intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài giảng học phần Kiểm toán nội bộ - Chương 1: Khái quát về kiểm toán nội bộ

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:26

2
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài giảng "Kiểm toán nội bộ - Chương 1: Khái quát về kiểm toán nội bộ" cung cấp cho người đọc các nội dung: Quản trị rủi ro, kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp; bản chất và lịch sử phát triển của kiểm toán nội bộ; chức năng, nhiệm vụ và vai trò của kiểm toán nội bộ, các loại kiểm toán nội bộ. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài giảng học phần Kiểm toán nội bộ - Chương 1: Khái quát về kiểm toán nội bộ

  1. HỌC PHẦN KIỂM TOÁN NỘI BỘ BÀI GIẢNG CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ KIỂM TOÁN NỘI BỘ 1.1. Quản trị rủi ro, kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp 1.1.1. Quản trị rủi ro của doanh nghiệp Trong nền kinh tế thị trường với nhiều biến động hiện nay, doanh nghiệp luôn phải đối mặt với những nguy cơ rõ ràng hoặc tiềm ẩn mà nêu nguy cơ đó thực sự xảy ra thì doanh nghiệp sẽ phải gánh chịu những ảnh hưởng tiêu cực, tổn thất, thiệt hại ngoài ý muốn. Những sự kiện tiềm ẩn khả năng gây ra thiệt hại về lợi ích cho doanh nghiệp như vậy gọi là rủi ro. Xét từ góc độ kinh doanh, khi đưa ra bất cứ quyết định nào, nhà quản lý tất yếu sẽ phải cân nhắc đến yếu tố rủi ro. Mức độ thành công hay thất bại của quyết định đó sẽ chịu ảnh hưởng trực tiếp của các rủi ro liên quan và việc các rủi ro đó được kiểm soát như thế nào. Càng nhiều biến động thị trường, càng nhiều yếu tố không chắc chắn, mối đe doạ đối với doanh nghiệp càng lớn. Bởi vậy, quản trị rủi ro của doanh nghiệp là nội dung quan trọng và không thể thiếu đối với các doanh nghiệp hiện đại, doanh nghiệp cần biết dựa vào sức mạnh của mình để tận dụng các cơ hội cũng như giảm thiểu những rủi ro có khả năng gặp phải. Quả trình quản trị rủi ro của doanh nghiệp bao gồm các bước chính: Xác định rủi ro; Phân tích và đánh giá rủi ro; Phản ứng với rủi ro. Cụ thể như sau: Bước 1: Xác định rủi ro Xác định rủi ro thực chất là quá trình nhận diện rủi ro bao gồm việc xác định loại rủi ro sẽ tác động đến doanh nghiệp và ghi nhận về các đặc tính của rủi ro. Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh, rủi ro đối với doanh nghiệp bao gồm: rủi ro bên trong và rủi ro bên ngoài. Rủi ro bên trong: là những rủi ro gây ra bởi các nhân tố bên trong doanh nghiệp, bao gồm: rủi ro hoạt động và rủi ro tuân thủ. Trong đó, rủi ro hoạt động là rủi ro phát sinh liên quan đến việc huy động và sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp vào các hoạt động cụ thể và liên quan đến khía cạnh đạo đức, văn hoá doanh nghiệp… Rủi ro tuân thủ liên quan đến những hành vi vi phạm của doanh nghiệp
  2. với chủ trương, đường lối, chính sách pháp luật của Nhà nước; chính sách, chế độ kinh tế - tài chính - kế toán; các quy định nội bộ của doanh nghiệp cũng như các cam kết của doanh nghiệp với bên ngoài. Rủi ro bên ngoài: gọi là rủi ro kinh doanh – là rủi ro gây ra bởi các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp, bao gồm các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô (như chính trị, kinh tế, xã hội, khoa học công nghệ…) và nhân tố thuộc môi trường vi mô (như nhà cung cấp, khách hàng, sản phẩm thay thế, đối thủ tiềm năng…) Có thể phân loại rủi ro theo khả năng xảy ra rủi ro. Theo cách phân loại này, rủi ro được chia thành 2 loại: rủi ro có thể né tránh và rủi ro không thể né tránh (còn gọi là rủi ro bất khả kháng). Như vậy, rủi ro mà doanh nghiệp có khả năng phải đối mặt rất phong phú đa dạng. Mỗi loại rủi ro có đặc tính khác nhau và có khả năng gây ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp trên khía cạnh và với mức độ khác nhau. Nhà quản trị cần tiến hành phân tích và đánh giá mức độ ảnh hưởng của từng loại rủi ro đối với doanh nghiệp. Bước 2: Phân tích và đánh giá rủi ro Nhà quản trị thực hiện phân tích rủi ro trên cơ sở phân tích các nhân tố thuộc môi trường rủi ro. Để phân tích rủi ro bên ngoài đến môi trường vĩ mô, nhà quản trị phân tích 4 yếu tố thuộc môi trường vĩ mô gồm: Chính trị (P – Political); Kinh tế (E – Economic); Xã hội (S – Socical); Khoa học - Công nghệ (T – Technology). Kết hợp các chữ cái viết tắt của 4 yếu tố trên tạo thành mô hình PEST. Trong đó, mỗi yếu tố được phân tích chi tiết theo các khía cạnh, biểu hiện cụ thể của nó. Cụ thể: Chính trị (P – Political): + Tình hình chính trị đất nước mà doanh nghiệp đang kinh doanh; + Xu hướng thay đổi chính sách, chế độ của Nhà nước sở tại;
  3. + Thay đổi pháp luật (luật thuế, luật đất đai, luật doanh nghiệp…); + Chính sách đối ngoại của Nhà nước; + Chính sách khuyến khích đầu tư vào các vùng miền, ngành kinh tế, lĩnh vực… + Vai trò của kinh tế quốc doanh + Quốc hữu hoá; + Chiến tranh… Kinh tế (E – Economic): + Lạm phát; + Thất nghiệp; + GDP (điều chỉnh để đạt mức tăng trưởng); + Tăng trưởng kinh tế; + Tỷ giá hối đoái (vấn đề xuất khẩu); + Lãi suất (chi phí sử dụng vốn); + Tâm lý đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước; + Chu kỳ suy thoái kinh tế; + Giá nguyên liệu cơ bản: điện, nước, xăng, dầu… + Tỷ lệ tiêu dùng và tiết kiệm; + BTA, AFTA, WTO… + Nền kinh tế bong bóng: Thị trường chứng khoán, bất động sản; Xã hội (S – Socical): + Xu hướng tiêu dùng xã hội; + Cơ cấu gia đình – xã hội; + Ảnh hưởng của các nhân vật nổi tiếng; + Thói quen tiêu dùng; + Trình độ, ý thức cộng đồng; + Các thông số về dân số; + Văn hoá xã hội… Khoa học - Công nghệ (T – Technology): + Trình độ phát triển khoa học công nghệ trong ngành nghề lĩnh vực;
  4. + Sự ra đời của sản phẩm mới trên thị trường công nghệ mới; + Phương thức sản xuất mới trên cơ sở tiết kiệm hơn (ít nhân công); + Cách quản lý mới; + Các kênh tiếp cận khách hàng và kênh phân phối mới. Để phân tích rủi ro bên ngoài đến môi trường vi mô, Michael Porter – Một nhà hoạch định chiến lược và cạnh tranh hàng đầu thế giới hiện nay – đã cung cấp mô hình phân tích gọi là mô hình Five Forces. Trong đó, các ngành kinh doanh được mô hình hoá và được cho rằng đều phải chịu tác động của 5 lực lượng cạnh tranh. Mô hình 1.1 - Mô hình 5 lực lượng (Five Forces) của Michael Porter. Giải thích mô hình: - Sức mạnh của nhà cung cấp thể hiện ở các đặc điểm sau: + Mức độ tập trung của các nhà cung cấp; + Tầm quan trọng của số lượng sản phẩm đối với nhà cung cấp; + Sự khác biệt của các nhà cung cấp;
  5. + Ảnh hưởng của các yếu tố đầu vào đối với các chi phí hoặc sự khác biệt hoá sản phẩm; + Chi phí chuyển đổi của các yếu tố đầu vào đối với chi phí hoặc sự khác biệt hoá sản phẩm; + Chi phí chuyển đổi của các doanh nghiệp trong ngành; + Sự tồn tại của các nhà cung cấp thay thế; + Nguy cơ tăng cường sự hợp nhất của các nhà cung cấp; + Chi phí cung ứng so với tổng lợi tức của ngành. - Sức mạnh của khách hàng: + Vị thế mặc cả; + Số lượng người mua; + Thông tin mà người mua có được; + Tính đặc trưng của nhãn hiệu hàng hoá; + Tính nhạy cảm đối với giá; + Sự khác biệt hoá sản phẩm; + Mức độ tập trung của khách hàng trong ngành; + Mức độ có sẵn của hàng hoá thay thế; + Động cơ của khách hàng. - Nguy cơ từ sản phẩm thay thế: + Các chi phí chuyển đổi trong sử dụng sản phẩm (chi phí nghiên cứu và phát triển…) + Xu hướng sử dụng hàng thay thế của khách hàng; + Tương quan giữa giá cả và chất lượng của các mặt hàng thay thế. - Áp lực từ đối thủ tiềm ẩn: + Sức hấp dẫn của ngành (Tỷ suất lợi nhuận cao, tăng trưởng nhanh…); + Rào cản gia nhập (các lợi thế chi phí tuyệt đối, khả năng tiếp cận các yếu tố đầu vào, chính sách của chính phủ, tính kinh tế theo quy mô, các yêu cầu về vốn, các chi phí chuyển đổi ngành kinh doanh…). - Áp lực cạnh tranh nội bộ ngành:
  6. + Tình trạng ngành (mức độ tập trung của ngành, tình trạng tăng trưởng, tính sàng lọc…); + Cấu trúc ngành; + Rào rút lui (các rào cản nếu muốn “thoát ra” khỏi ngành). Để phân tích rủi ro bên trong của doanh nghiệp, nhà quản trị tiến hành phân tích các đánh giá mối liên hệ giữa các chức năng cơ bản trong doanh nghiệp căn cứ vào mục tiêu của từng chức năng, của từng hoạt động; phân tích các yếu tố cấu thành Hệ thống kiểm soát nội bộ. Việc này có thể thực hiện thông qua các bảng câu hỏi chuẩn và trên cơ sở so sánh với chính doanh nghiệp trong các giai đoạn khác hoặc so sánh với các doanh nghiệp khác. Việc đánh giá rủi ro cần được dựa trên 2 yếu tố: Xác suất xảy ra rủi ro và mức độ ảnh hưởng khi rủi ro xảy ra, từ đó có thể xếp hạng được rủi ro mà doanh nghiệp phải đối mặt. Để đánh giá rủi ro, nhà quản trị có thể sử dụng ma trận đánh giá rủi ro, trong đó, xác suất xảy ra rủi ro và mức độ ảnh hưởng của rủi ro được xếp hạng theo 3 mức độ là: cao, trung bình và thấp. Các mức độ được bố trí như hình bên dưới (Bảng 1.1). Giao điểm giữa chúng cho nhà quản trị nhận định về mức độ rủi ro cần đánh giá cũng theo 3 cấp độ: cao, trung bình và thấp. TẦN Cao TB Cao Cao SUẤT Trung bình Thấp TB Cao XUẤT HIỆN Thấp Thấp Thấp TB Thấp Trung bình Cao TÁC ĐỘNG ĐẾN DOANH NGHIỆP Bảng 1.1: Ma trận đánh giá rủi ro Đánh giá rủi ro của doanh nghiệp là một vấn đề mang tính cảm tính, dựa nhiều vào kinh nghiệm của nhà quản lý. Do vậy, việc đánh giá này cần phải được xem xét lại thường xuyên. Bước 3: Phản ứng với rủi ro Doanh nghiệp có thể có nhiều cách để phản ứng với rủi ro. Chẳng hạn:
  7. (1) Né tránh rủi ro: là việc không thực hiện các hành vi có thể gay ra rủi ro. Phương pháp này có ưu điểm là có thể tránh được tất cả các rủi ro. Nhưng chính việc không thực hiện các hành vi để né tránh rủi ro lại đồng nghĩa với việc đánh mất cơ hội tìm kiếm lợi nhuận. (2) Giảm thiểu rủi ro: là việc làm giảm các tác hại do rủi ro tác động đến doanh nghiệp. Khi xảy ra rủi ro người ta tìm mọi cách để giảm bớt các tác hại của chúng. Phương pháp này thường được sử dụng để ứng phó với các loại rủi ro không thể tránh. (3) Kiềm chế rủi ro: là một trong những phương pháp xử lý rủi ro hiệu quả nhất. Phương pháp này thường được ứng dụng trong những trường hợp thiệt hại do rủi ro gây ra thì nhỏ nhưng cơ hội tìm kiếm lợi nhuận lại rất lớn. Trong trường hợp này người ta thường chấp nhận rủi ro để đẩy lợi nhuận, đồng thời tiến hành các biện pháp để kiềm chế tác hại của rủi ro. Để tiến hành phương pháp này cần phải đảm bảo nguyên tắc lợi nhuận mang lại phải lớn hơn thiệt hại nếu như rủi ro gây ra. (4) Chuyển giao rủi ro: là chuyển dịch đối tượng gánh chịu hậu quả do rủi ro từ người này sang người khác bằng việc trả một khoản chi phí. Ví dụ: một hãng kinh doanh taxi trả một khoản tiền để mua bảo hiểm cho thân vỏ xe và bảo hiểm nghề nghiệp cho lái xe. Nếu tai nạn xảy ra thì hậu quả rủi ro sẽ chuyển sang công ty bảo hiểm gánh chịu. Tương tự, một ngân hàng đã mua bảo hiểm cho các quyết định của Hội đồng quản trị phòng trường hợp quyết định đó là sai lầm gây ra các rủi ro cho ngân hàng đó. (5) Chấp nhận rủi ro: Với những rủi ro không trọng yếu và không thể né tránh, doanh nghiệp chỉ có thể chấp nhận rủi ro sau khi đã sử dụng các cách thức để giảm thiểu tác động của rủi ro đó. 1.1.2. Kiểm soát nội bộ trong doanh nghiệp Hệ thống kiểm soát nội bộ KSNB là quy trình do Ban quản trị, Ban giám đốc và các cá nhân khác trong doanh nghiệp thiết kế, thực hiện và duy trì để tạo ra sự đảm bảo hợp lý về khả năng đạt được mục tiêu của doanh nghiệp trong việc đảm bảo độ tin cậy của báo cáo tài
  8. chính, đảm bảo hiệu quả, hiệu suất hoạt động, tuân thủ pháp luật và các quy định có liên quan. Thuật ngữ “kiểm soát” được hiểu là bất cứ khía cạnh nào của một hoặc nhiều thành phần của KSNB. (Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 315). Hoặc là, KSNB là một quy trình chịu ảnh hưởng bởi hội đồng quản trị, các nhà quản lý và các nhân viên khác của một tổ chức, được thiết kế để cung cấp một sự bảo đảm hợp lý trong việc thực hiện các mục tiêu sau: + Hiệu lực, hiệu quả của các hoạt động; + Tính chất đáng tin cậy của báo cáo tài chính; + Sự tuân thủ các luật lệ và quy định hiện hành. (Theo Committee of Sponsoring Oganizations – COSO) Theo COSO, hệ thống KSNB trong một doanh nghiệp được cấu thành bởi năm bộ phận là: + Môi trường kiểm soát; + Quy trình đánh giá rủi ro; + Các hoạt động kiểm soát (thủ tục kiểm soát); + Thông tin và truyền thông; + Giám sát và thẩm định. Quy trình thiết kế và vận hành hệ thống KSNB trong một doanh nghiệp do các nhà quản lý thực hiện và thường bao gồm những bước sau: + Bước 1: Thiết kế các thủ tục kiểm soát; + Bước 2: Thực hiện các thủ tục kiểm soát; + Bước 3: Kiểm tra sự tuân thủ các thủ tục kiểm soát; + Bước 4: Đánh giá các thủ tục kiểm soát. Trong đó, việc thiết kế và thực hiện các thủ tục kiểm soát thường do các nhà quản lý cấp cao hoặc cấp trung gian hoặc cấp tác nghiệp đám trách. Việc kiểm tra sự tuân thủ và đánh giá các thủ tục kiểm soát cũng có thể do các nhà quản lý thực hiện, nhưng khi quy mô doanh nghiệp lớn đến một mức nào đó, một bộ phận chuyên trách trong doanh nghiệp sẽ được giao đảm trách gọi là bộ phận kiểm toán nội bộ (KiTNB).
  9. Có thể thấy, KSNB được thiết kế, thực hiện và duy trì nhằm ngăn chặn và giảm thiểu rủi ro, tăng cường hiệu quả hoạt động, hiệu lực cho quản lý và chất lượng thông tin của doanh nghiệp. Việc thiết kế, thực hiện và duy trì KSNB tuỳ thuộc vào quy mô và mức độ phức tạp của doanh nghiệp trong từng lĩnh vực hoạt động, từng thời kỳ khác nhau. 1.1.3. Quản trị rủi ro với kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ doanh nghiệp Quản trị rủi ro với kiểm soát nội bộ doanh nghiệp Một trong những cơ chế KSNB được phổ cập và ứng dụng nhiều nhất là cơ chế KSNB của Committee of Sponsoring Oganizations – COSO. Theo COSO, KSNB được xem là một chu trình thuộc quyền hạn của Hội đồng quản trị và Ban giám đốc, được thiết kế nhằm có được sự đảm bảo hợp lý việc đạt được các mục tiêu sau: + Hiệu quả và hiệu suất của các hoạt động; + Độ tin cậy của Báo cáo tài chính; + Tuân thủ pháp luật và các quy định. Các mục tiêu này hàm chưa một cách trực tiếp các rủi ro. Một cách gián tiếp, việc đạt được hay không đạt được các mục tiêu này sẽ có ảnh hưởng từ rủi ro chiến lược của doanh nghiệp. Chính vì vậy, theo cơ chế KSNB của COSO, đánh giá rủi ro được coi là một nội dung quan trọng trong tổng thể cơ chế KSNB của doanh nghiệp. Cơ chế này đòi hỏi doanh nghiệp phải xây dựng chu trình đánh giá các rủi ro tiềm tàng có thể ảnh hưởng tới việc đạt được các mục tiêu của KSNB. Chu trình này cần mang tính chất dự báo, thường được thực hiện cùng việc lên kế hoạch năm và được cập nhật thường xuyên khi có biến động lớn. Việc đánh giá rủi ro, cùng với các cầu phần khác trong KSNB, kể cả thủ tục kiểm soát, cần được thực hiện tại tất cả các cấp liên quan đến những hoạt động trọng yếu của doanh nghiệp. Quản trị rủi ro và kiểm toán nội bộ KiTNB ra đời xuất phát từ yêu của của quá trình quản lý. Đồng thời, từ khi xuất hiện, KiTNB được xem là “tai mắt” của ban lãnh đạo doanh nghiệp qua việc sử dụng các chuyên gia có nhiệm vụ kiểm tra và soát xét tất cả các bộ phận và chức
  10. năng của một doanh nghiệp và báo cáo cho lãnh đạo doanh nghiệp các kết quả công việc của mình. Một mặt, KiTNB phải dựa trên đánh giá rủi ro để xác định khu vực, trọng tâm kiểm tra và lên kế hoạch kiểm toán. Mặt khác, KiTNB sẽ giúp đánh giá và định tính hiệu quả cũng như xem xét các bước KSNB có được thực hiện hay không, qua đó xác định và cảnh báo các rủi ro trọng yếu ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp và đưa ra các khuyến nghị và kế hoạch hành động, KiTNB cũng phải quan tâm đến các rủi ro liên quan cũng như môi trường tồn tại các rủi ro đó. 1.2. Bản chất và lịch sử phát triển của kiểm toán nội bộ 1.2.1. Bản chất của kiểm toán nội bộ Quản lý có 3 chức năng cơ bản là: + Lập kế hoạch; + Tổ chức; + Chỉ đạo. Để thực hiện các chức năng trên, nhà quản lý phải đưa ra các chính sách, thủ tục, quy định trong tổ chức. Quy mô tổ chức ngày càng mở rộng, các chính sách, thủ tục ngày càng phức tạp, hình thành một hệ thống mạng kiểm soát trong doanh nghiệp gọi là KSNB. Khi quy mô doanh nghiệp lớn đến một mức độ nhất định, một bộ phận trong doanh nghiệp sẽ được tách ra, chuyên môn hoá trong công việc kiểm tra và đánh giá hệ thống KSNB, đó chính là Kiểm toán nội bộ (KiTNB). Cho đến nay, KiTNB được nhiều nhà khoa học, nhiều tổ chức nghiên cứu với nhiều góc tiếp cận và quan điểm khác nhau nên khái niệm KiTNB được đưa ra khá phong phú. Năm 1978, lần đầu tiên Viện KTV nội bộ (IIA) đưa ra định nghĩa về KiTNB. Theo đó: “KiTNB là một chức năng thẩm định độc lập được thiết lập bên trong một tổ chức để xem xét và đánh giá các hoạt động của tổ chức đó, với tư cách là một sự trợ giúp đối với tổ chức đó”. Từ định nghĩa này, có thể thấy 3 vấn đề chủ yếu: + KiTNB là quá trình đánh giá một cách hệ thống và khách quan các hoạt động và các thủ tục kiểm soát trong tổ chức; + Hoạt động của KiTNB là độc lập;
  11. + Hoạt động của KiTNB là hoạt động phục vụ cho tổ chức với mục tiêu giúp đỡ các thành viên của tổ chức hoàn thành nhiệm vụ hiệu quả. Trong phần Giải thích thuật ngữ trong Chuẩn mực kiểm toán của Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC), KiTNB được định nghĩa: “KiTNB là một hoạt động đánh giá được lập ra trong doanh nghiệp như là một dịch vụ cho doanh nghiệp đó, có chức năng kiểm tra, đánh giá và giám sát tính phù hợp và hiệu quả của hệ thống kế toán và KSNB”. Quan điểm này có thể được xem xét trên các khía cạnh khác nhau: + KiTNB có chức năng đánh giá, kiểm tra, kiểm soát; + KiTNB có vai trò là một dịch vụ trợ giúp cho doanh nghiệp; + Đối tượng của KiTNB là tính phù hợp và hiệu quả của hệ thống KSNB. Hiệp hội Kế toán viên công chứng Anh (ACCA) cũng đưa ra cách giải thích này tương tự Liên đoàn kế toán quốc tế, cho rằng: “KiTNB là hoạt động kiểm ta và đánh giá được thiết lập trong một tổ chức nhằm mục đích quản trị nội bộ doanh nghiệp. KiTNB có chức năng kiểm tra, đánh giá sự phù hợp và hiệu lực của hệ thống kế toán và hệ thống KSNB”. Viện kiểm tra viên và kiểm soát viên nội bộ của Pháp đưa ra khái niệm một cách đơn giản rằng: “KiTNB là việc xem xét lại định kì những công việc mà lãnh đạo đang sử dụng để kiểm soát và quản lý doanh nghiệp”. Nhằm đáp ứng yêu cầu cao hơn của quản lý, tháng 6/1999, Hội đồng Giám đốc của IIA đã thông qua một định nghĩa mới, đưa ra một cách nhìn toán diện hơn về KiTNB. Định nghĩa này được sử dụng phổ biến trong các tài liệu của IIA cho tới hiện nay. Theo đó, KiTNB được định nghĩa: “KiTNB là hoạt động đánh giá tư vấn độc lập trong nội bổ tổ chức, được thiết kế nhằm cải tiến và làm tăng giá trị cho các hoạt động của tổ chức đó. KiTNB giúp tổ chức đạt được các mục tiêu bằng việc đánh giá một cách hệ thống và cải tiến hiệu lực của quy trình quản trị, kiểm soát và quản lý rủi ro”. Định nghĩa này có thể được xem xét trên các khía cạnh sau: + KiTNB là hoạt động có 2 chức năng: đánh giá và tư vấn; + KiTNB là hoạt động nội kiểm nhưng vẫn phải đảm bảo được tính độc lập; + Mục tiêu của KiTNB là: cải tiến và tăng giá trị của hoạt động tổ chức;
  12. + Phương pháp thực hiện của KiTNB là đánh giá hoạt động và kiến nghị nhằm cải thiện tính hiệu lực của hoạt động quản trị, kiểm soát rủi ro. Các khái niệm trên tuy có cách diễn đạt khác nhau nhưng nhìn chung đều chỉ rõ những điểm sau: (1) KiTNB tồn tại để hỗ trợ hoặc tạo ra lợi ích cho tổ chức. Đây là một hoạt động không mang tính “tự thân” mà xuất phát từ nhu cầu khách quan của quản lý; (2) KiTNB là một loại hình tổ chức có chức năng đo lượng và đánh giá tính hiệu quả của các hoạt động khác nhau trong doanh nghiệp, kể cả hoạt động kiểm soát. Chức năng của KiTNB là kiểm tra, đánh giá, xác nhận và tư vấn; (3) KiTNB là hoạt động nội kiểm có tính độc lập trong một tổ chức nói chung. Các tổ chức này có thể là các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh hoặc các doanh nghiệp phi lợi nhuận. Hoạt động này thường được thực hiện bới các kiểm toán viên (KTV) nội bộ, song theo xu hướng hiện đại, hoạt động này có thể được thực hiện bởi các chuyên gia kiểm toán bên ngoài. (4) KiTNB thực hiện việc kiểm tra, đánh giá đối với các hoạt động tài chính và phi tài chính trong tổ chức. (5) Người thực hiện KiTNB phải có trình độ nghiệp vụ tương xứng, không những am hiểu về kiểm toán mà còn phải có chuyên môn nghiệp vụ đối với doanh nghiệp được kiểm toán. (6) Đối tượng phục vụ của KiTNB là Giám đốc, Hội đồng quản trị và các bộ phận được kiểm toán với các yêu cầu khác nhau. Như vậy, KiTNB xuất hiện và thực hiện các hoạt động hỗ trợ quản lý xuất phát từ nhu cầu quản lý trong việc kiểm tra, đánh giá và hoàn thiện các biện pháp quản lý.  Qua những phân tích trên, có thể rút ra kết luận rằng: KiTNB là quá trình hoạt động độc lập của những người có thẩm quyền thuộc bộ phận độc lập và chuyên trách được thiết lập bên trong một doanh nghiệp có chức năng kiểm tra, đánh giá và xác nhận các hoạt động khác của doanh nghiệp đồng thời tư vấn cho nhà quản lý biện pháp cải thiện hoạt động nhằm đạt được tối đa hoá các mục tiêu quản lý.
  13. Mục tiêu của KiTNB là kiểm tra, đánh giá và báo cáo với nhà quản lý về độ tin cậy của thông tin tài chính và phi tài chính, mức độ chấp hành luật pháp và quy định, khả năng nhận diện, xử lý và phòng tránh rủi ro, tính hiệu lực của các hoạt động kiểm soát, tính hiệu quả của việc huy động và sử dụng các nguồn lực, hiệu năng quản lý đồng thời tư vấn cho nhà quản lý các biện pháp nhằm tăng giá trị và cải thiện hoạt động của doanh nghiệp hướng đến việc đạt được các mục tiêu quản lý, chất lượng thông tin, hiệu quả hoạt động và hiệu năng quản lý. 1.2.2. Lịch sử hình thành và phát triển của kiểm toán nội bộ Lịch sử hình thành và phát triển của KiTNB gắn liền với quá trình nhận thức của người quản lý đối với vấn đề kiểm soát. KiTNB đã hình thành từ nhiều thế kỷ trước như một công cụ trong tay người quản lý. Tuy nhiên, nó chỉ thực sự được công nhận như một nghề nghiệp hiện đại trong khoảng gần 80 năm trở lại đây. Năm 1941, Viện KTV nội bộ (Institute of Internal Auditors – IIA) được thành lập tại New York khi 25 KTV nội bộ thống nhất thành lập một tổ chức nghề nghiệp để chia sẻ những mối quan tâm chung. Trải qua các giai đoạn phát triển, KiTNB chịu sự tác động của nhiều yếu tố. Hoạt động của các tổ chức, các doanh nghiệp, các doanh nghiệp ngày càng mở rộng, khối lượng và tính phức tạp của cá nghiệp vụ không ngừng tăng lên. Sức ép đối với nhà quản lý ngày một lớn hơn. Ngoài việc đánh giá tính trung thực và hợp pháp của các thông tin, xem xét và phát hiện các sai phạm, các nhà quản lý còn quan tâm đến tính kinh tế, tính hiệu quả, hiệu lực của từng hoạt động. Điều này đòi hỏi phải có các giải pháp để hoàn thiện các hoạt động. KiTNB được coi như một biện pháp hữu hiệu. Yêu cầu thực tế khách quan dẫn đến việc chuyển hoạt động của KiTNB hướng đến hoạt động quản lý nhiều hơn, đặc biệt là các lĩnh vực phi tài chính. Cùng với quá trình phát triển của KiTNB là quá trình phát triển của Viện KTV nội bộ (IIA). Hiện nay, tổ chức này đã trở thành một tổ chức quốc tế với hơn 50.000 thành viên trên khắp thế giới. Hoạt động quốc tế của Viện KTV nội bộ (IIA) được thực hiện thông qua hơn 140 phân viện tại các quốc gia. + Tại Úc, phân viện đầu tiên của IIA được thành lập năm 1952;
  14. + Tại Sydney, Melbourne năm 1962 + Viện KTV nội bộ Úc (Institute of Internal Auditors – Australia, viết tắt là IIAA) được thành lập năm 1986. Các thành viên của IIAA đồng thời là thành viên của IIA. + Tại Việt Nam, KiTNB không phải là một hoạt động hoàn toàn mới mẻ. Việc kiểm tra, thanh tra của cấp trên đối với cấp dưới trong các doanh nghiệp Nhà nước, trong các cơ quan Nhà nước đã được tiến hành từ rất lâu. KiTNB ở Việt Nam xuất hiện khá muộn so với kiểm toán độc lập (1991) và kiểm toán nhà nước (1994). Giai đoạn trước năm 1996, ở Việt nam chưa có bất cứ một văn bản pháp lý chính thức nào có liên quan đến việc tổ chức hệ thống kiểm soát nội bộ cũng như hệ thống Kiểm toán nội bộ, kiểm soát ở thời kỳ này thường chỉ biết tới như những yếu tố đơn lẻ thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát khá độc lập như: bảo vệ, kiểm tra kế toán,… Nằm trong hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ ở giai đoạn này chưa phát triển. Thuật ngữ “Kiểm toán nội bộ” chính thức được đưa ra năm 1996 với Nghị định 59/CP ngày 03/10/1996 ban hành Quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với doanh nghiệp Nhà nước, quy định: “…báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp phải có sự xác nhận của kiểm toán độc lập hoặc kiểm toán nội bộ”. Đến năm 1997, Bộ tài chính ban hành Quy chế kiểm toán nội bộ áp dụng cho các doanh nghiệp Nhà nước theo Quyết định 832/TC/QĐ/CĐKT ngày 28/10/1997. Quy chế này quy định về phạm vi, nhiệm vụ, nội dung, trình tự, phương pháp KiTNB cũng như quyền hạn và nhiệm vụ của KTV nội bộ và bộ phận KiTNB trong doanh nghiệp Nhà nước. Sau Quyết định 832, ngày 16/4/1998, Bộ tài chính ban hành Thông tư số 52/1998/TT-BTC hướng dẫn tổ chức bộ máy KiTNB trong các doanh nghiệp Nhà nước, Thông tư số 171/1998/TT-BTC ngày 22/8/1998 hướng dẫn thực hiện kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp Nhà nước thay thế cho Thông tư số 52. Tính đến thời điểm hiện nay, ở Việt Nam Chính phủ ban hành một số Nghị định có liên quan tới kiểm toán và kiểm toán nội bộ. Trên cơ sở đó, Bộ tài chính đã ban hành một số Quyết định, Thông tư hướng dẫn về tổ chức kiểm toán nội bộ
  15. nhằm hướng dẫn nghiệp vụ, tổ chức bộ máy thực hiện… cho kiểm toán nội bộ trong hệ thống kiểm tra, kiểm soát phục vụ quản lý nói chung. 1.3. Chức năng, nhiệm vụ và vai trò của kiểm toán nội bộ 1.3.1. Chức năng của kiểm toán nội bộ Thực hiện 2 chức năng cơ bản của kiểm toán nói chung, KiTNB có các chức năng chính là: + Chức năng kiểm tra, đánh giá và xác nhận; + Chức năng đảm bảo và tư vấn. Chức năng kiểm tra, đánh giá và xác nhận: KiTNB thực hiện kiểm tra thông qua các biện pháp xem xét, đối chiếu mức độ trung thực, hợp lý của các thông tin tài chính kế toán, mức tuân thủ pháp luật và các quy định khác, tính hiệu quả, hiệu lực và kinh tế của các hoạt động của doanh nghiệp. Trên cơ sở thực hiện chức năng kiểm tra, KiTNB thực hiện đánh giá tình trung thực, hợp lý của các tài liệu kế toán, việc chấp hành các quy định của cá nhân, bộ phận trong doanh nghiệp và đánh giá tính hiệu quả, hiệu lực và kinh tế của các hoạt động. Thông qua quá trình kiểm tra, đánh giá, KiTNB thực hiện hoạt động xác nhận và báo cáo thực trạng đối tượng kiểm toán cho cấp quản lý có thẩm quyền. Phạm vi kiểm tra, đánh giá và xác nhận của KiTNB bao gồm: (1) Tính phù hợp, độ tin cậy và chính xác của thông tin kế toán, các thông tin tài chính có thể định lượng được thuốc tất cả các hệ thống và hoạt động của doanh nghiệp; (2) Sự vận hành hữu hiệu của Hệ thống kiểm soát nội bộ; (3) Tính tuân thủ luật pháp, các nguyên tắc, chính sách, chế độ, nghị quyết, quyết định của Nhà nước và của chính doanh nghiệp. (4) Tính hiệu quả, hiệu lực và kinh tế của các hoạt động kinh doanh và việc sử dụng các nguồn lực.
  16. Phạm vi chức năng của KiTNB phù hợp với các chuẩn mực KiTNB và được vận dụng linh hoạt tuỳ thuộc vào đặc điểm, quy mô hoạt động và đặc thù quản lý của từng doanh nghiệp. Chức năng bảo đảm và tư vấn: Cùng với quá trình phát triển của quản trị rủi ro doanh nghiệp, KiTNB đang dần trở thành một công cụ hữu hiệu để doanh nghiệp kiểm soát rủi ro thông qua việc thực hiện chức năng đảm bảo và tư vấn. Thực hiện chức năng tư vấn, nghĩa là: KiTNB đề xuất, kiến nghị các giải pháp cho nhà quản trị nhằm cải thiện hoạt động, nâng cao chất lượng thông tin, tăng cường tính tuân thủ quy định đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực và hiệu quả các hoạt động của doanh nghiệp. Cơ sở của việc thực hiện chức năng này chính là thông qua quá trình kiểm tra, đánh giá, KiTNB đã nắm rõ thực trạng của đối tượng kiểm toán để từ đó đánh giá được những điểm mạnh có thể tiếp tục phát huy và hạn chế, khiếm khuyết cần khắc phục. Phạm vi tư vấn có thể trên bình diện chung của hệ thống KSNB trong việc giám sát BCTC, quản trị rủi ro…hoặc chuyên sâu vào từng khía cạnh, do từng bộ phận đám trách như quản lý tài chính, quản lý đầu tư,… Bên cạnh vai trò tư vấn, KiTNB có thể tham gia vào công tác đào tạo hoặc hỗ trợ đào tạo cho các nhân viên, bộ phận trong doanh nghiệp kiến thức chuyên môn nghiệp vụ liên quan đến quản trị rủi ro, thủ tục kiểm soát, soát xét BCTC, công nghệ thông tin,… Về khía cạnh đảm bảo, KiTNB có thể đưa ra sự đảm bảo cho các nhà quản trị về tính hữu hiệu của hệ thống KSNB và về khả năng đạt được các mục tiêu quản lý. Các đảm bảo này tập trung chủ yếu ở khu vực quản trị rủi ro, KSNB đối với các vấn đề đạo đức kinh doanh, văn hoá doanh nghiệp và trách nhiệm xã hội. Chức năng này ngày càng được kì vọng trong điều kiện các doanh nghiệp theo đuổi cùng một lúc nhiều mục tiêu trên các khía cạnh khác nhau. Mặt khác, trên cơ sở đánh giá và xác nhận về những phát hiện trong quá trình kiểm tra, KiTNB đề xuất và tư vấn giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hệ thống KSNB và cải thiện các hoạt động của doanh nghiệp. Với mong muốn tiến đến sự hoàn thiện của hệ thống KSNB cũng như cải thiện vững chắc các hoạt động của
  17. doanh nghiệp, chức năng đảm bảo và tư vấn của KiTNB ngày càng được đặc biệt quan tâm. 1.3.2. Nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ Cụ thể hoá các chức năng trên, KiTNB có các nhiệm vụ chủ yếu sau: (1) KiTNB thực hiện việc kiểm tra, đánh giá tính phù hợp, hiệu lực và hiệu quả của hệ thống KSNB thông qua việc soát xét hệ thống này nhằm phát hiện, ngăn chặn các sai sót, gian lận có thể xảy ra trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. (2) KiTNB thực hiện việc kiểm tra, xác nhận chất lượng và độ tin cậy của các thông tin kinh tế, tài chính trên các báo cáo kế toán của doanh nghiệp trước khi trình ký duyệt nhằm giúp nhà quản trị doanh nghiệp và các đối tượng quan tâm đến thông tin kinh tế tài chính của doanh nghiệp có cơ sở để phục vụ cho việc ra quyết định kinh tế. (3) KiTNB thực hiện việc kiểm tra sự tuân thủ chính sách, pháp luật của Nhà nước; nguyên tắc, chính sách hoạt động và quản lý kinh doanh; chính sách chế độ tài chính, kế toán; các quyết định của Hội đồng quản trị, Ban giám đốc cũng như các quy định nội bộ của doanh nghiệp thông qua việc kiểm tra toàn bộ các khâu, các bước trong quá trình hoạt động, kinh doanh của doanh nghiệp. (4) KiTNB kiểm tra, đánh giá tính hiệu quả, hiệu lực trong công tác quản lý rủi ro, của các biện pháp mà doanh nghiệp đang áp dụng để bảo đảm an toàn tài sản, thông tin và các nguồn lực của doanh nghiệp. (5) Qua kiểm tra những hoạt động liên quan đến nhiều chức năng khác nhau như sản xuất, tiếp thị, quản trị nhân sự, quản trị thiết bị…, KiTNB đưa ra đánh giá về việc thực hiện nhiệm vụ và hiệu quả hoạt động cũng như hiệu quả huy động và sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp. (6) KiTNB báo cáo với cấp quản lý có thẩm quyền (tuỳ thuộc vào vị trí của KiTNB trong cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp) về những phát hiện, những sơ hở, yếu kém, gian lận trong quản lý, trong bảo vệ tài sản, thông tin của doanh nghiệp; về những kết luận sau kiểm toán liên quan đến các khía cạnh hoạt động của doanh nghiệp để nhà quản trị, lãnh đạo doanh nghiệp nắm bắt kịp thời và có biện pháp, định hướng cụ thể cho vấn đề được báo cáo.
  18. (7) KiTNB có thể tham mưu cho lãnh đạo về tính hợp lý, ưu việt cũng như hạn chế của các quy định và thủ tục kiểm soát và các chính sách kế hoạch hoạt động hiện có. Trên cơ sở đó, KiTNB kiến nghị các giải pháp nhằm phòng ngừa và hạn chế tối đa rủi ro có thể xảy ra; hoàn thiện quy chế/quy trình kiểm soát, bảo vệ tài sản, thông tin; hoàn thiện hệ thống quản lý, điều hành kinh doanh của doanh nghiệp góp phần tăng cường tính hiệu lực, hiệu quả trong các hoạt động của doanh nghiệp. 1.3.3. Vai trò của kiểm toán nội bộ Đối với nhà quản lý: KiTNB kiểm tra các bằng chứng nhằm đưa ra một sự đánh giá độc lập, khách quan về công tác quản lý rủi ro, môi trường kiểm soát, quy trình quản trị trong doanh nghiệp; tư vấn thông qua việc đưa ra các khuyến nghị. Phạm vi và nội dung kiểm toán phù hợp với đối tượng kiểm toán và thống nhất trước với khách thể kiểm toán nhằm mục đích làm tăng thêm giá trị và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Các KTV nội bộ có thể có được cái nhìn tổng thể trong mọi hoạt động của tổ chức và các cơ hội cho việc cải tiến nhằm mang lại lợi ích cho doanh nghiệp. Giá trị được tăng thêm thông qua việc phát triển các sản phẩm, dịch vụ và việc sử dụng tối ưu các nguồn lực. Các thông tin cải tiến này tồn tại dưới hình thức tư vấn thông qua lời khuyên, báo cáo kiểm toán hoặc qua những dịch vụ khác. Kết quả cuối cùng đối với mỗi hoạt động cá biệt được trao đổi một cách rõ ràng và hợp lý cho các nhà quản lý và những người điều hành chịu trách nhiệm về hoạt động đó nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả của hệ thống KSNB và quản trị rủi ro trong doanh nghiệp. Đối với các bộ phận khác trong doanh nghiệp: KiTNB hướng dẫn nghiệp vụ, đảm bảo tính tuân thủ trong hoạt động, phối kết hợp với các bộ phận khác trong doanh nghiệp, nhờ đó những mục tiêu cụ thể được đạt tới ngay từ những cấp thấp nhất và hướng tới sự phát triển chung. Đối với KTV bên ngoài: KiTNB cung cấp thông tin, tài liệu cần thiết, phối hợp thực hiện kiểm toán tại doanh nghiệp; phối hợp cùng bộ phận được kiểm toán cung cấp, giải trình các
  19. thông tin cho kiểm toán bên ngoài và tham gia ý kiến với kiểm toán ngoài trong việc lập, hoàn thiện báo cáo, biên bản kiểm toán trước khi trình lãnh đạo ký. 1.4. Các loại kiểm toán nội bộ Cũng như kiểm toán nói chung, tuỳ vào các tiêu thức khác nhau, KiTNB được phân thành nhiều loại khác nhau. 1.4.1. Phân loại kiểm toán nội bộ theo đối tượng kiểm toán cụ thể Xét theo đối tượng kiểm toán, KiTNB được chia thành 3 loại: Kiểm toán BCTC; Kiểm toán hoạt động; Kiểm toán tuân thủ. Kiểm toán BCTC: là việc kiểm tra, xác nhận BCTC và báo cáo quản trị đã lập so với những chuẩn mực chung của kế toán đã được chấp nhận, các quy định và thủ tục quản lý của từng khâu công việc, của từng biện pháp trong hệ thống KSNB của doanh nghiệp để kết luận về tính trung thực, hợp lý của thông tin trong các BCTC cùng tính hợp lệ của biểu mẫu báo cáo. Như vậy, nhiệm vụ cụ thể của KiTNB khi kiểm toán BCTC là: + Kiểm tra và xác nhận tính đầy đủ, tin cậy của BCTC trước khi trình Ban giám đốc ký duyệt; + Kiểm tra và đánh giá các BCTC, đưa ra các kiến nghị cần thiết để đảm bảo tính hợp lý và hiệu quả cho hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị. Kiểm toán hoạt động: là việc thẩm tra các trình tự và các phương pháp tác nghiệp ở các bộ phận hoặc doanh nghiệp được kiểm toán. Các tác nghiệp không chỉ giới hạn ở lĩnh vực tài chính kế toán mà còn mở rộng sang các lĩnh vực khác như đánh giá cơ cấu tổ chức, nghiệp vụ sử dụng máy tính, các phương pháp sản xuất… và mọi lĩnh vực quản lý nếu cần có thể thực hiện. Như vậy, nhiệm vụ cụ thể của KiTNB khi tiến hành kiểm toán hoạt động là: + Kiểm tra tính hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh trong đơn vị; + Kiêm tra và đánh giá sự hữu hiệu của các bộ phận chức năng và của cả đơn vị trong việc hoàn thành các mục tiêu kinh doanh; + Đề xuất các biện pháp cải tiến để nâng cao sự hữu hiện và tính thiệu quả trong hoạt động của đơn vị.
  20. Nội dung tối ưu hoá được các nhà kiểm toán Canada khái quát bằng mô hình 3E như đã trình bày bên trên. Cụ thể: ^ Tiết kiệm (Economic): được hiểu là việc mua sắm các nguồn lực phải được xác định hợp lý về số lượng và bảo đảm yêu cầu chất lượng với chi phí thấp nhất có thể. ^ Hiệu quả (Efficience): được hiểu là quan hệ giữa một bên là các sản phẩm, dịch vụ làm ra với một bên là nguồn lực đã tạo ra chúng với yêu cầu có kết quả tối đa với chi phí về nguồn lực tối thiểu. ^ Hiệu năng (Effect): là xét mục tiêu hoặc kết quả cụ thể của một chương trình, dự án hoặc các hoạt động. Các chương trình khác nhau về mục tiêu và về quản lý. Do đó, cách thức kiểm toán và hình thức báo cáco kiểm toán cũng khác nhau. Kiểm toán tuân thủ: KiTNB thực hiện việc xem xét, đánh giá sự tuân thủ các thủ tục, các nguyên tắc, các quy định, quy chế quản lý của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và của ban lãnh đạo doanh nghiệp đã đề ra. Như vậy, nhiệm vụ cụ thể của KiTNB khi tiến hành kiểm toán tuân thủ là: + Kiểm tra sự tuân thủ luật pháp, chính sách chế độ quản lý của Nhà nước; + Kiểm tra việc chấp hành các quyết định, quy chế của Hội đồng quản trị và Ban giám đốc; + Kiểm tra việc chấp hành các nguyên tắc, chính sách và chuẩn mực kế toán từ khâu lập chứng từ, xử lý nghiệp vụ, ghi chép đến việc trình bày báo cáo và lưu trữ dữ liệu kế toán; + Kiểm tra việc tuân thủ các quy trình nghiệp vụ của từng bộ phận và của hệ thống kiểm soát nội bộ trong đơn vị. Trên thực tế, các KTV nội bộ có xu hướng tổ chức một cuộc kiểm toán lồng ghép giữa tính chất, mục tiêu, nội dung của cả hai hay cả ba loại kiểm toán với nhau. Ví dụ:
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
299=>2