chuyện với người yêu, với cỏ hoa, chim chóc, với tạo vật giữa bao la muôn đời… Chủ đề
Cũng như chim tung cánh bay, tuổi trẻ với nghị lực, tài năng và sức mạnh của chính mình hãy bay tới mọi chân trời, vượt
qua mọi thử thách gian truân. Thi sĩ luôn luôn dõi theo “cánh chim bay” với bao yêu thương, đợi chờ… Phân tích
1. Câu thơ “C him ơi, C him/ hãy lắng nghe ta/ xin đừng xếp cánh” vang lên 4 lần như một điệp khúc thiết tha, vừa ân cần giục giã, vừa tin cậy, yêu thương.
C him hãy tung cánh bay đi, đừng ngần ngại nữa. Cho dù ngày đã tàn, cho dù mọi người đã mỏi mệt “đã về chỗ nghỉ ngơi”,
cho dù bóng tối và mọi khó khăn đang chờ ở phía trước… thì “C him ơi, C him/ hãy lắng nghe ta/ xin đừng xếp cánh”. Từ “dù” được điệp lại 3 lần, nhà thơ chỉ cho bầy chim - tuổi trẻ - nhận thức đầy đủ rằng: hành trình bay đi gặp nhiều trắc trở. Cách nói của Tagor rất độc đáo và thi vị. N ói về cảnh ngày tàn, Bà Huyện Thanh Q uan viết: “Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn”, nhà thơ Hồ C hí M inh viết “C him mỏi về rừng tìm chốn ngủ”,… thi hào Tagor có cách nói riêng của mình:
“Dù buổi chiều đang đến dần từng bước và báo cho mọi lời ca tiếng hát hãy đừng đi…”
Đó là cảnh chiều êm ả. Thời gian nhẹ trôi. Mọi hoạt động hăng say của cuộc sống sắp bước vào điểm “dừng” trong màn
đêm… C hính lúc đó “xin đừng xếp cánh”. C him ơi! Phải b iết vượt lên cái bình thường để sống đẹp, đó là một ý tưởng nằm sâu dưới vần thơ, nói một cách khác là “ý tại ngôn ngoại”.
2. Hành trình của bầy chim - tuổi trẻ - không chỉ là “núi cao, rồi lại núi cao trập trùng” mà còn là đại dương mênh mông, đêm tối mịt mù, là nỗi sợ hãi, sóng cồn, bão tố… C him phải vượt qua “biển đang phồng lên” nổi sóng lúc “bóng tối âm u”. Hành trình vượt qua đầy thử thách gian truân. N hận thức “hành lộ nan” để có thái độ tích cực trong ứng xử:
“C hính là biển đang phồng lên như một con rắn đen tăm tối. K hông phải là cuộc khiêu vũ của hoa nhài đang nở, mà chính là bọt nước ngời lên.”
Con đường đời xưa nay làm gì có nhiều hoa thơm trái ngọt? Mỗi dặm đường vượt qua đều phải trả giá bằng nỗ lực và
quyết tâm, “không phải là cuộc khiêu vũ của hoa nhài đang nở”. Đường bay của C him còn nhiều thử thách khó khăn. Chưa rõ chân trời, đâu là đích tới. Dễ lạc lối, lạc bầy! Xưa kia thi thể tiền Lí Bạch (701-762) từng nói: “Đường đi khó! Đường đi khó! Đường đi khó! Nay ở đâu? Đường bao ngả!” (Hành lộ nan), thì đầu thế kỉ 20 này, Tagor nói lên ý tưởng ấy bằng một cách nói khác:
“Ôi, đâu rồi bờ biển xanh rực nắng, và đâu rồi, tổ ấm của ngươi?”
Lại một ý mới mể đầy sáng tạo. Thơ của Tagor là một ngôi đền tráng lệ dẫn hồn ta suy mê, ngạc nhiên không cùng khí chiêm ngưỡng và khám phá vẻ đẹp của nó. Hình tượng “ngôi sao” là một nét vẽ tài hoa. N hà thơ nhắc khẽ cánh
chim. Giữa vũ trụ bao la chim không đơn độc, vẫn có trăng sao là bạn đồng hành. Sao “nín thở đếm từng giờ”, trăng đang bơi trong đêm thẳm”. Trăng và sao, đêm đêm vẫn thức canh giữ bầu trời, đánh dấu thời gian, chiếu rọi đêm tối:
“Những ngôi sao nín thở đếm từng giờ Vầng trăng mỏi đang bơi trong đêm thẳm”…
Vì thế, không thể và không nên: “C him ơi, C him - hãy lắng nghe ta - xin đừng xếp cánh”. Khổ cuối, cấu trúc rất đặc biệt, từ phủ định đi đến khẳng định. Sau hàng loạt chữ “không có” là từ “chỉ có” vang lên đĩnh
đạc hào hùng. K hông thể “nghỉ ngơi” an nhàn bởi lẽ “K hông nhà cửa, không có giường để nghỉ ngơi!” Và chim chỉ có, chỉ có:
“Chỉ có đôi cánh của ngươi Và bầu trời mờ mịt”
C him chỉ có thể bay cao, bay xa, vượt qua trùng dương “mờ mịt” bằng nghị lực, tài trí và sức mạnh của “đôi cánh của mình”. Và tuổi trẻ cũng phải vào đời bằng “đôi cánh của ngươi” - Nghị lực phi thường, sống và đua tranh bằng sức mạnh tự thân của mình là một ý tưởng mang vẻ đẹp nhân văn tuyệt vời.
Trong bài thơ này, không gian nghệ thuật với bầu trời trăng sao, với sóng cồn đại dương, với hoa nhài có điệu múa, có lời
ca tắt trong hoàng hôn, có cánh chim tung bay… Thế giới thiên nhiên huyền diệu, tạo vật phong phú được nhân hóa mang hồn người và tình người. K hông gian nghệ thuật đã góp phần tô đậm hồn thơ của Tagor: hồn nhiên, thanh khiết, thơ mộng… Bài thơ số “67” là bức thông điệp màu xanh của Tagor gửi tới những tâm hồn thanh xuân trong cuộc đời. Với Gorki phải là “cánh chim báo bão”. Với thi hào Ba Tư thì: “Tâm hồn tôi là một cánh chim thiêng, Gầy tổ trời cao tầng trên nhất!”… Với N guyễn Hữu Cầu: “Bay thẳng cánh muôn trùng Tiêu Hán…” Tagor vẫn ân cần tha thiết động viên mình và động viên mỗi chúng ta:
“Chỉ có đôi cánh của ngươi Và bầu trời mờ mịt C him ơi, C him hãy lắng nghe ta
xin đừng xếp cánh”.
Tagor
Đó là một tư thế sống đẹp muôn lần được khâm phục và ngợi ca. Thuyền giấy
N gày lại ngày, tôi thả những chiếc thuyền giấy của tôi. Từng chiếc một bơi trên dòng nước chảy, Tôi viết tên tôi và tên làng tôi ở trên thuyền bằng những chữ lớn màu đen
Tôi hi vọng rằng một người nào đó trên một miền đất lạ sẽ thấy chiếc thuyền này và biết tôi là ai. Trên những chiếc thuyền nhỏ của tôi, Tôi chất đầy những hoa Siêu-li hái được ở trong vườn. Và tôi hi vọng rằng trong đêm tối những đoá hoa của bình minh này sẽ được mang vào đất liền yên ổn. Tôi buông những chiếc thuyền bằng giấy của tôi rồi nhìn lên trời và thấy những đám mây nhỏ đang dong những chiếc buồm trắng phồng to. Tôi không rõ người bạn nào của tôi ở trên trời đã thả chúng xuống để chạy đua với những chiếc thuyền của tôi! K hi đêm xuống. Tôi úp mặt vào cánh tay và mơ thấy thuyền của tôi
đang trôi, trôi mãi dưới những vầng sao khuya Những nàng tiê n-giấc-ngủ đang đi trên những chiếc thuyền đó, Và hàng hóa trong thuyền là những cái rổ đựng đầy những giấc mơ Đào Xuân Quý dịch
Lời bình Sau mấy năm liền đau khổ trong tang tóc: đứa con gái thứ hai (1904) và đứa con trai đầu (1907) chết, Tagor đã viết tập
thơ “Trăng non”, coi đó là niềm an ủi và một dịp để tìm lại hình ảnh những đứa con yêu quý đã qua đời. Lúc đầu lấy tên là “Trẻ non” xuất bản năm 1915.
Bài thơ “Thuyền giấy” cũng như “Mây và Sóng”, “Những đóa hoa nhài đầu tiên”,… là những bài thơ rất hay rút
trong tập “Trăng non” này. Tác giả nhắc lại trò chơi thả thuyền giấy để nói về kỉ niệm tuổi thơ và tâm hồn tuổi thơ: ngây thơ và hồn nhiên, trong sáng và bay bổng tuyệt với. “Tôi” là nhân vật trữ tình, có thể là nhà thơ thời bé nhỏ, cũng có thể là những đứa con yêu quý của Tagor, đứa còn và đứa đã qua đời trong ốm đau bệnh tật.
Thả thuyền giấy, trò chơi hấp dẫn ấy đã diễn ra “ngày lại ngày”, chơi mãi mà không chán; thú vị biết bao khi ngắm nhìn và
thả hồn mình trôi theo “Từng chiếc một bơi trên dòng nước chảy”, xa dần… xa dần… Những chiếc thuyền giấy như một mảnh linh hồn tuổi thơ, được đánh số, được “ghi tên tôi và tên làng tôi, bằng chữ lớn màu đen”. C on thuyền sẽ mang tên tôi tên làng tôi đi đến những bến bờ xa lạ. Đó là những cuộc phiêu lưu, những cuộc viễn du của tuổi thơ trong tưởng tượng vô cùng kì diệu: “Tôi hi vọng rằng một người nào đó
trên một miền đất lạ sẽ thấy chiếc thuyền này và biết tôi là ai.”
Có tự hào về tên tuổi mình, về xóm làng quê hương mình mới có ước ao và hy vọng tốt đẹp ấy. C hiếc thuyền giấy đã trở
thành sứ giả của tuổi thơ trong việc tìm bạn và kết bạn ở mọi phía chân trời, ở cửa sông, ở những bến bờ xa lạ. C on thuyền giấy vì thế đã được “chấy đầy những hoa Siêu-li hái được ở trong vườn”. Hoa Siêu-li là một loài hoa cánh nhỏ, nhiều màu sắc rực rỡ, rất đẹp, nở vào lúc bình minh, được trẻ em Ấn Độ rất thích. Hoa Siêu-li là hương sắc quê nhà, là quà tặng tuổi thơ gửi cho bè bạn chưa hề gặp mặt, chưa hề biết tên và quen thân. Một món quà nhờ thuyền giấy mang theo chứa đựng bao mơ ước và tình cảm thánh thiện, hồn nhiên, trong sáng:
“Và tôi hi vọng rằng trong đêm tối những đoá hoa của bình minh này sẽ được mang vào đất liền yên ổn.”
Nói rằng, mơ ước rừng, hoa Siêu-li - quà tặng- “sẽ được mang vào đất liền yên ổn” là đến được những bàn tay bè bạn gần xa. Nói rằng tình bè bạn tuổi thơ lúc nào cũng gắn liền với niềm hạnh phúc là vậy.
Không có tưởng tượng thì không có thơ hay. Tagor đã sống lại tuổi thơ, đã nhớ lại hình ảnh tuổi thơ của những đứa con bé bỏng yêu thương đã mất để sáng tạo nên những vần thơ đầy mộng tưởng. Thế giới tâm hồn tuổi thơ vô cùng huyền diệu. Nếu trong “Mây và Sóng” em bé định cùng Mây bay lên chín tâng không “chơi với vầng trăng bạc”, muốn cùng Sóng ca hát từ sáng sớm đến chiều tà, “ngao du khắp nơi này nơi nọ” thì ở đây, “tôi” đã thấy có bạn nhỏ nào ở trên trời thả xuống con thuyền “chiếc buồm trắng phồng to”… “chạy đua với những chiếc thuyền của tôi”:
“Tôi buông những chiếc thuyền bằng giấy của tôi rồi nhìn lên trời và thấy những đám mây nhỏ đang dong những chiếc buồm trắng phồng to. Tôi không rõ người bạn nào của tôi ở trên trời đã thả chúng xuống để chạy đua với những chiếc thuyền của tôi!”
Cũng là cảnh nước chảy, thuyền trôi, mây trắng bay in xuống dòng sông. N ói “mây nhởn nhơ bay”, nói “bạch vân thiên tải không du du”,… đã hay. Tagor qua tâm hồn tuổi thơ lại so sánh đám mây nhỏ trên trời là “những chiếc buồm trắng phồng to” do một bạn nhỏ nào thả xuống để chạy đua với thuyền giấy. Một hình ảnh đẹp, một ý thơ rất ngộ nghĩnh, nhiều thú vị. Trong giấc mơ, em bé vẫn thấy những chiếc thuyền giấy của mình “đang trôi, trôi mãi/ dưới những vầng sao khuya”. Con thuyền giấy đầy ắp “những cái rổ đựng đầy giấc mơ”. Và trên con thuyền giấy ấy chỉ có những vị hành khách xa lạ đáng yêu - những Nàng Tiên-Giấc-Ngủ. Vần thơ của Tagor với cảnh hứng vũ trụ và cảm hững lãng mạn đã cất cánh bay lên. N hư nhà thơ đã có lần bày tỏ: “Cổ tích mãi mãi là cội nguồn hứng khởi và ước mơ tuổi thơ”:
“Những nàng tiê n-giấc-ngủ đang đi trên những chiếc thuyền đó, Và hàng hóa trong thuyền là những cái rổ đựng đầy những giấc mơ” “Thuyền giấy” là bài thơ tuyệt bút. Đề tài bình dị mà hồn thơ đằm thắm, sâu xa. Vòm trời cao, áng mây trắng, vầng
trăng bạc, ánh sao khuya, chùm hoa Siêu-li thân thuộc, dòng sông, con thuyền, cánh buồm, bến bờ xa, tên mình, tên làng mình, N àng tiên và bạn nhỏ - được Tagor nói đến, nhắc đến với bao trìu mến, yêu thương, được diễn đạt bằng những hình ảnh tươi xinh, non tơ, hấp dẫn.
Tuổi thơ qua “Thuyền giấy” rất hồn nhiên, nhiều mơ ước, khao khát đi tới mọi miền đất lạ với tình bạn và lòng yêu
thương. Tưởng tượng phong phú, kì diệu là yếu tố tạo nên chất thơ, sắc điệu thẩm mĩ của bài thơ “Thuyền giấy”. Tagor đã lấy “trái tim trẻ thơ”, “tấm lòng trẻ thơ” để sáng tạo ra “Trăng non”, “Thuyền giấy”,… Đúng như người xưa đã viết:
“K ìa trái tim trẻ thơ là trái tim chân thực vậy. Nếu để mất trái tim trẻ thơ, tức là để mất trái tim chân thức, và mất luôn cả
người chân thực… Những áng văn chương hay nhất trong thiên hạ, chưa bao giờ lại không nảy sinh ra từ trái tim trẻ thơ cả”.
(Lý Chất (1527-1602) nhà văn trứ danh đời M inh). Quả vậy, tấm lòng Tagor, ngọn bút của Tagor nảy sinh từ trái tim trẻ thơ. Ô ng đã sống trong vinh quang và chết trong bất
tử! Tóm tắt
Một đêm thu gần về sáng, trăng lặn rồi. Lão Hoa Thuyên ngồi dậy, đánh diêm thắp đèn. Một cơn ho nổi lên. Bà Hoa sờ
soạng dưới gối lấy ta một gói bạc đồng đưa chồng. Lão tắt đèn con, cầm đèn lồng ra đi. Lại một cơn ho nữa. Trời lạnh, tối om, hết sức vắng. C hỉ gặp vài con chó. Lão Hoa Thuyên cảm thấy sảng khoái, như bỗng dưng mình trẻ lại, và ai cho thép thần thông cải từ hoàn sinh. Lão Hoa Thuyên đi những bước thật dài. Trời sáng dần. Phía trước là ngã ba, Lão Hoa Thuyên tìm một cửa hiện, đứng dưới mái hiên, tựa lưng vào cửa. Lão giật mình khi có người hỏi. Lão đưa tay lên ngực sờ gói bạc. Bọn lính đi đi lại lại, xô nhào tới như nước thủy triều. Đám người lại xô đẩy nhau ào ào… Một người mặc áo đen, mắt sắc như hai lưỡi dao chọc thủng vào lão làm lão co rúm lại,… Hắn đưa cho lão một chiếc bánh bao nhuốm máu đỏ tươi, máu còn nhỏ từng giọt, từng giọt. Hắn giật lấy gói bạc, nắn nắn rồi quay đi… Lão Hoa Thuyên sẽ mang cái bánh ấy về nhà, đem sinh mệnh lại cho con lão, và lão sẽ sung sướng biết bao!
Lão Hoa Thuyên về đến nhà thấy quán hàng đã bày biện sạch sẽ. Thằng Thuyên đang ngồi ăn cơm. Bà Hoa từ bếp chạy
ra, môi run run hỏi chồng: “Có được không?” Vào bếp, hai vợ chồng bàn bạc một hồi, bà Hoa đi ra một lát, đem về một lá sen già, bọc bánh lại nướng. Một mùi thơm quái lạ tràn ngập cả quán trà. Cậu Năm Gù đi vào quán rồi nó i: “Thơm ghê nhỉ!... Rang cơm đấy à?”. Thằng Thuyên cầm lấy vật đem thui, bẻ đôi ra ăn. Hai vợ chồng bà Hoa đứng bên con. Ăn hết chiếc bánh thằng Thuyên lại ho, nằm xuống ngủ, bà Hoa lấy chiếc mền kép vá chằng chịt đắp cho con.
Quán trà đã đông khách. Cậu Năm Gù người râu hoa râm, bác cả K hang… Bác cất tiếng nói oang oang: “Đã ăn chưa?
Đỡ rồi chứ?... Cam đoan thế nào cũng khỏi. Ăn còn nóng hôi hổi thế kia mà! Bánh bao tẩm máu người như thế, lao gì ăn mà chẳng khỏi!”. Đám khách hỏi nhau về tên người bị chết chém, là người họ Hạ, con bà Tứ. C ái thằng nhãi con ấy không muốn sống. Bác cả Khang cao hứng nói, “tớ chẳng nước mẹ gì”, cái áo nó cởi ra thì lão N ghĩa đề lao lấy mất. May nhất là ông Thuyên nhà này, thứ đến là cụ Ba đem thằng cháu ra thứ, được thưởng 25 đồng bạc trắng, chẳng mất cho ai một đồng kẽm! C ái thằng nhãi con ấy nằm trong tù rồi còn dám rủ lão đề lao làm giặc. Hắn dám vuốt râu cọp nên bị lão ta đánh cho hai bạt tai. C ái thằng khốn nạn! Thật đáng thương hại! Hắn điên thật rồi! Tiết thanh minh năm ấy, bà Hoa đi ra nghĩa địa. Một con đường nhỏ, bên trái là mộ những người chết
chém hoặc chết tù,
bên phải là mộ những người nghèo. Bà Hoa bày ra trước nấm mộ mới đắp một bát cơm, bốn đĩa thức ăn khóc một hồi, đốt xong vàng giấy, ngồi bệt xuống đất ngẩn ngơ… Gió hiu hiu thổi vào mớ tóc bà Hoa mới cắt ngắn, so với năm ngoái chắc là bạc nhiều lắm rồi! Lại một người đàn bà khác, tóc bạc già nửa, áo quần rách rưới, cứ đi ba bước lại dừng lại. C hợt thấy bà Hoa, xấu hổ nhưng rồi chũng đành liều đi tới trước nấm mộ bên trái con đường mòn. Cũng bày ra một bát cơm, bốn đĩa thức ăn, khóc một hồi, rồi đốt vàng… Bà ta bỗng run lên loạng choạng, mắt trợn trừng ngơ ngác. Bà Hoa vội chạy sang khẽ nó i: “Bà ơi! Thôi mà, thương xót làm chi nữa! Ta về đi thôi!” Bà kia gật đầu rồi chỉ tay về một vòng hoa, hoa trắng hoa hồng xen lẫn nhau, nằm khoanh trên nấm mộ khum khum. Bước lại gần mộ con, bà kia nói: “Hoa không có gốc, không phải dưới đất mọc lên! Ai đã đến đây?... Thế này là thế nào?”
Bà ta khóc to: “Du ơi! O an con lắm Du ơi!... Trời còn có mắt, chúng nó giết con thì rồi trời báo hại chúng nó thôi! Du ơi! Hồn con… ứng vào con quạ kia đến đậu vào nấm mộ con cho mẹ xem, con ơi!”
Người đến thăm viếng mộ càng đông. Hai người đàn bà uể oải thu dọn bát đĩa ra về. Một tiếng “Coa… ạ” rất to, hai bà
giật mình quay lại, thì thấy con quạ xòe đôi cánh, bay thẳng về phía chân trời. Xuất xứ
Truyện ngắn “Thuốc” của Lỗ Tấn đăng lần đầu tiên trên tạp chí Tân Thanh niên. N hân vật Hạ Du trong truyện, ám chỉ
nữ thi sĩ Thu Cận (Du và Cận đều cùng nghĩa là Ngọc). Chỗ Thu Cận bị hành hình gần nhà bia Cổ Hiên Đình K hấu, tại nội thành Thiệu Hưng, quê hương Lỗ Tấn. Cuối phần I truyện “Thuốc”, tác giả nhắc tại tên cái nhà bia ấy, nhưng đã cắt đi một chữ: “Cổ… Đình K hấu”.
Lịch sử hiện đại Trung Q uốc được mở đầu bằng phong trào N gũ Tứ, nổ ra vào ngày 4/5/1919 mang tính chất phản đế và
phản phong triệt để. Truyện “Thuốc” ra đời vào thang 5/1919, giữa cơn xoáy lịch sử của phong trào Ngũ Tứ, nên nó mang một hàm nghĩa sâu sắc. Chủ đề
Truyện “Thuốc” thể hiện tình trạng u mê, tê liệt của quần chúng và bi kịch của người cách mạng tiên phong trong
xã hội Trung Q uốc đầu thế kỷ 20. Phân tích truyện ngắn “Thuốc” của Lỗ Tấn
Văn hào Lỗ Tấn (1881 - 1936) được ngợi ca là vị chủ tướng trên mặt trận văn hóa - tư tưởng, đạt được thành tựu lớn
nhất trong nền văn học hiện đại Trung Q uốc. Ông đã sống và viết với một tâm thế chiến đấu ngoan cường, bất khuất, coi khinh mọi kẻ thù của nhân dân. Hai vần thơ nổi tiếng của ông được truyền tụng như một châm ngôn sáng ngời:
“Quắc mắt coi khinh nghìn lực sĩ, C úi đầu làm ngựa chú nhi đồng”. Nhà văn Fađêép (Nga) từng ca ngợi: “Lỗ Tấn là một danh thủ truyện ngắn thế giới… Ô ng đã cống hiến cho nhân loại những hình thức dân tộc không thể bắt chước được…”.
“Thuốc” là một truyện ngắn đa nghĩa như nhiều truyện ngắn khác của Lỗ Tấn. Ô ng sáng tác truyện “Thuốc” vào ngày 25/4/1919, đúng một năm sau “Nhật ký người điên” ra đời. Nó được đăng trên báo “Tân Thanh niên” số thang
5/1919 giữa cơn bão táp phong trào Ngũ Tứ (4/5/1919) do học sinh, sinh viên Bắc K inh phát động, mở đầu cuộc vận động “cứu vong” - cứu đất nước Trung Hoa khỏi d iệt vong.
Lỗ Tấn kể chuyện vợ chồng lão Hoa Thuyên mua bánh bao tẩm máu tử tù để làm thuốc chữa bệnh lao cho con, chuyện
Hạ Du làm cách mạng mà bị chêt chém… qua đó tác giả thể hiện tình trạng u mê, tê liệt của quần chúng và bi kịch của người cách mạng tiên phong trong xã hội Trung Quốc những năm đầu của thế kỷ 20.
Lỗ Tấn chia truyện làm bốn phần: 1) Lão Hoa Thuyên đi mua thuốc - bánh bao tẩm máu tử tù - đem về chữa bệnh lao cho con; 2) Vợ chồng lão Hoa nướng “thuốc” và thằng Thuyên - con trai ăn “thuốc”; 3) Bọn khách trong quán trà và bác Cả K hang (đao phủ) nói về “thuốc” và bàn về tử tù; 4) Bà Hoa và bà Tứ (mẹ tử tù) cùng đi thăm mộ con và gặp nhau trong nghĩa địa nhân ngày thanh minh.
1. Lão Hoa Thuyên đi mua “Thuốc” cho con vào một đêm mùa thu gần sáng, trăng lặn rồi. Mùa thu cũng là mùa ở Trung
Quốc dưới thời Mãn Thanh, người ta đem chém tử tù. Trời tối và lạnh, vắng vẻ. Tiếng ho của người bệnh lao (thằng con trai) nổi lên. Bà Hoa sờ soạng dưới gối lấy một gói bạc đồng đưa cho chồng. Lão Hoa Thuyên cầm đèn lồng đi ra, thằng con lại nổi một cơn ho. Lão Thuyên khẽ nói với con, biết bao thương yêu: “Thuyên à! Con cứ nằm đấy!...”
Trời tối và vắng, lạnh, nhưng lão Hoa Thuyên “cảm thấy sảng khoái, như bỗng dưng mình trẻ lại, và ai cho thép thần thông cải từ hoàn sinh”. Đã mấy đời độc đinh, thằng Thuyên bị ho lao, một mối lo buồn đè nặng đã bấy nay, vì thế đêm nay, lão cầm đèn đi mua thuốc cho con, lão chứa chan hy vọng mới cảm thấy “sảng khoái” và như “trẻ lại”.
Cảnh pháp trường qua cái “trố mắt nhìn” của lão Thuyên. Có biết bao nhiêu người “kỳ dị hết sức”, cứ hai ba người “đi đi
lại lại như những bóng ma!” Bọn lính với sắc phục có “miếng vải tròn màu trắng” ở vạt áo trước, vạt áo sau, có “đường viền đỏ thẫm” trên chiếc áo dấu. Cảnh pháp trường, lúc thì “tiếng chân bước ào ào”, bọn người “xô nhào tới như nước thủy triều”, lúc thì cả đám “xô đẩy nhau ào ào”. Hình như họ tranh nhau “lấy thuốc” để đem bán?
Người bán thuốc cho lão Thuyên mặc “áo quần đen ngòm” “mắt sắc như hai lưỡi dao” chọc thẳng vào lão, làm lão “co
rúm” lại. Thuốc là “một chiếc bánh bao nhuốm máu, đỏ tươi, máu còn nhỏ từng giọt, từng giọt”. Sau khi “tiền trao cháo múc”, người bán thuộc giật lấy gói bạc, “nắn nắn” rồi quay đi, miệng càu nhàu. Lão Thuyên “run run - ngại không cầm chiếc bánh”, nhưng sau đó, tất cả tinh thần lão để hết vào cái bánh bao tẩm máu ấy, “lão sẽ mang cái gói này về nhà, đem sinh mệnh lại cho con lão, và lão sẽ sung sướng biết bao!”
Cảnh vợ chồng lão Hoa Thuyên gặp nhau “bàn bạc một hồi”, cảnh lấy lá sen già gói bánh bao tẩm máu tử tù để nướng,
cảnh ngọn lửa đỏ sẫm bốc lên “một mùi thơm quái lạ” tràn ngập cả quán trà rồi cậu Năm Gù đi vào quán trà hỏi: “Thơm ghê nhỉ?... Rang cơm đấy à?”, cảnh thằng Thuyên ăn “thuốc” hai bố mẹ đứng hai bên, và bà Hoa nói khẽ, an ủi con: “Ăn đi
con, sẽ khỏi ngay” - tất cả đều phản ánh tình trạng mê muội của quần chúng. Họ tin tưởng một cách chắc chắn và thiêng liêng rằng, bánh bao tẩm máu tử tù ăn vào sẽ chữa khỏi bệnh lao. Với một cách viết dung dị, trầm lắng, sâu xa, hàng loạt chi
tiết đưa ra đều xoay quanh chuyện mua, bán thuốc, chuyện ăn thuốc và niềm tin “thuốc thành” sẽ chữa khỏi bệnh lao, tác giả đã làm nổi bật chủ đề thứ nhất của truyện là phê phán tư tưởng mê tín, tập quán chữa bênh phản khoa học. Buổi sáng mùa thu năm ấy, sau khi thằng Thuyên ăn “Thuốc” nằm ngủ, bà Hoa “nhẹ nhàng lấy chiếc mền kép vá chằng chịt
đắp cho con” thì quán trà một lúc một đông khách. Có cậu Năm Gù, có một người “râu hoa râm”. Có lão “mặt thịt ngang phè… mặc chiếc áo vải màu huyền, không ghi khuy, dải thắt lưng cũng màu huyền quần ở ngoài, xộc xệch…”. Sắc phục ấy là dấu hiệu của những đao phủ trên pháp trường. Đó là bác Cả Khang, kẻ đã bán “thuốc” cho lão Hoa Thuyên. Bác Cả K hang sau khi tán tụng thức thuốc đặc biệt “bánh bao tẩm máu người như thế, lao gì mà chẳng khỏi” đã nói về tử tù là “con nhà bà Tứ chứ còn ai? Thằng quỷ sứ!” Tử tù đã mang lại cái lợi, món hời cho bao người! May nhất là lão Thuyên đã mua được “thuốc”, ăn vào “cam đoan thế nào cũng khỏi”, thứ đến là cụ Ba đưa cháu ra đầu thú, vừa “tránh cho cả nhà mất đầu”, vừa “được thưởng 25 lạng bạc trắng xoá, một mình bỏ túi tất chẳng mất cho ai một đồng kẽm!” Lão Nghĩa đề lao “mắt đỏ như mắt cá chép” thì được cái áo của tử tù cởi ra trước lúc lên đoạn đầu đài. Còn và Cả K hang, ngoài mấy đồng bạc bán thuốc cho lão Thuyên “chẳng nước mẹ gì!”
Người ta thường nói: “Máu người không phải nước lã!” Ở đây, máu của Hạ Du, một người cách mạng tiên phong chỉ
có giá trị đem lại một ít quyền lợi vật chất cho một số người! C hua xót và cay đắng hơn nữa, dưới mắt họ thì Hạ Du chỉ là “thẳng quỷ sứ!, “thằng nhãi ranh con”, “thằng nhãi con”, “thằng khốn nạn”! Với bác Cả K hang thì Hạ Du là “đáng thương hại”, với lão râu hoa râm thì “hắn điên thật rồi!”, với cậu Năm Gù thì Hạ Du đúng là một kẻ “điên thật rồi!”
Hạ Du là người cách mạng có lý tưởng chống phong kiến (triều đình Mãn Thanh), như một tín đồ tử vì đạo, anh ta đã chiến
đấu vì lý tưởng “Thiên hạ nhà Mãn Thanh chính là của chúng ta”. Đó là khẩu hiệu của những nhà cách mạng Trung Q uốc năm 1907 hô hào quần chúng nổi dậy chống Mãn Thanh. C ác nhà nghiên cứu văn học cho biết: “Thuốc” nói chuyện trước cách mạng Tân Hợi (1911) Hạ Du nằm trong ngục, trước lúc ra pháp trường còn dám cả gan “vuốt râu cọp” tuyên truyền cách mạng cho lão N ghĩa “mắt cá chép” - dám rủ lão đề lao làm giắc nên đã bị lão ta “đánh cho hai bạt tai”. Những người như Hạ Du, Thu Cận… là những nhà cách mạng tiên phong, dũng cảm xả thân vì đại nghĩa, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp giải phóng đất nước. Giữa đông đảo quần chúng u mê, họ chiến đấu một cách đơn độc. Chẳng ai hiểu họ, ủng hộ họ. Ngay bà mẹ Hạ Du cũng chỉ biết kêu than: “O an con lắm Du ơi!” và nguyền rủa: “Trời còn có mắt, chúng nó giết con thì rồi trời báo hại chúng nó thôi! Du ơi!...”. Ô ng chứ thì táng tận lương tâm tố cáo cháu là giặc để được thưởng 25 lạng bạc trắng, lão Cả K hang thì lấy máu tử tù Hạ Du tẩm bánh bao để bán “Thuốc”, lão Hoa Thuyên và bao người khác đã lấy máu Hạ Du để
chữa bệnh… Quần chúng u mê tăm tối, bị tê liệt… Người cách mạng thì xa rời quần chúng, chiến đấu một cách đơn
độc. “Thuốc” đã phê phán tình trạng ấy, thể hiện sâu sắc bi kịch của người cách mạng tiên phong. Đó chính là chủ đề thứ hai của truyện ngắn này. N gầm một ý nhà văn muốn nêu ra: Trước thực trạng cay đắng ấy phải tìm một “vị thuốc” công hiệu nào để chữa trị, và chỉ khi nào tìm ra được vị thuốc ấy mới thay đổi được “quốc dân tình”, mới cứu được nước Trung Hoa. Phong trào Ngũ Tứ tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Trung Q uốc năm 1921. Và lịch sử đã xác nhận, chỉ có Đảng Cộng sản Trung Q uốc mới tìn ra được “vị thuốc” để phục hưng đất nước.
2. Phần cuối của truyện nói về những gì đã diễn ra trên nghĩa địa vào tiết thanh minh. M ột con đường nhỏ cong queo tạo nên cái ranh giới tự nhiên giữa nghĩa địa. Phía tay trái con đường là mộ những người chết chém hoặc chết tù, phía bên
phải là mộ những người nghèo. C ả hai nơi môn dày khít “như bánh bao nhà giàu ngày mừng thọ”. Trời lạnh lắm hai bà già đều ra thăm mộ. Bà Hoa bày ra trước nấm mộ mới đắp (mộ thằng Thuyên) một bát cơm, bốn đĩa thức ăn, ngồi khóc một hồi, đốt xong thếp vàng giấy rồi ngồi bệt xuống đất, ngẩn ngơ. Gió hiu hiu thổi vào mớ tóc cắt ngắn đã bạc nhiều lắm… Nỗi thương con, nỗi buồn cô đơn của bà Hoa được diễn tả qua tiếng khóc, qua dáng “ngồi bệt” và cái “ngẩn ngơ” ấy. K hông có bông lau mà chỉ có mớ tóc bạc rung lên theo làn gió hiu hiu thổi mà đầy ám ảnh, thê lương.
Một bà già nữa, tóc bạc, áo quần rách rưới cũng mang bát cơm, bốn đĩa thức ăn… cứ đi ba bước lại dừng lại, ngập ngừng không dám bước, sắc mặt xanh xao bỗng đỏ lên vì xấu hổ… Đốt vàng lên… bỗng chân tay “run lên” lùi lại “loạng choạng” mắt “trợn trừng trừng ngơ ngác”.
Bà Hoa bước sang bên kia con đường mòn - nơi mộ tử tù - khẽ nói với bà kia, an ủi: “Bà ơi thôi mà, thương xót làm chi
nữa! Ta về đi thôi!” Cử chỉ ấy, câu nói ấy trước hết là sự đồng cảm xót thương, là sự san sẻ của hai bà mẹ già bất hạnh, một người có đứa con ho lao ăn “thuốc” bánh bao tẩm máu tử tù mà chết, một bà mẹ có đứa con “đi làm giặc” mà bị chém đầu! Tiết thanh minh này, hai bà mẹ già đã bước qua con đường mòn ngăn cách giữa hai thế giới mộ - mộ người nghèo và mộ tử tù - họ đến với nhau trong nỗi đau đớn tột cùng của lòng mẹ mất con. Phải chăng điều ấy báo hiệu một đổi thay gì mới giữa mùa xuân này? N ỗi đau của bà Tứ (mẹ Hạ Du) đã có người đồng cảm. Sự thức tỉnh đã hé lộ như những mầm non bằng nửa hạt gạo trên cây dương liễu?
Vòng hoa - hoa trắng hoa hồng - xen lẫn nhau, nằm khoanh trên nấm mộ khum khum, với bà mẹ Hạ Du là “C ái gì thế
này?”, tại sao “Hoa không có gốc, không phải dưới đất mọc lên? Ai đã đến đây?”… Vòng hoa đã làm cho nỗi đau của bà Tứ không thể nào kể xiết, cất tiếng khóc thê thảm: “Du ơi! O an con lắm Du ơi! C hắc con không quên được và con đau lòng lắm, phải không con? C on hiển hiện lên cho mẹ biết con ơi!”… Rõ ràng vòng hoa trên nấm mộ Hạ Du như muốn khẳng định một chân lý lịch sử và cách mạng: Trong trạng thái mê muội, tê liệt của quần chúng thuở ấy, vẫn có người nhớ đến, tiếc thương ngưỡng mộ và quyết tâm noi gương người cách mạng tiên phong đã ngã xuống vì đại nghĩa. Vòng hoa thể hiện cho xu thế cách mạng, cho niềm lạc quan đối với tiền đồ cách mạng. Vòng hoa trong truyện “Thuốc” là một dự cảm về con đường bão táp, một tia lửa hôm nay sẽ báo hiệu một đám cháy ngày mai!
Câu hỏi của bà Tứ: “C ái gì thế này?”, “thế này là thế nào?” đã tạo ra một ám ảnh khôn nguôi, khiến người đọc “không trả
lời không yên” (N guyễn Tuân). Và tiếng quạ kêu cất lên sau tiếng khóc, sau lời nguyền của bà Hoa, bà Tứ làm cho âm điệu chủ đạo của thiên truyện “Thuốc” này thêm não nũng ai oán! Phải tìm được “vị thuốc” để giảm bớt nỗi đau cho quần chúng, cho đồng loại. Muốn “cứu vong” đất nước phải đồng thời chữa bệnh cho “quốc dân tình” là như vậy!
Truyện “Thuốc” chỉ có vài nhân vật. Câu chuyện thương tâm dồn tụ lại ở hai người mẹ già, hai đứa con xấu số. Không gian hẹp: một quán trà, một pháp trường, một bãi tha ma. Cảnh chém người một đêm thu tàn canh. N ghĩa địa “mộ dày khít, lớp này, lớp khác, như bánh bao nhà giàu ngày mừng thọ”. Tiếng mẹ khóc con thê thiết. Tiếng quạ kêu não nùng. K hông gian nghệ thuật ấy tiêu biểu cho một nước Trung Hoa trì trệ, bế tắc đầu thế kỷ 20.
Thời gian nghệ thuật trong truyện “Thuốc” vận động từ mùa thu đến mùa xuân, từ lúc tử tù bị chém, thằng Thuyên ho lao rồi chết đến tiết thanh minh, trên ngôi mộ Hạ Du có vòng hoa, một thằng Thuyên và những nấm mộ khác “lác
đác vài nụ hoa bé tý, trăng trắng, xanh xanh”, trên cành dương liễu đã đâm ra “những mầm non bằng nửa hạt gạo”. Đó là mầm xanh của mùa xuân hy vọng, hứa hẹn một ngày mai ấm áp hơn, như lời thơ Quách Mạt Nhược, người cùng thời và đồng hành với Lỗ Tấn:
“Dẫu vầng dương còn ở phương xa, Trong nước biển đã nghe vang chuông sớm…” (Kiếp tái sinh của nữ thần)
Trong bài “Vì sao tôi viết tiểu thuyết” Lỗ Tấn nói: “Mỗi khi chọn đề tài, tôi đều chọn những người bất hạnh trong xã hội
bệnh tật, với mục đích lôi hết bệnh tật của họ ra, làm cho mọi người chú ý mà tìm cách chạy chữa…”. Có lẽ vì thế mà áng văn
này đã trở thành một “vị thuốc” rất công hiệu để chạy chữa tình trạng u mê tăm tối và tê liệt tinh thần của quần chúng, phê phán sự xa rời quần chúng của những nhà cách mạng. C uộc đời tuy còn nhiều nước mắt, nhiều bi kịch “vầng dương còn ở phương xa” nhưng “Thuốc” gợi lên nhiều hy vọng. Hình ảnh vòng hoa và hai bà mẹ cùng đi thăm mộ con đã đến với nhau qua tiếng khóc và sự an ủi, điều đó khẳng định giá trị nhân đạo của truyện ngắn này.
SỔ TAY VĂN HỌC 11 - PHỔ THÔNG TRUNG HỌC
Bài số 1. Kiêu binh nổi loạn Bài
số 2. Bài ca ngất ngưởng Bài số 3.
Dương phụ hành
Bài số 4. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Bài số 5. Xúc cảnh
Bài số 6. Khóc Dương Khuê
Bài số 7. Thu vịnh Bài
số 8. Thu điếu Bài số 9.
Thu ẩm
Bài số 10. Thương vợ
Bài số 11. Đất Vị Hoàng
Bài số 12. Hương Sơn phong cảnh ca
Bài số 13. Văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX - 1945
Bài số 14. Xuất dương lưu biệt
Bài số 15. Bài ca chúc tết thanh niên
Bài số 16. Thề non nước Bài số
17. Đây mùa thu tới Bài số 18.
Vội vàng
Bài số 19. Tràng giang
Bài số 20. Đây thôn Vĩ Giạ Bài
số 21. Tống biệt hành Bài số 22.
Hai đứa trẻ
Bài số 23. Chữ người tử tù
Bài số 24. Hạnh phúc của một tang gia
Bài số 25. Đời thừa
Bài số 26. Chí Phèo
Bài số 27. Âm mưu và tình yêu
Bài số 28. Mùa gieo hạt buổi chiều
Bài số 29. Đám tang lão Gôriô
Bài số 30. Tôi yêu em
Bài số 31. Bài "28" (Tagor)
Bài số 32. Tác phẩm văn học
Bài số 33. Thể loại tác phẩm văn học
Bài số 34. Chợ Đồng
Bài số 35. Biển đêm
Bài số 36. Con đường mùa đông
Lá thư bị đốt cháy Bài số 37. Lá thư bị đốt cháy
Bài số 38. Hai tâm trạng chiến tranh và hoà bình
Bài số 39. Người làm vườn "6 7 "
Bài số 40. Thuyền giấy
Bài số 41. Thuốc Kiêu binh nổi loạn
A. Tác phẩm và tác giả 1. Hoàng Lê Nhất Thống C hí là tác phẩm ký sự lịch sử bằng chữ Hán, gồm có 17 hồi (7 hồi chính biên và 10 hồi tục
biên). N ó còn mang một cái tên khác: An Nam Nhất Thống Chí. Tác phẩm ghi lại những biến cố lịch sử từ ngày Trịnh Sâm lên ngôi chúa (1768) đến năm 1802, Gia Long lên ngôi vua. Hoàng Lê N hất Thống chí được kết cấu theo lối tiểu thuyết lịch sử chương hồi cổ điển của Trung Q uốc (Tam Quốc C hí…) Đằng sau các sự kiện lịch sử bi tráng khốc liệt là những số phận thảm khốc được làm vua thua làm giặc đầy máu và nước mắt.
2. Tác giả: Ngô Thời C hí, N gô Thời Du (1772 – 1840) (?) thuộc dòng họ Ngô Thời ở Tả Thanh O ai, Hà Tây là tập thể tác giả viết Hoàng Lê Nhất Thống Chí.
3. Tóm tắt: Trịnh Sâm lên ngôi chúa, Đặng Thi Huệ được sủng ái trở thành nguyên phi bỏ con đường lập con thứ.
Hoàng Đình Bảo (Quận Huy) về phe Đặng Thị Huệ. Trịnh Tông dựa thế kiêu binh tiêu diệt phe đối địch, phế truất Trịnh Cán nhảy lên ngôi chúa. Đàng ngoài vô cùng rối ren. N guyễn Huệ kéo quân ra Bắc Hà lật đổ họ Trịnh để “phù Lê”. Lê Hiển Tông chết, Lê C hiêu Thống lên nối ngôi. K hi N guyễn Huệ kéo quân về Phú Xuân thì Trịnh Bồng giành lại được
ngôi chúa. Vua Lê
dựa vào thế lực N guyễn Hữu Chỉnh đốt sạch cơ nghiệp chúa Trịnh. N guyễn Hữu Chỉnh lộng quyền đã bị Ngưyễn Huệ sai Vũ Văn N hậm kéo quân ra Thăng Long giết chết. Vũ Văn N hậm lại lộng quyền, N guyện Huệ ra Bắc Hà lần thứ hai giết Vũ Văn Nhậm. Lê C hiêu Thống chạy sang Tàu cầu cứu nhà Thanh. N guyễn Huệ để Ngô Văn Sở và N gô Thời N hậm, … ở lại giữ Bắc Hà còn mình lại kéo quân về Phú Xuân. Tôn Sĩ Nghi kéo 29 vạn quân sang xâm lược nước ta. Nguyễn Huệ lên ngôi vua lấy hiệu là Q uang Trung rồi kéo quân ra Bắc đánh tan giặc Thanh (1789). Lê Chiêu Thống cùng bọn bù nhìn chạy theo đám tàn quân nhà Thanh. N guyễn Huệ lập ra triều Tây Sơn nhưng ông chết đột ngột. Nội bộ Tây sơn lục đục, suy yếu dần. Năm 1802 Gia Long tiêu diệt Tây Sơn lập ra nhà N guyễn…
4. Chủ đề: Hoàng Lê Nhất Thống C hí nêu bật quá trình suy vong và sự sụp đổ không cưỡng nổi của chính quyền phong kiến Lê Trịnh, đồng thời ca ngợi uy vũ và sức mạnh quật khởi của dân tộc ta trước họa xâm lăng.
B. Kiê u binh nổi loạn: 1. Các khâu diễn biến cuộc nổi loạn của kiêu binh - Cài thế và cởi trói: Trịnh Tông bị giam giữ, đêm ngày lo không giữ được tính mạng. Mẹ Tông nhờ chị đến lạy trình quận Huy, tay chân của Đặng Thị Huệ, xin “rủ lòng thương”. Việc giam giữ được nơi lỏng…
- C huẩn bị khởi lo ạn: Trịnh Tông qua Dự Vũ tên đầu bếp - nắm tình hình, mật bàn với Gia Thọ. Mời bọn biện lại đánh
chén. Tông lên án “mụ đàn bà ác nghiệt họ Đặng làm mê hoặc Tiên C húa”. Tố cáo quận Huy “mưu cướp nước của mình”, hứa việc lớn thành sẽ “sạch son khoán sắt” – mãi mãi. K iêu binh họp ở chùa Khán Sơn, Bằng Vũ được cử đánh trống, chủ mưu khởi sự. Trịnh Tông lôi kéo quận Viêm, Thánh Mẫu, lung lạc quận Hoàn… Quận Huy bác lời “đề nghị” của Thánh Mẫu, dù “có đánh chết cũng không nghe”. Trần Hữu Cầu dán hịch “Ba quân phò chính” cả kinh kỳ xôn xao. Quận Huy nửa ngờ, chủ quan, không phòng bị gì cả.
- Bùng nổ: Sáng 24 tháng 10 năm N hâm Dần (1732) Bằng Vũ vào phủ chúa đánh 3 hồi 9 tiếng trống. K iêu binh nổi lo ại
bắt đầu. Bằng Vũ bị bắt trói, quận Huy cầm bảo kiếm, cưỡi voi ra trận. K iêu binh ùa vào phủ chúa. Voi co vòi. Q uản tượng bị chém.
Quận Huy phóng lao. Rồi bắn cung, cung bị đứt; bắn súng, súng bị tịt. Q uân lính dùng câu liêm móc cổ kéo hắn xuống, đấm đá chết rồi lấy gan ăn sống. Em quận Huy cũng bị giết chết. Phe Trịnh Tông làm chủ phủ chúa.
2. Lễ đăng quang: K iêu binh giết chết quận Huy, cuộc đảo chính cung đình đã kết thúc, Trịnh Tông giành lại được ngôi chúa. N hân vật lịch sử
trở thành nhân vật tiểu thuyết được miêu tả bằng một vài nét biếm họa thần tình. Trịnh Tông lên ngôi chúa được đặt ngồi lên một cái mâm để 8 tên lính vừa khiêng vừa đội như “dỡn quả cầu” (đá tung hứng một đồ chơi), hoặc “rước pho tượng Phật” (con bù nhìn). Và phủ chúa “Đông như họp chợ” (nơi mua bán). Bọn kiêu binh gào lên: “Xin ngồi cao thêm nữa để thiên hạ đều được thật mặt rồng, cho thỏa lòng vui của mọi người!” - Thật là hài hước, bát nháo!
- Phe đại bại rất thảm hại. Thị Huệ khiếp sợ vô cùng, thay áo quần, trốn sau quan tài Trịnh Sâm (xem như chết). C húa nhỏ
đói bụng “khóc nheo nhéo” nhưng khi bị dọa “đánh chết” thì không dám khóc nữa. Bọn gia thần của Chúa Nhỏ “đều chạy trốn hết cả”. Điều đó cho thấy: “được làm vua, thua làm giặc!”.
3. Ý nghĩa “K iêu binh nổi lo ạn” chỉ là một sự kiện điển hình trong nhiều sự kiện lịch sử thời Lê - Trịnh đã cho thấy sự tranh giành
quyền lực diễn ra vô cùng khốc liệt mâu thuẫn giữa các phe phái trong phủ chúa chỉ có thể giải quyết bằng gươm giáo và máu. Sự sụp đổ của chế độ phong kiến Đàng N goài là một điều tất yếu lịch sử không thể nào cứu vãn được. Một xã hội, một triều đại trong cảnh hoàng hôn, lộn xộn, nhố nhăng, bát nháo, như câu ca:
“Trời làm một trận lăng nhăng, Ông hóa ra thằng, thằng hóa ra ông”
4. Nghệ thuật: - Trần thuật diễn biến thời cuộc một cách chân thực, lịch sử. - Miêu tả một số nhân vật lịch sử tạo thành nhân vật tiểu thuyết như quận Huy, Đặng Thị Huệ, Trịnh Cán, Trịnh Tông – đó là những con rối lịch sử.
- Các sự kiện, các tình tiết đầy kịch tính, mang độ “căng” của lịch sử, khi các phe phái thanh toán lẫn nhau. - Hoàng Lê Nhất Thống C hí là cuốn tiểu thuyết lịch sử chương hồi độc đáo nhất trong nền văn học trung đại V iệt Nam.
Đây mùa thu tới
Xuân Diệu
I. Tác giả Xuân Diệu (1916-1985), họ Ngô, quê nội ở Hà Tĩnh, quê ngoại ở Bình Định. Là “nhà thơ mới nhất” trong “Thơ mới”. Xuất
hiện trên thi đàn Việt N am với những tập thơ lừng danh như “Thơ thơ” (1938), “Gửi hương cho gió”. Ô ng để lại trên 50 tác phẩm. Xuân Diệu viết thơ tình nhiều nhất, hay nhất; viết phê bình thơ độc đáo, đặc sắc nhất.
Năm 1938, Thế Lữ đã trang trọng nói về thi sĩ Xuân Diệu như sau: “… Một tâm hồn mở rộng, một tấm lòng chào đón. một con người ân ái đa tình…”. Và “Ham yêu, biết yêu, Xuân Diệu muốn tận hưởng tình yêu, vì ông thấy chỉ tình yêu mới gồm được bao nhiêu ý nghĩa”. (Lời tựa tập Thơ thơ – 1938).
II. Xuất xứ, chủ đề - “Đây mùa thu tới” rút trong tập “Thơ thơ” xuất bản năm 1938 - tập thơ đầu của Xuân Diệu. - Bài thơ nói lên tâm trạng buồn man mác, bâng khuâng khi mùa thu đẹp đang tới. III. Phân tích 1. Mùa thu tới với rặng liễu: - Trong thơ cổ: “liễu yếu đào tơ” gợi tả vẻ đẹp thanh tao của giai nhân. Xuân Diệu nhân hóa liễu, một dáng liễu tang tóc buồn “đứng chịu tang”, “lệ ngàn hàng”, liễu “đìu hiu” - Liễu mang nỗi buồn cô đơn của nàng cô phụ. Thi sĩ khẽ reo lên đón chào mùa thu sang. Điệp ngữ vồn vã: “Đây mùa thu tới/ mùa thu tới”. Đất trời như tắm
trong một màu “mơ phai”, đó đây trong cành cây xanh đã điểm, đã “dệt” một hai chiếc lá vàng. Tất cả gợi lên một thoáng thu mênh mang buổi đầu thu, thấm một nỗi buồn man mác. Chữ “dệt” rất thơ, rất mới. 2. Mùa thu tới với vườn hoa.