TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
BÁO CÁO TỔNG HỢP ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA NGƯỜI HỌC
VẬN DỤNG MÔ HÌNH QUẢN TRỊ NHÀ NƯỚC TỐT Ở UBND PHƯỜNG HỒNG HÀ, THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Mã số đề tài: ĐTSV.2022.09
Chủ nhiệm đề tài : Hoàng Bách Việt Lớp : 1905CTHA
Cán bộ hướng dẫn : Lê Đình Thảo
Hà Nội, 14 tháng 04 năm 2022
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
BÁO CÁO TỔNG HỢP ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA NGƯỜI HỌC
VẬN DỤNG MÔ HÌNH QUẢN TRỊ NHÀ NƯỚC TỐT Ở UBND PHƯỜNG HỒNG HÀ, THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Mã số đề tài: ĐTSV.2022.09
Chủ nhiệm đề tài : Hoàng Bách Việt Thành viên tham gia : Nguyễn Thị Ngọc
Trần Ngô Thùy Linh Nguyễn Thị Trà My
: 1905CTHA Lớp
Hà Nội, 14 tháng 04 năm 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, đề tài nghiên cứu khoa học: “Vận dụng Mô hình
Quản trị nhà nước tốt ở UBND phường Hồng Hà, thành phố Hạ Long, tỉnh
Quảng Ninh. Thực trạng và giải pháp” là công trình do nhóm nghiên cứu chúng
tôi viết và thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của thầy Lê Đình Thảo, các kết
quả, nội dung được trình bày trong đề tài là nghiên cứu đảm bảo tính trung thực và
chưa từng được ai công bố dưới bất kỳ hình thức nào, các tư liệu sử dụng trong đề
tài nghiên cứu khóa học này là trung thực, có xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày 14 tháng 04 năm 2022
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI
Hoàng Bách Việt
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài nghiên cứu này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và
lời cảm ơn chân thành nhất tới thầy Lê Đình Thảo – người đã hướng dẫn và giúp
đỡ chúng em trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành đề tài. Chúng em xin trân trọng cảm ơn Thầy, Cô Khoa Khoa học Chính trị,
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã tận tình dạy bảo chúng em trong thời gian qua.
Kết quả đạt được trong nghiên cứu này là nền tảng quan trọng để chúng em tiếp
tục có những nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề thực tiễn có thể áp dụng vào cuộc
sống. Trong quá trình làm đề tài, chúng em đã rất có nhiều cố gắng nhưng không
tránh khỏi còn có sai sót. Vì vậy, rất mong Thầy, Cô góp ý để chúng em tiếp tục
Hà Nội, ngày 14 tháng 04 năm 2022
hoàn thiện hoàn thiện đề tài. Thay mặt nhóm nghiên cứu, chúng em xin chân thành cảm ơn!
CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI
Hoàng Bách Việt
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
Chữ nguyên gốc
Chữ Tiếng Việt
PAPI
The Viet Nam Provincial
Chỉ số Hiệu quả Quản trị và
Governance and Public
Hành chính công cấp tỉnh ở
Administration Performance
Việt Nam
Index
THCS
Trung học cơ sở
THPT
Trung học phổ thông
NCCVCM
Người có công với
cách mạng
HĐND
Hội đồng nhân dân
UBND
Uỷ ban nhân dân
TTHC
Thủ tục hành chính
CNTT
Công nghệ thông tin
DVCTT (mức độ)
Dịch vụ công trực tuyến
(mức độ )
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
5. Phương pháp nghiên cứu 4
6. Giả thuyết nghiên cứu 4
7. Đóng góp của đề tài 4
8. Cấu trúc đề tài dự kiến 4
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ MÔ HÌNH QUẢN TRỊ NHÀ NƯỚC
TỐT 5
1.1. Khái niệm, đặc điểm mô hình quản trị nhà nước tốt 5
1.1.1. Khái niệm Mô hình quản trị nhà nước 5
1.1.2. Đặc điểm của mô hình quản trị nhà nước tốt 14
1.2. Sự cần thiết phải áp dụng mô hình quản trị nhà nước tốt trong hoạt động
của cơ quan hành chính nhà nước địa phương 17
1.2.1. Áp dụng mô hình quản trị nhà nước tốt là cơ sở, động lực xây dựng cơ
quan hành chính nhà nước địa phương trong sạch, vững mạnh. 17
1.2.2. Áp dụng mô hình quản trị nhà nước tốt là cơ sở giúp các địa phương
thực hiện đầy đủ, đúng đắn chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của
Đảng và Nhà nước 18
1.2.3. Áp dụng mô hình quản trị nhà nước tốt là cơ sở giúp cơ quan hành
chính nhà nước các cấp phát huy được tiềm năng, lợi thế của địa phương,
được người dân, doanh nghiệp đồng tình, ủng hộ 19
Tiểu kết chương 1 20
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG MÔ HÌNH QUẢN TRỊ NHÀ
NƯỚC TỐT Ở ỦY BAN NHÂN DÂN PHƯỜNG HỒNG HÀ, THÀNH PHỐ
HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH 21
2.1. Các nhân tố tác động đến việc áp dụng mô hình quản trị nhà nước tốt
của Ủy ban nhân dân phường Hồng Hà 21
2.1.1. Quy định của Đảng, Nhà nước về quyền hạn, trách nhiệm cơ quan
hành chính nhà nước địa phương 21
2.1.2. Điều kiện tự nhiên, trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của
phường Hồng Hà 24
2.1.3. Phẩm chất, năng lực đội ngũ cán bộ, công chức của Ủy ban nhân dân
phường Hồng Hà 27
2.2. Kết quả áp dụng mô hình quản trị nhà nước tốt ở Ủy ban nhân dân
phường Hồng Hà và nguyên nhân 28
2.2.1. Kết quả áp dụng áp dụng mô hình quản trị nhà nước tốt ở Ủy ban
nhân dân phường Hồng Hà 28
2.2.2. Nguyên nhân của những kết quả đạt được trong áp dụng áp dụng mô
hình quản trị nhà nước tốt ở Ủy ban nhân dân phường Hồng Hà 38
2.3. Những hạn chế trong áp dụng mô hình quản trị nhà nước tốt ở Ủy ban
nhân dân phường Hồng Hà 46
2.3.1. Những hạn chế trong áp dụng mô hình quản trị nhà nước tốt ở Ủy ban
nhân dân phường Hồng Hà 46
2.3.2. Nguyên nhân của những yếu kém trong áp dụng áp dụng mô hình
quản trị nhà nước tốt ở Ủy ban nhân dân phường Hồng Hà 48
Tiểu kết chương 2 49
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN MÔ HÌNH QUẢN TRỊ
NHÀ NƯỚC TỐT Ở ỦY BAN NHÂN DÂN PHƯỜNG HỒNG HÀ, THÀNH
PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH 51
3.1. Nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức và các tầng lớp nhân dân về
mô hình quản trị nhà nước tốt 51
3.2. Xây dựng các quy định phù hợp, thuận lợi để người dân, doanh nghiệp
tham gia vào các công việc quản lý của Ủy ban nhân dân phường 53
3.3. Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao phẩm chất, tinh thần trách nhiệm, năng
lực quản lý của cán bộ, công chức phường 54
3.4. Nâng cao tính minh bạch trong đội ngũ đào tạo và quản lý , tính thứ bậc
56 chặt chẽ
57 Tiểu kết chương 3
KẾT LUẬN 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO 59
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, mô hình quản trị nhà nước tốt ở Việt Nam là một
trong những vấn đề quan tâm nhất của toàn xã hội và trong bộ máy nhà nước có
thể phù hợp hơn với xu hướng toàn cầu cũng như yêu cầu phát triển nền kinh tế thị
trường, xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để làm được điều đó đầu tiên mô
hình quản trị nhà nước của quốc gia đó phải nhận biết được quyền lực, xác định
quyền lực đó được trao cho ai, như thế nào,tổ chức hoạch định chính sách và cung
cấp dịch vụ công sao cho hiệu quả, và đảm bảo sự giám sát, tham gia của người
dân. Đồng thời phải xây dựng được lý thuyết và mô hình quản trị vừa đón được xu
hướng vận động của thế giới, vừa dung hòa được với những đặc thù truyền thống
và hiện tại của Việt Nam.
Vậy nên, mô hình quản trị nhà nước tốt phải là mô hình “Quản lý tốt nhất việc
thực hiện gia tăng khả năng dân chủ trong công quyền và cải cách hành chính theo
hướng công bằng, dân chủ, minh bạch và có trách nhiệm trước toàn thể các bên
tham gia đồng dựa trên nền tảng tôn trọng pháp luật, xây dựng pháp luật và hướng
tới cộng đồng”. Thực tiễn khi nhìn vào các nước Bắc Âu, Úc, Canada, New
Zealand,...) cho thấy áp dụng mô hình quản trị nhà nước tốt là cơ sở, động lực cho
sự phát triển của tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là cả cách hành
chính.
Để xây dựng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, Việt Nam luôn ưu
tiên lựa chọn mô hình quản trị nhà nước tốt. Hiện nay, cùng với sự phát triển của
nền kinh tế - xã hội, nền công vụ cũng đang từng bước được đổi mới và hoàn
thiện. Do vậy bộ máy hành chính phải trở thành cơ quan xã hội, từ bỏ địa vị cai trị
để hình thành các thiết chế phục vụ tốt toàn dân, toàn xã hội để nhằm đạt được
hiệu lực hay hiệu quả trong thực thi chính sách của chính quyền. Những kết quả đã
đạt được, cụ thể là Việt Nam đã thực hiện chương trình tổng thể cải cách hành
chính nhà nước giai đoạn 2001-2010, 2011-2020. Cải cách hành chính nhà nước là
cơ sở giúp Việt Nam đạt được nhiều thành tựu trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa,
xã hội. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 nhấn mạnh đột
1
phá chiến lược: “Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, nhất là quản lý
phát triển và quản lý xã hội. Xây dựng bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa tinh gọn, hiệu lực và hiệu quả; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền bảo đảm
quản lý thống nhất, phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các cấp,
các ngành”.
Song cải cách hành chính ở Việt Nam hiện nay vẫn tồn tại nhiều bất cập,
trong đó có cải cách hành chính nhà nước ở các địa phương. Những hạn chế yếu
kém trong hệ thống cải cách hành, trong đó có cải cách hành chính nhà nước ở
phường Hồng Hà, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh cho thấy việc áp dụng mô
hình quản trị nhà nước tốt còn thấp, nhiều tiêu chí của mô hình chưa được áp dụng,
hoặc chưa được áp dụng một cách đúng đắn.
Từ những lý do trên, chúng tôi đã chọn vấn đề “Áp dụng mô hình quản trị
nhà nước tốt của Ủy ban nhân dân phường Hồng Hà, thành phố Hạ Long, tỉnh
Quảng Ninh - Thực trạng và giải pháp” làm đề tài nghiên cứu khoa học năm 2022.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
- Phạm Thị Hồng Điệp (2017), Vận dụng mô hình “Quản trị nhà nước tốt” ở
Việt Nam, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 33, số 3. Ở
công trình nghiên cứu này, tác giả đã đề cập đến nội dung, đặc điểm của mô hình
quản trị nhà nước tốt.
- Nguyễn Thị Thu Hà (2014), “Minh bạch trong quản trị nhà nước, yêu cầu
tất yếu của xu thế hội nhập và phát triển”, Học viện Hành chính Quốc gia, Tạp chí
Quản lý Nhà nước, Số 226. Ở công trình nghiên cứu này, tác giả đã đề cập đến yếu
tố minh bạch – đặc điểm quan trong trong mô hình quản trị nhà nước tốt.
- Văn Tất Thu (2018), “Vai trò của nhà nước trong cung ứng dịch vụ công”,
Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 2/2018. Ở công trình nghiên cứu này, tác giả đã đưa
ra giải pháp và cách nhìn nhận về cải cách hành chính nhà nước.
- Các chương trình Tổng thể Cải cách Hành chính Nhà nước giai đoạn 2001-
2010; 2011-2020; 2021-2030 đề cập đến các giai đoạn cải cách hành chính nhà
nước và các quy định, hướng dẫn về cải cách hành chính nhà nước.
- Những vấn đề cơ bản về đổi mới quản trị quốc gia ở nước ta hiện nay ấn
2
phẩm báo điện tử Tạp chí cộng sản xuất bản ngày ngày 15-12-2021.
- Quản trị nhà nước tốt và việc áp dụng ở Việt Nam ấn phẩm báo của Thanh
tra chính phủ - Viện chiến lược và Khoa học Thanh tra ngày 12/08/2020.
- Các công trình khoa học trên đây đã luận giải, làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý
luận, thực tiễn công tác phát triển; đề xuất nhiều giải pháp đẩy mạnh vận dụng mô
hình quản trị nhà nước tốt vào hệ thống chính trị Việt Nam.
Tuy nhiên đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến áp dụng
mô hình quản trị nhà nước tốt ở Ủy ban nhân dân phường Hồng Hà, thành phố Hạ
Long, tỉnh Quảng Ninh. Vì vậy, hướng nghiên cứu của đề tài là độc lập, không
trùng lặp với các công trình khoa học, các luận văn, luận án đã được nghiệm thu,
công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ thực trạng và đề xuất các giải pháp hoàn thiện mô hình quản trị nhà
nước tốt ở Ủy ban nhân dân phường Hồng Hà, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng
Ninh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích đặc điểm, sự cần thiết, những yêu cầu trong áp dụng mô hình quản
trị nhà nước tốt ở cơ quan hành chính nhà nước địa phương.
Phân tích chỉ ra kết quả cũng như những hạn chế trong áp dụng mô hình
quản trị nhà nước tốt của Ủy ban nhân dân phường Hồng Hà, thành phố Hạ Long,
tỉnh Quảng Ninh và nguyên nhân.
Nghiên cứu đề xuất các giải pháp khoa học để hoàn thiện mô hình quản trị
nhà nước tốt ở Ủy ban nhân dân phường Hồng Hà, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng
Ninh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Áp dụng mô hình quản trị nhà nước tốt của Ủy ban nhân dân phường Hồng
Hà, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Áp dụng mô hình quản trị nhà nước tốt của Ủy ban nhân dân phường Hồng
3
Hà, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh từ năm 2016 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở của các phương pháp
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử.
Phương pháp cụ thể:
- Sử dụng các phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, trừu tượng hoá để nghiên
cứu về mô hình quản trị nhà nước tốt.
- Sử dụng các phân tích, tổng hợp, thống kê, khảo sát, điều tra, phỏng vấn để
nghiên cứu thực trạng áp dụng mô hình quản trị nhà nước tốt của Uỷ ban nhân dân
phường Hồng Hà, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
- Sử dụng các phương pháp phân tích, điều tra, phỏng vấn, phương pháp
chuyên gia để nghiên cứu các giải pháp hoàn thiện mô hình quản trị nhà nước tốt
của Ủy ban nhân dân phường Hồng Hà, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
6. Giả thuyết nghiên cứu
Nếu đề tài thực hiện các nhiệm vụ đề ra thì kết quả nghiên cứu của nó sẽ
góp phần hoàn thiện mô hình quản trị nhà nước tốt ở Uỷ ban nhân dân phường
Hồng Hà, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; được cán bộ, đảng viên, người
dân, các doanh nghiệp trên địa bàn đồng tình ủng hộ.
7. Đóng góp của đề tài
Góp phần làm rõ mô hình quản trị nhà nước tốt và thực trạng áp dụng mô
hình quản trị nhà nước tốt ở Ủy ban nhân dân phường Hồng Hà, thành phố Hạ
Long, tỉnh Quảng Ninh.
Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện mô hình quản trị nhà nước tốt ở Ủy ban
nhân dân phường Hồng Hà, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
8. Cấu trúc đề tài dự kiến
Chương 1: Lý luận chung về mô hình quản trị nhà nước tốt và cơ quan hành
chính cấp địa phương
Chương 2: Thực trạng áp dụng mô hình quản trị nhà nước tốt ở Ủy ban nhân
dân phường Hồng Hà, thành phố Hạ long, tỉnh Quảng Ninh
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện mô hình quản trị nhà nước tốt ở Ủy
4
ban nhân dân phường Hồng Hà, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
CHƯƠNG 1.
LÝ LUẬN CHUNG VỀ MÔ HÌNH QUẢN TRỊ NHÀ NƯỚC TỐT
1.1. Khái niệm, đặc điểm mô hình quản trị nhà nước tốt
1.1.1. Khái niệm Mô hình quản trị nhà nước
Mô hình nhà nước là một hệ thống được xây dựng chặt chẽ mà ở đó hình
thành nhà nước theo hướng dễ tiếp cận và hiệu quả nhất không chỉ riêng với quốc
gia đó mà còn là hiệu quả với các nước khác. Theo tìm hiểu và thực tiễn quan sát
qua nhiều tài liệu thực hiện bởi nhóm nghiên cứu, Mô hình là khái niệm có nhiều
tầng nghĩa và cách tiếp cận khác nhau, tuy nhiên, chúng nó chung một số nguồn
gốc nhất định.
Trong định nghĩa về mô hình [11];[15] theo nhóm nghiên cứu tìm hiểu, có 2
khái niệm về mô hình bao gồm: Mô hình có mô hình vật lý và mô hình khái niệm.
Đối với Mô hình vật lý là: “Một bản sao vật lý nhỏ hơn hoặc lớn hơn của
một đối tượng”. VD: Đối tượng được mô hình hóa có thể nhỏ như :mô hình
nguyên tử, phân tử hoặc lớn như hệ mặt trời.
Đối với Mô hình khái niệm đây là loại mô hình có tính trìu tượng cao, nó
cũng là loại mô hình phi vật lý như tên gọi. Thông thường mô hình khái niệm là sự
trừu tượng hoá của vạn vật trong thế giới, tuy nhiên nó lại đến từ các hiện tượng và
vấn đề xã hội hơn thay vì là vật chất cụ thể. Một số quan điểm cho rằng, mô hình
khái niệm bao quát được mô hình vật lý theo chiều bản ghi và diễn dịch, điều này
là đúng theo ví dụ như sau: “Mô hình về chuỗi các cửa hàng cung ứng là một ví dụ
về tính vật lý được biểu diễn dưới dạng mô hình khái niệm. Việc biểu diễn được
đơn giản hoá thành các văn bản hoặc sơ đồ hoặc các bản thảo vẽ và mô phỏng lại
cơ bản thay vì phải xây dựng một loạt các chuỗi cung ứng này và chỉ vào đó để
thấy được nó hình dạng như thế nào. Ngược lại mối quan tâm về truyền thông tin
biểu đạt mô hình đó cũng bị hạn chế bởi xây dựng vì xây dựng bằng không thể di
chuyển”. [7];[11];[12];[15];[32];[33]
Mục tiêu chính của mô hình khái niệm là truyền đạt được những vấn đề cơ
bản và nguyên tác chức năng của một hệ thống hoặc các hệ thống hoặc chủ đề
mang tính trừu tượng; cung cấp thông tin đơn giản hoá dễ hiểu để nghiên cứu và
5
ứng dụng. Ngoài ra, nó cũng được cung cấp một số yếu tố để phân biệt rõ ràng hơn
so với mô hình vật lý như: Đưa ra các thông tin cơ bản và nâng cao về một hoặc
nhiều hệ thống hoặc chủ đề mà nó đại diện; Mang lại giá trị hiểu biết cho người
đọc, nghiên cứu về mô hình khái niệm đó thay vì nhìn thấy trực tiếp; Cung cấp đa
dạng hình thức cách thức tiếp cận và đơn giản hoá thông tin truyền thông tin; Là
cơ sở dữ liệu chung cho mục đích phát triển.
Mô hình vật lý hoặc mô hình khoa học là đại diện cho các đối tượng thấy
được hiện hữu còn mô hình khái niệm là bao quát trên tính trừu tượng hiện hữu và
vô hữu [32];[33].
Từ những định nghĩa trên, nhóm nghiên cứu đưa ra định nghĩa: “Mô hình
quản trị là một mô hình khái niệm mô tả, thu hẹp hoặc biểu diễn lại một cấi trúc
liên tục các chủ thể trong một hệ thống mà ở đó họ sử dụng phương thức và công
cụ để điều phối hoạt động của hệ thống đó, không chỉ bên trong mà còn các tương
tác hoặc tác động từ bên ngoài vào hệ thống. Mô hình quản trị nhà nước ở đây
được phân loại là mô hình theo nghĩa khái niệm về mô tả hệ thống công cụ,
phương thức quản trị nhà nước”.
Ở Việt Nam việc sử dụng từ vựng Quản trị trong nhà nước thường không
xuất hiện hoặc có xuất hiện nhưng lại không toàn diện về ý nghĩa thực tiễn. Chính
vì vậy, quản lý nhà nước vẫn là từ vựng được nhắc và sử dụng nhiều hơn xuyên
suốt toàn bộ quá trình hoạt động của nhà nước Việt Nam. Đối với cơ quan tổ chức
ngoài nhà nước, bán nhà nước hoặc doanh nghiệp thường sử dụng từ vựng này hơn
và họ có nhiều thành tố dẫn tới việc sử dụng Quản trị thay vì quản lý. Quản lý
trong quản trị vẫn thường được sử dụng đặc biệt là doanh nghiệp nói chung nhằm
phân chia hệ thống, cấu trúc đơn vị của họ. [30];[31]
Tuy nhiên việc này đã dần thay đổi khi nhiều xu hướng mới cải cách hệ
thống nhà nước mới ra đời, nhược điểm chung của toàn bộ hệ thống đặc biệt là hệ
thống hành chính đều chịu:
1) Việc hình thành hành chính trong nhà nước hoặc ngoài nhà nước đều tuân
theo thuyết quản trị hành chính của Max Weber; F.W.Taylor; T.W.Wilson.
2) Là mô hình quản trị cũ và gặp nhiều hạn chế khi kinh tế đã phát triển đạt
mức tối đa và xã hội chuyển biến mạnh mẽ khiến cho hạn chế của mô hình không
6
còn phù hợp hoặc không hỗ trợ được các mục tiêu mới và đổi mới xã hội.
3) Là một sự ngăn cản trong trong tiến trình phát triển khoa học nhân loại.
Chính vì thế, mô hình quản trị nhà nước tốt và hành chính công kiểu mới đã
khắc phục những nhược điểm trong đó và dần hình thành nền tảng mới mà không
làm xói mòn hay xóa bỏ hoàn toàn hệ thống kiểu Max Weber. Với kiểu hệ thống
mới buộc các nước tuân theo hệ thống kiểu Max Weber phải thay đổi nếu muốn
vận hành nhà nước lẫn chuyển đổi kinh tế sang kiểu mới hơn thay vì cố giữ hệ
thống cũ, tuy nhiên việc cố giữ hệ thống Max Weber nhưng không cải thiện sẽ làm
cho quản lý ngày một khó hơn.
Dưới góc độ khác khi nhìn nhận về quản trị thì quản trị nhà nước là sự tác
động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đến các quá trình, quan hệ
xã hội và hành vi hoạt động của công dân, thông qua các hoạt động: hoạch định, tổ
chức, lãnh đạo, kiểm tra và sử dụng các nguồn lực nhằm đạt được mục tiêu của
nhà nước, thực hiện có hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, duy trì sự
tồn tại và phát triển của nhà nước, phát triển kinh tế – xã hội và phục vụ đắc lực
người dân. [2];[3];[30];[31]
Từ tất cả các phân tích trên, nhóm nghiên cứu đưa ra định nghĩa: Mô hình
quản trị nhà nước là sự đơn giản hoá, sơ đồ hoá, miêu tả hoá toàn bộ tổng thể
thống nhất của một hay nhiều hệ thống có sự sắp xếp thành một khuôn mẫu, chỉnh
thể mà ở đó nó chỉ ra được các chủ thể trong mối quan hệ về hành chính, kinh tế -
xã hội và chính sách, các quan hệ trong thực hiện các hoạt động giám sát, trông coi
các khía cạnh thực thi quyền lực thông qua sự tham gia của các chủ thể, nhằm sử
dụng mọi nguồn tài nguyên hợp lý từ đó là tiền đề để chỉ ra ai là chủ thể vận hành
nó và vận hành như thế nào theo công cụ nào, phương pháp nào, cách thức ra sao
vào các mục tiêu chung khi là một hệ thống nhằm thúc đẩy văn minh và tiến bộ
nhân loại.
Hiện nay có rất nhiều các loại mô hình quản trị nhà nước ở địa phương đang
được sử dụng trong đó 3 mô hình chủ yếu là nền móng và cải cách quản lý nhà
nước được sử dụng là: 1) Mô hình hành chính công - quản trị công truyền thống
được xây dựng trên cơ sở lý thuyết về mối quan hệ giữa chính trị và hành chính
7
của T.W.Wilson, nguyên tắc thiết lập bộ máy quan liêu của M.Weber và các
nguyên tắc quản lý theo khoa học của F.W.Taylor; 2) Mô hình quản lý nhà nước
kiểu mới; 3) Mô hình quản trị nhà nước tốt.
Trong 3 loại mô hình trên có thể thấy rõ nhất là mô hình quản nhà nước mô
hình hành chính công - quản trị công truyền thống được xây dựng trên cơ sở lý
thuyết về mối quan hệ giữa chính trị và hành chính của T.W.Wilson, nguyên tắc
thiết lập bộ máy quan liêu của M.Weber và các nguyên tắc quản lý theo khoa học
của F.W.Taylor là mô hình quản lý cơ bản nhất đang được sử dụng ngày nay, trên
thế giới cũng như ở Việt Nam, loại mô hình trên đã phát triển và lan rộng tới nhiều
quốc gia, nếu chỉ tính theo thời gian lịch sử thì đây là mô hình lâu đời nhất và ứng
dụng cao nhất, đồng thời nó cũng cơ sở vững chắc nhất cho hoạt động quản lý nhà
nước. Bản thân mô hình quản lý trên xuất phát điểm từ các thực thể kinh tế cũng là
xuất phát từ những người làm chủ, những người nắm quyền chỉ đạo và khi các học
thuyết quản lý ra đời nó củng cố thêm cho mô hình và con người là chủ thể trong
đó và từ đó là nguồn cho các hoạt động cơ bản phù hợp với đương thời.
Cho tới nay, mô hình này vẫn hoạt động đúng theo học thuyết và nguyên
tắc, tuy nhiên do sự thay đổi mạnh mẽ của khoa học và thành tựu công nghệ những
năm 80 và 90 đã buộc mô hình phải thay đổi trong đó một số học thuyết mới như
quản lý nhà nước kiểu mới và mô hình quản trị nhà nước tốt đã ra đời với 2 mục
tiêu: Cải cách phù hợp mô hình kiểu cũ và thay thế các mô hình kiểu cũ này nhằm
đáp ứng các yêu cầu mới của phát triển xã hội.
Ở địa phương mức độ quản lý thấp hơn so với trung ương hoặc tỉnh thành
phố, thành bang,... Ở Việt Nam, mức độ sử dụng 3 mô hình không đồng đều và có
mức độ thấp trừ mô hình hành chính công - quản trị công truyền thống được xây
dựng trên của T.W.Wilson và M.Weber và các nguyên tắc quản lý theo khoa học
của F.W.Taylor là cao hơn hẳn.
Thứ nhất, sự điều chỉnh áp dụng mô hình đều phải tuân luật định và các văn
bản hướng dẫn về nó, chính vì thế, Mô hình hành chính công - quản trị công truyền
thống được xây dựng trên của T.W.Wilson và M.Weber và các nguyên tắc quản lý
theo khoa học của F.W.Taylor là cơ bản và là nền móng cho cấu trúc hoạt động
đồng thời là nguyên tắc cơ bản cho hoạt động và điều chỉnh quan hệ của luật định
8
về các vị trí, hướng dẫn hoạt động,…
Thứ hai, việc sử dụng mô hình quản lý công kiểu mới được tách khỏi hành
chính nhà nước như một sự độc lập hạn chế. Độc lập hạn chế hành chính là độc lập
về cách thực hiện giải quyết đơn phương các hoạt động hành chính theo hướng tư
nhân hoá, xã hội hoá tự chủ theo luật định cho các thực thể kinh tế hoặc phi kinh tế
khác do nhà nước uỷ quyền. Như trường hợp về chứng thực và công chứng các thủ
tục hành chính được nhà nước uỷ quyền theo hình thức tư nhân hoá với một hạn
chế về thủ tục được quyền cấp và có khả năng tạo ra tính pháp lý đúng đắn.
Thứ 3 cấu trúc nhất thể và điều hành từ trên xuống khiến cho hoạt động của
các cấp thấp tối giản và hoạt động theo thông lệ hơn so với tính tự chủ cao của các
cấp lớn hơn.
Thứ tư, mặc dù không phải là mô hình thay thế nhưng các mô hình khác
cũng điều chỉnh dần các quan hệ trong mô hình, tiêu biểu là kinh tế và xã hội khi
đưa ra các công cụ và phương pháp làm mới nhằm cải tạo sự phụ thuộc vào hệ
thống mô hình hành chính công kiểu cũ như mô hình quản lý công kiểu mới.
Như vậy, các hệ thống chính quyền địa phương thường không được điều
chỉnh tự chủ mà phải được điều phối và hướng dẫn áp dụng mô hình, chính vì thế
ở địa phương việc sử dụng mô hình là đa dạng và phối hợp chủ đạo trên nền móng
là quản trị công kiểu cũ.
Có rất nhiều tiêu chí khác nhau về việc đánh giá một mô hình hoặc một cơ
chế tổ chức của một tổ chức, nhà nước, tổ chức kinh tế,... Muốn đánh giá được một
mô hình quản trị nhà nước tốt phải nhìn nhận mô hình trước hết là mô hình phù
hợp cho mọi quốc gia, mọi tổ chức, hiệu quả với mục tiêu hoạt động và khả năng
vận hành đến đâu của từng hệ thống.
Công cụ và phương pháp làm tiêu chí đánh giá một mô hình quản trị nhà
nước: 1) Chỉ số PAPI - Chỉ số quản trị và hành chính công cấp tỉnh; 2) Tám đặc
điểm của mô hình quản trị nhà nước tốt; 3) Các kết quả đạt được đối chiếu với các
tiêu chí mô hình đáp ứng các yêu cầu về kinh tế, chủ thể, môi trường, dịch vụ và
phát triển các nguồn lực; 4) Mức độ dân chủ và pháp quyền.
9
Nhóm nghiên cứu lựa chọn các chỉ số và đặc điểm nhận biết xuất phát từ:
- Mức độ hiệu quả của các chỉ số nhờ vào công cụ và phương thức mà các
chỉ số, đặc điểm mô hình, đưa ra từ đó đánh giá đúng một mô hình có hiệu quả hay
không.
- Các chỉ số cũng giúp nhận biết các thay đổi nhờ vào thống kê từng năm, ví
dụ như chỉ số PAPI cho thấy một lượng đánh giá qua từng năm có thay đổi hay
không và khi thống kê theo nhiệm kỳ làm việc cũng đưa ra các kết quả rất tích cực
và hiệu quả cho nghiên cứu. Mặc dù, chỉ số là điểm tổng kết chung của toàn bộ cấp
xã của một thành phố hoặc tỉnh thành phố, tuy nhiên đây là các chỉ số mang tính
chia trung bình cho hoạt động của mỗi phường cấu thành điểm số của tỉnh thành
phố đó, đồng thời thể hiện đúng từng tiêu chí đạt được và đã cải cách được gì qua
các năm. Đây là chỉ số tương đối quan trọng nhờ vào nội dung và hình thức của nó
thể hiện cũng như các điểm số mà nó thu được phản ánh đúng thực trạng của địa
phương.
- Khả năng tương quan giữa kết quả phát triển hàng năm và mức độ hiệu
lực, hiệu quả của địa phương đó trong ít nhất 1 kỳ (tương đương 5 năm) hoặc
nhiều hơn để đưa ra đánh gì với từng mô hình xem mô hình nào hiệu quả. Trên
thực tế hệ thống chính trị Việt Nam đặc biệt là cơ quan hành chính đang sử dụng
và làm theo mô hình quản lý cũ, mặc dù đã có nhiều cải cách tuy nhiên nó vẫn
mang dáng dấp mô hình cũ lẫn mô hình mới mà chưa thể thay đổi hoàn toàn hoặc
đánh giá hoàn toàn liệu tương quan có đánh giá đúng hết thực lực của nó hay
không ha chỉ là bề nổi.
Quản trị tốt là sự bổ sung cần thiết cho các chính sách kinh tế lành mạnh và
là trọng tâm để tạo ra và duy trì một môi trường thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ và
bình đẳng. Quản trị tốt bao gồm các thành phần sau: năng lực và hiệu quả trong
quản lý khu vực công, trách nhiệm giải trình, khuôn khổ pháp lý cho phát triển,
thông tin và tính minh bạch.
Mô hình quản trị nhà nước tốt là mô hình đặc biệt và là mô hình mới chưa
từng được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới, tuy nhiên, khả năng vận dụng và
hiệu quả của mô hình này được đánh giá cao, mang lại đột phá trong quản lý nhà
nước cũng như vận hành một bộ máy nhà nước, một tổ chức kinh tế lớn, dung hoà
10
cả khả năng quản lý nhà nước, hành chính và kinh tế.
Mô hình quản trị nhà nước tốt mặc dù được nhiều đánh giá cao song nó
cũng giống như nhiều mô hình khác được ít lựa chọn do các mô hình trước đã tồn
tại quá lâu dẫn tới khó thay đổi, ngại thay đổi và nó vẫn hoạt động hiệu quả, thậm
chí một số tổ chức và nhà nước vận dụng mô hình cũng và cải cách theo xu hướng
tạo ra sự trồng chất về hiệu quả mà mô hình đem lại.
Khái niệm mô hình quản trị nhà nước như đã nói là một mô hình mới non trẻ
và ít được áp dụng thành công ở các quốc gia trên thế giới. Trong mô hình quản trị
nhà nước tốt thì việc chuyển đổi cơ cấu nhà nước từ quản lý nhiều thành phần sang
quản trị toàn phần hành chính, kinh tế và giám sát nhiều mặt, hơn là một chiều từ
việc chỉ quản lý toàn bộ nhà nước và kinh tế, nhà nước là chủ đạo, nhà nước làm
tất cả.
Lịch sử ra đời của mô hình nhà nước tốt mặc dù ra đời muộn hơn so với các
mô hình trước đó và các mô hình đang được vận dụng như mô hình hành chính
max weber hay mô hình hành chính công kiểu mới.
Trong bối cảnh các nước trên thế giới bắt đầu có những biểu hiện về kinh tế,
xã hội vượt bật và ngày càng cần một phương thức quản lý mới khi các điều kiện
trên đã vượt xa những gì mong đợi và ngày càng phát triển gây áp lực cho các hệ
thống, mô hình cũng, chính vì thế nó buộc các quốc gia và các tổ chức phải thay
đổi để thích nghi. Một trong số đó là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3 về
điện, máy tính và cơ học máy tính góp phần thúc đẩy việc này dẫn tới hình thành
nhiều khái niệm và phương pháp mới về mô hình quản trị làm sao có thể hài hoà
cả nhà nước lẫn kinh tế. Một trong những sáng kiến đó tới từ các tổ chức quốc tế
như Ngân hàng thế giới qua tài liệu “Good Governance and the World Bank” của
nhóm nghiên cứu và sinh viên LSE năm tháng 02/2001 - Elizabeth Drake,
Ambreen Malik, Ying Xu, Ioanna Kotsioni Rasha El-Habashy, and Vivek Misra,
LSE Masters students 2001. [29]
Sau đó, nó dần được các thể chế tài chính quốc tế quảng bá và cổ vũ vào đầu
những năm 1990 như một điều kiện tiên quyết cho phát triển tại các quốc gia đang
phát triển. Ngân hàng Thế giới (World Bank - WB) là một trong những thiết chế
11
khởi xướng việc phổ biến nguyên tắc này ra phạm vi toàn cầu. Ban đầu, quản trị
nhà nước tốt được đề ra để áp dụng cho các nước đang phát triển và chuyển đổi,
rồi dần trở thành nguyên tắc mang tính phổ biến trong quản trị công đương đại.
Quản trị tốt là cách thức sử dụng sức mạnh quyền lực nhà nước để quản lý
nguồn lực xã hội vì sự phát triển quốc gia”. Theo UNDP (1997), quản trị nhà nước
tốt là việc thực thi các loại quyền lực như kinh tế, chính trị và hành chính để quản
lý tốt mọi vấn đề của đất nước ở tất cả các cấp chính quyền . Từ các quan niệm nêu
trên, có thể thấy các yếu tố chung cần có để thực hiện quản trị nhà nước tốt bao
gồm: 1) Năng lực của nhà nước - mức độ giải quyết vấn đề của các chính phủ và
các nhà lãnh đạo; 2) Khả năng ứng phó - liệu các chính sách và thể chế công có
đáp ứng nhu cầu của công dân và đề cao quyền của họ hay không; 3) Trách nhiệm
- khả năng của công dân, xã hội dân sự và khu vực tư nhân giám sát, theo dõi trách
nhiệm của các thể chế công và chính phủ. Sự ra đời của mô hình quản trị nhà nước
tốt dựa trên cơ sở:
Thứ nhất, do những hạn chế, bất cập của mô hình hành chính công - quản trị
công truyền thống được xây dựng trên cơ sở lý thuyết về mối quan hệ giữa chính
trị và hành chính của T.W.Wilson, nguyên tắc thiết lập bộ máy quan liêu của
M.Weber và các nguyên tắc quản lý theo khoa học của F.W.Taylor, là mô hình
hành chính lâu đời nhất, cũng là lý thuyết quản trị khu vực công thành công nhất.
Nhưng do tình hình kinh tế - xã hội, khoa học công nghệ, trình độ dân trí phát
triển, mô hình quản trị công truyền thống đã bộc lộ các hạn chế, bất cập, buộc phải
thay đổi, nhường chỗ cho mô hình quản trị công mới.
Thứ hai, do sự cồng kềnh, kém hiệu quả của khu vực nhà nước hơn so với
doanh nghiệp. Trong các thập niên 80 và 90 của thế kỷ XX, nhiều nước đã đặt vấn
đề xem xét lại khu vực công về quy mô và khả năng quản trị, điều hành đất nước,
đặc biệt ở các nước phát triển như Mỹ, Anh, Đức. Đã có nhiều cuộc cải cách làm
thay đổi cơ bản nhận thức của xã hội và người dân về vai trò của khu vực công và
cách thức quản trị, điều hành khu vực công. Theo đó, cho rằng nhà nước không
phải là chủ thể toàn diện và không nên là chủ thể làm hết mọi dịch vụ mà nên tập
trung nguồn lực vào quản lý vĩ mô thông qua các chính sách hiệu quả, đẩy mạnh
12
dân chủ hóa, gắn liền với phân quyền và xã hội hóa nhằm nâng cao chất lượng,
hiệu quả quản trị đất nước và phục vụ nhân dân hơn là tự quản lý tất cả mặc dù là
hiệu quả tuy nhiên là mối phức tạp toàn diện tới các hoạt động khác.
Thứ ba, kinh tế thị trường mở rộng, mang tính quốc tế hóa cao và cạnh tranh
giữa các nước trong khu vực và trên thế giới gia tăng. Vấn đề này đặt ra những yêu
cầu mới về thể chế quản lý (quản trị), đặc biệt là quản lý kinh tế, tổ chức bộ máy
và chất lượng đội ngũ công chức.
Thứ tư, trình độ dân trí ngày càng cao và yêu cầu dân chủ hóa đời sống xã
hội được mở rộng. Trong bối cảnh đó, hành chính công truyền thống ngày càng tỏ
ra không thích hợp với xu thế phát triển của xã hội hiện đại, thậm chí trở thành lực
cản sự phát triển. Vì vậy, xây dựng mô hình hành chính hiện đại hỗ trợ cho phát
triển, trong đó quyền hợp pháp của con người và của công dân phải được đặt ở vị
trí trung tâm là mục tiêu chung của hầu hết các cuộc cải cách hành chính đang diễn
ra trên thế giới.
Thứ năm, sự khủng hoảng kinh tế và xuất hiện các học thuyết mới. Từ hậu
quả nặng nề của hai cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973 và 1979 đã làm xuất hiện
một học thuyết mới về phát triển, có tên gọi là Neo-liberalism (chủ nghĩa tự do
mới) có cơ sở từ lý thuyết tân cổ điển của Keynes (Keynesian – Neo - Classical
Economics) [35], đã tạo ra các cuộc tranh luận về nhà nước và thị trường dẫn đến
việc xác định lại vai trò của nhà nước nói chung, của chính phủ nói riêng.
Thứ sáu, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ tạo điều kiện
thuận lợi xây dựng các phương pháp quản lý, quản trị hiện đại. Đồng thời, các
thành tựu và tiến bộ của khoa học và công nghệ cũng làm thay đổi nhận thức của
các chính phủ về vai trò và trách nhiệm trong giải quyết các vấn đề mang tính toàn
cầu như chiến tranh, hòa bình, bảo vệ môi trường, chống đói nghèo và các thảm
họa thiên nhiên,…
Thứ bảy, đổi mới mô hình sang quản trị nhà nước tốt do ảnh hưởng của xu
hướng toàn cầu hóa về kinh tế, khoa học và công nghệ, sự cạnh tranh quyết liệt
giữa các nước trong khu vực và trên thế giới, giữa khu vực công và khu vực tư về
thị trường, chất lượng sản phẩm và nguồn nhân lực; sự cồng kềnh, kém hiệu quả
của bộ máy quản lý khu vực công; kinh tế thị trường ngày càng mở rộng và mang
13
tính quốc tế cao; trình độ dân trí ngày càng nâng cao và yêu cầu dân chủ hóa đời
sống xã hội ngày càng phát triển; khủng hoảng kinh tế và sự xuất hiện các lý
thuyết mới về phát triển làm nảy sinh các cuộc tranh luận kéo dài về nhà nước và
thị trường dẫn đến yêu cầu phải xác định lại chức năng, vai trò của nhà nước, mối
quan hệ giữa nhà nước với người dân,… buộc hành chính công truyền thống phải
chuyển đổi sang quản lý công, quản lý công mới và cuối cùng chuyển sang quản trị
nhà nước tốt.
“Quản trị nhà nước tốt là thực hiện gia tăng khả năng dân chủ trong công
quyền và cải cách hành chính theo hướng công bằng, dân chủ, minh bạch và có
trách nhiệm trước toàn thể các bên tham gia đồng dựa trên nền tảng tôn trọng pháp
luật, xây dựng pháp luật hướng tới cộng đồng và cải cách hành chính ó Quản trị hệ
thống cơ quan công quyền nhà nước là Quản trị nhà nước tốt và làm tốt các nhiệm
vụ một cách tốt nhất có thể”.
1.1.2. Đặc điểm của mô hình quản trị nhà nước tốt
Quản trị nhà nước tốt có một phương pháp và công cụ nhằm cải thiện và
điều chỉnh quan hệ quản lý và quản trị hệ thống nhà nước cũng như quan trọng
trong công cuộc cải cách hành chính.
Khác biệt so với các nô hình quản trị nhà nước khác, mô hình này dựa trên
tám đặc điểm, đó là tám đặc điểm cốt lõi nhất từ đó định thế nào là một nhà nước
hiệu quả, nhà nước tốt. Tám đặc điểm được nêu ra trong mô hình quản trị nhà nước
tốt:
- Đồng thuận xã hội: Huy động, bảo đảm sự tham gia của các chủ thể trong
xã hội, nhất là người dân vào quản trị nhà nước. Đặc trưng tiêu biểu nhất của mô
hình này là tăng cường sự tham gia của người dân và các tổ chức xã hội đối với
hoạt động của hệ thống hành chính từ trung ương đến địa phương. Các cá nhân, tổ
chức trong xã hội có thể tham gia vào hoạt động của chính phủ (cụ thể, tham gia
vào việc ban hành các quyết định hành chính, các chính sách, biện pháp hành
động) một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua người đại diện hoặc các tổ chức
hợp pháp. Nó huy động được sự tham gia của các chủ thể trong xã hội vào hoạt
động quản lý nhà nước như quản lý, giám sát hoạt động công, thực hiện chính
sách, chương trình hành động, thay đổi luật, quyết định hành chính,… Là cách
14
thức, phương thức, công cụ quản trị nhằm tìm được sự đồng thuận của các chủ thể
trong xã hội không biệt họ là ai đối với Nhà nước thông qua những hoạt động
nhằm đem lại lợi ích cho công dân, tổ chức. Từ đó thiết lập một xã hội đồng thuận
và bảo đảm lợi ích của cả cộng đồng không phân biệt bất kì chủ thể đó là ai. Đồng
thời, đòi hỏi khả năng thực hiện của nhà nước trong ban hành chính sách và quản
trị mọi nguồn lực. Các chủ thể xã hội được giới hạn: Người dân thuộc địa phương
và lãnh thổ, người nước ngoài có đăng ký và cư trú hợp pháp, thành phần tổ chức
chính trị - xã hội và tổ chức phi nhà nước, các loại hình thành phần kinh tế cả trong
lẫn ngoài nước.
- Quản trị theo tinh thần nhà nước pháp quyền: Nhà nước pháp quyền phải
khẳng định thể chế của mình qua luật pháp và luật pháp là trên hết, tối cao, đó là
khuôn khổ, là hành lang pháp lí công bằng và tạo ra những giá trị pháp luật để
công dân hoặc mọi người tuân theo.
- Minh bạch: minh bạch là hoạt động hướng tới thông tin với mọi cá nhân
trong xã hội không phân biệt họ là ai, thể hiện ở việc các hoạt động thông tin phải
liên tục, chính xác, kịp thời tới mọi cá nhân và tổ chức trong xã hội một cách đầy
đủ theo hướng dễ truy cập, dễ hiểu. Quyền được thông tin là quyền chính đáng của
mọi người. Mất quyền tự do tiếp cận thông tin là biển hiện của hành vi gian lận và
hiện tượng tham nhũng.
- Sự tham gia của các chủ thể: Đó là huy động được sự tham gia của các chủ
thể trong xã hội vào hoạt động quản lý nhà nước như quản lý, giám sát hoạt động
công, thực hiện chính sách, chương trình hành động, thay đổi luật, quyết định hành
chính,… Từ đó là cơ sở để điều chỉnh các quan hệ trong chính sách cũng như tạo
dựng môi trường phù hợp từ các chủ thể. Chủ thể trong xã hội là người dân chính
là những người tạo ra các yêu cầu và phải có yêu cầu thì mới có các quan hệ điều
chỉnh và muốn có các điều chỉnh thì phải có sự tham gia của các chủ thể.
- Trách nhiệm giải trình: Đó là toàn bộ khả năng thực hiện việc làm công
khai, tuyên bố chịu trách nhiệm, giải trình, phản hồi, hồi đáp của người nắm giữ và
thực hiện quyền lực đối với bộ máy nhà nước với xã hội và trước pháp luật hoặc
luật định với các hoạt động dân sự và chính sách.
- Đáp ứng: Là khả năng cung cấp các hoạt động, dịch vụ, môi trường cho
15
các chủ thể hoặc thực thể hoạt động trong khuôn khổ của một quốc gia mà ở đó
chính quyền là cơ quan hỗ trợ và kiến tạo và là chủ đạo trong mối quan hệ cung
cấp các nguồn tạo ra đáp ứng, việc đáp ứng không chỉ là khả năng mà còn là sự
sáng tạo, linh hoạt khi đưa ra các quyết định quản trị đáp ứng yêu cầu song song
với nhu cầu thay đổi và mong đợi của các chủ thể này. Ngoài ra, việc có sự thay
đổi và yêu cầu đáp ứng cũng dẫn tới các kết quả mới trong hoạt động từ đó là tiền
đề cải cách công quyền.
- Công bằng và thu hút: Mặc dù đáp ứng tất cả nguyện vọng cho xã hội
nhưng thiếu đi sự công bằng giữa các chủ thể cũng làm giảm khả năng quản trị đặc
biệt là với nhà nước về kinh tế, nhà nước quản trị tạo ra sân chơi nhưng phải cân
bằng giữa các bên và phải tạo ra khả năng thu hút các bên đó tham ra vào. Điều
này có thể áp dụng cho mọi lĩnh vực ngoài kinh tế.
- Hiệu lực và hiệu quả: Đó là khả năng ban hành và thực hiện các quy định
pháp luật, chính sách phải đảm bảo sự tuân thủ tới các đối tượng chịu sự điều
chỉnh,đồng thời, là hiệu quả đạt được phải đáp ứng được nhu cầu của xã hội và
phát triển một cách bền vững. Quản trị tốt tạo ra hiệu lực, hiệu quả giúp cân bằng
và duy trì một hệ thống quản lý tốt bền vững. Ngoài ra, hiệu lực hiệu quả còn là
một xu hướng hướng tới các hoạt động phi xã hội như đảm bảo nguồn lực tự nhiên
và môi trường.
Với những đặc trưng trên, có thể khẳng định quản trị tốt là mô hình lý tưởng
nhưng khó đảm bảo thực hiện một cách tuyệt đối với bất kỳ chính phủ nào. Tuy
nhiên, để đạt được sự phát triển bền vững, việc nghiên cứu và áp dụng mô hình
này vào thực tiễn là cần thiết đối với các quốc gia trên thế giới hiện nay.Nhóm
nghiên cứu đánh giá rằng: Mô hình quản trị nhà nước tốt giống như một giải pháp
phát triển hệ thống chính trị một cách bền vững giữa mối quan hệ của nhà nước và
các thành tố trong đó cũng như tương tác của nó tới kinh tế và xã hội, đặc biệt nó
được coi như một giải pháp chung cho toàn bộ các quốc gia và nền kinh tế mà
không lệ thuộc vào thể chế hay ý định loại bỏ, bài trừ bất kỳ thể chế nào.
Mô hình quản trị nhà nước tốt là mô hình tập trung vào giải quyết các tồn tại
trong hệ thống hành chính công cụ truyền thống và cải cách hành chính theo
hướng mới; Mở rộng vào cải cách toàn bộ hệ thống hành chính, công quyền; Đưa
16
ra các đặc điểm mới nhằm hỗ trợ các tiêu chuẩn chuẩn mực trong hành chính công
như cam kết hoặc bộ quy tắc ứng xử phù hợp; Áp dụng cho tất cả nền hành chính
công ngoài cơ quan công quyền như doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp cổ phần hoá,
cơ quan xã hội hoá; Đẩy mạnh những tiến bộ nhân loại văn minh; Đề xuất như một
giải pháp mới cho công quyền, đồng bộ và phù hợp với thực tiễn.
Một trong những vướng mắc mà nhóm nghiên cứu nhận thấy: Có ý kiến cho
rằng chỉ só PAPI đã là cơ sở đánh giá quản trị nhà nước tốt do có nhiều nét tương
đồng với mô hình quản trị nhà nước tốt”. Mặc dù đây là ý kiến không sai, tuy
nhiên chỉ số thông thường dành đánh giá cho cấp tỉnh và các cấp địa phương hơn
là dành cho toàn bộ chung hệ thống chính trị, mô hình quản trị nhà nước tốt ngắm
tới thay đổi toàn bộ hệ thống theo một phần quan điểm của mô hình và hướng, chỉ
số PAPI có thể thay thế được một phần mô hình và trợ giúp thêm cho mô hình, do
nó đánh giá một cách cụ thể và có công cụ, phương pháp làm thay vì sử dụng toàn
bộ Mô hình quản trị nhà nước tốt làm nguyên mẫu đánh. Đặc biệt đây cũng làm
một nhược điểm khi bản thân Mô hình nhà nước tốt không cho một công cụ nào để
thực hiện và thường không rõ ràng, dẫn tới việc áp dụng và đánh giá cũng khác và
khó khăn hơn.
1.2. Sự cần thiết phải áp dụng mô hình quản trị nhà nước tốt trong hoạt
động của cơ quan hành chính nhà nước địa phương
1.2.1. Áp dụng mô hình quản trị nhà nước tốt là cơ sở, động lực xây dựng cơ
quan hành chính nhà nước địa phương trong sạch, vững mạnh.
Hệ thống văn bản các quy trình và thủ tục hành chính được kiện toàn hội xác
định rõ người rõ việc, nâng cao hiệu suất giải quyết công vi thời có được cơ sở tài
liệu để đào tạo và tuyển dụng công chức, viên chức. Lãnh đạo không sa vào công
tác sự vụ, ủy thác trách nhiệm nhiều hơn thuộc quyền và có nhiều thời gian để đầu
tư cho công tác phát triển cơ quan Đo lường, đánh giá được hệ thống, quá trình,
chất lượng công việc và lòng của khách hàng theo các chuẩn mực hay mục tiêu
chất lượng cụ thể. Làm cho công chức, viên chức có nhận thức tốt hơn về chất
lượng công thực hiện các thủ tục nhất quán trong toàn cơ quan vì mục tiêu cải
cách; Khuyến khích công chức, viên chức chủ động hướng đến việc nâng cao tích
của đơn vị và cơ quan; Đánh giá được hiệu lực và tác dụng của các chủ trương,
17
chính sách và bản pháp lý được thi hành trong thực tế để đề xuất với cơ quan chủ
quản biện pháp cải tiến hoặc đổi mới cho thích hợp với tình hình phát triển; Thúc
đẩy nhanh việc thực hiện quy chế dân chủ trong các mặt hoạt cơ quan và tạo cơ hội
để các thành viên có liên quan tham gia góp ý chướng, mục tiêu, chiến lược và các
thủ tục và quy trình giải quyết hành chính.
Cấp ủy, chính quyền phường luôn lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành công việc
linh hoạt, sáng tạo theo phương châm lấy dân làm gốc; cán bộ, công chức làm việc
tận tụy, trách nhiệm, gần gũi, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của người dân. Ngoài
ra, quán triệt chỉ đạo của Ban Thường thành phố,UBND thành phố về xây dựng bộ
máy chính quyền cơ sở ngày càng trong sạch, vững mạnh; phường thường xuyên
đổi mới phương thức hoạt động của bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, xác
định rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân trong thực thi công vụ. Bên cạnh đó,
không ngừng xây dựng đội ngũ, công chức bảo đảm đủ về số lượng và nâng cao
chất lượng. Với cách làm đó, mấy năm gần đây, không những giúp phường luôn
giữ vững danh hiệu chính quyền trong sạch, vững mạnh mà còn góp phần củng cố
lòng tin của Nhân dân với Đảng và Nhà nước.
1.2.2. Áp dụng mô hình quản trị nhà nước tốt là cơ sở giúp các địa
phương thực hiện đầy đủ, đúng đắn chủ trương, đường lối, chính sách, pháp
luật của Đảng và Nhà nước
Thứ nhất, phải tiếp tục hoàn thiện thể chế về chính quyền địa phương; tiếp
tục xây dựng bộ máy chính quyền địa phương tinh gọn hoạt động hiệu lực, hiệu
quả và xây dựng đội ngũ nhân sự liêm chính, phục vụ. Thể chế về chính quyền địa
phương phải tiếp tục được xây dựng, củng cố, hoàn thiện để giúp phân định rõ
ràng, đầy đủ thẩm quyền của các cấp chính quyền địa phương, đặc biệt nhằm tạo
sức bật cho sự phát triển mới của địa phương.
Thứ hai, chính quyền địa phương phải hiện thực hóa các cơ chế đặc thù dựa
trên sự khác biệt về đặc điểm của địa phương, cũng như các lợi thế so sánh của địa
phương để phát triển bền vững. Dựa trên những khác biệt về đặc điểm như đơn vị
hành chính là đô thị, nông thôn, hải đảo hay đặc thù về dân số cũng như các lợi thế
so sánh khác của các địa phương; đặc biệt dựa trên các cơ chế đặc thù do trung
ương tạo ra thì chính quyền địa phương đứng trước yêu cầu phải xây dựng được
18
những mô hình, giải pháp hữu hiệu để hiện thực hóa các cơ chế đặc thù mà trung
ương đã xác lập, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội địa phương, phục
vụ người dân và doanh nghiệp tốt hơn. Đó cũng là sứ mệnh chính trong quản trị
nhà nước ở địa phương của chính quyền địa phương, đáp ứng yêu cầu phát triển
địa phương một cách bền vững.
Thứ ba, chính quyền địa phương phải tư duy và hành động nhanh chóng,
linh hoạt, sáng tạo để quản trị hiệu quả các vấn đề của địa phương. Về hành động
sẽ phải thay đổi phương thức quản trị để nâng cao hiệu quả, chất lượng cung ứng
các dịch vụ cho tổ chức, công dân phù hợp với sự phát triển của khoa học, công
nghệ. Do đó, chính quyền địa phương cũng buộc phải thay đổi nhanh chóng, mạnh
mẽ cách thức quản trị nhà nước ở địa phương, chuyển phương thức quản lý truyền
thống sang phương thức quản trị hiện đại, trực tuyến.
Mặt khác, trong bối cảnh hiện nay, chúng ta đối mặt với nhiều thách thức.
Các thách thức này đòi hỏi chính quyền địa phương phải hành động, phải thiết lập
một cơ chế hành động nhanh nhất có thể để kịp thời quản trị, ứng phó với các vấn
đề xảy ra ở cấp độ địa phương, quốc gia. Năng lực quản trị của chính quyền địa
phương phải đổi mới để đáp ứng với những thách thức này.
1.2.3. Áp dụng mô hình quản trị nhà nước tốt là cơ sở giúp cơ quan hành
chính nhà nước các cấp phát huy được tiềm năng, lợi thế của địa phương, được
người dân, doanh nghiệp đồng tình, ủng hộ
Ở nền quản trị quốc gia tốt thì hệ thống các cơ quan nhà nước trong đó có
chính quyền địa phương phải làm tốt vai trò dẫn đắt, định hướng của mình, phải sử
dụng tốt các công cụ kiến tạo phát triển để phục vụ tốt nhất người dân và doanh
nghiệp. Đồng thời, các cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước
phải thực thi công vụ vì Nhân dân, không vụ lợi, không tham nhũng.
Nâng cao năng lực quản trị của chính quyền địa phương sẽ tạo nên động lực
tăng trưởng và phát triển mới cho các địa phương. Đây là cơ sở kinh tế, chính trị
quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế, ổn định an ninh, chính trị, xã hội của địa
phương một cách bền vững. Qua đó, củng cố và gia tăng niềm tin của người dân và
19
doanh nghiệp vào chính quyền địa phương.
Tiểu kết chương 1
Mô hình quản trị nhà nước tốt để thực hiện chúng ta trước kết phải kết hợp
nhuần nhuyễn, hài hòa giữa tiếp cận các thông tin về hoạt động của bộ máy hành
chính nhà nước một cách dễ dàng, chính xác và kịp thời là cơ sở đảm bảo tính
minh bạch của nền hành chính nhằm gia tăng sự tham gia của người dân trong
hoạch định chính sách và ra các quyết định. Đồng thời đảm bảo sự minh bạch, gia
tăng trách nhiệm của nhà nước trong hoạt động cung cấp dịch vụ công và đa dạng
hóa các hình thức đối với các dịch vụ công. Từ đó dựa vào những đặc điểm ở trên
áp dụng sao cho phù hợp và có bước đi cụ thể, chuyển đổi từng bước và thực hiện
đồng bộ cùng lúc nhiều giải pháp thì mới đem lại hiệu quả cao nhất. Nâng cao hiệu
quả quản trị nhà nước, tạo điều kiện cho kinh tế - xã hội phát triển và phục vụ
người dân trở thành tất yếu khách quan và không có một lĩnh vực hoạt động nào
của con người quan trọng hơn là công việc quản trị, sự hưng thịnh hay suy vong
20
của một quốc gia đều liên quan chặt chẽ tới hoạt động quản trị.
CHƯƠNG 2.
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG MÔ HÌNH QUẢN TRỊ NHÀ NƯỚC TỐT Ở ỦY
BAN NHÂN DÂN PHƯỜNG HỒNG HÀ, THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH
QUẢNG NINH
2.1. Các nhân tố tác động đến việc áp dụng mô hình quản trị nhà nước
tốt của Ủy ban nhân dân phường Hồng Hà
2.1.1. Quy định của Đảng, Nhà nước về quyền hạn, trách nhiệm cơ quan
hành chính nhà nước địa phương
Cơ quan hành chính cấp địa phương là một trong hàng trăm cơ quan hành
chính cùng cấp được xây dựng nhằm thực thi quyền lực và trách nhiệm của Đảng
và Nhà nước tới người dân cũng như là quản lý nhằm phát triển kinh tế xã hội và
đảm bảo trật tự xã hội theo đúng quy định. Phục vụ nhân dân là nhiệm vụ cốt lõi
song song với nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, thực hiện nhiệm vụ mà nhân dân
giao phó cũng như của Đảng, chính sách phát triển toàn diện và tiềm lực kinh tế.
Ở cấp phường, xã, đây là cấp thấp nhất trong cấu trúc hệ thống chính trị Việt
Nam, tuy nhiên lại là cơ quan cấp địa phương quan trọng trực tiếp quản lý và thực
hiện nhiệm vụ tới người dân. Mặc dù các cấp chính quyền thực hiện các hoạt động
của mình với người dân nhưng cấp địa phương như phường xã và huyện thị trấn lại
là cơ quan trực tiếp hơn, gần gũi hơn và có tính thường trực hơn, trực tiếp hơn đặc
biệt là nhiệm vụ hành chính.
Quy định về Uỷ ban nhân dân cấp phường được quy định bởi Đảng và Nhà
nước, cơ quan hành pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua
các văn bản quy phạm pháp luật tiêu biểu là Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân và Điều lệ
Đảng. Uỷ ban nhân dân phường Hồng Hà là cơ quan hành chính cấp địa phương.
Hiến pháp và Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân quy định
về chính quyền địa phương. Điều 110 của Hiến pháp quy định về phân chia đơn vị
hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều 2 Luật tổ chức
chính quyền địa phương chia đơn vị hành chính: Cấp tỉnh/thành phố trực thuộc
trung ương; Cấp quận /huyện/thị xã/thành phố thuộc tỉnh/thành phố thuộc thành
21
phố trực thuộc trung ương; Cấp xã /phường/thị trấn.
Cơ quan hành chính cấp địa phương thuộc phạm vi và quy định tại tất cả văn
bản có quy định về cấp xã. Theo các luật về phân chia tổ chức hệ thống chính trị
Việt Nam thì chỉ có duy nhất 3 cấp và phân chia nhỏ các mức độ khác như
phường, thành phố, thành phố trực thuộc,... Ngoài ra, các tên theo luật cũ cũng dựa
vào phân chia hành chính cấp xã để thực thi.
Khoản 2, Điều 111 quy định: Chính quyền địa phương gồm có Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô
thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định. Điều 112 chỉ rõ
nhiệm vụ, quyền hạn cơ cấu của chính quyền, nhiệm vụ thực thi và đảm bản Hiến
pháp tới người dân:
- Chính quyền địa phương tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và
pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; chịu
sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ
sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương
và của mỗi cấp chính quyền địa phương.
- Trong trường hợp cần thiết, chính quyền địa phương được giao thực hiện
một số nhiệm vụ của cơ quan nhà nước cấp trên với các điều kiện bảo đảm thực
hiện nhiệm vụ đó.
Điều 114 quy định cơ quan hành chính địa phương: Ủy ban nhân dân ở cấp
chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành
của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách
nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên; Ủy ban
nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; tổ chức thực
hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà
nước cấp trên giao.
Khoản 1, Điều 114 quy định: Ủy ban nhân dân ở cấp chính quyền địa
phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng
nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội
đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên” chính vì vậy, Hội đồng
22
nhân dân là cơ quan quyền lực của Quốc hội, của nhân dân thực hiện kiến tạo Uỷ
ban nhân dân và bầu những người đủ đức, đủ tài, làm việc và thực thi y chí của
Đảng, Nhà nước và Nhân dân.
Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân quy định tổ chức,
nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể và chi tiết hoá một số điều mà Hiến pháp không quy
định. Điều 2 quy định: Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan
chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương,
chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan nhà nước cấp trên;
Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ
quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp nhằm bảo
đảm thực hiện chủ trương, biện pháp phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc
phòng, an ninh và thực hiện các chính sách khác trên địa bàn; Uỷ ban nhân dân
thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương, góp phần bảo đảm sự chỉ đạo,
quản lý thống nhất trong bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương tới cơ sở.
Điều 111 đến Điều 130 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của uỷ ban nhân dân cấp
xã, tổ chức và hoạt động của uỷ ban nhân dân và các cơ quan chuyên môn thuộc
uỷ ban nhân dân của cấp này.
Là một đơn vị hành chính, phường Hồng Hà dựa trên yếu tố lịch sử hết sức
phong phú, là một phường thuộc thành phố Hạ Long, có lịch sử đấu tranh, xây
dựng và lao động gắn liền với biến động của công cuộc kiến tạo đất nước. Phường
Hồng Hà đã trải qua nhiều lần sáp nhập, điều chỉnh địa giới hành chính, giải thể,
chia cắt. Từ những năm 1883, khu vực thành phố Hạ Long ngày nay trước được
thành lập mang tên Hòn Gai và dần mở rộng về các phía ven biển và vùng bán
bình nguyên nhằm phục vụ khai hoang than đá, Khi cách mạng tháng 8 thành công
và cuộc tái chiếm của Pháp vào cuối năm 1946 cho tới sau Hiệp định Geneve năm
1954 thì khu vực Hòn Gai chính thức được giải phóng và nằm dưới sự lãnh đạo
của Đảng và Nhà nước.
Ngày 22 tháng 2 năm 1955, Chủ tịch nước đã ký sắc lệnh số 221 sửa đổi địa
giới các đơn vị hành chính và sắp xếp tổ chức chính quyền. Tại Điều 3 của Sắc
lệnh: Nay thành lập khu Hồng Quảng đặt dưới quyền lãnh đạo trực tiếp của Chính
23
phủ trung ương. Khu Hồng Quảng gồm có Đặc khu Hòn Gai và tỉnh Quảng Yên
(trừ các huyện Sơn Động, Kinh môn, Nam sách, Chí Linh). Từ đây, chính thức đặc
khu Hòn Gai được thành lập.
Năm 1981, theo quyết định số 63-HĐBT của Hội đồng bộ trưởng về việc
phân vạch địa giới một số xã, phường và thị trấn thuộc tỉnh Quảng Ninh, chính
thức phân chia lại địa giới hành chính và điều chỉnh vị trí các phường xã, chia thị
trấn Hà Tu thành 2 phường: Hà Tu và Hà Phong; chia thị trấn Hà Lầm thành 3
phường: Hà Lầm, Hà Trung, Hà Khánh; chia thị trấn Cọc 5 thành 2 phường: Hồng
Hà và Hồng Hải; chia thị trấn Cao Thắng thành 2 phường: Cao Thắng và Cao
Xanh; chia thị trấn Giếng Đáy thành 2 phường: Giếng Đáy và Hà Khẩu; chuyển thị
trấn Bãi Cháy thành phường Bãi Cháy. Từ đây, địa giới phường Hồng Hà được
xác định và cũng là văn bản pháp luật đầu tiên dẫn tới sự hình thành của UBND
phường Hồng Hà.
Ngoài là cơ quan cấp địa phương phường, bên cạnh đó phường cũng là nơi
đặt Đảng bộ phường Hồng Hà.
2.1.2. Điều kiện tự nhiên, trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của
phường Hồng Hà
* Điều kiện tự nhiên của phường Hồng Hà
Điều kiện tự nhiên của phường Hồng Hà kế thừa từ những gì mà thành phố
có, đặc biệt là kế thừa địa lý có khởi nguồn cho phát triển kinh tế và văn hoá xã hội
nhất. Với lợi thế là vùng trung tâm và phát triển chủ yếu một số loại hình theo địa
lý, phường Hồng Hà kế thừa các chính sách và điều chỉnh biến phường Hồng Hà là
một trung tâm kinh tế. Với địa lý được quy định bởi địa hành chính, phường Hồng
Hà nằm toàn bộ trong địa lý đất đồng bằng tiếp giáp với vùng đồi núi thấp, thấp
dần ra biển bao bọc toàn bộ đồng bằng xen kẽ biển, ven biển và vùng vịnh.
Địa giới hành chính của phường Hồng Hà có cả vùng trời, vùng đất, núi cao,
đồng bằng, nhiều tài nguyên, vùng biển, hải đảo,... Ngoài ra, các khu vực khác
cũng tương tự, tuy nhiên phường Hồng Hà nằm trong địa lý hưởng nhiều từ địa
giới hơn so với các phường xung quanh.
Đối với tài nguyên thiên nhiên, phường Hồng Hà kết hợp quy mô rộng lớn
và phức tạp các loại hình trên ngoại trừ tài nguyên nước và một phần tài nguyên
24
khoáng sản là không có sẵn nhưng là nguồn được thu chuyển từ các khu vực khác
tới nhằm phục nhu cầu xã hội. Điều này sẽ quyết định rất nhiều tới trình độ phát
triển kinh tế và văn hoá xã hội của phường Hồng Hà.
* Trình độ phát triển kinh tế
Phường Hồng Hà là một trong rất nhiều phần địa lý hành chính đặc biệt và
có mức độ quan trọng, bản thân tính chất địa giới hành chính cũng cho phường
Hồng Hà một thách thức rất lớn.
Đặc biệt là nơi trung tâm đặt hệ thống trị và nằm trong giao thoa trung tâm
của thành phố nên được coi như là trung tâm kinh tế lớn thứ 2 chỉ sau phường Bãi
Cháy theo sau là phường Hồng Hà, phường Hà Phong, Hà Tu.
Kinh tế của phường Hồng Hà được chia làm làm 2 loại hình dựa trên địa lý
gồm: Dịch vụ và Khai thác.
Gắn với vùng biển và các phường ven biển cho thấy một cơ cấu dịch vụ
khổng lồ như các nhà hàng, quán bar, bãi tắm, khách sạn, cụm du lịch giải trí như
SunWorld,... Còn khai thác thì gắn liền với hoạt động khai thác than, đá kim loại,
đá vôi, kim loại thô, luyện kim, công nghiệp nặng và nhiệt điện.
Cơ cấu kinh tế của phường tập trung chủ yếu vào khai thác dịch vụ và xây
dựng. Trong thành phần kinh tế của phường Hồng Hà cũng như khảo sát thực tiễn
phường đều cho thấy tỉ lệ cơ cấu thành phần kinh tế 3 nhóm: Nông – lâm – ngư
nghiệp (khu vực I), công nghiệp - Xây dựng (khu vực II) và dịch vụ (khu vực III)
chủ yếu Khu vực 2 và 3 chiếm tỉ trọng cao hơn đặc biệt là Khu vực 3. Điều này
được xác lập bởi các chính sách dịch chuyển kinh tế của Tỉnh và Thành phố Hạ
Long chuyển cơ cấu từ khai thác hoặc Khu vực 2 sang Khu vực 3, với mong muốn
các phường ven biển như biển phường Hồng Hà, phường Hồng Hải, phường Hà
Phong quần đảo Cô Tô, phường Bãi Cháy thành khu vực trung tâm văn hoá dịch
vụ từ đó là tiền đề khai thác tỉ trọng khu vực 3 và chuyển dịch nền kinh tế toàn
Tỉnh theo hướng bền vững hơn.
Một trong những lý do đó cũng ảnh hưởng bởi địa lý của Tỉnh, do điều kiện
tự nhiên cho phép khai thác khoáng sản tuy nhiên dần cạn kiện buộc phải chuyển
dịch để đảm bảo ổn định an sinh xã hội hay vì tập trung toàn phần vào khai thác và
25
xây dựng công trình khai thác tốn kém mà lại không bền vững.
Khu vực I thì ngư nghiệp là chiếm tỉ trọng cao nhờ vào nằm cạnh biển thuận
lợi cho việc đánh bắt, chưa kể đến địa lý biển Vịnh Hạ Long giàu tài nguyên sinh
giới, địa chất ổn định, nhiều hải đảo nhỏ phù hợp cho ngư nghiệp phát triển.
Bên cạnh đó, khu vực Hạ Long cũng là khu vực hình thành kinh tế sớm nhất
vào thời nhà Lý trong khoảng những năm 1149 với thương nghiệp tại Vân Đồn
cùng với đó là hoạt động ngư nghiệp, thời Pháp thuộc với ngành khai thác, giao
thương buôn bán và dịch chuyển cơ cấu kinh tế từ những năm 2013 với ngành dịch
vụ trên mọi phương diện. Điều này cho thấy Hạ Long có trình độ phát triển kinh tế
mạnh mẽ và lâu đời nhất, điều này ảnh hưởng sâu sắc tới trình độ dân trí và trình
độ lao động cao trong hiện tại.
* Về văn hóa
Về văn hoá, văn tại phường Hồng Hà được kiện toàn và đa dạng hoá nhờ
văn hoá đa dạng của tỉnh Quảng Ninh. Hiện nay, mặc dù đã tiếp nhận và bảo tồn
lữu trữ trên dưới 541 di sản văn hoá vật thể gồm những đình, chùa, đền, miếu,
danh lam thắng cảnh và hơn 2.800 hồ sơ di sản văn hoá phi vật thể là những phong
tục, tập quán, trò chơi dân gian,… tuy nhiên địa hành chính đã giới hạn một số loại
hình như danh lam thắng cảnh và chùa miếu đền do không thuộc địa phận hoặc đã
được di dời, tuy nhiên các phong tục, bản sắc được bảo tồn hợp lý và ngày càng
được đa dạng dưới nhiều hình thức. Ngoài ra còn các hoạt động về thể dục thể thao
cũng đạt nhiều tích cực. Tính tới hết nhiệm kỳ có 16 CLB hiện đang hoạt động và
đạt ít nhat 41 giải thưởng về hoạt động thể dục thể thao.
* Về xã hội
Phường Hồng Hà là một trong các phường trung tâm của thành phố Hạ
Long có đông nhân khẩu và có nhân khẩu học đa dạng nhất thành phố. Hiện nay,
phường có trên 21.000 nhân khẩu, chia thành 9 khu phố, 111 tổ dân với 6.000 hộ
dân. Số hộ dân nêu trên mới chỉ tính tại thời điểm thống kê còn hiện nay do có
nhiều khu vực được khai thác, quy hoạch đô thị khẩn trương và đời sống nhân dân
cũng tăng lên nhanh chóng làm cho dân số trên địa bàn tăng nhanh. Mặt độ dân số
vào ngưỡng 660 người/m2, giảm 28% đến 29% cho thấy mặt độ dân số ở khu vực
này là đông dân và dày đặc, tuy nhiên khi nói đến lượng phân bổ cho thấy sự bất
26
đồng đều giữa khu vực ven biển, nội ven biển và một phần vùng đồi núi cho thấy
mặt độ số lượng người/hộ là từ 4 đến 6 tức nhiều hơn so với vùng đồi núi là từ 2
đến 4. Ngoài ra đó là chưa kể đến các khu vực đơn người cư trú như nhà trọ và các
loại hình cho thuê nhà dài hạn, người là dân tộc thiểu số tới hoạt động nâng mức
chung bình trung là ngưỡng 20-80 người/cơ sở (kinh tế).
2.1.3. Phẩm chất, năng lực đội ngũ cán bộ, công chức của Ủy ban nhân
dân phường Hồng Hà
Về phẩm chất, năng lực, đội ngũ cán bộ, công chức của Uỷ ban nhân dân
phường Hồng Hà, UBND phường Hồng Hà có một hệ thống chính trị phường xếp
vào hàng tốt nhất trong số các phường trực thuộc thành phố Hạ Long. Bên cạnh đó
còn đạt nhiều tích cực trong công tác xây dựng, phát triển, học tập và làm theo tấm
gương Hồ Chí Minh.
Một trong những thuận lợi lớn nhất là Đảng bộ phường Hồng Hà có số
lượng đảng viên 1510 người, sinh hoạt tại 15 chi bộ trực thuộc, phần lớn cán bộ
đều là người cao tuổi, nhiều kinh nghiệm, công tác lâu năm... Các đảng viên có tư
tưởng vững chắc, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng. Bên cạnh những
đảng viên đang phục vụ, có lực lượng đông đảo hơn 2500 đảng viên đang công tác
sinh hoạt theo quy định.
Hệ thống chính trị phường Hồng Hà được củng cố và kiện toàn, mức độ
hoạt động cao chặt chẽ nhờ vào trung tâm đặt các trụ sở, cơ sở chính của các cơ
quan Đảng, đoàn thể của tỉnh, cấp sở, UBND tỉnh, Trung tâm tổ chức hội nghị
tỉnh, Trung tâm phục vụ hành chính công, Thanh tra tỉnh, từ đó luôn nhận được sự
giám sát chặt chẽ và quan tâm của các cơ quan cấp trên. UBND phường Hồng Hà
có một đội ngũ cán bộ, công chức đạt tiêu chuẩn. Tất cả cán bộ, công chức của
Phường có trình độ chuẩn chính quy về đào tạo, trình độ lý luận chính trị, 100% là
đảng viên. Năng lực đội ngũ cán bộ được nâng cao và bồi dưỡng thường xuyên
thông qua cử đi học tại các lớp học được tổ chức bởi Tỉnh và Thành phố. Hàng
năm, Phường tổ chức đánh giá và luân chuyển để cán bộ tiếp tục rèn luyện tại cơ
sở với 6 cán bộ lãnh đạo các phòng, ban, đơn vị cấp thành phố. Nhờ đó, chất lượng
cán bộ được quy hoạch nâng lên cả về trình độ lý luận chính trị và chuyên môn,
27
nghiệp vụ; bảo đảm tỷ lệ nữ, trẻ và cơ cấu ba độ tuổi trong quy hoạch theo đúng
quy định; nhiều đồng chí trong quy hoạch đã đủ điều kiện, tiêu chuẩn có thể đảm
nhận ngay được chức danh quy hoạch.
2.2. Kết quả áp dụng mô hình quản trị nhà nước tốt ở Ủy ban nhân dân
phường Hồng Hà và nguyên nhân
2.2.1. Kết quả áp dụng áp dụng mô hình quản trị nhà nước tốt ở Ủy ban
nhân dân phường Hồng Hà
UBND phường Hồng Hà đã triển khai nhiều nghị quyết, kế hoạch, chương
trình hành động về phát triển kinh tế - xã hội. Trên địa bàn phường tính đến năm
2019 có 328 doanh nghiệp, tăng thêm 96 doanh nghiệp so với năm 2015, kinh
doanh hộ cá thể đạt hơn 10.000 hộ, 45 nhà hàng dịch vụ ăn uống tăng 12 so với
2015 và tăng 7 lên 22 cơ sở lưu trú, trong đó 26% các cơ sở đạt chất lượng tiêu
chuẩn quốc gia. Hộ doanh nghiệp dịch vụ và buôn bán có tổng cộng 658, trong đó
không kể đến nhà hàng ăn uống và dịch vụ nghỉ dưỡng, khu vực buôn bán chợ lớn
Hồng Hà và dịch vụ khác đều tăng đáng kể đạt đỉnh trong năm 2017 lần lượt là
711292. Ngoài ra, trong năm 2019 còn đón nhận sự mở rộng và đầu tư của các tập
đoàn lớn như Vingroup và FLC, tiêu biểu như các cửa hàng tiện lợi, cửa hàng buôn
bán lẻ, nhà nghỉ và khu du lịch nghỉ dưỡng. Phường Hồng Hà ngày một mở rộng
hơn và hoàn thiện các kết cấu hạ tầng mới hiện đại nhằm đáp ứng các hoạt động
đầu tư thị trường, mở cửa tích cực nhằm chào đón các doanh nghiệp trong nước và
nước ngoài.
Ngân sách vượt chỉ tiêu toàn diện theo nghị quyết đại hội Đảng bộ phường
lần thứ 11 đề ra, tổng nhiệm kỳ tăng 68% thu ngân sách so với nhiệm kỳ 10 – 15
và thu riêng ngân sách của phường tăng 96% cùng kỳ. Bên cạnh đó, việc thu riêng
ngân sách của phường cũng góp gần tăng tích cực thu ngân sách nhà nước toàn
diện tăng trung bình 12.6% năm và luôn đạt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội lần thứ 11
đề ra (gần 121%), thu các quy đạt ngưỡng 11%/năm.
Xây dựng cải tạo giải phóng mặt bằng là một trong nhiều định hướng thay
đổi cảnh quan cũng như tác động đến người dân của phường Hồng Hà. Tới nay đã
hoàn thiện 100% đề ra và chỉ còn một số lượng nhỏ các xây dựng chưa hoàn thiện
không đáng kể. Một trong số đó là giải phóng mặt bằng gồm đường phía dưới hộ
28
dân trên lề đường quốc lộ 18A có liên quan tới 210 hộ dân, cải tạo lại quốc lộ 18,
xây dựng thêm cao tốc, xây dựng trung tâm thương mại chợ Hồng Hà, chung cư
cột 8, nhà ở,… tổng số giải phóng lên đến 12 dự án ảnh hưởng tới 300 hộ dân và
doanh nghiệp. Các địa điểm hoặc khu vực trên thuộc giải phóng mặt có sự hợp tác
giữa người dân và doanh nghiệp nhất chí và đồng tình cao, tuy nhiên vẫn có 2 hộ
bị cưỡng chế nhưng đây là yêu cầu cần thiết phát huy hiệu quả và tạo điều kiện đầu
tư về kinh tế.
Đối với xây dựng cải tạo cơ bản (hoặc xây dựng cơ bản) đạt nhiều kết quả
tích cực hơn. Với xây dựng dân sinh, đáp ứng các yêu cầu và giải quyết kiên nghị
cử tri, UBND phường Hồng Hà đã thực hiện tốt 100% đáp ứng các hoạt động xây
dựng này. Tổng số 16 công trình hạ tầng phục vụ nhu cầu dân sinh được hoàn
thiện, 6 trong số đó là xây dựng đường dân sinh, người dân cũng đã đóng góp theo
khả năng của mình lên tới 2% tổng số vốn đầu tư cùng với 580 m2 nền đất cho
kinh phí làm đường, ống thoát nước, đường điện, các dịch vụ công cộng và môi
trường. Tính riêng trong 4 năm 2016 tới 2019 có ít nhất 5 công trình hạ tầng là hệ
thống sau đây gọi tắt là hệ thống dưới mặt đất hoặc được hiểu là hệ thống sinh hoạt
ngầm được triển khai và thực hiệu đáp ứng theo ý kiến của người dân và cử tri từ
9/11 khu phố đều đạt được mức độ hài lòng từ phía người dân.
Mặc dù đạt được nhiều thành tựu về xây dựng và đổi mới cảnh quan đô thị
thì bên cạnh đó còn có một số tiêu cực trong quản lý quy hoạch, đô thị và môi
trường. 419 lượt kiểm tra toàn diện các công trình trong nhiệm kỳ, 97 trong số đó
bị xử phạt và đề nghị cấp có thẩm quyền xử phạt hành chính góp phần vào ngân
sách không hề nhỏ, đồng thời 6/97 bị buộc tháo dỡ trả lại mặt bằng. Ngoài ra, đối
với các tiểu thủ thương nghiệp và thương nghiệp hộ gia đình cũng được điều chỉnh
phù hợp với cải cách kinh tế và xây dựng góp phần chuyển đổi cảnh quan như khu
phố 2; 6; 10; số di dời do không phù hợp với quy hoạch đô thị và môi trường là 6
cơ sở sản xuất, 19 hộ hiện chưa được di dời và hiện đang được tiến hành.
Xây dựng và cải tạo các cơ quan chức năng và cơ sở UBND phường Hồng
Hà nằm trong 16 dự án cải tạo, đến hiện tại, cơ sở UBND phường đã được hoàn
thiện đúng với chỉ tiêu và phương án đề ra của Đảng và Nhà nước, đặc biệt trong
công tác hành chính và hệ thống hành chính 1 cửa. Việc chi ngân sách nhà nước và
29
ngân sách thu được từ địa phương cho thấy nguồn chi 96% so với ngân sách thu và
16% trong số đó là từ người dân đóng góp, đây là dữ liệu một nhiệm kỳ, điều này
cũng cho thấy việc thu ngân sách và đảm bảo chi tiêu ngân sách ổn định tự lực của
phường cũng như của thành phố thay vì phải dựa vào ngân sách nhà nước chi mà
đây tự đóng góp ngân sách và chủ động hơn. Với các công cuộc cải cách đô thị nêu
trên góp phần ổn định đời sống của người dân phường Hồng Hà hơn trong nhiệm
kỳ qua, đối với cơ bản cảnh quan phường Hồng Hà, vì địa lý là một khu vực được
mở rộng và cải tạo từ tự nhiên nên việc xây dựng và cải tạo xây dựng cần có nhiều
nỗ lực hơn so với các khu vực được hưởng sẵn địa lý như phường Bãi Cháy và
Hoành Bồ.
Đối với công tác giáo dục, Phường có tổng cộng là 5 trường học từ cấp mầm
non tới THPT. Các trường mầm non đều đạt 5 năm liền là trường chuẩn quốc gia,
các trường từ cấp 2 trở nên đạt chuẩn về chất lượng. Công tác nâng cao giáo dục
rất tích cực và số lượng tham gia học tập tăng nhanh lên thêm 30 lớp vào năm
2019 so với năm 2015. Chất lượng giáo dục được cải thiện số lượng lớp học tăng
nhanh chóng đặc biệt là các lớp THPT và THCS, 2 trong số các trường lớn ở khu
vực này có số lượng tăng nhanh về lớp học, tuyển sinh, và giáo viên. Công tác
khuyến học, khuyến tài cũng cho thấy số lượng tăng nhanh từ năm 2015 với 89
người lên tới 97.8% đạt đỉnh vào năm 2017 và 64.9% trong năm 2019 đối với số
lượng tập thể và cá nhân được khen thưởng. Ngoài ra tổng số quỹ khen thưởng
cũng tương sứng với kết quả đạt được. Đáng chú ý trong đó là số lượng học sinh
được khuyến khích học tập từ các khu vực làng chài và khu vực vùng bán đồi núi
được tích cực quan tâm. Đến hết năm 2019 có tổng cộng 22 em/27 hộ đã được huy
động đi học và được hỗ trợ.
Công tác cải cách hành chính, kết quả sự tham gia của các chủ thể được lấy
từ các kết quả thực hiện chính sách và số lượng lượt tham gia vào xây dựng nhà
nước, ngoài chủ thể là người dân địa phương, còn có người dân từ các vùng khác
như di cư, cư trú tạm thời,… chủ thể kinh tế và tổ chức chính trị - xã hội. Trong
nhiệm kỳ vừa qua, UBND phường cho thấy một mức độ tham gia vào các hoạt
động quản lý nhà nước thông qua đề nghị, kiến nghị, khiếu nại và tố cáo là rất tích
30
cực, nhờ việc nhìn nhận vào số lượng các vấn đề được giải quyết từ đó suy luận ra
số lượng chủ thể tham gia. Nhóm đánh giá đây là đặc điểm đạt kết quả tốt nhất trên
nhiều phương diện.
Theo Báo cáo Ban thường vụ thành uỷ về công tác tổ chức Đại hội đại biểu
đảng bộ phường lần thứ XII, nhiệm kỳ 2020-2025 cho thấy hoạt động tham gia của
các chủ thể trong xã hội vào tham gia xây dựng nhà nước trên các lĩnh vực khác
nhau, đặc biệt là các kiến nghị, tiếp cận và giải quyết thủ tục hành chính được quan
tâm và có số lượng người tham gia lớn, không chỉ chủ thể là người dân mà còn tất
cả chủ thể khác như chủ thể kinh tế và chủ thể chính trị - xã hội.
Đối với kiến nghị cử tri, số lượng cử tri tham gia kiến nghị tới từ các khu
phố tăng đều trong nhiệm kỳ vừa qua cho thấy số lượng cử tri từ ít nhất 9/9 và
87/111 tổ dân tham gia vào kiến nghị cử tri, tại các báo cáo cũng cho thấy số lượng
được giải quyết tích cực. Tuy có số lượng ít về khu phố tham gia và biến động
không đồng nhất nhưng quan trọng hơn cả là ý kiến của người dân và kiến nghị
của họ đã tạo ra sức đẩy tham gia vào kiến nghị. Điều này cho thấy sự tham gia
đông đảo của quần chúng nhân dân đặc biệt là những người dân thuộc bộ phận dân
cư của phường phản ánh và kiến nghị tích cực, không ngoại lệ trong số đó có các
kiến nghị đơn phương nhưng thể hiện được sự tham gia với mưu cầu lợi ích cho
bản thân và cho xã hội được chia các vấn đề như: giải phóng mặt bằng, an ninh, xử
lý tranh chấp đất đai theo hình thức đại diện, xây dựng dưới lòng đất, môi trường,
an sinh xã hội cho người ven biển, bảo hiểm xã hội cho người yếu thế trong xã
hội,…
Nhiệm kỳ 2016 – 2019 và đầu năm 2020 cho thấy số lượng công dân trong
lĩnh vực đề nghị và kiến nghị; khiếu nại và tố cáo tăng trung bình 10 lượt trong
năm 2016, tăng tiếp nhận 13 lượt lên thành tổng 48 lượt, đồng thời cũng lượt giải
quyết đạt 80% tăng 27% so với năm 2015. Đến năm 2017, lượt tiếp nhận giảm nhẹ
trung bình 10 lượt tuy nhiên lại tăng mạnh trong 2 năm kế tiếp lên đến 28 lượt năm
2018 và 36 lượt năm 2019. Lượt được giải quyết là 131 đơn thư trong tổng số 171
lượt tiếp nhận, bên cạnh đó, lượt đơn thư khiếu nại và tố cáo thu nhận trung bình
giảm 2 đơn thư/năm. Mặc dù có số lượng không đáng kể và không quá giao động
nhưng thể hiện được sự tham gia tích cực của người dân vào hệ thống giải quyết
31
các kiến nghị của mình, số lượng giảm trong đơn khiếu nại giảm là nhờ vào hệ
thống giải quyết của cơ quan thẩm quyền, đồng thời trong báo cáo cũng ghi nhận
sự tích của các chủ thể là người kiến nghị khiếu nại tố cáo đồng tình với hướng
giải quyết cũng như đánh giá cao công tác giải quyết của UBND phường.
Đối với số lượng thủ tục hành chính, từ năm 2016 đến năm 2017, số lượt
được giải quyết tăng lên 1390 lượt tăng nhanh lên gần 2000 lượt trong năm kế tiếp
và giữ ở mức trung bình 12800 lượt được giải quyết trong 2018 và 2019. Số lượt
được giải quyết là 46119 hồ sơ trong đó mức độ 3 dịch vụ CTT giải quyết là 1368
hồ sơ. Đều này cho thấy số lượng tích cực từ phía người dân tham gia vào hoạt
động hành chính nhà nước và số lượng thủ tục phản ánh mức độ tham gia, với đà
tăng tích cực về xử lý hành chính cũng cho thấy một hiệu quả cải cách mới, trong
giai đoạn 2016 tới 2019, UBND phường đã cải cách và ban hành công khai 129/12
lĩnh vực giải quyết hồ sơ cũng minh chứng cho hiệu quả và hiệu lực khả thi với các
kết quả được đưa ra. Ngoài ra còn có giải quyết thủ tục cấp nhà đất lên tới 508 hồ
sơ, 442 trong số đó được UBND thành phố cấp giấy chứng nhận QSDĐ được
người dân đồng tình cao.
Đối với chính sách cư trú, di dời và di cư an toàn được thực hiện theo Đề án
di dời các hộ dân, nhà hàng và các quần cư đánh bắt đạt kết quả tốt và khá. Điểm
tốt của sự tham gia của các chủ thể trong chính sách di dời này là đạt 85% thực
hiện di dời, khuyến khích, tạo điều kiện và hướng dẫn cho các hoạt động trên biển
không bền vững theo Đề án di dời. 11% được đáp ứng do UBND phường thực
hiện số còn lại được UBND phường hướng dẫn trao đổi cùng các UBND phường
có cùng Đề án do vấn đề về Tư pháp - Hộ tịch khác nhau giữa các hộ dân trên
biển. Điểm trung bình - khá của chính sách này thuộc về số 11% còn lại trong đó
có 8% đối với các hoạt động không bền vững trên biển chủ yếu đến từ thực thể
kinh tế còn phải cưỡng chế và 2% với hộ dân chưa đạt đủ yêu cầu theo hướng dẫn
của thành phố ban hành năm 2008 về công tác di dời người dân trên ven biển Vịnh
Hạ Long.
Tổng quan về sự tham gia của các chủ thể này nhóm đánh giá là ở trung
bình. Trong sự tham gia này có sự hợp tác của người dân đã và đang sinh sống trên
biển, với hoàn cảnh thời thế thay đổi, việc cư trú và sinh sống trên biển đã và đang
32
là một nguy cơ về an sinh xã hội không bền vững về mọi mặt, ảnh hưởng tới người
và của cũng như tiềm tàng các hiểm hoạ khác nhau. Còn từ phía một số thực thể
kinh tế và hộ dân còn đang phải cưỡng chế thuộc vào diện có những lý do và yêu
cầu riêng nên hợp tác còn thấp và chưa hiệu quả.
Chính sách y tế là một trong hai chính sách có mức độ toàn diện về hoạt
động và hiệu quả nhất. Trong 5 năm số lượng đóng bảo hiểm y tế đạt 97%. Đối
tượng không được hưởng bảo hiểm như trẻ em, được tiêm chủng đầy đủ, trẻ dưới 5
tuổi đạt 96.7%, tỉ lệ trẻ bị suy dinh dưỡng ở ngưỡng trung bình từ 5% xuống 3.8%.
Y tế của phường cũng được nâng cao tính tới 2019 y tế phường Hồng Hà đạt danh
hiệu 10 năm đạt chuẩn quốc gia theo quy định.
Đối tượng chính sách được chia thành hai đối tượng, trước hết với đối tượng
hưởng chính sách là người có công với cách mạng (sau đây được gọi tắt là
NCCVCM). Toàn phường tính tới trước 01/12/2019 có tổng cộng 251 người được
hưởng chính sách và 241 được đối tượng được hưởng bảo trợ xã hội, tất cả đều đạt
100%, trong đó ngoài việc hỗ trợ liên tục theo từng quý thì các ngày lễ trọng đại
cũng được phân bổ tốt cùng với sự tham gia của các tổ chức đoàn thể trong khu
phố. Ngoài ra, theo các quyết định về hỗ trợ NCCVCM về nơi cư trú theo các
quyết định tổng cộng đã hỗ trợ hoàn thiện 28 hộ và thêm 9 hộ đang chờ được giải
quyết sau năm 2019. Đối với đối tượng là người yếu thế trong xã hội như người
nghèo, người thất nghiệp và hộ cận nghèo. Số hộ nghèo từ đầu nhiệm kỳ là 10 hộ
và 16 hộ cận nghèo cuối nhiệm kỳ phường đã hoàn thành giảm thêm 3 đến 4 hộ và
01 hộ cận nghèo.
Đối với sự tham gia của các chủ thể cho thấy kết quả tích cực nhất trong số
các đặc điểm của mô hình. Trong các kết quả được nêu cho thấy lượng tham gia từ
các chủ thể đông đảo thuộc mọi tầng lớp cũng như mọi chủ thể tham gia vào hoạt
động nhà nước. Như đã nói theo yêu cầu của mô hình, điều đạt được ở đây là mọi
lĩnh vực phải được sự tham gia của đông đảo người dân, không bị giới hạn và
không phân chia họ là ai. Các kết quả ở đây cho thấy: Thứ nhất, các lĩnh vực đều
có một mức độ tăng đều và tăng mạnh, điều này cho thấy số lượng tham gia của
các chủ thể thuộc phường Hồng Hà là đông đảo và được tham gia vào các lĩnh vực
33
một cách tự do bình đẳng trước pháp luật; Thứ hai, sự tham gia của các chủ thể
tăng vượt trội là kết quả trực tiếp của cải cách không chỉ là công tác hành chính mà
còn hàng loạt các lĩnh vực khác nhau.
Số lượng chủ thể tham gia kinh tế gia tăng mạnh vào giai đoạn 2018 so với
đầu nhiệm kỳ là nhờ chuyển đổi cơ cấu kinh tế cũng như chính sách thay đổi kinh
tế bền vững. Hoặc trong công tác hành chính, số lượng chủ thể tham gia vào công
tác hành chính tăng mạnh và đều hơn trong những năm 2018 và 2019 là nhờ việc
thay đổi cách thức hoạt động và cải cách hành chính theo hướng thủ tục một cửa
và hành chính công địa phương được đón nhận cao dẫn tới việc giải quyết tăng vọt
bất thường.
Sự tham gia của các chủ thể, nhóm đánh giá ở mức 08/10 và đồng tính với
kết quả trên, điều này chứng minh cho thấy sự tham gia của các chủ thể vào mọi
lĩnh vực của đời sống không chỉ thay đổi cơ bản về xã hội và hành chính mà giờ
đây còn thay đổi cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi phù hợp và thích nghi với môi
trường mới.
Đối với việc hướng tới sự đồng thuận, đặc điểm này yêu cầu sự đồng thuận
chung từ 2 phía. Mức độ đồng thuận được đánh giá là trung bình cao dựa trên các
báo cáo và kết quả được luận ra từ các tài liệu cho thấy có sự phân chia và phân bổ
không đều về sự đồng thuận được tạo ra từ 2 phía. Từ phía chính quyền, nhiệm kỳ
2016-2020, UBND phường thực hiện tốt các hoạt động điều hoà lợi ích cho người
dân, đặc biệt là người dân phường Hồng Hà. Các chủ thể tham gia vào công tác
hành chính cho thấy sự đồng thuận cao nhất khi các kết quả báo cáo cho thấy số
lượng công dân tham gia ngày một tăng và hợp tác hiệu quả với chính quyền địa
phương hơn. Điều này cũng làm rõ vấn đề lớn nhất không chỉ trong quá khứ mà
còn trong hiện tại về công tác hành chính. Việc tăng số lượng đồng nghĩa với tăng
số lượng chủ thể tham gia, khi tăng số lượng chủ thể tham cũng tương đương với
tăng số lượng hợp tác giải quyết được nhận thấy trong lĩnh vực kinh tế, xây dựng
và chính sách an sinh cho thấy mức đổ mở cao và tạo ra sự đồng thuận của người
dân hơn so với các lĩnh vực khác. Từ phía người dân cũng thấy mức độ tham gia
đông đảo từ các đồng thuận được tạo ra từ chính quyền đặc biệt có thể nhận thấy
mức độ mở cao tại kinh tế và chính sách, với nhánh xã hội thì xây dựng và giáo
34
dục.
Đối với trách nhiệm giải trình, UBND phường có mức độ trách nhiệm giải
trình ở mức độ trung bình cao. Và mức độ giả trình xã hội là trung bình thấp. Đối
với trách nhiệm giải trình trong cơ quan UBND phường cho thấy kết quả cao và
hiệu quả tương tác giữa các nhân viên nội bộ phường, từ việc tiếp nhận và làm việc
hiệu quả đặc biệt là trách nhiệm trong giải quyết các thủ tục khiến nghị với lãnh
đạo và tương tác với các phòng ban. Với các kết quả trách nhiệm xã hội, UBND
phường trong 5 năm thực hiện tốt quy chế dân chủ theo Pháp lệnh số 34 của
UBTVQH đề ra và được công khai cho người dân biết. Trong các khoản được
công khai ngoài thủ tục hành chính và giải quyết khiếu nại còn có thêm các giải
quyết khiếu nại cụ thể bằng văn bản như tiếp nhận đơn khiếu nại của người dân,
thụ lý giải quyết khiếu nại của người dân, kiểm tra, xác minh, giải quyết, trả lời, trả
kết quả khiếu nại tố cáo đạt hơn 90%. Ngược lại đối với giải trình trực tiếp cho
thấy mức độ thấp hơn hẳn và chưa đạt được mục tiêu theo đặc điểm của mô hình
đề ra. Theo các nguồn tài liệu như chỉ số PAPI và khảo sát thực tiễn 3 phường cơ
sở xung quanh lân cận cho thấy toàn thành phố có mức độ giải trình trực tiếp là
thấp và chưa hiệu quả từ phía chính quyền địa phương, việc tham gia vào giải
quyết các vấn đề liên quan đến dân sự thường được phường tự giải quyết theo hội
đồng phường và các chuyên môn của phường làm việc và đưa ra kết quả, trả kết
quả thông qua thư trực tiếp hoặc gián tiếp tới các tổ trưởng tổ khu phố. Hiệu quả
làm việc trực tiếp được ghi nhận thường thấy là sự chủ động của lãnh đạo phường
trong các công tác kiểm tra giám sát và các hoạt động được chỉ đạo từ trên xuống
như chính sách di cư an toàn đối với các hoạt động không bền vững trên biển vào
năm 2008 cho tới 2015 đến 2019 và trong năm 2021 còn với các hoạt động khác
thường là do chuyên môn địa chính phường thực hiện đi khảo sát và báo cáo và
giải quyết nếu cần thiết. Đối với các hoạt động khác được nêu cũng tương tự.
Đối với các kết quả về minh bạch, kết quả về mình bạch được cải thiện rõ
rệt ở nhiều nội dung và hình thức trong đó có ban hành và tổ chức thực hiện ban
hành một loại các chính sách an sinh xã hội và chính sách cải cách hành chính.
Đối với chính sách an sinh xã hội, tính minh bạch được thể hiện bởi sự công bố
thường xuyên các chính sách an sinh xã hội như bảo hiểm y tế là một chính sách
35
an sinh được đảm bảo nhất với tỉ lệ đạt 97% cho thấy công bố về thông tin y tế là
minh bạch và hiệu quả thu hút người mua bảo hiểm y tế. Đồng thời các đối tượng
là trẻ em cũng được tiêm chủng hiệu quả nhờ công bố các loại tiêm chủng và đảm
bảo an toàn tiêm chủng. Song song với chính sách y tế là chính sách cho đối tượng
NCCVCM, chính sách cũng được công bố minh bạch về đối tượng được hưởng và
các điều chỉnh về đối tượng được hưởng, năm 2013 giai đoạn 1, giai đoạn 2 năm
2017 và 2020 đều cho kết quả tích cực điều này chứng minh các thông tin là minh
bạch và đồng thời cũng được phường hướng dẫn công dân đăng ký điều chỉnh phù
hợp với chính sách hiện hành. Ngoài ra, minh bạch cũng thể hiện trong mảng công
bố thông tin về các hoạt động văn hoá xã hội và một số các loại hình khác và đều
được người dân đánh giá cao. Đánh giá về tính minh bạch cho thấy đây là một đặc
điểm toàn diện và được thực hiện bởi UBND phường đạt kết quả rất tích cực.
Đối với đặc điểm đáp ứng, trong nhiệm kỳ qua UBND phường đã thực hiện
các đáp ứng từ cơ bản tới nâng cao trong đó khi nhìn vào kết quả cho thấy các lĩnh
vực như xây dựng và điều chỉnh kinh tế đều đạt kết quả rất tích cực, tiếp đến là
lĩnh vực khiếu nại tố cáo bên cạnh đó là đáp ứng công tác hành chính cho người
dân, cuối cùng là đáp ứng các nhu cầu cơ bản của người dân. Từ đó là cơ sở để
phát triển các mục tiêu khác và thực tế một số đáp ứng đã tạo ra công bằng và thu
hút đáng kể cho phường trong kinh tế và văn hoá trong nhiệm kỳ qua. Các kết quả
đều cho thấy tín hiệu tích cực về đáp ứng, điều này cũng cho thấy mức độ đáp ứng
của các thiết chế tổ chức tới người dân phường trong khoảng thời gian 5 năm đều
tăng dần và có sự chuyển biến tích cực.
Đối với công bằng, UBND phường Hồng Hà tích cực trong việc thực chính
sách tạo ra môi trường công bằng, bình đẳng giữa các nhân hoặc tổ chức trong xã
hội tham gia. Kết quả từ kinh tế xã hội chính sách đều tăng cho thấy sự công bằng
giữa các chủ thể tham gia. Từ các chỉ số đều cho thấy mức độ mở liên tục của
chính sách mà phường thực thực thi. Và từ đó là cơ sở đề thực hiện thu hút các chủ
thể tham gia vào các môi trường được tạo ra.
Đối với thu hút, phường Hồng Hà cho thấy một mức độ thu hút các chủ thể
từ người dân cho tới chủ thể kinh tế tham gia tăng và tạo ra một lực đẩy rất tích
như chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội cho người dân vùng
36
vịnh. UBND phường Hồng Hà là cơ quan nhà nước tại địa phương từ khi thành lập
tới nay là một cơ quan pháp quyền toàn diện hoạt động bởi những thành viên ưu tú
đủ đức đủ tài, đồng thời là những thành viên xuất sắc của Đảng điều hành. Trong
toàn bộ thời gian hoạt động của mình UBND phường Hồng Hà luôn luôn và tích
cực phát huy theo định hướng của Đảng và Nhà nước và thực thi quyền lực thông
qua các kênh chiều dọc. Trong 3 nhiệm kỳ từ 2010-2015; 2016-2019; 2020-2026,
UBND phường Hồng Hà tích cực cải cách thể chế dân hoàn thiện là trung tâm
hành chính của thành phố. Ngoài việc thực hiện tuyên truyền và cải cách tuyên
truyền hiện đại hoá, số hoá Hiến pháp và Pháp luật cho người dân, UBND phường
ban hành và hồi đáp các văn bản của người dân, đặc biệt là của cử tri và của người
kiến nghị.
Với số lượng 68 văn bản về thực hiện kế hoạch và cải cách hành chính trong
nhiệm kỳ qua cho thấy các thay đổi mạnh mẽ về công tác xây dựng chính quyền.
Trong báo cáo dự thảo cũng cho kết quả tích cực về sự đổi mới của UBND quản lý
điều hành hoạt động, hiệu quả, hiệu lực được tăng lên rõ rệt ngoài bán sát các nghị
quyết của Đảng và HĐND thì UBND phường cũng tự chủ các trong linh hoạt triển
khai các kế hoạch và linh động trong ngân sách đảm bảo phát triển bền vững theo
luật pháp và ngày một chuyên chế hoá nhà nước pháp quyền trong UBND phường.
Trong chỉ số PAPI nhiệm kỳ 2015 – 2019 và tài liệu về chỉ số CCHC của
các cơ quan năm 2020 cho thấy UBND phường thực hiện quy chế dân chủ và pháp
quyền luôn cao trong số những phường xã ở thành phố. UBND phường trong
nhiệm kỳ đã làm tốt các hoạt động của mình và cho thấy kết quả của các quá trình
nêu trên đều hiệu quả cao và đạt được nhiều thành tựu tích cực, đặc biệt là kinh tế
và xã hội. Mặc dù đạt được nhiều thành tích xong cũng đáp ứng được các nhu cầu
của xã hội và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên của mình. Một trong số đó kể đến
các khoản ngân sách và nhân lực trong chính sách, UBND phường sử dụng hiệu
quả nguồn ngân sách và nguồn hân lực hợp lý hơn so với kết quả đạt được, điều
này cho thấy tỉ lệ nghịch rõ ràng và tỉ lệ này góp phần tạo nên sức hiệu lực đúng
37
thực tế.
2.2.2. Nguyên nhân của những kết quả đạt được trong áp dụng áp dụng
mô hình quản trị nhà nước tốt ở Ủy ban nhân dân phường Hồng Hà
Nguyên nhân chủ quan, trước hết là sự nỗ lực không ngừng của phường
Hồng Hà và các cơ quan lãnh đạo, đặc biệt là sự hỗ trợ to lớn của Đảng ủy phường
và cơ quan đầu não của tỉnh tích cực trong hỗ trợ, hướng dẫn thực hiện, chỉ đạo
chung hệ thống chính trị nhằm hoàn thiện toàn diện các mục tiêu đề ra đặc biệt là
các chính sách phát triển chung của phương hướng người dân là trung tâm và lợi
ích toàn dân.
Công tác cải cách thủ tục hành chính (TTHC) trên địa bàn tỉnh đã đạt được
nhiều kết quả; tỉnh đã chỉ đạo rà soát, chuẩn hóa bộ thủ tục hành chính thuộc thẩm
quyền giải quyết của các sở, ban, ngành và ủy ban nhân dân cấp huyện đưa vào
thực hiện tại Trung tâm Hành chính công và các Trung tâm Hành chính công cấp
huyện, bảo đảm nhanh chóng, hiệu quả, tạo môi trường thuận lợi cho người dân, tổ
chức, doanh nghiệp trong việc thực hiện TTHC.
Đối với các cơ quan ngành dọc, công tác CCHC trên địa bàn tỉnh được các
cơ quan phối hợp với các cơ quan, đơn vị, địa phương thuộc tỉnh nghiêm túc triển
khai, bám sát sự chỉ đạo của trung ương, của ngành, của tỉnh từ việc xây dựng
chương trình, kế hoạch năm, tham gia ý kiến trong xây dựng, tổ chức thực hiện,
tham mưu cùng tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, đơn giản hóa TTHC, báo cáo
kết quả kịp thời.
Thứ hai, người dân đã tích cực tham gia vào hệ thống hành nước và cải thiện
các hiệu quả. Trong những năm gần đây, sự tham gia của nhân dân đã được cải
thiện đáng kể cả trên bình diện lập pháp cũng như thực tiễn. Hiện có nhiều cơ chế
pháp lý bảo đảm sự tham gia của nhân dân. Đặc biệt, với Pháp lệnh thực hiện dân
chủ ở cấp xã, phường, thị trấn, sự tham gia ở cấp cộng đồng dân cư và chính quyền
cấp xã đã được mở rộng và hiện thực hoá: người dân có quyền được biết, được
bàn, được làm, được tự quyết định và được kiểm tra giám sát nhiều hoạt động của
chính quyền cơ sở. Các luật đã mở rộng tính dân chủ thông qua quy định nhiều cơ
hội tham gia của người dân, ví dụ như trong giám sát môi trường, giám sát xử phạt
38
hành chính,… Mô hình chính quyền điện tử được thực hiện thí điểm cho phép sự
công khai và tham gia của người dân vào theo dõi hay đánh giá công việc của
chính quyền.
Về nguyên nhân khách quan, ảnh hưởng của chính sách là trọng tâm cho sự
tham gia của các chủ thể trong xã hội. Trong lĩnh vực kinh tế, sự tham của các chủ
thể là công ty và doanh nghiệp tăng cho thấy chính sách thu hút và mở cửa đón các
nhà đầu tư cũng như các nhà doanh nghiệp lớn trong thị trường gia tăng, bên cạnh
đó các chính sách cũng ảnh hưởng tới các doanh nghiệp nội tại của phường như
các khu chợ và dịch vụ. Mặc dù có sự tăng trưởng nhất định nhưng ảnh hưởng của
chính sác là không nhỏ trong đó có chính sách di cư và xây dựng cải tạo đô thị. Hai
loại hình ảnh hưởng trên tạo ra sự giảm chủ thể tham gia, đây có thể nói là nguyên
nhân khách quan do chính sách tạo ra và chủ quan trong việc chưa thu hút được
các chủ thể kinh tế nhỏ quay lại.
Một trong số đó có thể nhận thấy trong dự thảo có báo cáo về sống lượng hộ
kinh doanh dịch vụ mà hộ kinh doanh dịch vụ thường là những chủ thể tham gia
vào trong đó giảm nhẹ trong năm 2018 – 2019. Thời điểm này ghi nhận dự án cải
tạo thành phố Hạ Long từ năm 2018 trong đó chợ Hồng Hà là nơi được hưởng dự
án trên tại văn bản 79/GM-UBND và 367/UBND về công tác giải toả chợ tự phát
và chuyển đổi mô hình quản lý chợ trên địa bàn phường Hồng Hà dẫn tới sự suy
giảm nhẹ của cá chủ thể kinh tế.
Nguyên nhân đó đến từ việc chuyển đổi khiến một số chủ thể không hài
lòng hoặc thấy được không đáp ứng với khả năng kinh doanh của họ. Thực tiễn
cho thấy việc chuyển đổi tạo ra sự thích nghị không phải là tức thì với người tham
gia dẫn đến số lượng giảm, ngoài ra còn một số vấn đề khách quan khác như thuế
quan, mặt bằng thuê tại trung tâm, thuận tiện việc buôn bán được cho là không khả
thi hơn so với các loại hình dịch vụ khác như nhà hàng và khách sạn dẫn tới việc
giảm thành phần cơ cấu kinh tế này sẽ tăng hoặc chuyển đổi thành phần cơ cấu
kinh tế khác, có thể thấy số lượng chủ thể chuyển sang làm các dịch vụ khác như
nhà hàng và khách sạn tăng nhẹ và tăng là phù hợp với số liệu.
Đối với công tác hành chính, sự tham gia của các chủ thể vào công tác hành
chính cho thấy sự tăng mạnh mẽ giữa kết quả hồ sơ và tiếp dân. Số lượng chủ thể
39
tham gia là do sự thay đổi và đầu tư vào cơ sở hạ tầng và dịch vụ một cửa tiếp
nhạn và trả kết quả nhanh. Số lượng công khai và niêm yết tăng thêm ½ so với đầu
nhiệm kỳ dẫn tới niềm tin vào giải quyết thủ tục của UBND phường và bộ phận
một cửa.
Đối với chính sách cho thấy sự tham gia của các chủ thể tích cực nhất là
chính sách an sinh xã hội, được ủng hộ chủ yếu do chính sách mở và do ưu đãi của
Nhà nước trong nhiều năm với bảo hiểm và đối tượng chính sách. Ngoài ra, Đảng
và Nhà nước cũng thay đổi các chính sách cho ngày một phù hợp hơn với tình hình
của đất nước. Các chính sách 2018 và 2021 cho thấy chính sách ngày mở rộng và
hướng nhiều tới đối tượng hưởng chính sách, điều này đồng nghĩa việc mở rộng và
nhắm tới đúng đối tượng, tạo ra tiền đề cho các đối tượng được hưởng chính sách
tham gia chặt chẽ phù hợp và giải quyết phù hợp an sinh cho những người có công
với đất nước và những người yếu thế trong xã hội.
Đối với hướng tới sự đồng thuận phải nói tới nguyên nhân từ phía chính
quyền địa phương. UBND phường Hồng Hà là đơn vị trực tiếp tạo ra các điều kiện
để người dân tham gia từ đó tạo ra sự đồng thuận. Có thể thấy trong lĩnh vực xây
dựng, việc cải tạo đô thị, mở rộng sát nhập các thành phần đất đai tạo điều kiện
cho các thành phần kinh tế đầu tư. Một trong những vấn đề cơ bản là không một
chủ thế kinh nào chấp nhận đầu tư vào khu vực mà không được cải tạo hợp lý về
địa lý. Việc thu lợi nhuận và đóng góp xã hội là hai mục tiêu đồng thuận giữa nhà
nước và doanh nghiệp. Chính vì vậy cải tạo địa phường Hồng Hà là tạo ra sự đồng
thuận chung của các doanh nghiệp đầu tư.
Việc mở rộng đất đai và cải tạo đô thị giúp thu hút đầu tư là nguyên nhân từ
phía chính quyền địa phương. Nó cũng là nguyên nhân từ phía người dân, chủ yếu
là phía chủ thể kinh tế. Tăng số lượng kinh doanh các loại hình dịch vụ cho thấy
hướng đi của phường là tiếp cận với các chủ thể đầu tư là dịch vụ và cung ứng các
dịch vụ đó. Đối với một số sự suy giảm nhẹ từ chuyển đổi kinh tế từ buôn bán
truyền thống sang mở dịch vụ gắn liền với chuyển đổi cơ cấu kinh tế cho thấy hai
phía tạo ra sự đồng thuận, sự suy giảm là do chính sách không hiệu quả nhưng
thực tế sự không tham gia vào các loại hình trên giảm là sự khách quan của thị
trường và chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ buôn bán sang cho các thị phần buôn bán
40
khác như siêu thị mini, trung tâm thương mại và các loại hình tương tự nhờ đầu tư
và từ giải phóng mặt bằng. Ghi nhận bởi nhóm nghiên cứu khảo sát cho thấy do
mặt độ dân cư và đất dai được sử dụng là đất thổ cư nên không có hạng mục nào
được đầu tư là các công trình cơ sở hạ tầng về dịch vụ cung ứng hàng hoá như
trung tâm thương mại mà việc dịch chuyển dịch vụ được hướng sang các khu vực
bên cạnh như phường Hồng Hà, phường Bãi Cháy và phường Hồng Gai là các chủ
thể cung cấp hàng hoá và dần chuyển đổi phường thành khu vực sở hữu và kinh
doanh dịch vụ nghỉ dưỡng nhờ lợi thế của địa lý cạnh biển. Việc suy giảm của
đồng thuận về loại hình này là thuận lợi với phát triển đồng thuận loại hình khác.
Đối với Công tác hành chính, nguyên nhân chủ yếu tới từ người dân khi
tham gia vào các công tác này, vì sự đồng thuận chung trong cải cách hành chính
đã diễn ra từ lâu và được phổ cập rất lâu dài từ trước khi nhiệm kỳ 2015 -2019 bắt
đầu, công tác hành chính là công tác mà ở đó nhà nước ban hành giải quyết công
tác hành chính và tham gia là chủ thể, hành chính luôn mở và luôn tìm kiếm sự
đồng thuận với nhu cầu và lợi ích của người dân.
Thực tiễn chứng minh các quan hệ giữa thủ tục hành chính và nhu cầu đáp
ứng các thủ tục từ phía người dân là gắn liền và không thể bị tách rời. Việc người
dân yêu cầu được cấp quyền sử dụng đồng nghĩa với đáp ứng từ phía chính quyền
và khẳng định theo luật là hợp tác giữa người dân và Nhà nước trong nhu cầu sử
dụng đất theo luật hiện hành và nhà nước, ngược lại, cung cấp quyền được sử dụng
vì lợi ích của người được cư trú. Việc không được cấp hoặc sử dụng đất bởi cơ
quan nhà nước là đi ngược với luật pháp. Điều này được thể hiện bởi một lượng
nhỏ người dân tham gia sử dụng đất trái phép, ngoài người dân còn có một số chủ
thể khác như đã được nêu trên kết quả. Chính vì vậy, nguyên nhân ở đây là do sự
tín nhiệm của người dân vào hệ thống công tác hành chính ngày một cao hơn nhờ
vào điều kiện tạo ra đồng thuận giữa nhà nước, mặc dù phải mở rộng tới nhiều lĩnh
vực và hình thức nhưng chỉ cần cho thấy một hoặc một số lĩnh vực hiệu quả, nó sẽ
dẫn dắt tới buộc các lĩnh vực khác phải tuân theo và cải cách phù hợp. Nhà nước
trong nhiệm kỳ qua đạt được nhiều thành tựu về cải cách nhất trong năm 2019 và
đầu 2020 dẫn tới số liệu từ chỉ số CCHC [2] tăng điểm mạnh và tăng mức độ hiệu
quả. Ngoài ra, cũng phản ánh mức độ hiệu quả của người dân tham gia vào từng
41
phòng ban trong chỉ số CCHC.
Đối với nguyên nhân của trách nhiệm giải trình, đây là nguyên nhân từ phía
UBND phường. Đối với công tác giải trình đã được nêu tại kết quả cho thấy mức
độ trách nhiệm cao trong công tác giải trình đặc biệt là các kết quả tích cực như trả
kết quả giải trình khiếu nại và thực hiện các công tác giả quyết khiếu nại trực tiếp
như lĩnh vực xây dựng và lĩnh vực chính sách. Làm việc theo đúng trình tự và giải
quyết các lĩnh vực theo luật và chuyên môn cho thấy mức độ hợp tác có trách
nhiệm và giải trình việc làm giữa các bộ phận với nhau từ đó tạo nên các kết quả
tích cực.
Bên cạnh đó, kết quả cho thấy mức độ giải trình còn thấp của chính quyền
địa phương với người dân. Hiện nay việc này đến từ Thông tư 14/2018/TT-BNV
sửa đổi thông tư 04/2012/TT-BNV hướng dẫn về tổ chức và hoạt động của thôn, tổ
dân phố do Bộ trưởng Bộ nội vụ ban hành. Việc hoạt động theo Thông tư được nêu
trên là một hạn chế hơn là một nguyên nhân của trách nhiệm giải trình, khi không
kể đến các cuộc tiếp xúc cử tri của UBND và HĐND thì 60 – 70% mức độ làm
việc đến từ hoạt động tiếp xúc thông qua các trưởng khu phố nhằm giải quyết các
vấn đề khúc mắc của người dân như khiếu nại tố cáo yêu cầu lợi ích về công tác
hành chính xây dựng, một trong những lý do điển hình ở UBND phường Hồng Hà.
Như đã nói, việc liên hệ với cá nhân có thẩm quyền không đồng đều giữa
trách nhiệm từ người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước tới trưởng thôn, tính
riêng trong năm 2019, mức độ chênh gần 20%, 2018 chênh gần 15%, độ chênh
lệnh ngày càng tăng giữa chủ thể tham gia vào giải quyết vấn đề. Trưởng thôn có
thể thấy là phương pháp hiệu quả hơn nhiều so với cá nhân có thẩm quyền. Mức
độ tham gia của chủ thể thấp còn các kết quả trả kiểm tra cho thấy kết quả cao và
đạt ngưỡng trung bình từ 92 – 93% điều này cũng chứng mình ngược lại các kết
quả tích cực của trả lời và trả kết quả là hiệu quả và công bằng nhưng lại chỉ đạt
được số lượng thấp người dân tin vào trách nhiệm giải trình của UBND phường
cũng như các cơ quan chức năng hoặc cá nhân có nhiệm vụ khác. Nguyên nhân
chủ yếu là do công tác giải quyết không được linh hoạt và tự chủ của phường chưa
cao dẫn tới một số giải quyết vẫn cần tuân theo luật và chính sách cụ thể, dẫn tới
một số bộ phận nhỏ người dân không tin hoặc không được giải trình cụ thể về vấn
42
đề mình đang gặp phải.
Một trong số đó các khiếu nại tại dịch vụ tư pháp cũng chứng mình cho thấy
sự giải quyết của chính quyền địa phương còn khiến cho người dân chưa được đáp
ứng đầy đủ dẫn tới một lượng nhỏ chủ thể gặp vấn đề khiếu nại tố cáo tự giải quyết
mà không cần đến toà án hoặc các cơ quan chức năng địa phương khi có tranh
chấp dân sự hoặc phi dân sự. Chỉ số PAPI cho thấy có một bộ phận nhỏ lên đến
1.84% trong năm 2019 và tăng mạnh lên đến hơn 5.6% trong năm 2020. Điều này
chứng mình mức độ giải trình trực tiếp đạt kết quả cao, nhưng thiếu mức độ
chuyên môn với một số loại hình khiếu nại tố cáo. Trong chỉ số nhắc tới niềm tin
của người dân vào giải trình rất cao ít nhất 89 – 90% tin và sẽ sử dụng toà án cho
các tranh chấp, nhưng thiếu 5% ở mức độ này nếu đặt giả thuyết rằng trách nhiệm
giải trình cao và tuyệt đối sẽ không thể có đến ít nhất 0.5% người dân không hài
lòng với hoặc không tin vào việc cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền giải
trình. Như vậy, nguyên nhân cho mức độ giải trình đạt kết quả cao là nhờ vào trình
độ chuyên môn, lãnh đạo của phường và sự tích cực của nhân viên phường trong
trách nhiệm giải trình, tuy nhiên mức độ tham gia trực tiếp giữa cá nhân có thẩm
quyền và tham gia của người dân là nguyên nhân dẫn tới trách nhiệm giải trình
trực tiếp thấp, phản ánh đúng thực trạng và chỉ số đề ra.
Việc chỉ ra nguyên nhân cho thấy sự khiêm tốn nằm ở chỉ số PAPI phản ánh
đúng kết quả đưa ra bởi nhóm với đặc điểm minh bạch. Chỉ số đánh giá trung bình
là 5.452 trong 5 năm nhiệm kỳ, cho thấy một điểm số khiêm tốn theo đúng nghĩa
trong khi tổng thể toàn bộ từng kỳ 5 năm đều trên 5.5 có 1 năm 4.46 và 2 năm liên
tiếp 6.3 trở lên, điều này phản ánh đúng tính minh bạch của kết quả được nêu.
Nguyên nhân nằm ở chỗ những người tham gia vào đánh giá. Thứ nhất là với toàn
thể dân cư của phường tham gia các chính sách khi được biết thông tin đạt 90%
cao nhất ngược lại sự tham gia chứng minh điều này. Thứ hai, với một số chính
sách có sự khiêm tốn, nguyên nhân ở chỗ mặc dù có tiếp cận với thông tin cao
nhưng số người được tiếp cận thấp dẫn tới tỷ lệ người tìm kiếm, nhận thông tin,
thông tin tin cậy, hữu ích chỉ đạt ở ngưỡng từ 16.44% đến 19.31% trong khi một số
tỉnh thành phố khác có mức độ tới 22.34% và trung bình chung đạt 21.01% trở lên.
Kết luận đây là sự tăng khiêm tốn trong tính minh bạch trong khi UBND phường
43
có thể thực hiện nhiều hơn thế. Thứ ba, qua khảo sát cho thấy toàn phường có số
lượng đảng viên trung niên và trên trung niên là chủ yếu nên việc thực hành và ứng
dụng CNTT kém hơn so với các tỉnh thành phố khác, chỉ số PAPI cũng chỉ ra quản
trị điện từ thấp nhất từ 0 điểm đầu nhiệm kỳ và chỉ tăng 2.61 điểm cuối nhiệm kỳ.
Bên cạnh đó CSCCHC năm 2020 của các phường trên địa bàn cho thấy mức độ sử
dụng CNTT kém hơn nhiều được đưa ra mức 5 điểm xếp thứ 11/13 đạt điểm trung
bình chung ở mức dưới trung bình là 55.56% cho tiêu chí Hiện đại hoá nền hành
chính và với chỉ số PAPI tăng 3.14 điểm, mức tăng trung bình và khiêm tốn so với
thực lực của địa phương dẫn tới tăng không đều và tăng nhẹ các điểm – chỉ số
chung về thông tin minh bạch.
Như đã nói ở kết quả, thì đáp ứng là tiêu chí mạnh mẽ khi nhắm tới các chủ
thể trong xã hội trong kết quả, việc dân cư phường đạt được các nhu cầu của mình
đồng nghĩa với việc Nhà nước đã đáp ứng được tất cả từ đời sống cho tới kinh tế.
Theo chỉ số PAPI cho thấy cung ứng dịch vụ đạt 6.68 điểm đầu nhiệm kỳ, cuối
nhiệm kỳ và 2020 đạt 7.65 và 7.71. Điều này đúng trong kết quả được nêu khi cho
thấy số lượng trường học, xây dựng cơ bản, văn hoá xã hội tăng nhẹ nếu chỉ tính
riêng chỉ số trường học cho thấy nó tăng nhẹ một cách khiêm tốn như đã nói và
chưa đúng thực lực. Một phần do sự phân bổ dịch vụ công không đồng đều. Qua
khảo sát cho thấy hàng năm việc đáp ứng địch vụ công trong các thành phần nêu
trên đều bị mất mát một cách đáng kể và thường xuyên bị mất đi một lượng công
dân tham gia.
Việc mở trường học như trường THPT Lê Thành Tông là trường dân lập
thay vì công lập, trong khi, hai trường lớn nổi tiếng ở Hạ Long là trường THPT
Hòn Gai và THPT Chuyên Hạ Long là hai trường thu hút học sinh theo học và là
công lập lớn, ngoài ra, sự lựa chọn nền giáo dục trong tầng lớp xã hội cũng ăn theo
nhau là “trường công thường tốt hơn trường tư”, vì thế nảy sinh tâm lý người dân
trong lòng thành phố Hạ Long là ba trường mà con em phải hoặc ít nhất đỗ 1 trong
3 là Hòn Gai, Chuyên Hạ Long và Trường Ngô Quyền thuộc phường Hà Lầm.
Việc có bệnh viện không lớn và không gần cũng làm gia tăng việc di chuyển
dời khỏi khu vực và thay đổi trong tâm lý đi bệnh viện khiến mục tiêu đáp ứng bị
thấp hơn. Bệnh viện tỉnh Quảng Ninh và bệnh viện Bãi Cháy là hai bệnh viện
44
chính ở Hạ Long, ngoài ra việc có thêm một số cơ sở nhỏ nhưng lại không được ưa
chuộng bằng, chính vì thế, người dân ở phường Hồng Hà có xu hướng đi tới các
bệnh viện tuyến trên thậm chí sẵn sàng chi tiêu vì các bệnh viện lớn như ở Hà Nội.
Mặc dù có sự đầu tư công phu nhưng lựa chọn theo nhu cầu và đáo ứng theo
nhu cầu đó còn khiêm tốn và có xu hướng thay đổi nhẹ chính vì thế nguyên nhân
chủ yếu cho việc đáp ứng tăng khiêm tốn trong từng lĩnh vực là sự thay đổi tâm lý
với đáp ứng của địa phương là chưa cao và chưa có một giải pháp cụ thể. Việc này
được phản ánh một phần trong trách nhiệm giải trình của hệ thống cơ quan địa
phương khi không hoặc chưa hoặc còn có sự khiêm tốn trong giải trình kêu gọi và
thu hút nguồn lực.
Trong kết quả về chính sách có tới ít nhất tới 2% phải cưỡng chế là các chủ
thể kinh tế. Mặc dù là mục tiêu di dời đảm bảo đời sống xã hội tuy nhiên việc
không tạo ra công bằng giữa các chủ thể này được diễn tả là chủ thể phải chịu di
dời, phá dỡ và tự tái thiết theo quy định thay vì là được hỗ trợ cụ thể. Mặc dù
không có sự hỗ trợ trong việc này nhưng nó tạo ra lực đẩy khiến các chủ thể bị
ràng buộc dẫn tới phải cưỡng chế, nghĩa là công bằng không tới từ hai phía mà từ
một phía. Ngoài ra, việc tạo ra công bằng cũng vấp phải sự kháng cự giữa người
dân đặc biệt là trong kinh tế là chủ yếu do bất đồng về nhiều mặt giữa chủ thể và
khách quan thực tiễn. Điều này là hạn chế từ một phía và nên được giải quyết theo
hướng tạo ra công bằng.
Đối với nguyên nhân trong nhà nước nước pháp quyền thì không có nguyên
nhân yếu nào được nêu ra do bản thân UBND phường Hồng Hà là cơ quan làm
việc theo quy chế và chịu sự điều chỉnh của quy chế theo luật hiện hành, ngoài ra
còn bị chịu điều chỉnh bởi một số các quan hệ điều chỉnh khác như Bộ quy tắc ứng
xử: Nụ cười hạ Long và quy chế làm việc theo luật Tổ chức chính quyền địa
phương, ngoài ra còn chịu các điều chỉnh bởi Thành uỷ, Đảng bộ và HĐND nên
việc tuân theo và là nhà nước pháp quyền cao là các nguyên nhân chủ yếu.
Đối với hiệu lực, các văn bản và chính sách giúp người dân toàn vẹn về
tham gia và hiệu quả đều đạt mức độ cao và tích cực trong nhiều lĩnh vực, sự yếu
kém trong này thông thường không được đề cập rõ ràng nhưng tuy nhiên nó đúng
phản ánh chưa thực sự đúng hiệu lực của nó khi còn làm lãng phí một số tiềm năng
45
cơ bản như đã nêu ở một kết quả và nguyên nhân.
Đối với hiệu quả, các kết quả đều cho thấy việc sử dụng hợp lý và hiệu quả
nguồn lực đạt kết quả tốt nhất là các giai đoạn cải cách 2017 và 2018 cho thấy
nhiều kết quả tích cực hơn so với các năm, mặc dù đi ngược với hiệu lực tuy nhiên
hiệu quả từ các hiệu lực có phần tăng lên và thực sự chịu điều chỉnh tạo ra hiệu quả
hơn mặc dù như đã nêu ở các phần trên, gia tăng nhưng khiếm tốn chưa phù hợp
với thực lực.
2.3. Những hạn chế trong áp dụng mô hình quản trị nhà nước tốt ở Ủy
ban nhân dân phường Hồng Hà
2.3.1. Những hạn chế trong áp dụng mô hình quản trị nhà nước tốt ở Ủy
ban nhân dân phường Hồng Hà
Hạn chế trong áp dụng mô hình quản trị nhà nước tốt ở UBND phường
Hồng Hà đến từ nhược điểm của chính mô hình khi áp dụng và ngược lại là chủ
thể tham gia vào hoạt động chung của mô hình. Đây là hạn chế 2 chiều phản ánh
đúng thực trạng chung trong hạn chế của mô hình.
Trước hết khi nhìn vào nhược điểm của mô hình cho thấy các nhược điểm
được phân bổ đều với các hoạt động được sinh ra bởi chính nhược điểm đó trở
thành các hạn chế cơ bản trong việc áp dụng mô hình. Có thể kể đến như việc khó
thực hiện đồng nhất tám đặc điểm dẫn tới khó thay đổi biểu hiện bởi một trong số
đặc điểm của mô hình dẫn tới các hoạt động khác. Có thể kể đến như hạn chế trong
quy chế làm việc theo luật định đây là một hạn chế cơ bản và hạn chế chung cho
toàn bộ các hệ thống và các tổ chức. Thứ nhất, luật định là do con người tạo ra
đồng nghĩa với việc nó có thể được điều chỉnh phù hợp tuy nhiên một số là cứng
nhắc và là nguyên tắc cơ bản không thể xoá bỏ dẫn tới các hoạt động khác tuân
theo mà không cần phải sử dụng công cụ hoặc phương pháp cụ thể nhằm cưỡng
chế theo đó. Thứ 2 việc vi phạm hoặc chống lại một phần luật định chính là hạn
chế tới các chính sách do việc quy định thì chính sách phải tuân theo cho dù tính
pháp lý có đến đâu và không mang kại bất kỳ lợi ích hoặc nhu cầu nào tới đối
tượng điều chỉnh dẫn tới rằng buộc chung chống lại luật định và cưỡng chế bắt
buộc. Luật định ở đây cũng thể hiện rõ ở trong kết quả mà nhóm nghiên cứu chỉ ra,
việc đưa ra chính sách là một phần nhưng luật định là một điểm khác, trường hợp
46
về chính sách an sinh về cư trú an toàn theo Đề án cư trú 2008 của Thành phố Hạ
Long cho thấy một số điểm phản ánh sự hạn chế này. Việc buộc phải làm theo luật
dẫn tới chính sách không thể hiện được sự linh hoạt nhất định. Trong 0.5% trường
hợp di dời được nêu cho thấy chủ yếu là các chủ thể kinh tế bị rằng buộc bởi luật
và một phần chính sách, việc không linh hoạt trong luật được ban hành mới dẫn tới
chính sách không còn hỗ trợ được việc này dẫn tới cưỡng chế và giải toả chưa
công bằng cho chủ thể kinh tế nêu trên. Trong trường hợp nếu luật định có tính
linh hoạt hơn, thì chính sách sẽ linh hoạt tương tự và sẽ không có tình trạng chủ
thể bị cưỡng chế, điều này là minh chứng ngược lại về quy chế làm việc theo luật
định. Sâu hơn nữa trong trường hợp này là luật định vi phạm bởi chủ thể kinh tế
liên quan đến Luật Đất đai do là hoạt động bền vững trên ven biển không phải đất
quy hoạch, dấu hiệu vi phạm Luật Môi trường và một số văn bản khác về việc
chống lại thi hành công vụ trong việc di dời ít nhất là 5 năm kể từ lần đầu bắt
thông báo di dời. Mặc dù chính sách chuyển đổi mới đã tích cực giúp ích cho chủ
thể lên bờ lập nghiệp thay vì phải hoạt động trên biển nhưng việc rằng buộc họ lên
bờ và ép buộc theo luật định và chính sách dẫn tới khả năng tài chính và quyền, lợi
ích bị giảm thiểu tối đa khiến họ không thể thực hiện mới dẫn tới phải cưỡng chế.
Hoặc trong trường hợp khác về tính đồng thuận giữa nhà nước và người dân trong
các vấn đề chung, mặc dù ghi nhận nhiều kết quả, song việc bất đồng vẫn còn xảy
ra điều này chứng minh cho thấy khả năng và năng lực hạn chế giữa các chủ thể
tham gia. Ngoài ra, làm việc theo luật định cũng phản ánh tới các đặc điểm khác
trong mô hình khi cho thấy đặc điểm Nhà nước pháp quyền (làm việc theo luật
định) phản ánh tới các đặc điểm khác, mặc dù số liệu cho thấy một lượng nhỏ ảnh
hưởng bởi đặc điểm này như việc luật định có sự rằng buộc chung tới các chủ thể
mong muốn đáp ứng như cầu lợi ích của mình như kết quả đáp ứng thể hiện có tới
66 chủ thể chưa được đáp ứng về nhu cầu QSDĐ do vấn đề về luật định, trường
hợp đó có được nêu ở một số tài liệu phản ảnh khiếu nại tố cáo có nội dung về 2 hộ
dân tranh chấp sử dụng đất dai vào mục đích cư trú hay xây nhà để ở tuy nhiên lại
vấn phải việc sử dụng quá phần đất theo quy định dẫn tới không được hưởng
quyền sử dụng đất chịu thiệt thòi mất phần diện tích thuộc về đất nhà nước hoặc
47
đất dân sinh thông thường.
Hạn chế tiếp theo là hạn chế về số lượng chủ thể tham gia vào nhà nước
hoặc công tác hành chính. Ở kết quả cũng phản ánh số lượng nhỏ các chủ thể chưa
và không tuân theo các hoạt động hành chính. Việc chủ thể hiện nay không giải
quyết theo hướng dẫn của nhà nước thay vì phi nhà nước có thể thấy rõ có số
lượng tăng. Theo mô hình quản trị nhà nước tốt thì hạn chế về tham gia của các
chủ thể là hạn chế lớn nhất vì: Thứ 1, các chủ thể không tham gia nghĩa là không
có sự đánh giá được mức độ hiệu quả của mô hình cũng như không thể biết được
sự phụ thuộc vào nhà nước của các chủ thể, các chủ thể không tham gia cũng
tương đương việc nhà nước không thể đáp ứng các nhu cầu và không thể tạo ra
đồng thuận dẫn tới một sự phi nhà nước hoá giữa các chủ thể. Phản ánh ngay điều
này nằm ở chỗ việc sử dụng biện pháp giải quyết phi tư pháp trong chỉ số PAPI
2019 và 2020 tăng từ 2% lên 5.6% và có thể là tăng lên cao hơn trong năm 2021
do dịch bệnh và lệnh hạn chế, với con số 14000 nhân khẩu tham gia đánh giá
nhưng 1% cũng là quá nhiều so với một hạn chế về chủ thể tham gia. Ngoài ra, các
năm về trước cũng cho số liệu tương tự nhưng ở mức trung bình 2.8%.
Hạn chế cuối cùng là hạn chế về chuyển đổi CNTT, như đã nói ở nhiều phần
kết quả hạn chế về công nghệ thông tin là yếu tố hạn chế lớn trong mô hình quản
trị nhà nước tốt vì việc áp dựng mô hình là đòi hỏi về nguồn lực thông tin cũng
như nguồn lực về ứng công nghệ, việc ứng dụng càng cao dẫn tới việc càng hiệu
quả hơn giữa các chủ thể.
2.3.2. Nguyên nhân của những yếu kém trong áp dụng áp dụng mô hình
quản trị nhà nước tốt ở Ủy ban nhân dân phường Hồng Hà
Nguyên nhân của những yếu kém trong áp dụng mô hình quản trị nhà nước
tốt ở UBND phường Hồng Hà đến từ các chủ thể tham gia vào mô hình. Điều kiện
tiên quyết cho sự hiệu quả của mô hình là sự tham gia của các chủ thể và sự phụ
thuộc vào ý chí của các chủ thể tham gia. Đây là nguyên nhân lớn nhất và hơn cả
vì việc áp dụng mô hình muốn hiệu quả phải được thông qua các chủ thể, bản thân
không có kết quả nghĩa là không có tham gia, tham gia kém thì chất lượng kém,
thực hiện thế nào thì kết quả là như thế ấy. Từ phía các chủ thể là người dân thì
chủ yếu tới từ tâm lý của họ trong tham gia vào các hoạt động kinh tế và nhà nước,
48
từ kết quả và phân tích cho thấy số lượng chủ thể tham gia tạo nên sự yếu kém
trong áp dụng là rất nhỏ nhưng lại là nguồn cơn lớn trong mệnh đề của mô hình
quản trị nhà nước tốt dẫn nhữung nguyên nhân yếu kém khi áp dụng. Còn từ phía
chính quyền địa phương thì chưa thực sự làm tốt việc tạo ra các điều kiện và đáp
ứng cần thiết cho người dân, mặc dù như đã nói kết quả là tốt song phản ánh từ
chính những kết quả còn lại chưa tốt và từ những hạn chế từ phía người dân cũng
cho thấy kết quả yếu kém khi áp dụng.
Ngoài ra, sự yếu kém còn nằm ở chính các tác động của mô hình khi mô
hình yêu cầu có thể nói là quá cao so với tiêu chuẩn hiện tại khả năng của UBND
phường phản ánh thực tế sự áp dụng dẫn tới các yếu kém cơ bản. Bản thân mô
hình yêu cầu một nền móng đã có sẵn như Mô hình hành chính công - quản trị
công truyền thống của T.W.Wilson; M.Weber và F.W.Taylor nhưng phải thay đổi
các nguyên tắc hoạt động cơ bản sang hoạt động tập thể cao và đa năng hơn là từ
trên xuống, một chiều và khả năng đồng nhất 1 lúc toàn bộ 8 đặc điểm để đạt tới sự
tối đa hoá mô hình. Trên thực tế, bản thân là cấp phường xã cũng là một cấp mà ở
Việt Nam là cấp thấp nhất và hoạt động tối giản hoá hơn so với các chính quyền
cấp cao hơn nên khi áp dụng mô hình triệt để thì lại là không cần thiết quá nhiều
và dẫn tới sự đào thải, ngoài ra, việc áp dụng mô hình cũ hình thành lâu đời dẫn tới
việc sử dụng thuần thực hơn so với việc phải chuyển đổi và bắt đầu lại từ đầu
nhằm cải thiện hệ thống của mình. Mặc dù là mô hình mang nhiều đặc điểm ứng
dụng nhưng muốn tránh được những yếu kém thì phải có sự tham gia và đồng
thuận giữa các chủ thể không phân biệt họ là ai và đảm bản quyền, lợi ích hợp
pháp cho họ ở bất cứ thời điểm nào từ đó mới nguồn để giải quyết các yếu kém.
Ngoài ra còn có các nguyên nhân khách quan tác động tới mô hình như phân
bổ địa hành chính, dân số, trình độ phát triển,…
Tiểu kết chương 2
Giống như ở nhiều địa phương khác, quản trị nhà nước tốt ở phường Hồng
Hà đang có những thay đổi sâu rộng. Phường hồng hà đã áp dụng mô hình quản trị
nhà nước tốt và đạt được những thành tựu trong các lĩnh vực. Các kết quả đạt được
ở kinh tế là rất tích cực và đồng đều ở cả mở rộng và thu ngân sách. Phường Hồng
Hà ngày một mở rộng hơn và hoàn thiện các kết cấu hạ tầng nhằm đáp ứng các
49
hoạt động đầu tư, mở cửa chào đón các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài,
góp phần ổn định đời sống của người dân. Những kết quả đạt được do sự nỗ lực
không ngừng của Đảng ủy phường trong hướng dẫn, chỉ đạo hệ thống chính trị
hoàn thiện các mục tiêu, các chính sách phát triển lấy người dân là trung tâm và lợi
ích toàn dân. Nhân dân trên địa bàn phường tích cực tham gia vào hệ thống hành
chính nhà nước. Trong những năm gần đây sự tham gia của nhân dân đã được cải
thiện đáng kể cả trên bình diện lập pháp cũng như thực tiễn. Bên cạnh đó còn có
một số hạn chế trong áp dụng mô hình quản trị nhà nước tốt ở Ủy ban nhân dân
phường Hồng Hà. Đó là hạn chế trong quy chế làm việc theo luật, hạn chế trong
chính sách, hạn chế trong mức độ tham gia của các chủ thể trong xã hội, hạn chế
50
trong hợp tác giải quyết.
CHƯƠNG 3.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN MÔ HÌNH QUẢN TRỊ NHÀ NƯỚC
TỐT Ở ỦY BAN NHÂN DÂN PHƯỜNG HỒNG HÀ, THÀNH PHỐ HẠ
LONG, TỈNH QUẢNG NINH
3.1. Nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức và các tầng lớp nhân
dân về mô hình quản trị nhà nước tốt
Đối với giải pháp này, việc Nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức và
các tầng lớp nhân dân về mô hình quản trị nhà nước tốt cần phải được thực hiện
tích cực và tuyên truyền toàn diện về đổi mới mô hình nhà nước thông qua là tuyên
truyền đổi mới nhà nước và cải cách hành chính.
Việc nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức cần được nâng cao Thông
qua các lớp học hoặc cử cán bộ tham gia bồi dưỡng về quản lý nhà nước và nâng
cao quản lý phục vụ lãnh đạo như hội thảo, các kỳ họp,… phối hợp giữa các kỳ
công tác với các doanh nghiệp hoặc tổ chức về hướng dẫn kiến tạo tổ chức. Khảo
sát thực tiễn cho thấy cứ 10 thực thể khởi nghiệp thì 4 trong số đó cải thiện mô
hình của mình theo hướng hiện đại hoá và mô hình quản trị nhà nước tốt được biên
thuận thành các điều lệ chung nhằm hướng tất cả chủ thể tham gia vào tổ chức đều
thực hiện và thuận theo y chí của tổ chức đó, đồng thời là phương pháp cho hoạt
động bộ máy của mình. Ngoài ra, việc cử cán bộ tham gia vào các chương trình do
các doanh nghiệp cho thấy mức độ hiệu quả bởi việc các tổ chức kinh tế linh hoạt
trong chính sách và môi trường hơn so với nhà nước và có thể áp dụng được một
phần nhất định vào hoàn thiện mô hình nhà nước.
Ngoài ra, việc tuyên truyền về chương trình cải cách là không cụ thể và
không rõ ràng nếu không có sự hướng dẫn tốt từ các cấp khác nhau và giữa các cơ
quan đồng cấp khác nhau, khuyến nghị thử nghiệm với quy mô nhỏ hoặc phù hợp
trên mức độ nhất định được khuyến khích. Mô hình quản trị nhà nước tốt là mô
hình không khó áp dụng tuy nhiên nó cần chủ thể ở đây là các cán bộ nhà nước
tham gia tích cực và mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu thông qua việc thực hành tích
cực các mô hình. Việc thực hành nên là tự chủ và thực hiện chuyển đổi vừa tiết
kiệm vừa hiệu quả từ đó là kinh nghiệp nâng cao cán bộ trong cơ quan và ngoài cơ
51
quan.
Thực tiễn cho thấy các cấp chính quyền đị phương đặc biệt là cơ quan cấp
phường xã là cơ quan có mức độ thay đổi linh hoạt hoạt động đáng kể hơn so với
cấp cao hơn hoặc cấp xã, thị trấn, bản thân các chính quyền cấp phường đã có tiềm
lực về thay đổi, ghi nhận thấy trong tình hình dịch bệnh có diễn biến thuyên giảm
nhưng số ca mắc tăng mạnh do các biện pháp mở cửa nên cần có sự tổng hợp và
truy vết các ca bệnh nhằm tạo ra cơ sở dữ liệu về dân cư phục vụ cho các cơ sở y tế
tìm nguồn lực chữa bệnh khi bệnh dịch đã phổ biến nhờ vắc xin và các biện pháp
sức khoẻ khác. Ghi nhận cho thấy cán bộ của UBND phường Hồng Hà tích cực
trong các tác này nhờ nguồn lực thay dổi từ truy vết kiểu truyền thống ghi giấy tới
nhà hoặc nhận thông báo đi lại từ người dân thành công thông tin điện tử tiếp nhận
hoặc điền phiếu mẫu trực tuyến đơn giản mà lại tiết kiệm cho thấy việc nâng cao
cán bộ trong thay đổi phương pháp làm việc và thực hành đều dẫn tới nâng cao cán
bộ và là phương pháp cho các phường xã khác cải thiện năng lực của mình.
Điều kiện về nâng cao công nghệ thông tin cũng được nhóm cho thấy nên
được bổ sung liên tục nhờ ưu thế về công nghệ thông tin trong cán bộ trẻ tiếp thu
nhanh hơn so với nhóm người lớn tuổi hoặc trung niên.
Việc có lợi thế về công nghệ là lợi thế về thay đổi và là lợi thế nâng cao
nhận thức của cán bộ, mặc dù tài nguyên mạng là vô tận nhưng cũng cần được
củng cố bởi Đảng bộ và các cơ quan Đảng trong tuyên truyền và phổ biến công
nghệ thông tin theo ý chí của Đảng và hướng dẫn của Đảng nhà nước về công nghệ
thông tin.
Đối với các tầng lớp nhân dân, đây là chủ thể quan trọng và khó khăn trong
việc nâng cao hoặc phổ biến. Tính tới nay, qua nhiều năm phát triển và sử dụng
các chính sách đã tạo ra sự chênh lệch già trẻ mạnh mẽ, việc có nhiều người thuộc
từ ít nhất 55 tuổi trở lên và là người dưới sau đổi mới (1986) thường sẽ khó tiếp
cận với thay đổi hiện đại đặc biệt là trong thủ tục hành chính (việc này không bao
gồm những chủ thể có trình độ học thức cao hoặc hiểu biết) do sự thay đổi liên tục
và đột ngột giữa các năm 2010 và 2016 dẫn tới các thủ tục xin giấy tờ hoặc xử lý là
52
khó khăn hơn trước đồi hỏi người dân phải hiểu biết rất rõ và pháp lý rõ ràng.
Chính vì thế, việc hỗ trợ và xử lý cần phải nâng cao cho người dân khi họ
tham gia vào các công tác hành chính, hướng dẫn và đưa ra khuyến khích hợp lý là
nâng cao nhận thức cho người dân về mô hình.
Ngược lại đối với các lứa tuổi trẻ nhạy bén thì việc tuyên truyền và khuyến
khích là tương tự tuy nhiên cần nhắm tới tâm lý của họ trong lợi ích thay đổi và
xây dựng vào công tác cải cách.
3.2. Xây dựng các quy định phù hợp, thuận lợi để người dân, doanh
nghiệp tham gia vào các công việc quản lý của Ủy ban nhân dân phường
Để người dân và doanh nghiệp tham gia vào công việc quản lý của Ủy ban
nhân dân phường, cán bộ, công chức phải có sự đóng góp tích cực, không ngừng
nghỉ và tích cực triển khai các phong trào, hoạt động tại địa phương. Các cơ quan
bám sát quy trình, quy định để xây dựng pháp luật, đảm bảo tiến độ, chất lượng.
Các dự án luật đã bám sát thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn, nhằm tháo gỡ các điểm
nghẽn mà thực tiễn đặt ra. Đề nghị các cơ quan trình dự thảo tiếp tục tiếp thu ý
kiến, tranh thủ tối đa trí tuệ của các đại biểu, trên cơ sở đó hoàn thiện các dự án
luật; tiếp tục phối hợp với các cơ quan liên quan trong quá trình hoàn thiện, lấy ý
kiến, kể cả ý kiến phản biện để bổ sung, hoàn thiện đảm bảo chất lượng, phù hợp
với tình hình thực tiễn và đảm bảo tiến độ.
Thực thi hiệu quả chính sách đào tạo, thu hút, trọng dụng cán bộ khoa học
và công nghệ, khơi dậy sức sáng tạo, nâng cao trách nhiệm và tôn trọng sự khác
biệt trong công tác nghiên cứu khoa học xã hội. Tháo gỡ các vướng mắc trong
chính sách đào tạo, thu hút và sử dụng nhân lực khoa học và công nghệ, đặc biệt là
nhân lực có trình độ chuyên môn cao, nhà khoa học đầu ngành. Xây dựng, triển
khai các chương trình cụ thể để thu hút và phát huy có hiệu quả các nhà khoa học,
chuyên gia giỏi là người nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài.
Đối với những vấn đề còn có ý kiến khác nhau thì tổ chức thêm các hội thảo,
tranh thủ ý kiến của các cơ quan, nhà quản lý, chuyên gia, nhà khoa học, nhà hoạt
động thực tiễn, tham khảo kinh nghiệm quốc tế, trên tinh thần dân chủ, tôn trọng
lẫn nhau, tranh thủ trí tuệ để các luật đảm bảo sát thực tiễn, triển khai có hiệu
quả.Các cơ quan truyền thông phối hợp với các cơ quan trình, thẩm định để thông
53
tin chính xác, kịp thời, toàn diện; không khí sôi nổi, trách nhiệm, tâm huyết trong
quá trình xây dựng pháp luật, tạo sự đồng thuận trong toàn xã hội. Hoàn thiện các
quy trình, quy định, trình tự và đôn đốc các bộ, ngành xây dựng thể chế, đảm bảo
tiến độ, chất lượng; hoàn thiện chế độ, chính sách, tạo điều kiện tốt nhất cho công
tác xây dựng pháp luật, hoàn thiện thể chế, xứng tầm với nhiệm vụ là một trong
những đột phá chiến lược.
3.3. Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao phẩm chất, tinh thần trách nhiệm,
năng lực quản lý của cán bộ, công chức phường
Cán bộ, công chức tích cực tham gia phong trào thi đua yêu nước, xoá đói
giảm nghèo, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng đáp ứng yêu cầu cải
cách hành chính, cải cách công vụ và hội nhập quốc tế. Trong thời gian tới cần
bám sát các căn cứ chính trị, căn cứ pháp lý cũng như yêu cầu thực tiễn về năng
lực của cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý, đó là: đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức lãnh đạo, quản lý phải gắn với công cuộc cải cách hành chính, cải cách
công vụ; kết hợp hài hòa đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý
với đào tạo, bồi dưỡng công chức khác tránh trùng lặp về nội dung chương trình,
kiến thức; đào tạo, bồi dưỡng lãnh đạo, quản lý phải căn cứ vào tiêu chuẩn, chức
danh lãnh đạo, quản lý và vị trí việc làm gắn với đặc thù ngành nghề, lĩnh vực và
địa phương cũng như việc hoàn thiện chính sách quản lý công chức theo vị trí việc
làm hiện nay.
Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực gắn với kế hoạch, nhiệm vụ phát triển
kinh tế, xã hội của tỉnh. Trong đó, chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng hợp lý
nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài. Xây dựng và công khai hệ thống thông tin và
dự báo nhu cầu nhân lực của tỉnh; kết nối với các trung tâm dự báo và thông tin về
cung, cầu nhân lực của các bộ ngành, tỉnh/thành phố trong cả nước.
Nguồn nhân lực là tài nguyên quý giá nhất, vì vậy phải đào tạo và sử dụng nhân
lực, biến nguồn nhân lực thành lợi thế cạnh tranh của địa phương. Đây là nhiệm vụ
của cả hệ thống chính trị, trách nhiệm của các cấp lãnh đạo quản lý, của nhà
trường, của doanh nghiệp, của gia đình cũng như của bản thân mỗi người lao động
trong xã hội.
Cần nghiêm túc nghiên cứu quán triệt các định hướng, chủ trương của Đảng
54
trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, lãnh đạo. Xây dựng chiến lược, kế hoạch
và tổ chức triển khai, tiếp tục tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ trong cơ quan,
đơn vị một cách liên tục, khoa học, lâu dài, chiến lược. Chú trọng đào tạo cán bộ
có năng lực trong những chuyên ngành, lĩnh vực mũi nhọn, chú trọng bồi dưỡng
kỹ năng, tăng cường thực hành, cập nhật kiến thức thực tiễn, kinh nghiệm xử lý
các vấn đề, các tình huống; gắn đào tạo bồi dưỡng cán bộ với công tác quy hoạch,
phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo.
Đổi mới thay đổi trong cách tiếp cận, trong tư duy về đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ: Mỗi cán bộ tham gia tích cực, chủ động vào quá trình đào tạo, bồi dưỡng, phải
chủ động tiếp thu kiến thức, chia sẻ kinh nghiệm và vận dụng có hiệu quả các kiến
thức, kinh nghiệm vào thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Từ đó, cần xây
dựng nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với từng chức danh, vị trí
việc làm. Chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải được xây dựng đáp ứng yêu
cầu bổ sung kiến thức, kĩ năng mà cán bộ còn thiếu hụt, chứ không cung cấp kiến
thức, kĩ năng mà họ đã biết, đã có hoặc không còn phù hợp.
Đổi mới chế độ tuyển dụng, sử dụng, trọng dụng nhân tài trong quản lý,
quản trị nhà nước, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Xây dựng quan hệ lao
động hài hoà, ổn định, tiến bộ cũng là một phương pháp hữu ích cho cải thiện năng
lực quản lý khi tham gia vào các môi trường khác nhau.
Đổi mới quy trình xác định nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ: Nếu bước
xác định nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng chính xác thì những bước tiếp theo của quá
trình đào tạo, bồi dưỡng như: xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng; tổ chức đào
tạo, bồi dưỡng và đánh giá đào tạo, bồi dưỡng cũng sẽ chính xác, đáp ứng được
mục tiêu đề ra. Quy trình xác định nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cần lưu ý:
Thiết kế, đánh giá nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng của cán bộ; tổ chức khảo sát, đánh
giá nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng; tổng hợp, phân tích số liệu, thông tin thu thập
được so sánh với khung năng lực của vị trí để xác định cần phải bổ sung những gì.
Tiếp tục đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập, phát huy tính chủ động,
sáng tạo, chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát
triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Tức là chuyển sang hướng dẫn,
huấn luyện và người học tự nghiên cứu theo những định hướng, hướng dẫn, rồi sau
55
đó trao đổi, thảo luận và chia sẻ kinh nghiệm tìm ra những biện pháp giải quyết tối
ưu cho từng vấn đề. Tăng cường áp dụng khoa học công nghệ kỹ thuật, công nghệ
thông tin vào trong đào tạo cán bộ, nhất là trong thời kỳ cách mạng công nghiệp
4.0, đa dạng hóa các hình thức đào tạo trực tuyến qua Internet, truyền hình hội
nghị, các hệ thống mô phỏng trực quan, .... từ đó có thể triển khai được nhiều lớp
học chất lượng cao từ các nhà khoa học, chuyên gia, giảng viên đầu ngành đến với
nhiều đối tượng ở các địa bàn khác nhau; có thể liên kết các dữ liệu, số liệu thực tế
để người học dễ hiểu, dễ hình dung, dễ tiếp thu và vận dụng thực tiễn;
Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, nhân tài, xây dựng đội ngũ cán bộ là
công việc quan trọng hàng đầu tạo ra nguồn sức mạnh nội sinh to lớn cho doanh
nghiệp nói riêng, đất nước, dân tộc nói chung. Gắn liền công tác giáo dục, đào tạo
với việc phát triển nguồn nhân lực, nhân tài, xây dựng đội ngũ cán bộ đủ năng lực
làm việc trong bối cảnh hội nhập chính là chuẩn bị nền tảng chắc chắn để có thể
phát triển một cách bền vững.
3.4. Nâng cao tính minh bạch trong đội ngũ đào tạo và quản lý , tính
thứ bậc chặt chẽ
nâng cao khả năng tiếp cận thông tin chính xác, kịp thời của người dân, đảm
bảo sự đáp ứng từ phía Nhà nước đối với yêu cầu cung cấp thông tin từ phía người
dân. Công khai minh bạch thông tin là một yêu cầu quan trọng của quản trị nhà
nước tốt, ngoại trừ những thông tin có ảnh hưởng tới đảm bảo an ninh quốc gia
hoặc bảo mật thông tin cá nhân.
tính công khai minh bạch làm cho bộ máy công quyền hoạt động hiệu quả hơn,
tính minh bạch đáp ứng được mọi bên liên quan, hướng tới sự đồng thuận hiệu lực
và hiệu quả.
Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện phân cấp, phân quyền, ủy quyền mạnh mẽ, hợp
lý giữa Trung ương và địa phương, giữa cấp trên và cấp dưới, gắn quyền hạn với
trách nhiệm để đảm bảo hiệu quả trong quản trị nhà nước, khuyến khích sự năng
động, sáng tạo và phát huy tính tích cực, chủ động của các cấp chính quyền địa
phương trong thực hiện quản trị địa phương theo đúng tinh thần Đại hội XIII của
Đảng đổi mới mạnh mẽ phân cấp, phân quyền, ủy quyền và nâng cao hiệu quả phối
56
hợp trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền
bảo đảm quản lý thống nhất, phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của
các cấp, các ngành.
Rà soát và đơn giản hóa TTHC trên tất cả các lĩnh vực quản lý nhà nước,
đặc biệt là các TTHC liên quan đến người dân, doanh nghiệp; triển khai thực hiện
có hiệu quả Trung tâm Hành chính công cấp tỉnh và các Trung tâm Hành chính
công cấp huyện, bảo đảm thực hiện theo hướng Tiếp nhận, thẩm định, phê duyệt
tại chỗ nhằm rút ngắn thời gian, quy trình giải quyết, hồ sơ giải quyết TTHC. Nâng
cao chất lượng dịch vụ hành chính và chất lượng dịch vụ công. Bảo đảm kinh phí
cho việc thực hiện các đề án, dự án, chương trình thực hiện CCHC của tỉnh trong
giai đoạn. Huy động các nguồn lực phục vụ cho việc thực hiện có hiệu quả công
tác CCHC. Thực hiện tốt chính sách tiền lương, thu nhập tăng thêm để tạo động
lực thực sự cho CBCC, viên chức trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ có chất lượng
và hiệu quả.
Tiểu kết chương 3
Mục đích cuối cùng của quản trị nhà nước tốt là đáp ứng yêu cầu cho sự
phát triển bền vững của quốc gia nhằm tạo lập, duy trì và củng cố những giá trị cần
thiết cho sự phát triển bền vững. Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại,
cạnh tranh hiệu quả là một trong những trọng tâm đột phá mà Đại hội XIII của
Đảng ta đã xác định. Để thực hiện thành công việc đổi mới quản trị quốc gia rất
cần những đổi mới cả về tư duy lẫn hành động của tất cả các cấp, các ngành. Dưới
góc độ quản trị của chính quyền địa phương việc nâng cao năng lực quản trị của
chính quyền địa phương sẽ góp phần vào việc thực hiện thắng lợi các đột phá mà
Đại hội XIII đã đề ra. Hiệu quả quản trị địa phương thể hiện thông qua việc xác
định tầm nhìn chiến lược, xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển, trực tiếp quản
lý các công việc của địa phương, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
của địa phương; tổ chức thực thi pháp luật, triển khai thực hiện các quyết định của
Chính phủ ở địa phương, phản ánh tâm tư nguyện vọng, lợi ích của nhân dân và
tạo điều kiện để nhân dân có nhiều cơ hội tham gia vào công việc của Nhà nước;
hướng tới chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện công
57
bằng và bình đẳng xã hội tại địa phương.
KẾT LUẬN
Mô hình quản trị nhà nước tốt là một mô hình được coi là hệ thống điều
chỉnh quản trị nhà nước hiệu quả và bền vững nhất trong số các mô hình được tiếp
nhận trên thế giới. Là mô hình mới và chưa đi đầu tuy nhiên các giá trị của nó đã
được ứng dụng vào thực tiễn đạt kết quả rất tích cực, khi nhìn nhận qua các lý
thuyết, sự đóng góp của nó vào các chương trình hành động cải cách cho thấy góc
nhìn cụ thể về mô hình này.
Trong khuôn khổ của đề tài, nhóm nghiên cứu đề tài đã tập trung nghiên cứu
mô hình quản trị nhà nước tốt từ đó cơ sở, nền tảng lý luận đã áp dụng với UBND
phường Hồng Hà và địa phương khu vực nghiên cứu của đề tài tìm ra các kết quả
áp dụng áp dụng mô hình quản trị nhà nước tốt ở Ủy ban nhân dân phường Hồng
Hà, nguyên nhân của những kết quả đạt được trong áp dụng áp dụng mô hình quản
trị nhà nước tốt ở Ủy ban nhân dân phường Hồng Hà, Những hạn chế trong áp
dụng mô hình quản trị nhà nước tốt ở Ủy ban nhân dân phường Hồng Hà, những
hạn chế trong áp dụng mô hình quản trị nhà nước tốt ở Ủy ban nhân dân phường
Hồng Hà, nguyên nhân của những yếu kém trong áp dụng áp dụng mô hình quản
trị nhà nước tốt ở Ủy ban nhân dân phường Hồng Hà.
Và từ cơ sở lý luận và khảo sát thực trạng, trên cơ sở các nguyên tắc, đề tài
đã đề xuất được 3 nhóm giải pháp như sau: Nâng cao nhận thức của cán bộ, công
chức và các tầng lớp nhân dân về mô hình quản trị nhà nước tốt; Xây dựng các quy
định phù hợp, thuận lợi để người dân, doanh nghiệp tham gia vào các công việc
quản lý của Ủy ban nhân dân phường; Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao phẩm chất,
tinh thần trách nhiệm, năng lực quản lý của cán bộ, công chức phường, nâng cao
tính minh bạch trong đội ngũ đào tạo và quản lý, tính thứ bậc chặt chẽ. Như vậy,
nhóm nghiên cứu đã hoàn thành mục đích và các nhiệm vụ nghiên cứu ban đầu đề
58
ra cảu đề tài.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ tài liệu Dự thảo báo cáo Ban Thường vụ thành uỷ về công tác tổ chức
Đại hội đại biểu Đảng bộ phường lần thứ XII nhiệm kỳ 2020 – 2025 ngày
12/03/2020.
2. Cuốn sổ tay Chỉ số CCHC 2020 của các phường, xã, thị trấn trên đại bàn
Thành phố Hạ long, tỉnh Quảng Ninh ngày 19/03/2020.
3. Các chương trình Tổng thể Cải cách Hành chính Nhà nước giai đoạn
2001-2010; 2011-2020; 2021-2030.
4. Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ phường Hồng Hà
tại Đại hội Đại biểu lần thứ XII nhiệm kỳ 2020 – 2025 ngày 26/12/2019.
5. Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ phường Hồng Hà
tại đại hội Đại biểu lần thứ XII nhiệm kỳ 2020 – 2025 ngày 12/03/2020.
6. Hiến pháp 2013.
7. Khoa học – Xã hội – Nhân văn, Viện Ngôn ngữ, Từ điển Tiếng việt (Tái
bản lần thứ 3), NXB Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.
8. Luật Môi trường năm 2015 sửa đổi bổ sung 2019.
9. Luật Đất đai.
10. Nguyễn Thị Thu Hà (2014), “Minh bạch trong quản trị nhà nước, yêu
cầu tất yếu của xu thế hội nhập và phát triển”, Học viện Hành chính Quốc gia, Tạp
chí Quản lý Nhà nước, Số 226.
11. Nhóm nghiên cứu thực địa thuộc Khoa Địa chất Ứng dụng, “Phát triển
mô hình khái niệm bằng cách sử dụng cơ sở dữ liệu Tính năng, Sự kiện và Quy
trình (FEP) chung để đánh giá tác động tiềm tàng của nứt vỡ thủy lực đối với các
tầng chứa nước ngầm”, Đại học Goettingen, Đức.
12. Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện Ngôn ngữ học,
Từ điển Anh – Việt (English – Vietnamese Dictionary), Nhà xuất bản Tp. Hồ Chí
Minh.
13. Tập hợp kết quả, giải quyết ý kiến, kiến nghị cử tri 6 tháng đầu năm, 6
tháng cuối năm 2016-2019.
14. Tập hợp kết quả báo cáo công tác CCHC nhiệm kỳ 2015-2016 của
59
UBND phường Hồng Hà.
15. Từ điển Merriam - Webster về định nghĩa Mô hình.
16. Văn Tất Thu (2018), “Vai trò của nhà nước trong cung ứng dịch vụ
công”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 2/2018.
17. Số 77/2015/QH13 về Luật Tổ chức chính quyền địa phương có sửa đổi
bổ sung sửa đổi bổ sung 2019.
18. Số 506/UBND V/v cho các hộ dân sinh sống trên biển khu vực phường
Hồng Hà thuê nhà tại khu tái định cư làng chào Hà Phong ngày 07/08/2018.
19. Số 591/UBND V/v xác minh nguồn gốc cư trú, nhà ở đất ở của các hộ
dân sinh sống trên biển khu vực bến cá cọc 5 phường Hồng Hà ngày
20. Số 77/KH-UBND KH lập lại trật tự đô thị, giải toả chợ tự phát trên địa
bàn phường Hồng Hà ngày 09/10/2017.
21. Số 367/UBND V/v báo cáo rà soát công tác chuyển đổi mô hình quản lý
chợ trên địa bàn phường Hồng Hà ngày 15/06/2018.
22. 101/UBND V/v thực hiện chính sách hỗ trợ Tiền điện hộ nghèo và hộ
chính sách xã hội năm 2018 ngày 27/02/2018.
23. Số 362/UBND V/v xác minh nhà ở, đất ở của 06 hộ dân thuộc đối tượng
chính sách, người có công với Cách mạng, ngày 29/06/2017.
24. Số 312/UBND V/v triển khai thực hiện các chính sách về An sinh xã hội
trên địa bàn Phường ngày 09/06/2017.
25. Số 112/UBNd V/v triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ 1 số đối tượng
trẻ em chưa thuộc diện hưởng chính sách hiện hành của Nhà nước trên địa bàn
Tỉnh QN, ngày 19/04/2016.
26. Số 10/UBND Đề nghị cấp thẻ BHYT cho người trên 75 tuổi trở lên
không có lương hưu, không được hưởng trợ cấp BHXH hoặc trợ cấp XH hàng
tháng và chưa được cấp thẻ BHYT quy định ở các chính sách khác, ngày
15/01/2016.
27. Số 195/KH-UBND Kế hoạch triển khai thực hiện nghị quyết số CP ngày
30/8/2021 của chính phủ thực hiện nghị quyết của quốc hội về kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2021 - 2025; chương trình hành động số 06-
CTR/tu ngày 19/8/2021 của ban chấp hành đảng bộ tỉnh thực hiện nghị quyết đại
60
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, ngày 15/10/2019.
28. Hans Freudenthal (1951), Khái niệm và vai trò của mô hình trong Toán
học và Khoa học Tự nhiên và Xã hội , trang 8-9 .
29. Elizabeth Drake, Ambreen Malik, Ying Xu, Ioanna Kotsioni Rasha El-
Habashy, and Vivek Misra, LSE Masters students, “Good Governance and the
World Bank”, tháng 02/2001.
30. Những vấn đề cơ bản về đổi mới quản trị quốc gia ở nước ta hiện nay,
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/824506/nhung-
van-de-co-ban-ve-doi-moi-quan-tri-quoc-gia-o-nuoc-ta-hien-nay.aspx, truy cập
ngày: 12/11/2021.
31. Quản trị nhà nước tốt và việc áp dựng ở Việt Nam,
http://www.issi.gov.vn/quan-tri-nha-nuoc-tot-va-viec-ap-dung-o-viet-nam-hien-
nay_t164c2717n3044tn.aspx?currentpage=1, truy cập ngày: 12/11/2021.
32. Từ điển Cambridge mở rộng của Nhà xuất bản Đại học Cambridge,
https://dictionary.cambridge.org/vi/, truy cập ngày: 12/11/2021.
33. Mô hình, https://vi.wiktionary.org/wiki/m%C3%B4_h%C3%ACnh#Ti%
E1%BA%BFng_Vi%E1%BB%87t, truy cập ngày: 12/11/2021.
34. Chỉ số PAPI, https://papi.org.vn/ho-so-tinh/?y=2020&tinh=quang-
ninh&lang=vi, truy cập ngày: 12/11/2021.
35. Nền móng kinh tế học: Trường phái tân cổ điển hay Keynes ?,
https://finaz.vn/nen-mong-kinh-te-hoc-truong-phai-tan-co-dien/, truy cập ngày:
61
12/11/2021.