Về tục thờ mẫu của cư dân ven biển xứ Quảng
lượt xem 0
download
Tục thờ Mẫu là một nét văn hóa tín ngưỡng đặc sắc của người Việt, thể hiện rõ nét nhất ở các vùng ven biển. Bài viết này sẽ tập trung nghiên cứu tục thờ Mẫu của cư dân ven biển xứ Quảng, làm rõ những nét đặc trưng riêng biệt của tín ngưỡng này trong vùng đất này. Chúng ta sẽ tìm hiểu về các vị Mẫu được thờ phụng, các nghi lễ, lễ vật và ý nghĩa văn hóa sâu xa của tục thờ Mẫu đối với đời sống tinh thần của người dân xứ Quảng. Việc nghiên cứu này góp phần làm sáng tỏ bức tranh văn hóa đa dạng và phong phú của vùng đất miền Trung Việt Nam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Về tục thờ mẫu của cư dân ven biển xứ Quảng
- NGHIÊN CỬU TRAO Đ ổ l 39 thường niên) chì có hoa quà, gà, lợn, xôi, bánh. Song, dù lễ phong hay sái thì thường V Ể T ạ c TRỜ a rô u không thiếu một lễ thức có tính bắt buộc là cốkcơdÀrver lễ Dâng Mâm., hay còn gọi là Dâng Bông (hoa). Có tất cả nãm mâm (ứng theo sô' sinh B3ỂR x ử Ọ a R G của Ngũ Hành - sinh, lão, bệnh, tử, sinh): mâm bông (ngũ quả và hoa, chủ yếu là hoa (QUÀNG NAM VÀ ĐÀ NANG) màu vàng), mâm trầu rượu, mâm gạo muối, mâm xôi chè, mâm dồ mã. Mỗi mâm thắp 9 NGUYỄN XUÂN HƯƠNGr> ngọn nến tượng trưng cho vía của bà. Ngày trước, người dâng mâm là ông Đồng tử, gọi là làm "xác" cho bà. Đồng tử lần lượt đội 1. Thờ T hiên Y Na (Pô Inư Nagar) từng mâm trên đầu, không cần tay giữ, lăn và các hiện thân lộn nhiều vòng từ ngoài vào lãng. Hiện nay, 1.1. Thờ Thiên y A N a - B à Chúa Ngọc nghi lễ này do ông chánh tê' thực hiện một Thiên Y A Na/ bà Chúa Ngọc là thần cách đơn giản: sau khi tẩy uế, xin keo, ông Mẹ xứ sở của người Chăm, được người Việt lần lượt thỉnh từng mâm lên bàn thờ Bà. đón nhận và thờ phụng, kể từ khi mở mang Riêng làng Nam Thọ, việc phụng thò và bờ cõi về phía biển và phương Nam. ở xứ nghi lễ thông linh với bà Chúa Ngọc lại hỗn Quảng, nơi thờ bà với danh xưng "chân dung các nghi lễ cổ truyền của làng với một chính" Thiên Y A N a phổ biên ở các làng vài nghi lễ của Phật giáo, cùa Đạo Tiên biển Đà Năng (thuộc phía Bắc Quảng Nam Thiên Thánh giáo, như: Thù tự hàng tháng xưa). Trong cuộc sôhg hằng thưòng, bà phải ăn chay vào hai ngày rằm và mùng được gọi là bà Chúa Ngọc hoặc bà Chúa. một, và dọc hai bản kinh chầu là S ự tích Các lăng miếu thờ bà Chúa thường xây cất Thiên Y A Na và Kinh N hật Tụng. trên dồi, gò hoặc nông cát cao. Đa sô' không 1.2. T hờ các h iện th â n của T h iên Y có tiêu tượng (trừ miếu Bà Nam Thọ, Đà A N a ỉ B à C húa N gọc Nẵng có tượng nhỏ dáng Phật Bà Quan Bên cạnh việc thờ Thiên Y A Na theo Âm). Một vài lăng phối tự hai người con dạng chính danh, cư dân biển xứ Quàng của Bà là cậu Quý và cậu Tài dưới dạng ban thò hoặc biểu tượng, v ề "lai lịch" bà còn thờ phụng một sô' bà khác, như: bà Chúa Lồi (Khuê Trung - Đà Năng), bà Chúa, hầu như không ai biết. Hiện nay, bà được suy tôn và thờ phụng như một bà Mẹ Dàng Phi (Quá Giáng - Đà Nẵng), bà Dàng Đất cùa bổn xứ (làng này). Què, Bà Dàng Râu (Nam Thọ - Đà Nằng), bà Thân Xứ; bà Đa Xứ (An Hải - Đà Nẳng), Do chung cảm quan về đôì tượng thò bà Dàng Chào (Điện Dương - Quàng Nam), tự, nên ngày vía bà Chúa Ngọc và nghi lễ bà Phưòng Chào (Đại Cường, Đại Lộc), bà cũng tương đôĩ thống nhất ở các làng biển: Dàng Lồi (Cẩm Thanh - Hội An), bà c ổ thường diễn ra trong hai ngày 24, 25 tháng Vàng/ Dàng (Cẩm Hà - Hội An), bà Dàng Giêng hàng năm. Nghi lễ tổ chức như tế dinh ở các làng quê xứ Quảng. Theo phong Bô/ bà Bô Bô - Thu Bồn (Duy Xuyên, Duy tục, lễ vía bà ba năm đáo lệ tổ chức lễ Hải); bà Chiêm Sơn (Duy Xuyên - Quảng "phong", tức đại lễ. Đại lễ có h át tuồng, mổ Nam), bà Chợ Được (Thăng Bình - Quàng heo, vật bò dãi dàng; còn lễ "sái" (trầm trà Nam). Nhìn vào các địa danh, nơi các bà linh hiển, thì thấy phần đông đều "cư trú" Trường Đại học Sư phạm Đà Năng. dọc sông, ven biển.
- 40 NGUYỄN XUÂN HƯƠNG Lăng, miếu thờ các bà hầu hết đểu Ngũ Hành tiên nương. Dưới nền lăng là quay m ặt ra hướng sông hoặc biển. Một số một quan tài bằng xi măng, gọi là mộ Bà. được dựng trên chính di tích tín ngưỡng Về quyền năng, nếu bà c ổ Vàng chỉ của người Chăm xưa. Điều này nói lên hiển linh trong phạm vi hẹp ở các làng chài "quốc tịch" của các bà nơi ấy: Thần nữ Việt Hội An, thì bà Bô Bô/ Thu Bồn lại hiển linh gôc Chăm. và nổi tiếng khắp nơi từ nguồn xuống biền. Căn cứ vào "lí lịch", có thể xem việc thờ Bà Bô Bô/ Thu Bồn còn là bà Chúa ghe đua phụng các nữ thần đó là các dạng biến thể của làng Thu Bồn và một số làng biển khác của Thiên Y A Na, kết quả của việc cư dân của xứ Quảng. Những chiếc ghe dùng để bơi Việt đã hoá thiêng những sự vật, sự việc, dua trong lễ hội, gọi là "Ghe Bà Chúa". Cá nhân vật cụ th ể thành các đôĩ tượng thờ tự biệt như làng An Hải (Đà Năng) có cả miếu theo tín niệm thờ thần Mẹ xứ sở. v ề nguồn và tượng thờ bà Chúa Ghe. Khi cúng tế, bà cội, các bà đó đã hoá thân từ hai dạng sau: dược hô mời bằng danh thần "Thiên Y A Na 1.2.1. Thác sinh từ đá, trên vết tích Diễn Phi Chúa Ngọc Thượng đẳng thần". kiến trúc cùa ngưòi Chăm xưa. Đó là bà cổ Trong quan niệm của cộng dồng cư dân Vàng (Hội An), và bà Bô Bô (tên Việt là xứ Quảng nói chung, dân biển nói riêng, thì Thu Bồn ở làng Thu Bồn, Duy Xuyên, bà Bô Bô/ Thu Bồn có quan hệ ruột th ịt vói Quàng Nam), c ả hai bà đều có căn từ đá. bà Phường Chào/ Dàng Chào - nữ thần bảo Linh tượng bà c ổ Vàng/ c ổ Dàng là một trỢ cho cư dân vùng núi Đại Lộc (Quảng mành sa thạch màu nâu xám, xốp, hình Nam). Dàng Chào vốn là một cô gái dẹp tam giác, kích thước 60 X 45 X 12. Bên nhưng bị tậ t nguyền bẩm sinh và lìa trần trong bức bình phong miếu Bà c ổ Dàng còn khi rấ t trẻ. Cô thường hiển lộng phá phách có một bệ đá bằng sa thạch cứng, màu xám, làng xóm, đôi chợ, đốt nhà. Nhưng khi được hình vuông, cạnh 69cm, cao 10 cm, trên đặt phong thần N ữ thì lại trỏ thành phúc thần tấm bia nhỏ, cao 40cm, rộng 20cm, khắc ban phước cho ngưòi hiền lương, giáng hoạ chữ Chăm cổ. Bà Bô Bô/ bà Dàng Bô /bà cho kẻ xấu*1 Cũng ở vùng Đại Lộc còn lưu ’. Thu Bồn tương truyền cũng hoá thân từ truyền chi tiết: Bà Phường Chào có bôn phiến đá hình m u rùa trong một cái hang người con canh giữ mộ phần, trong đó có trên gò cao. Hiện lãng bà còn có một tấm hai người, một tên là Quý, một tên là Tài, bia đá khắc chữ Chăm. Cách bài trí các ban trùng với tên của "Nhị vị công tử "- con bà thờ trong lãng cũng góp phần nói lên quốc Thiên Y A Na. tịch Chăm - Việt: cửa lăng mỏ hưởng đông. Và bà Dàng Chào Đại Lộc cũng chính Phần hậu tẩm / nội diện được bài trí: trên là bà Chợ Được của làng Phúc Ấm thuộc cao nhất là bàn thờ có hai bài vị - một của vùng biển Thăng Bình, Quảng Nam1 ’. Dân 2 bà Bô Bô, ghi dòng chữ Hán: "Tiền cổ Lê vùng này cho rằng chợ Được là một hành Triều Bô Bô phù hoá tôn thần"', một bài vị cung mới của bà Dàng Chào, khi một ngày thồ chung bà Chứa Ngọc và bà Phiếm Ái nọ, bà vân du qua đây. Tại dây, bà lập chợ Châu dại đức phu nhân (bà Phường Chào). cho dân làng buôn bán và chữa bệnh cho kẻ Trên bàn thò, ngoài các đồ thờ giống như dau ốm. Để ghi nhớ công lao của bà, dân bao ngôi đình, lăng, miếu khác, còn có các Phúc Am gọi chợ do bà lập là chợ Bà, sau vật biểu trưng cho nữ thần là: áo, hài, nón; gọi là chợ Được-, lập lăng thờ gọi là Lăng Bà lọn tóc phụ nữ (nay đã mất) và một chiếc Chợ Được, vối biểu tượng là một ngai Bà và thuyền đua nhỏ. Bên tả là bàn hương án một cây bút bằng gỗ màu đen, dài khoảng thò Thành hoàng, bên hữu là hương án thờ 20cm. Tương truyền, mỗi khi có người đến
- NGHIÊN CỨU TRAO Đ ổ l 41 xin thuốc thì Bà giáng bút cho ông đồng để là bà Kim, bà Mộc, bà Thuỷ, vì các bà này ông ta kề đơn. trực tiếp tác động dến con người, phương 1.2.2. "Chuyển giới"- Mẫu hoá tượng tiện, ngư cụ và sản phẩm của nghề biển. Nam Thần: Theo cách này có: Bà Dàng Lồi Một vài nơi, do những rủi ro xảy ra (Cẩm Thanh, Hội An), bà Chúa Lồi, Chúa trong cuộc sông, như hoả hoạn, chết nước, Ngọc (Khuê Trung - Đà Nẵng), bà Dàng nên đã thờ riêng bà mà người ta cho rằng Phi (Hoà Vang - Đà Nẵng). Tượng bà Dàng vừa là tác nhân gây tai hoạ, vừa phò trợ để Lồi Cẩm Thanh vốn là tượng thần Tài Lộc tránh đi tai hoạ đó. Thường thì bà Hoả và cùa người Chăm; tượng bà Khuê Trung bà Thuỷ dược tách ra khỏi hộ thống Ngũ cũng vốn là tượng thần Phương Hướng của Hành để thờ riêng, như: miếu bà Hoả của người Chăm... Mặc dù nét nam tính của các làng biển Phú Lộc và làng biển Nam Ô (Đà thần hiển rõ nhưng cư dân sở tại cứ cho Nằng); miếu bà Thuỷ của Khuê Trung - Đà đấy là Bà. Cũng cùng phương thức hoá Nầng, của Tĩnh Thuỷ, Tam Thanh - Quàng Mâu này còn có bà Dàng Râu của làng biển Nam, của Hà My, Điện Dương - Quảng Nam Thọ (Đà Năng). Miếu thò bà không Nam. Các ngôi miếu nhìn chung nhỏ bé. có cốt tượng, nhưng huyền thoại trong dân Riêng nơi thờ bà Thuỷ ở Tĩnh Thuỷ, Tam làng cho biết, bà vốn là đàn ông, sau khi Thanh - Quảng Nam có dáng dấp và chức chết nhập đồng "nói" là bà. năng của ngôi dinh, vỏi tên gọi "Đình Vạn". 2. Thờ cúng bà N gũ Hành 3. Nữ thần của riên g nghề biển ở xứ Quàng, năm yếu tố bản thể làm Bên cạnh sự tín ngưông các Bà/ Mâu nên vũ trụ hiện hữu cũng được Mẫu hoá với chung cùa quê hương, cư dân ven biển xứ danh xưng tổng hợp là bà Ngũ Hành hoặc Quảng còn có riêng một lớp nữ thần chủ về Ngũ Hành nương nương. Nơi thờ tự gọi là nghề biến, gồm: Bà Thuỷ Long, bà Dàng miếu hoặc lăng, hoặc dinh bà Ngũ Hành. Lạch, bà Hà Bá, bà Ma Nha. Có thể xem Xưa kia, các làng vạn đều có miếu Bà Ngũ dây là biểu hiện sinh động của tín ngưỡng Hành, nhưng do nhiều nguyên nhân, dến thờ nữ thần nước/ Mẫu Thuỷ. nay không còn nhiểu. Các ngôi miếu hiện - Bà Thuỷ Long: còn được gọi là bà Thuỳ tồn thường ở vùng sông biển, như: miếu Tề, bà Thuỳ hoặc bà Thuỷ Long Hà Bá. Dân Ngũ Hành Nam Ô (Đà Nằng), cẩm Nam biển xứ Quảng quan niệm nữ thần này vừa (Hội An), Tĩnh Thuỷ (Tam Kỷ), Tân Hiệp thiện vừa ác. Với tư cách là Thuỷ Long thần (Cù Lao Chàm). Trừ miếu Ngũ Hành cẩm nữ, bà hỗ trợ ngư dân làm ăn, hộ mạng khi Nam có tượng năm bà với năm sắc áo tượng gặp sóng gió. Nhưng khi là bà Hà Bá thì lại trưng cho màu của nãm hành, còn các miếu dìm người chết duôì, và không thả vong khác không có tượng, chì thờ chữ Hán "Ngủ người chết lên nếu người thân chưa làm lễ Hành" hoặc bài vị viết bằng chữ Hán: "Ngũ cúng bà, gọi là lễ "vớt vong”. Và chừng nào Hành cổ nương thần nữ". Nơi không còn vong hồn ngưòi chết chưa được thả lên, thì miếu thì thường phối thờ trong miếu bà còn có người khác bị dìm tiếp; lần này là do Chúa Ngọc, dưới hình thức thờ bài vị, với chính hồn ngưòi chết trước bắt người khác các thần hiệu: Kim đức Thánh phi, Mộc thế mạng cho mình (dể vong mình sớm dược đức Thánh phi, Thuỷ đức Thánh phi, Hoả bà cho lên siêu thoát). Qua dây, chúng tôi đức Thánh phi, Thổ đức Thánh phi, gọi ngờ rằng, cái mặt trái/ ác của bà Thuỷ Long nôm bà Kim, bà Mộc, bà Thuỷ, bà Hoả, bà - Hà Bá và bà Ma Da chỉ là một. Chẳng qua Thổ. Cư dân biển quan niệm nghề biển có Hà Bá là cách nói chữ, nói trại cùa dân quan hệ m ật thiết với bà Ngũ Hành, nhất Quảng, hay là sự đánh đồng dể chỉ một loài
- 42 NGUYỄN XUÂN HUƠNG ma nước, thường gọi là bà Ma Nha, mà có non, làm sạch lông và d ặt nguyên cả con thể là do ảnh hưởng từ tín ngưông ma Rừng, lên giá tre, trong tư th ế quỳ. Tiết trâu được ma Nước, Ma Lai của đồng bào Tây Nguyên. dùng để xoa lên mình trâu, làm cho toàn Phải chăng thế mà cơ sở thò tự bà này rất thân là một màu đỏ. hiếm hoi, mặc dù có sắc phong. Lễ hội bà Thu Bồn, bà Chợ Được là lễ lệ - Bà Dàng Lạch-, còn gọi là Dàng Lạch mang ý nghĩa phụng tự, nhưng đã trở Chúa nước hương nương, được hầu hết các thành một sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng vạn làng biển, nhất là những nơi gần cửa cộng dồng, có sức lan toả rộng rãi, tạo nên biển cúng cáo nhằm cầu mong bà hỗ trơ một cảm nhận chung về lòng biết ơn dối vối mỗi khi ra vào cửa/ lạch. R ất có thể bà công đức của các bà. Dàng Lạch là hình tượng tiếp nôĩ, chuyển 4.2. M ột s ố n g h i lễ liên q u a n đến hoá từ tín ngưỡng thờ nữ thần biển cửa các bà T h u ỷ Cờnl lạch Cờn - Tứ vị Thánh Nương, vởi Nhìn chung, các nghi lễ liên quan dến tước hiệu Đại Càn quôc gia Nam Hải Tứ vị các bà Thuỷ chù về nghề biển khá phong Thánh Nương, mà cư dân Thanh - Nghệ đã phú, nhưng không thể hiện dộc lập mà mang vào vùng Thuận - Quảng. thưòng dược lồng ghép trong các lễ cầu an 4. Những sinh hoạt tín ngưỡng - và cầu ngư, như: lễ nghinh bà Thuỷ, lễ văn hoá cúng Vũng... 4.1. S in h h o ạ t tín ngư ỡng - vă n hoá Lễ nghinh bà Thuỷ nhằm "nghinh Bà liên q u a n đ ến T h iê n Y A N a và các nhập điện Ông" trong ngày tế thần Nam h iện th â n Hải/ cá voi dể cầu ngư, cầu an. Đoàn di Hiện nay, hầu hết các ngôi miếu, lăng nghinh do ông chánh tế dẫn dầu, xuất phát thò bà có liên quan đến tín lí thờ Thiên Y A từ lăng (cá voi, hoặc lăng cô hồn) tiến ra Na thường tiến hành cúng tế thành kính sông, biển. Tại địa điểm đã định, một chiếc thường niên, theo nghi lễ tế thần truyền ghe chở riêng ông chánh tế đi lấy nưởc. Bình thống, vào dịp Xuân kì. Một khuôn mẫu nưởc được xem là tượng trưng cho bà Thuỷ. chung trong sinh hoạt tín ngưdng - văn hoá Lễ cúng Vũng: vũng/ vịnh là những nơi của các làng thò Thiên Y A Na và các hoá neo dậu của ghe thuyền tránh gió bão. thân của bà là tế lễ và ca xướng (hát bội). Hàng năm, sau lễ cầu ngư ít ngày, tại một Riêng vùng sông biển, nơi có các "hoá thân" nơi dã định ỏ cửa, vũng, vịnh, nhiều làng của Thiên Y A Na, lễ lệ và lễ hội diễn ra biển tổ chức lễ cúng các vị thần, bà Thuỷ, khá sinh động, mang rõ nét đặc trưng thần và Cô Bác, cũng nhằm cầu an và được mùa. Mâu của dân sông biển. Tiêu biểu là lễ hội Bàn cúng bà Thuỷ được để sát mép nước, bà Thu Bồn, tức bà Bô Bô (hai ngày 11 và còn gọi là cúng sơ nướcị3). 12 tháng 2 âm lịch) và bà Chợ Được (ngày 11 tháng giêng hàng năm). Nét độc dáo 5. Một vài nhận x ét trong sinh hoạt văn hoá lễ hội bà Thu Bồn Thờ Mâu của cư dân ven biển xứ là "Trên bờ hát bội, dưới thuyền bơi đua", Quảng cũng/ dã nằm trong dòng tư duy lô còn trong lễ hội bà Chợ Được là lễ rước Cộ gích của tiến trình lịch sử tín ngưởng thờ Bà, lỗ Tôhg ôn, ngoài ra còn có múa lân, Mẫu ở Việt Nam. Đó là từ nền tảng thờ nữ đua ghe, hát bội. Các nghi thức tế lễ cũng thần và Mẫu thần đã hình thành và phát giống như các lễ cúng các nữ thần khác. triển thành Mẫu Tam phủ, Tứ p h ủ w . Điểu Riêng vật phẩm dâng cúng trong lễ bà Thu cốt lõi là đã cùng dòng tư duy thôhg nhất, Bồn thì bắt buộc phải có một con trâu đực còn hình thức biểu đạt thì ở các vùng miền
- NGHIÊN CỨU TRAO Đ ổ l 43 không giống nhau, do phụ thuộc vào bôì niệm ba ngôi Tam phủ. Song, hoạt dộng ấy cảnh môi sinh. Nhưng chính th ế mà đã tạo luôn hồi hướng về vị thần Mẹ khởi nguyên, nên những sắc thái riêng của việc thò Mẫu mang đậm dâ'u ấn của bà Mẹ Xứ sỏ Chăm trên các vùng miền. Pa. Đó cũng là nguyên do khiến các làng 0 Bắc Bộ, vùng cội nguồn của cư dân quê xứ Quảng mọc lên rấ t nhiều miếu thò Việt, một bộ phận nữ thần và mẫu thần, bà Chúa Ngọc, với một vài nghi lễ pha trộn qua sự xâm nhập và tác động của dạo Giáo nghi thức của người Chăm, như lễ dâng đã được "nâng cấp, lên khuôn" thành đạo bông, dâng mâm (đã từng diễn ra trước Mâu Tam Phủ, Tứ Phù, với điộn thờ là một đây). hệ thống có cấu trúc tầng bậc, mà ở đó, các Bên cạnh dó, một tín ngưỡng có xuất thành tố trong hệ thống quan hệ và quy xứ từ vùng Thanh - Nghệ vẫn in dấu ấn định lẫn nhau để tạo thành một chỉnh th ể trong đòi sống tâm linh của dân biển xứ nhất quán về điện thần: "Một diện thần vói Quảng - tín ngưỡng Tứ vị Thánh Nương. hàng mấy chục vị đã dần quy về một vị Hiện trong các lễ cúng kiếng cùa các làng thần cao nhất là thánh Mẫu"ị!i\ Gắn bó ven biển, bà Đại Càn vần được hô mòi. chặt chẽ vởi điện thần Mẫu là nghi lễ hầu Điều này không những có giá trị xác định bóng, lên đồng, múa hát chầu hầu thánh nguồn cội dân cư, mà còn nói lên tâm thức Màu, đã dược xem là một thứ "Đạo Giáo thờ thần Mẹ sông biển "quê mình" vẫn dược đặc thù của Việt Nam". Đạo Mầu, vói tiếp nôì (và có thể đà hoà dồng vói bà Mẹ những đặc trưng ấy, cũng có ở một số nơi xứ Biển Chăm Pa), đồng thòi cũng cho thuộc miền Trung và miền Nam, nhưng thấy, tục thờ Nữ thần cùa xứ Quảng có nét không thấy ỏ các làng quê ven biển, trong gần gũi với vùng Thanh - Nghệ, vốn là đó có xứ Quảng. Điều này có nghĩa: tục thò vùng quê gô'c của người Quảng. Bà/ Mẩu cùa cư dân ven biển xứ Quảng Nguyên lí Mẹ kết hợp với triết lí Ầm không thuộc hệ thôhg của đạo Mẩu chinh Dương, Ngũ Hành và lối tư duy lưỡng phàn thống, mà chỉ gồm hai cấp là thờ N ữ thần lưỡng hợp cùa người Việt truyền thống dã và Mẫu thần. Hai dạng thần Nữ này là kết ản hưởng đến sự thờ cúng Ngũ Hành của quả hoà kết tín ngưỡng giữa cư dân Việt dân biển xứ Quảng. Mô'i cảm quan về tính với cư dân Chăm và cư dân Tây Nguyên cụ th ể mà thống nhất của bà Trời - Mẹ cai (Môn - Khơ Me). Trong dó, thần Mẫu Thiên quàn vùng bao quát nhất và sự cụ thể hoá, Y A Na/ Bà Chúa Ngọc có vai trò quan linh thiêng hoá nhũng thuộc tính cùa bà, là trọng, chi phối đời sống cộng đồng trên mọi cơ sở cho việc duy trì tục thờ cúng các bà phương diện. Và các hoá thân của bà (bà Mẹ kiến tạo nên vũ trụ và vạn vật - bà Ngũ Bô Bô, bà Dàng Chào/ Phưòng Chào, bà Hành. Nguồn tư liệu trên sách vỏ cho thấy, Dàng Lồi...) là các Mẫu thần cụ thể chia tín ngưỡng thò bà Ngũ Hành phổ biến ở nhau cai quản các vùng, liên quan đến dất vùng Trung và Nam Bộ, mà trước tiên là và nước (biển), những yếu tô' thiêng liêng, vùng Thuận - Quàng< ).6 gắn bó m ật thiết vởi đời sông con người. Điều này còn phản ánh một thực tế là: các Bên cạnh những điểm trên thì việc thò lưu dân Việt vào xứ Quảng, dã chủ động Nữ thần và Mẫu thần của dân biển xứ tiếp biến hình tượng thần Mẹ xứ sỏ của Quàng còn có những nét dáng lưu ý: người Chăm dưởi dạng thồ các Mầu thần Trưốc hết là cách biểu tượng hoá đối bổn xứ nhằm cầu bình an trẽn vùng đất tương thò phụng: cũng là thờ bà Chúa "khác Việt". Tại đây, hoạt dộng thờ thần Ngọc/ Thiên Y A Na, nhưng xứ Quảng Mẹ/ Mẫu thần vẫn được tiếp tục theo tin không "cấp" và lưu truyền một huyển tích
- 44 NGUYỄN XUÂN HƯƠNG nào về bà như một số nơi khác. Bà tồn tại ven biển xứ Quảng, mỗi lăng miếu thưòng trong đời sống tâm linh của các làng ven chỉ thờ một Mâu. biển với tư cách hiển nhiên của thần Mẹ Và cũng qua xu hướng thờ phụng đó, có bổn xứ. Mật nữa, do không thuộc khuôn thể rú t ra một dặc điểm trong tư tưởng cư khổ đạo Mâu chính thông nên cách thờ dân ven biển xứ Quảng là đậm tín niệm thờ phụng Thiên Y A Na ở dây không có điện Mâu theo kiểu hệ thông "thần Mẫu ba ngôi thần và nghi lễ như ồ H uế hoặc ở Bắc Bộ. làm một". Ở đây, sự tích hợp và phân thân Nói rõ hơn: vì chưa là thành tô' của Tam theo tín niệm "Tam vị nhất thế' được tập phủ, Tứ phủ nên điện Mẫu ở xứ Quảng trung trong hình mẫu Thiên Y A Na. Một "tường minh", dơn giản trong bài trí, phối tập hợp các bà: Dàng Lồi, Dàng Lạch, Dàng thờ và khiêm tôn về số lượng thần linh: 1/ Bô, Chúa ghe kèm vật phẩm dâng cúng, Về bài trí: thường thò một Mâu, với tư cách là thần Mẹ. Việc phối thờ cũng dậm tính vật thờ (ghe đua) và tục đua ghe, đã chỉ ra chất Màu (Thiên Y A Na kết hợp với Ngũ đây là các nữ thần bảo hộ dân sông biển Hành) mà không theo kiểu tứ giáo’ Mẫu,. nhưng có căn cốt và cách thức thờ theo mẫu Phật (Phật Bà Quan Âm, P hật Thích ca), hình thần Mẫu Thiên Y A Na. Quan Thánh, và các dôĩ tượng khác là Thổ Xu hướng thiêng hoá các vật th ể trong thần, Thổ địa, Âm hồn, như một vài dinh lòng đất, tức các vật thờ cùa cư dân thổ Bà Quảng Ngai*” . 2/ Hệ thống thần linh trước thành N ữ thần, Mẫu thần cũng là dược phôi tự trong các lăng Bà xú Quảng có một sắc thái riêng của thờ Mâu ỏ xứ xu th ế hồi quy hướng về "độc Mẫu"/ nhất Quảng. Phiến đá, tượng Nam thần "mọc thần Mâu, do đó không tích hợp đông đảo lên" từ đất nơi nào thì trỏ thành "Bà Chúa thần linh theo thử bậc như các diện thờ xứ"/ Mẫu Địa của nơi ấy. Dạng thờ phụng Màu ở Huế: Tứ phủ công đồng -> Tử phủ theo con đường hoá th ân dân dã này diễn chầu Bà -> Ngũ vị Tôn ô n g -> Tứ phủ ra khác vổi các dạng hoá thân của bà Chúa Quan Hoàng -» Tứ phủ Thánh Cô -> Tứ Liễu ỏ miền Bắc và bà Chúa Xứ ỏ miền phủ Thánh Cậu(8); hoặc như hệ thống Nam. Việc hoá Mẫu các di vật lồi lên từ thang thứ bậc phổ biến ở miền Bắc: Ngọc m ặt đất như còn chịu ảnh hưỗng từ tục thờ Hoàng -> Thánh Mẫu -> Quan -> Chầu -» đá, thờ thần của cư dân Trường Sơn - Tây Ông Hoàng -> Cô -> Cậu -> Ngũ Hổ -» Lốt, Nguyên - cư dân Môn - Khơ Me. Sự ảnh có tính chất đa thần với khoảng 60 vị hưỏng không chỉ biểu hiện qua ngôn ngữ là thánh*9’. Hệ thống các bậc thần linh trong từ tô' "Dàng" trong các danh xưng: Dàng các lãng miếu Bà ỏ xứ Quảng thường theo Lồi, Dàng Lạch, Dàng Bô, mà có thể cả qua kiểu: Mẫu -» Tả ban, Hữu ban (phôi tự các việc b ắt chước lưu g iữ một sô'đồ thờ coi như loại thần) — Cậu (Quý, Tài), hoặc Tiển > hiền, Hậu hiền. Ngoài cách sắp xếp này, vật k í thác của Mầu thần, giống như cư dân một vài lăng có thể có thêm thần linh khác, vùng Trưòng Sơn - Tây Nguyên thường có nhưng phần lớn chỉ còn vang bóng trên bài vật ki thác cùa các Thần Yang/ Giàng/ vị và trong văn tế. Có thể tư tưỏng thờ Mẫu Dàng để thờ ở nhà rông hoặc các miếu thờ theo kiểu thò "nhất thần" ấy đã tạo cơ sở trong rừng*10’. Qua đây nhận thấy các yếu hoá thiêng từng Nữ thần thành Mâu thần, tô' đa nguyên: Việt, Chăm, Tây Nguyên đã mà bà Dàng Bô/ Thu Bồn, bà Chợ Được, bà tích hợp và hoà trộn, làm nên biểu tượng Dàng Chào, bà Thuỷ Long, bà Thuỷ, bà của bà thần Mẹ Việt. Đây cũng là một dặc Hoả, chính là kết quà của sự "nâng cấp, lên điểm của tín ngưỡng thò Mẫu ở cư dân ven khuôn" dó. Có lẽ th ế mà phổ biến ở vùng biển xứ Quảng.
- NGHIÊN CỪU TRAO ĐỖI 45 Tính lưdng diện của các Nữ thần và dù vô nhân ảnh (vì vậy không có lễ tắm Mẫu thần cũng là một đặc điểm riêng của tượng/ Mộc dục trong lễ tế). Khuôn thức hội tục thờ Mẫu ở vùng biển xứ Quảng. Quá chung, phổ biến cho các nơi có thờ Thiên Y trình linh thiêng hoá đá thần và tượng thần A Na và Ngũ Hành là đua ghe và hát bộ. không phải bằng việc "cấp cho" các huyền Một sự dơn điệu nhưng hợp lí, bởi đó vẫn là tích của Phật, Tiên, hay những oan khuất biểu hiện của dòng tâm thức chung ở các của người con gái, mà có lẽ xuất phát từ sự con dân Việt: cầu mong sự hộ trì của Mẹ sợhãi bị trừng phạt do đã xúc phạm những cho cuộc sông an lành và phồn thịnh.D vật thiêng từ lòng đất. Từ dó dẫn đến mô tip N.X.H hoá thiêng các bà theo một diễn trình: Mọc Hồi từ đất lên/không ai thờ cúng/không (1) Vãn nghệ dân gian Quảng Nam ■ Đà gian bà ngự trỏ thành "cái cấm" đ ể hoang, Nang, tập 2, Sở Văn hoá và Thông tin Quảng không ai dám đi ngang qua đó/B à phá Nam - Đà Nông xb, 1986, tr. 100-104. phách làng xóm rồi "đạp đồng ngang” (phụ (2) Thần tích bà Phường Chào do Ban quý đồng thẳng vào một người dân trong làng) tế làng Phúc Âm và làng Đại Cường cung cấp xưng danh tính í Dân làng sợ lập miếu cho tác giả, năm 2001. thờ/ Từ dữ, ác chuyển sang hiền và bảo trợ (3) Nguyễn Xuân Hương, “Một số nghi lễ cổ cho cuộc sôhg của dân làng. Từ dó, dược suy truyền liên quan đến nghề biển của cư dân ven tôn là "Thần N ữ Linh ứng". Với các nhân biển xứ Quảng”, Tọp chí Vản hoả dân gian, vật cụ thể như bà Bô Bô, bà Dàng Chào, bà 2004, số 3, tr.50-54. ChỢ,ĐưỢc, tuy đều có thần tích "nữ nhăn" (4) Ngô Đức Thịnh (chủ biên), Đạo Mẫu ở nhưng diểm xuất phát dể thờ tự cũng từ Việt Nam. tẠp 1, Nxb. Văn hoá thông tin, Hà Nọi, 2002, tr.23. giáng hoạ chuyển sang ban phước. (5) Ngô Đức Thịnh (chủ biên), sdd, tập 1, Sinh hoạt tín ngưỡng - văn hoá của thờ tr.20. Mâu ở xứ Quảng cũng có nét khác biệt với (6) Trần Đại Vinh, Tin ngưỡng dân gian một số nơi khác, như: không có phần hội Huế, Nxb. Thuận Iloá, Huê', 1995, tr.101. liên quan đến bà Đại Càn như ở vùng gô'c (7) Nguyễn Đăng Vũ, Văn hoá dân gian của của bà là đền Cờn với tục chạy ói, rước gỗ cư dán ven biển Quàng Ngãi, Luận án Tiến sl thần, lễ tế Trầu, lễ rước thuyền Ngự du lịch sử, Viện Nghiên cứu Văn hoá nghệ thuật. xuânin\ cũng không có ngày riêng tổ chức Hà Nội, 2003, tr?63 lễ tế với các lễ vật như cá sôhg, lễ tam sanh (8) Nguyễn Hữu Thông (chù biên), Tin (heo, bò, dê), đua trải, biếu diễn hát múa ngưỡng thờ Mẫu ở miền Trung, Nxb. Thuận bông... như một số làng ồ Thừa Thiên - Hoá, Huế, 2001, tr.43. Huê
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn