Ám sát Hitler

Một trong những sự kiện nếu thành công có thể đã

làm thay đổi cục diện Thế Chiến II là vụ ám sát hụt

Adolf Hitler ngày 20.07.1944. Ảnh bên: đô đốc

Wilhelm Canaris, trùm tình báo quân sự, chủ mưu vụ

này.

Ngay từ cuối thập niên 1930, một số sỹ quan cao cấp

của quân đội Đức đã cho rằng đường lối của Hitler sẽ

dẫn đến sự sụp đổ toàn diện của nước Đức.

Sang đến thời gian 1943-44, tình hình chiến sự xấu đi

rất nhiều đối với quân Đức, trái với những thắng lợi

ban đầu. Một số nhân vật cao cấp trong quân đội như

thống chế Erwin Rommel thì muốn đưa quân Đức ở

Pháp và Bắc Phi ra đầu hàng Đồng minh. Một âm

mưu đảo chính và ám sát Hitler mang tên Dàn Giao

Hưởng Đen hình thành dưới sự chỉ đạo của đô đốc

Wilhelm Canaris, tư lệnh quân báo.

Sau hai lần không thành công, nhóm Dàn Giao

Hưởng Đen đã tổ chức ám sát Hitler lần thứ ba với

kết quả gần nhất với mục tiêu.

Vụ ám sát bằng bom

Ngày 20.07.1944 đại tá Claus von Stauffenberg

(1907-1944) đã đem bom vào đặt trong phòng họp

của Hitler ở nơi nay là Ketrzyn, miền Tây Balan.

Là một người hùng của quân đội Đức với những

chiến công trong chiến dịch đánh Balan và Pháp, von

Stauffenberg bị thương vào mắt và mất một tay ở

Tunesia trong năm 1943.

Từ Bắc Phi trở về, ông được trao chức tư lệnh lực

lượng trừ bị tại Berlin. Phe đối lập hy vọng rằng sau

khi giết được Hitler, họ sẽ huy động quân trừ bị và

các đơn vị chống Hitler đưa lính đến chiếm các cơ

quan đầu não của chính quyền, quân SS và bắt những

nhân vật cao cấp nhất trong đảng Quốc gia Xã hội

Chủ nghĩa (Nazi).

Trong số các sỹ quan cao cấp của Wehrmacht, ngoài

Wilhelm Canaris còn có nguyên soái Gunther Hans

von Kluge (1882-1944), tướng Friedrich Olbricht

(1888-1944), tướng Franz Halder (1884-1972), Fritz-

Dietlof Graf von der Schulenburg (1902-1944), tướng

Henning von Treskow (1901-1944), tướng Ludwig

Beck (1880-1944), Carl Friedrich Goerdeler (1884-

1945) và những người khác.

Vào tháng Bảy năm 1944 đại tá von Stauffenberg

được mời đến dự họp tại tổng hành dinh của Hitler đã

mang một trái bom hẹn giờ trong cặp sách tay. Khi

ngồi vào bàn, von Stauffenberg để chiếc cặp dưới nền

bên cạnh một chân bàn là bệ bê-tông.

Chiếc cặp đựng bom được để về phía Hitler đang

xem tướng Adolf Heusinger báo cáo tình hình chiến

sự trên một tấm bản đồ trải rộng trên bàn. Sau chừng

một phút đại tá von Stauffenberg lấy cớ phải gọi điện

nên đi ra khỏi phòng họp.

Một phụ tá của Heusinger ngồi vào chỗ đó và thấy

chiếc cặp vướng dưới chân nên đã đặt nó sang phía

bên kia của bệ bê-tông.

Vì thế, khi phát nổ vào lúc 12:50, sức công phá của

trái bom đã không hướng vào Hitler mà hắt mạnh lên

phía trên, hất tung mặt bàn và mái nhà. Tòa nhà nơi

tổ chức họp cũng không phải là một nơi kiên cố và

các cửa sổ lại mở rộng nên sức nổ bị thoát ra ngoài

nhiều.

Hitler chỉ bị thủng một màng nhĩ và bị thương nhẹ.

Sau khi chứng kiến cả toà nhà bị phá tung mái, đại tá

von Stauffenberg bay về Berlin với ý nghĩ Hitler đã

bị giết.

Phe đảo chính ở Berlin không hành động ngay mà

muốn chờ xem phản ứng của các bên khác ra sao. Họ

đã đánh mất những giờ phút quý giá nhất. Bốn tiếng

sau họ mới quyết định gửi điện tín cho các đơn vị

quân đội tuyên bố đã chiếm quyền. Nhưng bức điện

không có tác động gì vì được ký bởi nguyên soái

Erwin von Witzleben (1881-1944), người đã nghỉ vì

bệnh được hơn hai năm.

Sau đó, phe đảo chính sửa lại lỗi đó bằng cách gửi

thêm một bức điện nữa với chữ ký của tướng Erich

Hoepner (1886-1944). Đây cũng là một nhân vật có

tiếng trong chiến trận nhưng không có uy tín gì lớn

trong quân đội.

Các tư lệnh quân đoàn nhận được điện đã không hiểu

chuyện gì xảy ra và quyết định gọi về Berlin để kiểm

chứng.

Trong thời gian đó, bộ máy quân sự và an ninh của

Hitler nhanh chóng ra tay và đến 18 giờ 30 đã làm

chủ tình hình. Toàn bộ nhóm đảo chính bị bắt và đa

số bị xử bắn ngay trong năm 1944. Một vài người

khác thì bị tù và sống đến khi chiến tranh kết thúc.

Chẳng hạn như tướng Franz Halder bị đưa vào trại

tập trung Dachau và sau được quân Mỹ giải thoát.

Những ý kiến xoay quanh chữ ’nếu’

Ngày nay các sử gia còn đang tranh cãi liệu phe

Đồng minh có nhúng tay vào vụ ám sát Hitler thắng

7.1944 hay không. Câu hỏi khác là nếu vụ ám sát

thành công thì cục diện chiến tranh sẽ thay đổi như

thế nào.

Có một số ý kiến cho rằng đô đốc s đã tìm cách liên

lạc với tình báo Anh và cho biết về âm mưu ám sát

Hitler.

Ngoài ra, người ta cũng suy luận rằng phe đảo chính

có thể đã nghĩ đến cách tiêu diệt Hitler để đàm phán

ngưng chiến với phe Đồng minh, ngăn sự thất bại

toàn bộ của nước Đức.

Tuy nhiên, quan điểm chính thức của phe đồng minh

từ đó đến nay vẫn là cả chế độ phát-xít phải bị giải

thể chứ không thể coi Hitler là nhân vật duy nhất cần

loại bỏ. Các chính trị gia của Anh và Pháp khi ấy đều

muốn làm yếu nước Đức về lâu dài vì lo sợ sự lập lại

của Thế Chiến I và II một khi nước Đức vươn lên về

quân sự.

Với chữ ‘nếu’, người ta có thể hình dung ra rằng lịch

sử đã khác trong trường hợp Hitler bị giết tháng

7.1944.

Giả sử khi đó nước Đức nhanh chóng đầu hàng Đồng

minh thì việc chia cắt nước này và thành phố Berlin

có thể đã không xảy ra. Quân của Liên Xô cũng

không có lý do gì để tiến vào Đức mà có thể chỉ dừng

ở Bạch Nga hay Balan.

Nếu như vậy, có thể đã không có sự cạnh tranh Nga-

Mỹ mở màn ở Berlin và Đông Âu sau Thế Chiến II.

Và cũng có thể đã không xảy ra Chiến tranh Lạnh với

sự phân chia thế giới làm hai vùng ảnh hưởng của hai

đại cường với ý thức hệ trái ngược nhau. Và thậm

chí, đẩy chữ ‘nếu’ đi xa hơn nữa, ta có thể tránh được

cuộc chiến Triều Tiên và sau đó là chiến tranh Đông

Dương.

Bởi cả hai cuộc chiến này cũng phần nào là đoạn kéo

dài của chiến tranh ở châu Âu được các đại cường

đẩy sang những vùng xa hơn. Nhưng tất nhiên đây

chỉ là một giả thuyết mà thôi và ’yếu tố Hitler’ cũng

chỉ đóng một phần nhỏ trong những diễn biến lớn của

lịch sử suốt thế kỷ 20.

(theo BBC)

Last Updated ( Tuesday, 11 March 2008 )