200 năm Darwin

Nguyễn Văn Tuấn

Ngày 12/2/2009 là ngày kỉ niệm 200 năm ngày sinh của Charles Robert Darwin

(12/2/1809 – 19/4/1882), một nhà khoa học có thể nói là vĩ đại nhất trong lịch sử

khoa học từ cổ chí kim. Trên thế giới có hơn 300 thành phố và địa phương tổ

chức ngày kỉ niệm Darwin và những di sản khoa học vô cùng to tát mà ông để lại

cho đời. Để hiểu thêm về nhân vật xuất chúng này, tôi sẽ bàn qua vài nét chính vế

hai công trình làm nên tên tuổi của ông và cũng gây ra nhiều tranh luận dai dẵng

cho đến ngày hôm nay: đó là lí thuyết tiến hóa và chọn lọc tự nhiên.

Thân thế

Charles Robert Darwin sinh ra tại làng Shrewsbury, hạt Shropshire (Anh) trong

một gia đình trưởng giả gồm 6 anh chị em (ông là người thứ năm). Cha ông là bác

sĩ Robert Darwin, và ông nội là Erasmus Darwin, cũng là một bác sĩ, triết gia, nhà

thơ, và nhà tự nhiên học có tiếng. Năm 1825, tức mới 16 tuổi, Darwin thực tập

nghề y, làm phụ tá cho cha ông điều trị những người nghèo ở hạt Shropshire. Sau

đó, ông theo học y khoa tại trường Đại học Edingburgh. Học một thời gian ông

cảm thấy chán nản, rồi bắt đầu bỏ bê học hành, nhưng ông lại tìm được một sở

thích mới là đọc sách về các loài vật. Cha ông rất giận khi biết Charles bỏ bê học

hành theo đuổi một thú vui mà cha ông cho là vô bổ đó.

Theo lời của cha, ông chuyển từ Đại học Edingburgh đến Đại học

Cambridge để học văn khoa, với kì vọng trở thành tu sĩ sau này. Năm 1828 ông

đến Cambridge, nhưng thay vì chú tâm theo học, ông lại chạy theo những thú vui

mới như cưỡi ngựa và săn bắn. Ở đây ông quen với một nhà tự nhiên học rất nổi

tiếng đương thời là Giáo sư John Stevens Henslow. Đến kì thi năm 1831, Darwin

đạt kết quả tốt, đứng hạn 10 trong số 178 sinh viên.

Năm 1831, qua giới thiệu của Giáo sư Henslow, Charles Darwin được tham

gia chuyến viễn du trên tàu Beagle. Chuyến du hành thám hiểm dự trù chỉ 2 năm,

nhưng trong thực tế kéo dài đến 5 năm trời qua gần 65.000 km. Khi đến Brazil ông

kinh ngạc và thích thú trước sự đa dạng của rừng Amazon, nhưng rất ghét thái độ

của những tay thực dân đối với người nô lệ bản xứ. Có người cho rằng chính vì

ông ghét thái độ kì thị người bản xứ của người Âu châu đã nung nấu ý chí để ông

chứng minh rằng những người da trắng này có cùng nguồn gốc với người nô lệ địa

phương. Trong một trang nhật kí nổi tiếng, ông viết rằng: “Theo tôi, chúng ta phải

ghi nhận rằng một người dù với những phẩm chất vương giả của mình … vẫn

mang trên người cái dấu ấn không thể xóa bỏ của một cội nguồn cấp thấp.”

Trong thời gian thám hiểm và tàu ghé qua nhiều địa điểm khác nhau, ông

quan sát hàng loạt hiện tượng và thu thập rất nhiều di vật. Nơi gây ấn tượng sâu

sắc nhất cho ông là quần đảo Galapagos (cách đất liền Nam Mĩ khoảng 500 km),

vì ở đây ông tìm thấy những con rùa khổng lồ, thằn lằn to lớn, sư tử biển, cua,

v.v… mà ông không thấy ở bên Âu châu. Điều đặc biệt thú vị là các sinh vật này

cũng có mặt ở một vài đảo chung quanh những với hình dạng khác chút ít. Ông

ghi chú rất chi tiết, cẩn thận, phân biệt rõ cái nào là quan sát thực tế, và cái nào là

do ông suy luận. Thỉnh thoảng ông gửi các hiện vật này về Đại học Cambridge

cùng với nhật kí cho gia đình biết ông đang làm gì và ở đâu.

Thời gian tham gia đoàn thám hiểm cũng chính là lúc ông nhận ra rằng

những gì ông đọc trong Kinh Thánh không phù hợp với thực tế của thế giới tự

nhiên, và ông thai nghén lí thuyết tiến hóa từ đó. Ngay từ lúc đó ông đã lí giải

rằng hình thể đất đai ngày nay đã trải qua những quá trình thay đổi lớn; các sinh

vật tồn tại và sẽ thay đổi hình dạng trong các thế hệ sau; và các sinh vật này không

phải được một đấng tối cao nào sáng tạo ra một cách độc lập, mà chúng tiến hóa từ

các sinh vật khác.

Khi tàu Beagle về London vào ngày 2/10/1836, Darwin đã nổi tiếng trong

giới khoa học, vì trước đó một năm giáo sư Henslow hay sử dụng những hiện vật

của Darwin để thuyết giảng trong các hội nghị khoa học. Trong thời gian ở

London, ông đọc cuốn sách nổi tiếng về dân số của Linh mục Thomas Malthus,

mà trong đó ông lí giải rằng dân số sẽ được quân bình hóa do các yếu tố bệnh tật,

hạn chế tài nguyên, và chiến tranh. Chịu ảnh hưởng cách lí giải đó, Darwin suy

luận rằng một cơ chế tương tự cũng vận hành trong thế giới tự nhiên, và ông gọi

đó là “natural selection” – chọn lọc tự nhiên.

Lí thuyết tiến hóa

Ngày 18/6/1858 khi Darwin viết gần phân nửa cuốn sách vế lí thuyết chọn

lọc tự nhiên, ông được người bạn cũ là Alfred R. Wallaces gửi cho đọc luận văn

cũng cùng chủ đề, Darwin thấy sốc vì có người có cùng ý tưởng! Darwin dừng

viết sách và lập tức đề nghị Wallaces cùng với ông soạn một bài báo công bố

trước. Ngày 1/7/1858, Hội Linnean ở London [1] trình bày một cách khiếm diện

bài báo khoa học 18 trang của Charles Darwin và Alfred Wallace về lí thuyết chọn

lọc tự nhiên, nhưng sau này người ta chỉ nhớ đến Darwin, ít ai nhắc đến Wallace

[2]. Thật ra, Darwin là một nhà khoa học đích thực và xứng đáng là người phát

triển lí thuyết chọn lọc tự nhiên [3].

Ngày 22/11/1859 (tức 150 năm trước), Darwin cho xuất bản cuốn sách nổi

tiếng “On the Origin of Species” (có khi gọi tắt là Origin tạm dịch: “Về nguồn gốc

các loài vật”). Cuốn sách chỉ in 1250 bản, nhưng bán hết ngay trong ngày xuất

bản! Sau đó (và cho đến nay), sách được in rất nhiều lần và vẫn là một trong

những cuốn bán chạy nhất. Sự ra đời của cuốn sách và lí thuyết chọn lọc tự nhiên,

nói như nhà sinh vật học Stephen Jay Gould, là một cuộc cách mạng cơ bản nhất

trong tất cả cuộc cách mạng tri thức của lịch sử nhân loại, một phát kiến quan

trọng nhất trong thiên niên kỉ.

Trong cuốn Origin ông quan sát thấy các loài vật biến đổi theo từng vùng

và thời gian. Ngày nay, sự biến đổi đó được gọi là “tiến hóa” (evolution), có

nghĩa là sự thay đổi về đặc tính di truyền của các nhóm sinh vật qua nhiều thế hệ.

Dựa vào sự thật của tiến hóa, ông tìm một lí thuyết tiến hóa để giải thích những gì

ông quan sát được. Lí thuyết tiến hóa được dựa trên 6 phát biểu mang tính “nền

tảng” sau đây:

1. các sinh vật (kể cả con người) sản sinh ra nhiều con, và số con sống sót

nhiều hơn số chết;

2. những đứa con có khác biệt về chút ít về hình thể, nhưng những biến

dạng này có ích cho sự sinh tồn mai sau;

3. các sinh vật đấu tranh (như tìm thực phẩm và nơi cư trú) để tồn tại;

4. những sinh vật nào thích ứng với môi trường sống sẽ sống và tái sản sinh;

5. các đặc tính có ích cho sự tồn tại và tái sản sinh sẽ được lưu truyền cho

thế hệ kế tiếp;

6. cơ chế của tiến hóa là chọn lọc tự nhiên.

Chọn lọc tự nhiên thực ra là một nguyên lí hết sức đơn giản (nhưng cũng dễ

gây hiểu lầm). Toàn bộ nguyên lí có thể minh họa bằng một ví dụ như sau: nếu

những người với gien A có nhiều con cái hơn những người với gien B, thì về lâu

về dài gien A sẽ trở nên phổ biến trong dân số hơn gien B, và gien B sẽ dần dần

trở nên hiếm trong dân số. Do đó, nói đến chọn lọc tự nhiên là nói đến (a) sự biến

thiên về thông tin chứa trong gien làm nên những khác biệt về đặc tính của loài

vật; (b) sự khác biệt về khả năng tái sản sinh của loài vật, do hệ quả của (c) thay

đổi thông tin trong gien qua nhiều thế hệ.

Nhiều người hiểu lầm rằng thuyết của Darwin cho rằng con người xuất phát

từ khỉ. Thật ra, Darwin chưa bao giờ nói hay viết như thế. Darwin viết rằng khỉ,

vượn, và người nhất định phải có cùng một nguồn cội (tổ tiên) vì họ rất giống

nhau so với các sinh vật khác như người với cá chẳng hạn. Thật vậy, ngày nay,

qua phân tích di truyền học, chúng ta thấy trong bất cứ gien nào hay chuỗi DNA

nào được khảo sát, con người và loài tinh tinh có cấu trúc gien và DNA giống

nhau hơn là giữa tinh tinh với khỉ. Nếu so sánh DNA của con người và DNA của

tinh tinh, sự trùng hợp lên đến 98.4%, tức chỉ khác biệt 1.6%. Phân tích chuỗi

DNA trong hệ thống máu globin, mức độ trùng hợp giữa con người hiện đại và

tinh tinh là 98.76%, tức chỉ khác biệt trên dưới 1%. Chính vì sự trùng hợp di

truyền này, nhiều nhà nhân chủng học đề nghị xếp loại tinh tinh thành 3 nhóm:

nhóm 1 gồm Pan troglodytes (hay những tinh tinh ‘thường’), nhóm 2 gồm Pan

paniscus (còn gọi là bonobo hay pygmy chimpazee – tinh tinh nhỏ), và nhóm 3 là

... chúng ta, tức Homo sapiens, người thông minh. Có thể nói rằng chúng ta và linh

tinh hay khỉ có cùng tổ tiên, nhưng qua tiến hóa thì bây giờ chúng ta “văn minh”

hơn người anh em họ tinh tinh kia. Darwin không bao giờ nói khỉ là tổ tiên của

con người.

Ảnh hưởng

Tại sao lí thuyết chọn lọc tự nhiên được các nhà khoa học đánh giá là một ý

tưởng cách mạng vĩ đại của thiên niên kỉ? Tại vì lí thuyết này là nền tảng của nền

y sinh học hiện đại, nó cung cấp cho chúng ta một phương tiện để hiểu về thế giới

tự nhiên; một sự hiểu biết sâu hơn (dù chưa hoàn hảo) về hành vi của con người,

về nguồn cội của chúng ta đến từ đâu và sẽ đi về đâu. Bất cứ ai làm trong ngành y

sinh học đều có thể thấy lí thuyết của Darwin hoàn toàn hợp lí.

Trong phần cuối của cuốn Origin, Charles Darwin tiên đoán rằng công

trình của ông sẽ dẫn đến nhiều nghiên cứu quan trọng trong một tương lai gần.

Sau 200 năm, lời tiên đoán của Darwin đã thành sự thật. Ngày nay, trong y khoa

có một bộ môn học gọi là Darwinian Medicine hay Evolutionary Medicine (y học

tiến hóa) để giải thích tại sao chúng ta mắc những bệnh như ung thư, tiểu đường,

xơ vữa động mạch, phiền muộn, ho, cảm cúm, nhiễm trùng, v.v… Thuyết tiến hóa

chẳng những được sử dụng để lí giải về sự đa dạng của các loài vật, mà còn được

áp dụng để hiểu hành vi con người (như tại sao phụ nữ thích đàn ông có chiều cao

cao, hay đàn ông thích phụ nữ có mông nở, ngực to và khuôn mặt cân đối); tâm lí,

và làm nền tảng cho hàng loạt các bộ môn khoa học xã hội khác. Mới đây, thuyết

tiến hóa còn được sử dụng làm mô hình giải thích các hiện tượng xã hội như chiến

tranh và tranh chấp quân sự giữa các quốc gia hay các vùng trong một quốc gia.

Các nhà kinh tế có hẳn một trường phái kinh tế tiến hóa (evolutionary economics)

ứng dụng thuyết tiến hóa để giải thích phát triển kinh tế, tiếp thị, và thị trường

chứng khoáng.

Charles Darwin để lại cho đời chỉ 3 công trình khoa học (dưới dạng 3 cuốn

sách) và một số bài báo khoa học, nhưng cũng đủ để thay đổi thế giới một cách

vĩnh viễn. Cứ mỗi năm, các nhà khoa học lại tìm thấy ứng dụng mới của lí thuyết

tiến hóa. Công trình Origin của Darwin có thể xem là một trong những tác phẩm

trụ cột của thế giới, và đặt ông vào hàng của những “đại thụ” như Aristotle, Thánh

Augustine, William Shakespeare, Charles Dickens, Fyodor Dostoevsky, Honoré

de Balzac, Victor Hugo, những tác gia đặt nền móng cho văn minh phương Tây.

Charles Darwin, qua công trình Origin, đã và sẽ còn thay đổi thế giới.

Box 1 – chú thích

[1] Nay là một phần của Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Anh. Hội Linnean là

một hội sinh học lâu đời nhất trên thế giới, danh xưng của hội lấy từ tên của nhà

sinh vật học nổi tiếng người Thụy Điển Carl Linnarus.

[2] Nhiều người cho rằng Darwin ăn cắp ý tưởng của Wallace, nhưng khi xem xét

bằng chứng giả thiết này không đúng. Wallace có gửi bài báo của mình cho

Darwin đọc, và Darwin thấy những ý tưởng trong đó trùng hợp ý tưởng của mình

nên đề nghị cả hai bài báo công bố cùng một lúc. Tuy nhiên, Darwin hơn Wallace

một bậc: đó là ông có công thu thập dữ liệu và bằng chứng dồi dào để làm nền

tảng cho lí thuyết của mình, còn Wallace thì chỉ nói suông. Có ý tưởng là một

chuyện, nhưng phải có bằng chứng là một chuyện khác.

[3] Xem qua các bài báo và nhật kí của Darwin chúng ta thấy ông là một nhà khoa

học thật sự, hiểu theo nghĩa có tư duy phân tích, cẩn thận, và phát biểu có bằng

chứng. Bất cứ phát biểu nào ông cũng có bằng chứng làm cơ sở. Ngay cả sau khi

phát triển một giả thuyết, ông cũng tìm bằng chứng để tự bác bỏ ý tưởng đó, hoặc

tìm bạn bè phản biện dùm.

Ông thậm chí còn dùng tư duy phân tích để xem có đánh giá lợi và bất lợi nếu lập

gia đình. Trong nhật kí ông phân tích như sau: Lợi? Có một người phối ngẫu lúc

nào cũng bên mình trong cuộc đời, một người bạn lúc tuổi xế chiều, và làm cho

cuộc sống ý nhị hơn. Còn bất lợi? Mất tự do đi đứng theo ý mình, giảm thì giờ để

đọc sách, giảm thì giờ đi thăm viếng bạn bè và bà con, phải tiêu tiền để nuôi con

cháu thay vì để mua sách. Cuối cùng ông quyết định … cưới vợ. Ngày 29/1/1839

(lúc đó ông 30 tuổi) ông thành hôn với người chị họ là Emma Wedgwood (lớn hơn

ông khoảng 1 tuổi). Hai người có 10 con.

Sau khi lập gia đình, ông biến cả nhà thành một trung tâm khoa học. Ông nhờ vợ

đánh đàn piano cho một đám giun nghe (chứa trong chậu) để ông quan sát xem

chúng có phản ứng với nhạc không. Ông báo cáo rằng không có con giun nào

phản ứng với nhạc cả! Ông nhờ mấy người con ném bột trên một đàn ong để ông

theo dõi đường bay của ong. Nhưng chẳng thấy ông báo cáo có đứa con nào bị

ong chích hay không. Ông còn là một nhà sáng chế. Vì phòng làm việc tương đối

rộng và chứa nhiều hiện vật, nên mỗi khi ông di chuyển tương đối tốn thời gian, và

thế là ông gắn bánh xe vào chân ghế để tiết kiện … vài phút.

Box 2 – Vài nét phác họa về Charles R. Darwin

Sinh tử: 12/2/1809 tại hạt Shrewsbury (Anh). Tạ thế ngày 19/4/1882 tại Downe,

Kent (Anh).

Gia đình: Thành hôn với người chị họ là Emma Wedgewood. Hai người có tất cả

10 con.

Học vấn: Học y khoa tại Đại học Edinburgh trước khi bỏ học và chuyển sang học

văn khoa tại Christ's College thuộc Đại học Cambridge với ý định trở thành giáo

sĩ.

Sự nghiệp

1831 Được Giáo sư John Stevens Henslow mời tham gia chuyến du hành trên tàu

HMS Beagle đến Nam Mĩ để nghiên cứu dưới sự chỉ đạo của Hoàng gia Anh.

1838-1843 Biên tập và đóng góp cho cuốn sách về khoa học tự nhiên vật và động

vật học (The Zoology of the Voyage of HMS Beagle). Phát triển học thuyết lựa

chọn tự nhiên.

1859 Công bố cuốn sách nổi tiếng “On the Origin of Species” (Về nguồn gốc các

loại vật).

1871 Công bố cuốn sách nổi tiếng khác "The Descent of Man” “Selection in

Relation to Sex”

1872 Công bố cuốn sách “The Expression of the Emotions in Man and Animals”.

Câu phát biểu nổi tiếng:

“Theo tôi, chúng ta phải ghi nhận rằng một người dù với những phẩm chất vương

giả của mình … vẫn mang trên người cái dấu ấn không thể xóa bỏ của một cội

nguồn cấp thấp” (Charles Darwin)

Đánh giá:

“Học thuyết tiến hóa cung cấp cho chúng ta một tầm nhìn phong phú và ngoạn

mục hơn bất cứ tôn giáo nào” (Giáo sư Richard Dawkins)