.

Vậy nên chỉ còn cách là hạn chế tối đa việc vay mượn từ ngữ nước

ngoài. Không phải tình cờ mà Bác Hồ của chúng ta đã dặn: " Những từ

không dịch được thì phải mượn tiếng của các nước. Nhưng chỉ mượn khi thật cần thiết, và đã mượn thì phải mượn cho đúng "2.

3. Nhà báo cần có một trình độ ngoại ngữ nhất định

Trình độ ngoại ngữ của nhà báo càng cao càng tốt. Nó mang đến cho

nhà báo rất nhiều lợi ích, nhất là trong thời kỳ đa phương hoá, toàn cầu hoá

như hiện nay. Tuy nhiên ở đây chúng tôi chỉ bàn đến một lợi ích trong số

đó, ấy là ngoại ngữ giúp nhà báo hiểu rõ hơn tiếng mẹ đẻ của mình, để rồi

trên cơ sở ấy, có cách ứng xử thích hợp đối với nó.

Trong thực tế, sau khi học xong một ngoại ngữ nào đó, dù muốn hay

không, chúng ta thường có sự liên hệ nhất định với tiếng Việt. Và dựa vào

sự đối chiếu ,so sánh, nhà báo có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng

tiếng Việt của chúng ta giàu đẹp chẳng kém bất cứ ngôn ngữ nào trên thế

giới. Và từ đây, anh ta sẽ có tình cảm yêu quý và thái độ trân trọng hơn đối

với tiếng mẹ để của mình. Những tình cảm và thái độ ấy, nếu được vun đắp

thường xuyên, dần dần sẽ trở thành những phẩm chất văn hoá, thành những

giá trị đạo đức của nhà báo, giúp họ trở thành những nhân tố tích cực trong

cuộc đấu tranh chống những biểu hiện xem thường, coi khinh tiếng nói và

chữ viết của dân tộc.

Song, bên cạnh đó, chúng ta cũng không thể phủ nhận các giá trị của

ngôn ngữ nước ngoài, mà ngược lại, phải biết tiếp thu chúng để hoàn thiện

thêm cho tiếng mẹ đẻ. Chẳng hạn, tính khoa học và tính chính xác cao của

các ngôn ngữ Ấn - Âu ( như Anh, Pháp, Nga,...) sẽ giúp cho nhà báo sử

dụng tiếng Việt một cách khúc chiết, mạch lạc, gãy gọn, tránh được sự dài

dòng, cầu kỳ không cần thiết.

Như vậy, rõ ràng là hiểu biết về tiếng nước ngoài cũng góp phần quan

trọng vào việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.

Từ xưa đến nay, người ta vẫn luôn quan niệm rằng trong việc sử dụng

ngôn ngữ của một dân tộc bao giờ cũng bộc lộ tầm vóc văn hoá của nó. Mà

báo chí lại là môi trường rộng lớn nhất và được xem là mẫu mực nhất để

ngôn ngữ dân tộc hành chức. Vì thế, khẳng định trách nhiệm của nhà báo

chúng ta trong công cuộc bảo vệ và giữ gìn sự trong sáng của tiéng Việt,

đồng thời đề xuất những giải pháp để họ hoàn thành trách nhiệm ấy, là việc

làm cần thiết. Hy vọng, với bài viết này, chúng tôi sẽ nhận được nhiều ý

kiến quý báu liên quan tới vấn đề trên.

Chú thích

1. Nguyễn Văn Nở, Đôi điều mong muốn về tiếng Việt trên báo Văn

Nghệ, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 10 / 1998, tr. 11 - 14. 2. Một số ý kiến của Hồ Chủ tịch về chữ quốc ngữ và tiếng Việt, Tạp

chí Ngôn ngữ, 1970, số 3, tr.38.

( Bài in trong: Báo chí- những điểm nhìn từ thực tiễn, NXB. Văn hoá -

Thông tin, H., 2000, tập 1 ).