TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI

BỘ MÔN: CÔNG NGHỆ VÀ QUẢN LÝ XÂY DỰNG

BÀI GIẢNG

QUẢN LÝ CÔNG NGHỆ TRONG XÂY DỰNG (Dành cho học viên Cao học chuyên ngành Quản lý xây dựng)

Biên soạn: PGS.TS Đinh Tuấn Hải

TS Dương Đức Tiến

Hà Nội 2020

MỤC LỤC

CHƯƠNG 1: CÁC NGUYÊN TẮC CHUNG TRONG QUẢN LÝ ........................................ 5

1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ QUẢN LÝ ........................................................................ 5

1.1. Lịch sử phát triển của quản lý .............................................................................. 5

1.2. Khái niệm quản lý ................................................................................................ 7

1.3. Các yếu tố cấu thành quản lý ................................................................................ 8

1.4. Vai trò của quản lý ............................................................................................... 9

2. CÁC HỌC THUYẾT VÀ LÝ THUYẾT QUẢN LÝ ................................................. 10

2.1. Các tư tưởng triết học Trung Hoa cổ đại ............................................................ 10

2.2. Các lý thuyết cổ điển về quản lý ......................................................................... 15

2.3. Lý thuyết quản lý hiện đại ................................................................................... 23

2.4. Các học thuyết về động lực cố gắng của con người ............................................ 26

3. CÁC NGUYÊN TẮC CHUNG TRONG QUẢN LÝ ................................................. 33

3.1. Khái niệm nguyên tắc quản lý ............................................................................. 33

3.2. Các quy luật ....................................................................................................... 33

3.3. Các nguyên tắc của quản trị ............................................................................... 37

3.4. Nội dung các nguyên tắc quản lý ........................................................................ 39

3.5. Các phương pháp quản lý ................................................................................... 41

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ QUẢN LÝ CÔNG NGHỆ TRONG XÂY DỰNG .............................. 46

1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ ............................................ 46

1.1. Giới thiệu chung ................................................................................................. 46

1.2. Khái niệm công nghệ .......................................................................................... 46

1.3. Vai trò của khoa học công nghệ đối với sự phát triển của loài người .................. 49

2. CÁC ĐẶC TRƯNG CỦA CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG ............................................ 56

2.1. Giới thiệu chung về ngành xây dựng ................................................................... 56

2.2. Các đặc điểm của ngành xây dựng ..................................................................... 65

2.3. Những đặc điểm kinh tế – kỹ thuật của sản phẩm xây dựng ................................ 66

3. QUẢN LÝ CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG ................................................................... 68

3.1. Cơ sở lý luận của quản lý Khoa học và Công nghệ ............................................. 68

3.2. Những nội dung chủ yếu của quản lý KH&CN ở Việt Nam ................................. 71

3.3. Tiến trình quản lý và những đặc thù trong quản lý KH&CN ............................... 73

3.4. Tính linh hoạt của quản lý KH&CN.................................................................... 74

3.5. Hoạch định trong quản lý KH&CN trong xây dựng ............................................ 75

CHƯƠNG 3: CHIẾN LƯỢC CÔNG NGHỆ TRONG XÂY DỰNG .................................... 78

1. CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ ...................................... 78

1

1.1. “Chiến lược Khoa học và công nghệ” kiểu truyền thống .................................... 78

1.2. Chiến lược KH&CN theo cách tiếp cận “đổi mới- Innovation” .......................... 80

1.3. Mối quan hệ giữa Chiến lược và Chính sách KH&CN ........................................ 81

1.4. Mối quan hệ giữa chiến lược KH&CN và chiến lược KT-XH .............................. 81

2. CÁC MÔ HÌNH CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KH-CN ........................................... 82

2.1. Mô hình chiến lược dựa vào công nghệ cao ........................................................ 82

2.2. Mô hình chiến lược mô phỏng ............................................................................ 83

2.3. Mô hình chiến lược KH&CN thích hợp ............................................................... 84

2.4. Mô hình chiến lược KH&CN tổng hợp................................................................ 85

3. NHỮNG YẾU TỐ CẦN XEM XÉT KHI XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC KH&CN ..... 85

4. MỘT SỐ CÁCH TIẾP CẬN TRONG XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC KH&CN .......... 86

4.1. Cách tiếp cận qua đánh giá tổng quan chính sách KH&CN ................................ 86

4.2. Nhìn trước về công nghệ - một công cụ quan trọng tăng cường hệ thống đổi mới quốc gia ....................................................................................................................... 87

4.3. Cách tiếp cận xây dựng Lộ trình công nghệ ........................................................ 87

5. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG TRONG XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC KH&CN........................................................................................................................... 89

5.1. Phương pháp SWOT ........................................................................................... 89

5.2. Phương pháp ngoại suy ...................................................................................... 90

5.3. Phương pháp Điều tra Delphi ............................................................................ 90

5.4. Phương pháp tham vấn ....................................................................................... 90

5.5. Phương pháp xây dựng kịch bản......................................................................... 90

5.6. Phương pháp xác định công nghệ then chốt ........................................................ 90

6. KINH NGHIỆM LỰA CHỌN MÔ HÌNH CHIẾN LƯỚC PHÁT TRIỂN KH&CN CỦA CÁC QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI ....................................................................... 90

7. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA “CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KH&CN VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2010” .................................................................................................. 93

CHƯƠNG 4: ĐÁNH GIÁ CÔNG NGHỆ VÀ NĂNG LỰC CÔNG NGHỆ TRONG XÂY DỰNG ................................................................................................................................. 98

1. ĐÁNH GIÁ CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG .................................................................. 98

1.1. Cơ sở chung để đánh giá công nghệ ................................................................... 98

1.2. Các công cụ và kỹ thuật sử dụng trong đánh giá công nghệ .............................. 103

1.3. Thực hành đánh giá công nghệ ......................................................................... 107

2. ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CÔNG NGHỆ ................................................................ 110

2.1. Năng lực công nghệ .......................................................................................... 110

2.2. Đánh giá năng lực công nghệ ........................................................................... 113

2.3. Các biện pháp nâng cao năng lực công nghệ .................................................... 122

2

CHƯƠNG 5: LỰA CHỌN VÀ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG ............................. 126

1. LỰA CHỌN CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG ............................................................... 126

1.1. Công nghệ thích hợp ........................................................................................ 126

1.2. Lựa chọn công nghệ ......................................................................................... 130

2. ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ ......................................................................................... 136

2.1. Khái niệm ......................................................................................................... 136

2.2. Tác động của đổi mới công nghệ ...................................................................... 139

2.3. Quá trình đổi mới công nghệ ............................................................................ 140

2.4. Hiệu quả của quá trình đổi mới công nghệ ....................................................... 149

2.5. Quản lý đổi mới công nghệ ............................................................................... 156

CHƯƠNG 6: CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ TRONG XÂY DỰNG ............................... 164

1. KHÁI NIỆM CHUNG ............................................................................................. 164

1.1. 1.1. Chuyển giao công nghệ là gì? .................................................................... 164

1.2. Phân loại chuyển giao công nghệ ..................................................................... 167

1.3. Các nguyên nhân xuất hiện chuyển giao công nghệ .......................................... 168

1.4. Các yêu cầu đối với công nghệ trong chuyển giao công nghệ ........................... 171

2. CÁC Y ẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ. ................... 171

2.1. Các yếu tố thuộc bên nhận và nước nhận .......................................................... 171

2.2. Các yếu tố thuộc bên giao và nước giao ........................................................... 173

3. SỞ HỮU TRÍ TUỆ VÀ CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ ........................................ 173

3.1. Khái quát về sở hữu trí tuệ ............................................................................... 173

3.2. Vai trò của quyền sở hữu trí tuệ trong chuyển giao công nghệ .......................... 176

4. QUÁ TRÌNH CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ ........................................................ 176

4.1. Phân tích và hoạch định ................................................................................... 176

4.2. Tìm kiếm công nghệ .......................................................................................... 176

4.3. Cơ chế chuyển giao công nghệ ......................................................................... 177

4.4. Trình tự tiến hành nhập công nghệ ................................................................... 178

5. KINH NGHIỆM CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN ........................................................................................................................... 181

5.1. Những thuận lợi, khó khăn trong CGCN ở các nước đang phát triển ................ 181

5.2. Điều kiện để CGCN thành công ở các nước đang phát triển ............................. 183

CHƯƠNG 7: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG NGHỆ TRONG XÂY DỰNG ............. 187

1. NGUYÊN TẮC CHUNG TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG NGHỆ ..... 187

2. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ................................ 189

2.1. Quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ ở Trung ương .............................. 189

2.2. Quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ ở địa phương .............................. 195

3

2.3. Quản lý khoa học và công nghệ ở cơ sở ............................................................ 195

3. QUẢN LÝ CÁC CẤP ĐỐI VỚI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG ..... 195

3.1. Bộ xây dựng ..................................................................................................... 195

3.2. Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn ........................................................... 198

4. ĐỔI MỚI TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG ........................................................................................................................... 199

4

CHƯƠNG 1: CÁC NGUYÊN TẮC CHUNG TRONG QUẢN LÝ

Cũng như các ngành khác, quản lý ra đời, tồn tại và phát triển như một tất yếu của thế giới. Theo tiến trình phát triển của thời đại, đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu của khoa học quản lý không ngừng được hoàn thiện về cả quy mô và trình độ. Có được kết quả phát triển như ngày nay khoa học quản lý đã trải qua những chặng đường lịch sử lâu dài, với nhiều thử thách, tìm kiếm để hình thành nên một khoa học độc lập. Buổi bình minh dẫn đến việc thai nghén cho ngành khoa học mới này là tư tưởng quản lý của những nhà khoa học tiền bối. Tư tưởng quản lý xuất hiện từ khá sớm do yêu cầu của hiệp tác và phân công lao động. Các nhà khoa học tiền bối cho rằng hiệu quả của quá trình hiệp tác và phân công lao động không thể giải quyết bằng thần học, triết học hay sử học mà nó cần được lý giải bằng khoa học thiết kế và điều hành phối hợp cụ thể của các quá trình hoạt động vì mục đích dân sinh. Từ khi khám phá những mâu thuẫn trong thực tế, các nhà khoa học đã dày công vun đắp cho ý niệm quản lý trở thành một tư tưởng chính thống trong đời sống xã hội. Mặc dù là một tư tưởng mới, phải cọ xát thường xuyên với đời sống kinh tế – xã hội nhưng các nhà khoa học tiền bối đã kiên trì mài dũa cho nó trở thành tinh tuý trong nhận thức của đời sống xã hội. Tư tưởng quản lý biến đổi cũng rất phức tạp nhưng chúng ta cần nghiên cứu nó để thấy được toàn bộ quá trình phát triển của “cây khoa học quản lý” và qua đó nắm bắt được yêu cầu thực tế khách quan về quản lý các hoạt động kinh tế – xã hội trong từng thời kỳ lịch sử. Trên cơ sở đó, chúng ta sẽ tiếp thu một cách có chọn lọc tư tưởng quản lý của các trường phái khoa học để vận dụng có hiệu quả nhất vào quản lý các đối tượng thuộc lĩnh vực công tác của mình.

1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ QUẢN LÝ

1.1. Lịch sử phát triển của quản lý

Từ những năm 1840-1890 khi những cơ sở sản xuất nhỏ, những công trường thủ công, xưởng thợ ra đời kèm theo nó là sự xuất hiện của những quản trị viên. Họ là chủ sở hữu những cơ sở sản xuất nhỏ của mình và đồng thời là nhà quản trị.

Sau năm 1890, nhiều xí nghiệp lớn, nhiều liên hiệp xí nghiệp ra đời và phát triển mạnh. Để quản lý các doanh nghiệp có quy mô ngày càng lớn này và thích ứng với môi trường kinh doanh thường xuyên thay đổi, các nhà nước, các chính phủ đã xây dựng và ban hành nhiều đạo luật nhằm qui định quyền hạn và trách nhiệm của những xí nghiệp và liên hiệp xí nghiệp này. Trong quá trình cải tổ doanh nghiệp, không chỉ có các chủ sở hữu mà cả những luật gia cũng tham gia vào những chức vụ quan trọng của quản trị doanh nghiệp và hoạt động quản trị được thực hiện trong phạm vi những điều luật quy định.

5

Tuy nhiên, trong giai đoạn trước năm 1910, chưa có những tác phẩm đáng kể viết về quản trị doanh nghiệp, kể cả vấn đề tổng kết lý luận và kinh nghiệm thực tiễn. Có chăng chỉ là những kinh nghiệm được sao chép, truyền lại qua các đời, từ các gia đình, dòng họ. Vì vậy, quản trị doanh nghiệp chưa phải là môn khoa học chính thống.

Từ năm 1910, nhiều công ty, nhiều tập đoàn sản xuất lớn được hình thành, nhiều ngân hàng xuất hiện nhằm phục vụ cho sự phát triển của các doanh nghiệp lớn, các tập đoàn. Các chức danh Giám đốc, Tổng Giám đốc ra đời. Vấn đề quản trị doanh nghiệp càng được đặt ra cụ thể, chặt chẽ, dưới các điều luật cụ thể. Vào năm 1911, tác phẩm quản trị doanh nghiệp có giá trị đầu tiên được xuất bản ở Mỹ. Cuốn sách do nhà khoa học quản trị nổi tiếng F. W. Tây lơ biên soạn với tiêu đề: “Những nguyên tắc và phương pháp quản trị khoa học” Cuốn sách chủ yếu đề cập vấn đề quản trị nhân sự: Làm thế nào để người lao động hòa thiện và sử dụng có hiệu quả công cụ lao động, thờ gian làm việc để tăng năng suất lao động.

Sau Đại chiến thế giới lần thứ nhất (1913-1918), tiếp đó là cuộc đại khủng hoảng kinh tế, tài chính đã làm cho hàng loạt các doanh nghiệp bị phá sản. Nhiều doanh nghiệp còn trụ lại được tổ chức lại hoặc hợp nhất với nhau. Cơ chế quản lý mới ra đời thích ứng với thời kỳ mới. Trên cơ sỏ này, giới quản trị doanh nghiệp mới xuất hiện với những nguên tắc phương pháp và kinh nghiệm quản lý mới. Năm 1922 đã ra đời một tác phẩm có giá trị cao về quản trị doanh nghiệp. Đó là tác phẩm của nhà khoa học Pháp Hery Fayon về: “Quản lý công nghiệp và quản lý tổng hợp”. Nội dung cơ bản của cuốn sách đề cập đến phương pháp quản trị trong phòng giấy, chủ yêu nói về những chức năng cơ bản của quản trị doanh nghiệp. Những tư tưởng, quan điểm cơ bản của cuốn sách cho đến nay vẫn được áp dụng.

Cho đến năm 1940, các doanh nghiệp, các nhà kinh doanh đã nhận thấy tính tất yếu phải xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng một đội ngũ quản trị viên doanh nghiệp và một hệ thống trường lớp, giáo trình đào tạo quản trị viên đã ra đời. Từ đó, khoa học quản trị doanh nghiệp đã góp phần đem lại hiệu quả kinh tế lớn cho các doanh nghiệp. P. Fonet viết trong cuốn sách: “Đường xoắn ốc của những phương pháp khoa học và hiệu quả của nó đối với quản lý công nghiệp”. Cuốn sách đã xác định những tư tưởng triết học và những quan điểm của quản trị tiến bộ.

6

Sự phát triển của quản trị doanh nghiệp từ năm 1946 đến nay: Đây là giai đoạn sau kết thúc chiến tranh thế giới lần thứ II, chuyển sang khôi phục, phát triển kinh tế và giao lưu quốc tế. Cùng với trào lưu đó, công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở nhiều nước công nghiệp tiên tiến đã được tốc độ cao trong tăng trưởng kinh tế. Từ năm 1946 trở đi, ngày càng có nhiều tác phẩm có giá trị nói về quản trị doanh nghiệp. Ở nhiều nước đã thành lập các trường riêng để giảng dạy, đào tạo những nhà quản trị từ cấp thấp đến cấp cao nhât doanh nghiệp. Có thể kể đến các trường ở Mỹ: Trường MBA (Master of Business Administration), Trường Kinh doanh Ha-vớt (Harvert Business School); ở Nhật, trường đào tạo Giám đốc dưới chân núi Phi-ghi… Có thể kể đến một số tác phẩm quản trị doanh nghiệp đặc biệt có giá trị trong thời kỳ này như: “Cuốn sách quản lý năng động” xuất bản năm 1945 của hai nhà khoa học người Anh và Mỹ. Tác phẩm này đã tổng kết những nguyên tắc của quản trị doanh nghiệp đạt được từ xưa đến năm 1945. Trên cơ sở lý luận của quản trị doanh nghiệp mới phù hợp với điều kiện hiện tại.

Sau đó lần lượt hàng trăm cuốn sách khác nhau, nhiều sách giáo khoa, bài báo về quản trị doanh nghiệp ra đời. Những buổi hội thảo, hội nghị quốc tế, nhiều lớp học được tổ chức để làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản của quản trị doanh nghiệp trong điều kiện hiện tại. Từ sau năm 1960, là thời kỳ sôi nổi, phát triển nhất của quản trị doanh nghiệp mà nhân loại đạt được từ nền kinh tế tư bản phá triển tới nay. Một công ty Mỹ trong năm 1960 đã phải chi tới 3.000.000 đô la chỉ để phục vụ việc sưu tầm, thu thập, tổng hợp những tài liệu về quản trị doanh nghiệp nhằm bồi dưỡng cho những quản trị việ của công ty, (chưa kể tiền lương và những chi phí khác phục vụ cho đội ngũ giáo sư, cán bộ giảng dạy…).

Tóm lại, qua các giai đoạn phát triển của quản lý, chúng ta thấy nổi bật một vấn đề là: Xã hội từ chỗ chấp nhận từ từ đến chấp nhận hẳn vai trò của quản lý, mà gắn liền với nó là các quản trị viên có nghiệp vụ và các cố vấn có năng lực vận dụng những kiến thức lý luận quản lý vào thực tiễn. Ngày nay, nhất là những năm đầu của thập kỷ 90, ở hầu hết các nước đã hình thành một hệ thống trường lớp để đào tạo, bồi dưỡng các nhà quản lý tài ba đem lại.

1.2. Khái niệm quản lý

Quản lý ra đời từ rất xa xưa, nó xuất hiện từ thưở bình minh của xã hội loài người. Con người sinh sống theo tập quán quần tụ cộng đồng, có nhiều việc nảy sinh mà một người không thể làm được hoặc làm được nhưng hiệu quả kém, cần phải được phối hợp liên kết với số đông để cùng thực hiện. Từ những yêu cầu khách quan đó, dần dần hình thành tổ chức. Quản lý diễn ra trong mọi tổ chức từ đơn giản đến phức tạp, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn. Nó chính là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại của mỗi tổ chức. Mặc dù xuất hiện từ lâu đời và được áp dụng rộng rãi trong cuộc sống hàng ngày, nhưng cho tới nay vẫn chưa có một quan niệm thống nhất về quản lý với rất nhiều các khái niệm được đưa ra bởi các học giả và nhà nghiên cứu khác nhau như sau:

- Theo F.W Taylor: Quản lý là biết chính xác điều bạn muốn người khác làm và

sau đó biết được rằng họ đã thực hiện công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất.

- Theo Henrry Fayol: Quản lý là một tiến trình bao gồm tất cả cá khâu: lập kế hoạch, tổ chức, phân công điều hiển và kiểm soát các nỗ lực của cá nhân, bộ phận và sử dụng có hiệu qủa các nguồn lực vật chất khác của tổ chức để đạt được mục tiêu đề ra.

- Theo M.P.Follet: Quản lý là nghệ thuật đạt mục tiêu thông qua con người.

- Theo Koontz và O’Donnell: Quản lý là thiết kế và duy trì một môi trường mà trong đó các cá nhân làm việc với nhau trong các nhóm có thể hoàn thành các nhiệm vụ và các mục tiêu đã định

7

- Theo Stoner và Robbins: Quản lý là một tiến trình bao gồm việc hoạch định, tổ chức, quản trị con người và kiểm tra các hoạt động trong một đơn vị một cách có hệ thống nhằm hoàn thành các mục tiêu của đơn vị đó

- Theo Mary Parker Follet: Quản lý là hoàn thành công việc thông qua người khác. Định nghĩa này đã đưa ra cách thức tiến hành các hoạt động quản trị thông qua người khác, quản trị là hoạt động có mục đích và mang tính tập thể.

Từ những quan niệm trên, chúng ta có thể khái quát: Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể Quản lý lên đối tượng bị Quản lý nhằm đạt được mục tiêu chung của tổ chức đã đề ra trong điều kiện biến động của môi trường và sự thay đổi của các nguồn lực.

Như vậy, quản lý bao gồm 5 yếu tố thành phần như sau:

- Chủ thể quản lý và đối tượng bị quản lý

- Có mục tiêu quản lý rõ ràng

- Kết quả và hiệu quả

- Có nguồn tài nguyên hạn chế

- Môi trường quản trị luôn thay đổi

1.3. Các yếu tố cấu thành quản lý

Các yếu tố trên không thể tách rời nhau mà có mối quan hệ ràng buộc với nhau trong quản lý. Chủ thể quản trị là tác nhân tạo ra các tác động. Tác động này có thể là một lần nhưng cũng có thể là nhiều lần. Đối tượng bị quản lý phải tiếp nhận các tác động của chủ thể quản lý. Thông thường chủ thể là một hoặc nhiều người còn đối tượng có thể là máy móc thiết bị, tiền vốn, vật tư hay con người. Căn cứ để chủ thể tạo ra các tác động là mục tiêu của quản lý.

- Chủ thể quản lý: Con người là yếu tố tạo ra tác động quản lý trong mọi quá trình hoạt động. Chủ thể có thể là cá nhân hay tổ chức tác động lên đối tượng quản lý bằng các công cụ với những phương pháp quản lý thích hợp theo các nguyên tắc nhất định. Đối tượng quản lý rất phong phú và đa dạng, có thể là giới vô sinh, giới sinh vật và có thể là con người, tổ chức người.

- Khách thể quản lý: là yếu tố tiếp nhận sự tác động của chủ thể quản lý, Đó là những hành vi thực thể (cá nhân, tổ chức sự vật hay môi trường), cũng có thể là sản phẩm trực tiếp của đối tượng quản lý, mối quan hệ giữa các thực thể các quá trình trong quá trình vận động của chúng.

- Mục tiêu quản lý: Là căn cứ để chủ thể phát ra các tác động quản lý cũng như lựa chọn phương pháp quản lý thích hợp, là cái đích để cả chủ thể và khách thể quản lý cần phải đạt được tại một thời điểm xác đinh trong tương lai do chủ thể và khách thể định trước.

8

- Môi trường quản lý: Là những yếu tố bên ngoài bao gồm cả môi trường tự nhiên và môi trường kinh tế, chính trị, xã hội ảnh hưởng đến yếu tố bên trong là quá trình quản lý cũng như mục tiêu quản lý. Trong các môi trường khác nhau, Chủ thể quản lý phải tìm kiếm, sử dụng các công cụ, Phương pháp quản lý cho phù hợp môi

trường vừa đặt ra mục tiêu, vừa tạo ra địa bàn và động lực cho mỗi tổ chức hoạt động vì vậy nó cũng là một yếu tố quan trong trong quản lý.

Có thể khái quát các yếu tố tham gia quá trình quản lý theo sơ đồ sau:

Công cụ quản lý

Khách thể quản lý

Chủ thể quản lý Mục tiêu quản lý

Phương pháp quản lý

1.4. Vai trò của quản lý

Quản lý có các vai trò chủ yếu sau:

- Tạo ra sự thống nhất ý chí giữa các cá nhân bộ phận trong tổ chức

- Xây dựng định hướng ngắn hạn và dài hạn cho sự phát triển của tổ chức.

Hướng nỗ lực của các nhân, bộ phận trong tổ chức đạt đến mục tiêu chung đã đề ra.

- Tạo ra động lực cho các cá nhân, bộ phận trong tổ chức, thúc đẩy họ hành động

để đạt kết quả mong muốn.

- Phối hợp điều hoà các hoạt động của cá nhân, bộ phận trong mỗi tổ chức đạt

được hiệu quả hoạt động cao nhất.

- Tạo môi trường thích hợp cho sự phát triển của tổ chức và mỗi cá nhân từng

thời kì.

- Xác định chức năng nhiệm vụ cụ thể cho mỗi cá nhân, bộ phận trong tổ chức.

- Bố trí nhân sự và công cụ lao động phù hợp nhất với trình độ chuyên môn và

năng lực của mỗi người để phát huy tài năng, phát triển cả thể lực và trí lực.

- Phối hợp nhịp nhàng các bộ phận trong tổ chức để đạt được môi trường chung,

tạo ra những sản phẩm cho tiêu dùng xã hội.

- Củng cố địa vị của tổ chức trong môi trường bằng cách duy trì tốt sự tồn tại của

tổ chức thông qua kết quả hoạt động của tổ chức đóng góp cho xã hội.

9

Xét về mặt tổ chức và kỹ thuật của hoạt động quản lý thì quản lý chính là sự kết hợp mọi nỗ lực của con người trong một tổ chức nào đó để đạt tới mục tiêu chung của tổ chức và mục tiêu riêng của mỗi người một cách khôn khéo và hiệu quả nhất. Quản lý là một loại lao động trí óc đặc thù nhằm tổ chức, điều khiển và phối hợp các hoạt động mà doanh nghiệp phải thực hiện để đạt mục tiêu kinh doanh. Nó không chỉ dựa trên kinh nghiệm mà phải có cơ sở khoa học (tổng kết từ thực tiễn quản trị và có sự vận dụng các quy luật, nguyên tắc, phương pháp và công cụ quản lý). Mặt khác,

nó còn là một nghệ thuật trong xử lý các tình huống đa dạng không thể dự tính đầy đủ; cần hết sức linh hoạt, sáng tạo, tùy cơ ứng biến sao cho có hiệu quả cao nhất. Ngoài ra, quản lý còn là một nghề chuyên nghiệp, kết quả của sự phân công lao động cao trong xã hội; đòi hỏi kỹ năng và phẩm chất nhất định.

2. CÁC HỌC THUYẾT VÀ LÝ THUYẾT QUẢN LÝ

Trên phương diện khoa học xã hội và nhân văn mỗi một lý thuyết là một tập hợp những mối tương quan giữa những tư tưởng vừa giải thích, vừa tiên đoán các hiện tượng xã hội. Lý thuyết quản trị cũng thế, nó cũng là một hệ thống về những tư tưởng, quan niệm, đúc kết, giải thích về các hoạt động quản trị được thực hành trong thế giới hiện tại. Điều này cũng có nghĩa là lý thuyết quản trị cũng phải dựa vào thực tế và nó đã được nghiên cứu có hệ thống qua các thời đại, nhất là từ thế kỷ XIX. Kết quả là chúng ta có được một di sản đồ sộ và phong phú về quản trị mà các nhà quản trị ngày nay đang thừa hưởng. Chính vì thế mà việc nghiên cứu sự tiến triển của tư tưởng quản trị là cần thiết cho các nhà quản trị trong lý luận và thực hành, cho hiện tại và cho cả tương lai.

2.1. Các tư tưởng triết học Trung Hoa cổ đại

2.1.1. Tư tưởng đức trị của Khổng Tử

Ra đời vào thời kỳ Xuân Thu (1770 – 1403 TCN) đây là giai đoạn suy tàn của Nhà Chu ở Trung Quốc. Thời kỳ này, sản xuất nông nghiệp giữ vai trò chủ đạo cùng với lao động thủ công nên năng suất lao động rất thấp, đời sống nhân dân đói khổ, thất học, mù chữ. Biên giới giữa các quốc gia canh phòng không nghiêm ngặt, dân chúng đi lại tự do từ nước này sang nước khác. Nước nào kinh tế thịnh vượng, dễ làm ăn thì dân kéo đến làm ăn sinh sống đông đúc, ngược lại những nước nào đói khổ, áp bức bóc lột nặng nề thì dân chúng bỏ đi. Khổng Tử là một nhà tư tưởng vĩ đại trong lịch sử của dân tộc Trung Hoa, ông sinh năm 551, mất năm 479 trước công nguyên thuộc thời Xuân Thu. Ông vừa là nhà giáo giỏi vừa là nhà quản lý tài ba xuất sắc, ông từng nắm giữ nhiều chức quan lại như: Thư lại, Uỷ lại, Trung đô tễ, Thượng thư bộ hình, Thượng thư bộ công và chức quan cao nhất mà ông nắm giữ là Tướng quốc (sau Vua).

Bắt nguồn từ quan niệm của ông: Con người sinh ra vốn đã có tính thiện nhưng do trời phú cho tài năng và hoàn cảnh sống khác nhau đã hình thành những con người không giống nhau. Có hai loại người là quân tử và tiểu nhân. Người quân tử thì có nghĩa, còn kẻ tiểu nhân thì chỉ chăm lo tư lợi. Tuy nhiên bằng sự học tập, tu dưỡng và rèn luyện thường xuyên sẽ giúp hình thành nên bản chất người và trở thành người nhân. Đây là những người có sứ mệnh giáo hoá xã hội, cai trị xã hội, giáo hoá điều nhân cho mọi người

10

Nội dung thuyết đức trị của Khổng Tử chủ yếu bàn về lẽ phải trong quản lý. Ông coi cai trị xã hội là phải dùng Đức trị, tức là dùng đạo đức dẫn dắt, làm gương cho kẻ dưới noi theo. Ông đặt ra tiêu chuẩn đối với các nhà quản lý là phải lựa chọn và đào tạo được một tầng lớp Nho sĩ, từ đó hình thành nên một đội ngũ quan lại là những

nhà quản lý chuyên nghiệp, là những người ưu tú có sứ mệnh giáo hoá điều nhân cho mọi người, thực hiện việc cai trị xã hội. Ông đặt ra tiêu chuẩn cho họ là phải chính tâm, tu thân, tề gia trị quốc bình thiên hạ. Tề gia trị quốc cần phải có chính danh. Chính danh trong quản lý là phải làm việc xứng đáng với danh hiệu, chức vụ mà người đó được giao. Muốn chính danh thì phải có nhân tâm, không xảo trá, lọc lừa, không lạm dụng chức quyền. Ông đưa ra 6 phẩm chất cần phải có của nhà quản lý bao gồm: Nhân – Liêm – Dũng – Nghĩa – Trí – Tín. Theo đó:

+ Nhân: là yêu thương con người như yêu thương chính bản thân mình và những người thân thích của mình. Nhân không có nghĩa là nhu nhược, dung túng tội lỗi của dân mà phải kiên quyết trừng trị những người vi phạm trật tự an ninh chung.

+ Trí: là sự sáng suốt, hiểu biết người, biết yêu những người đáng yêu và biết ghét những kẻ đáng ghét. Biết bố trí con người theo công việc, đúng người đúng việc, biết giúp đỡ người khác nhưng không hại người, không hại ta.

+ Dũng: là quả cảm, kiên cường, dám hy sinh thân mình vì nghĩa lớn.

+ Nghĩa: là làm những điều phù hợp với luân thường đạo lý gia phong, phải giữ

được cam kết của mình trước dân, phải trung với Vua.

+ Liêm: là thật thà, trung thực trong việc thực hiện nhiệm vụ, không được tranh công của người khác, không được lạm dụng chức quyền để tham nhũng, áp bức bóc lột nhân dân.

+Tín: là hệ quả của tất cả các phẩm chất trên. Khi có tín rồi thì sẽ thu phục được

nhân tâm, sẽ huy động được sức dân

Chính sách quản lý nhân sự: Nhà quản lý phải biết chọn người hiền tài, có chí có hiểu biết để bố trí đúng người, đúng việc. Chọn lựa con người phải trên cơ sở tài-đức chứ không căn cứ vào giai cấp, huyết thống. Quan trọng là người đó phải có Trí và phải chính trực, ngay thẳng. “đặt người chính trực lên kẻ cong queo thì sẽ biến kẻ cong queo thành người chính trực”. Ông lấy yêu cầu tài-đức làm cơ sở để phân biệt quan lại, lấy đó làm tiêu chí để phân công công việc. Ông chia quan lại ra làm 3 hạng: Đại thần, Cụ thần và Đấu sao. Phải có chế độ đãi ngộ cao đối với quan lại, ông đề cao chế độ đãi ngộ vì quan lại là tầng lớp cao trong xã hội, cần phải có chính sách để mọi người vươn tới.

Chính sách cai trị dân: Ông chia ra làm hai chính sách lớn là Dưỡng dân và Giáo dân.

11

- Dưỡng dân: là làm cho nhân dân no đủ, giàu có. Vua phải biết tiết kiệm cho dân. Cái gì không có lợi cho dân thì đừng tiêu. Ví dụ: Việc đánh thuế dân ví như việc vắt sữa bò. Thuế nhẹ thì dân khoẻ, chỉ bắt dân đi xâu khi rảnh việc. Ông đề cao chính sách phân phối quân bình, theo đó không sợ thiếu mà chỉ sợ phân phối không quân bình. Phân phối quân bình làm cho dân sẽ không nghèo, chính quyền không nghiêng đổ, xã tắc sẽ yên ổn.

- Giáo dân: là cách yêu thương dân, dân có hiểu biết mới dễ bề cai trị. Giáo dân cũng là nguyên nhân thịnh trị của mỗi quốc gia. Ông đưa ra 2 cách giáo dân: làm gương cho dân và dạy dân, vạn bất đắc dĩ mới phải dùng hình phạt.

Học thuyết “Đức trị” của Khổng Tử từng là một công cụ bảo vệ cho nền phong kiến Trung Hoa suốt 2 ngàn năm và được coi là học thuyết tiêu biểu trong quản lý nhà nước của xã hội phương Đông.

- Tích cực: Học thuyết đức trị của Khổng Tử tuy có những điểm bảo thủ nhưng vào thời kỳ đó đã có tác dụng thiết thực đưa nước Lỗ từ chỗ loạn lạc, nghèo đói trở thành một nước thịnh trị chỉ trong 6 năm. Học thuyết đó đã trở thành nền tảng tư tưởng triệt đẻ trong xã hội phong kiến Trung Quốc, nó được coi là quốc giáo trong suốt hơn 2000 năm qua, đồng thời nó còn có ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhiều quốc gia khác ở Phương Đông như Việt Nam Nhật Bản, Hàn Quốc.

- Chỉ ra được phẩm chất, tiêu chuẩn cần phải có đối với nhà quản lý

- Chỉ ra được cơ sở quản lý nhân sự tiến bộ, chọn người dựa trên cơ sở tài đức

- Đề cao chính sách đãi ngộ để thu hút, tập hợp người hiền tài

- Chỉ ra chính sách cai trị dân

- Hạn chế:

- Quá đề cao đức trị, đề cao hình phạt (lạm dụng uy quyền), dễ làm giảm hiệu quả

quản lý

- Có những điểm mang tính bảo thủ, ảo tưởng, thiếu dân chủ.

- Đòi hỏi quá cao đối với nhà quản lý, nó chỉ phù hợp với từng giai đoạn lịch sửnhất định. Trong thời đại của ông, pháp luật còn rất hạn chế, quyền lực thực sự chỉ tập trung vào tay nhà vua và các tầng lớp cai trị, còn người dân nghèo đói không tự bảo vệ được mình. Trong hoàn cảnh đó, Khổng Tử muốn xay dựng một xã hội lý tưởng có trật tự từ trên xuống dưới trong đó cần có sự gương mẫu của các nhà quản lý. Như vậy, những hạn chế trên không làm thuyên giảm giá trị của học thuyết Khổng Tử.

2.1.2. Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử

Ra đời vào thời kì Chiến quốc 403 – 224 trước công nguyên. Thời kì này chính trị bất ổn, chiến tranh liên miên nhưng Kinh tế lại khá phát triển: sắt được sử dụng làm công cụ lao động, đất đai nhà nước được mở rộng. Năng xuất lao động thời kì này tăng lên đáng kể. Về chính trị: Đạo đức xã hội suy đồi, con người luôn tranh giành nhau quyền lợi. Quan lại tham ô, hối lộ, ăn chơi sa đọa, áp bức bóc lột, nhũng nhiễu nhân dân.

12

Sinh năm 280 mất năm 223 trước công nguyên. ông vốn là một công tử nước Hàn, học rộng tài cao, biết cả đạo nho của Khổng Tử, lão Tử nhưng lại tỏ ra yêu thích tư tưởng của phái pháp gia, ủng hộ chế độ chuyên chế phong kiến. Hàn Phi Tử chịu ảnh hưởng rất sâu sắc của những biến động trong thời Chiến quốc Ông nêu lên nguồn gốc

giàu nghèo là do bất bình đẳng sinh ra, ông quan niệm bản chất con người luôn mưu cầu lợi ích cho bản thân mình. Lợi ích là bản chất mọi hành vi con người. “Sở dĩ bác sĩ ngậm miệng hút máu vết thương cho bênh nhân chẳng qua là vì lợi”. ông kế thừa một số tư tưởng dùng luật để trị nước của các bậc hiền tài thời trước ông, đi sâu nghiên cứu và phát triển thành tư tưởng pháp trị của mình. Từ đó ông cho rằng pháp luật là công cụ rất quan trọng để điều chỉnh xã hội, pháp luật không phân biệt đối xử với các tầng lớp khác nhau. Mọi người bình đẳng trước pháp luật. Quan niệm của ông là lý luận phải hợp thời. “Phong tục xưa và nay khác nhau thì biện pháp cũng phải khác nhau”

Nội dung: Thế – thuật – pháp

+ Thế: Là sự tôn trong quyền lực tối cao, Vua phải nắm được cả 3 quyền: Lập pháp –Hành pháp – Tư pháp thì mới ngăn cản hết mọi tội lỗi, mới duy trì được kỷ cương xã hội. Ông cho rằng lịch sử xã hội luôn biến đổi, không có chế độ xã hội nào là vĩnh viễn, kẻ cầm quyền phải căn cứ vào nhu cầu khách quan đương thời và xu thế thời cuộc mà lập ra chế độ mới. Để có thế, Vua phải được mọi người tôn trọng và tuân theo triệt để. Vua cần phải nắm hết các quyền thưởng phạt. Việc thưởng phạt phải tuân theo nguyên tắc. Thưởng thì phải tín, phạt thì phải tất (cương quyết). Thưởng hậu phạt nặng. Trừng phạt không chừa quan lại, thưởng không bỏ sót dân thường

+ Thuật: Được ông chia ra làm 2 loại: Kĩ thuật và Tâm thuật

Kĩ thuật: là cách thức, biện pháp tuyển dụng, kiểm tra và đánh giá quan lại. Trong kỹ thuật lại chia ra Thuật dùng người và Thuật trừ gian. Dùng người là cái tài của người quản lý, thể hiện ở sự dùng sức và dùng trí của một người.

Trừ gian là cách thức loại bỏ gian thần. Ông rất đề cao thuật dùng người, lựa chọn người không có thuật thì sẽ bại, vì người có tài chưa hẳn đã đáng tin, người có đức chưa hẳn đã có tài. Ông đã chỉ ra phương pháp lựa chọn người là:

- Phải biết lắng nghe bề tôi nói

- Phải có phương pháp để kiểm tra lời nói của họ có đúng không

- Phải biết bố trí công việc để kiểm tra năng lực của họ

Tâm thuật: (mưu mô của nhà quản lý)

Là những cái mưu mô để che mắt người khác, không cho cấp dưới biết được suy nghĩ và tâm ý thật, tình cảm thật của mình. Như vậy mới dùng được người, trừ được gian.

13

+ Pháp: Ông ví Pháp như cái khuôn cái thước, cái trật tự, cái tiêu chuẩn để đo lường hành vi con người. Không có nước nào luôn mạnh hay luôn yếu. Nước nào thi hành pháp luật cương cường thì nước đó mạnh, ngược lại thì nước sẽ yếu. Vua là người có quyền ban hành luật pháp. Nhưng việc ban hành luật pháp cần phải được quan tâm đến nguyên tắc và phải tuân theo nguyên tắc.

- Pháp luật phải kịp thời. “Thời đã thay mà pháp luật không đổi thì nước biến, Đời đã thay mà cấm lệnh không đổi thì đất nước bị chia cắt, cho nên thánh nhân trị dân thì pháp luật phải theo thời mà biến”

- Pháp luật phải dễ hiểu, dễ thực hiện. “Cái gì chỉ những kẻ sĩ có đầu óc tinh tế mới hiểu được thì không nên ban hành vì không phải ai cũng đều có đầu óc tinh tế cả. Điều gì chỉ những bậc thánh hiền mới làm được thì không nên ban hành làm phép tắc”

- Pháp luật phải bảo vệ kẻ yếu, bảo vệ thiểu số. Ông đặt ra hình phạt nghiêm “để cứu hoạ cho dân, trừ hoạ cho thiên hạ, để cho đám đông không hiếp đáp số ít, kẻ mạnh không lấn át người yếu, người già được hưởng hết tuổi trời, trẻ em mồ côi được nuôi lớn”

- Pháp luật phải mang tính phổ cập, phổ biến, phải được tuyên truyền rộng rãi đến mọi

người dân để không ai có thể viện cớ vì không hiểu biết pháp luật mà vi phạm.

Ông còn đề cao việc uỷ quyền cho quan lại. Vua có rất nhiều việc lớn không thể trực tiếp cai trị dân mà nên uỷ thác việc đó cho quan lại. Vua quản lý quan lại thông qua chính sách thưởng phạt

* Tích cực:

- Là tư tưởng quản lý tiến bộ tích cực, nhiều nội dung vẫn còn nguyên giá trị đến

ngày nay và có tính biện chứng rất cao.

- Lý luận phải hợp thời.

- Chỉ ra con đường cho các nhà quản lý tạo dựng quyền lực quản lý cho mình.

- Chỉ ra 2 phương diện của hoạt động quản lý:

+ Phương diện Khoa học: chỉ ra hàng loạt vấn đề: phương pháp cách thức lựa

chọn, tuyển dụng, đánh giá quan lại. Đánh giá dựa trên 2 tiêu chuẩn là tài và đức.

+ Phương diện Nghệ thuật: Là phương pháp, con đường giải quyết hiệu quả nhất

mối quan hệ giữa con người với con người trong hoạt động quản lý.

Ông đặc biệt đề cao vai trò của nhà quản lý trong tổ chức.

- Ông chỉ ra rằng, pháp luật là công cụ hết sức cơ bản, quan trọng trong hoạt động

cai trị

- Chỉ ra hàng loạt tiêu chí xây dựng pháp luật và hệ thống pháp luật.

- Đưa ra phương thức quản lý hữu hiệu là thưởng – phạt

* Hạn chế:

- Tôn sùng chế độ chuyên quyền độc đoán, hạn chế đáng kể quyền tự do của nhân

dân

14

- Ông quan niệm hơi thái quá về con người: sinh ra đã là ác. Ông chỉ nhìn thấy mặt sinh học của con người là bản chất và mọi hành vi đều vì lợi mà không thấy hết những mặt khác trong thuộc tính con người.

Học thuyết pháp trị của Hàn Phi Tư lộ rõ niềm say mê quyền lực đến mức cô độc, lạnh lùng và tàn nhẫn. Nhưng nhìn lại cuốc đời của ông, ta thấy đó là con người có trí tuệ rất uyên thâm, là con người dám hy sinh vì sự nghiệp. Thuyết pháp trị của ông đã trở thành định ý cai trị chủ yếu cho các triều đại phong kiến tập quyền Trung Quốc và ở phương Đông nói chung.

2.2. Các lý thuyết cổ điển về quản lý

Lý thuyết cổ điển về quản lý là thuật ngữ được dùng để chỉ những quan điểm về tổ chức và quản trị được đưa ra ở Châu Âu và Hoa kỳ vào những năm cuối của thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Trong quá trình hình thành các lý thuyết cổ điển có công đóng góp của nhiều tác giả. Nhìn chung có thể đưa ra hai dòng lý thuyết quản trị cổ điển chính:

2.2.1. Lý thuyết quản lý khoa học

Có rất nhiều tác giả về dòng lý thuyết này, có thể kể ra đây một số tác giả chính:

- Charles Babbage (1792 - 1871): ông là một nhà toán học Anh tìm cách tăng năng suất lao động. Cùng với Adam Smith ông chủ trương chuyên môn hoá lao động, dùng toán học để tính toán cách sử dụng nguyên vật liệu tối ưu. Ông cho rằng, các nhà quản trị phải nghiên cứu thời gian cần thiết để hoàn thành một công việc, từ đó ấn định tiêu chuẩn công việc, đưa ra việc thưởng cho những công nhân vượt tiêu chuẩn. Ông cũng là người đầu tiên đề nghị phương pháp chia lợi nhuận để duy trì quan hệ giữa công nhân và người quản lý.

- Frank & Lilian Gilbreth: Frank (1886 - 1924) và Lilian Gilbreth (1878 – 1972) là những người đầu tiên trong việc nghiên cứu thời gian - động tác và phát triển lý thuyết quản trị khác hẳn Taylor. Hai ông bà phát triển một hệ thống các thao tác để hoàn thành một công tác. Hai ông bà đưa ra một hệ thống xếp loại bao trùm các động tác như cách nắm đồ vật, cách di chuyển… Hệ thống các động tác khoa học nêu lên những tương quan giữa loại động tác và tần số với sự mệt ngọc trong lao động, xác định những động tác dư thừa làm phí phạm năng lực, loại bỏ những động tác dư thừa, chú tâm vào những động tác thích hợp làm giảm mệt mỏi và tăng năng suất lao động.

- Henry Gantt (1861 - 1919): ông vốn là một kỹ sư chuyên về hệ thống kiểm soát trong các nhà máy. Ông phát triển sơ đồ Gantt mô tả dòng công việc cần để hoàn thành một nhiệm vụ, vạch ra những giai đoạn của công việc theo kế hoạch, ghi cả thời gian hoạch định và thời gian thực sự. Ngày nay phương pháp Gantt là một công cụ quan trọng trong quản trị tác nghiệp. Gantt cũng đưa ra một hệ thống chỉ tiêu công việc và hệ thống khen thưởng cho công nhân và quản trị viên đạt và vượt chỉ tiêu.

15

Tuy nhiên, đại biểu ưu tú nhất của trường phái này là Fededric W. Taylor (1856 - 1915) được gọi là “cha đẻ” của phương pháp quản lý khoa học. Tên gọi của lý thuyết này xuất phát từ nhan đề trong tác phẩm của Taylor: “các nguyên tắc quản lý một cách khoa học” xuất bản lần đầu ở Mỹ vào năm 1911. Trong thời gian làm nhiệm vụ của nhà quản lý ở các xí nghiệp, nhất là trong các xí nghiệp luyện kim ông đã tìm ra

và chỉ trích mãnh liệt các nhược điểm trong cách quản lý cũ, theo ông các nhược điểm chính là:

+ Thuê mướn công nhân trên cơ sở ai đến trước mướn trước, không lưu ý đến khả

năng và nghề nghiệp của công nhân

+ Công tác huấn luyện nhân viên hầu như không có hệ thống tổ chức học việc

+ Công việc làm theo thói quen, không có tiêu chuẩn và phương pháp. Công nhân

tự mình định đoạt tốc độ làm việc.

+ Hầu hết các công việc và trách nhiệm đều được giao cho người công nhân

+ Nhà quản trị làm việc bên cạnh người thợ, quên mất chức năng chính là lập kế hoạch và tổ chức công việc. Tính chuyên nghiệp của nhà quản trị không được thừa nhận.

Sau đó ông nêu ra 4 nguyên tắc quản lý khoa học như sau:

+ Phương pháp khoa học cho những thành tố cơ bản trong công việc của công

nhân thay cho phương pháp cũ dựa vào kinh nghiệm

+ Xác định chức năng hoạch định của nhà quản lý, thay vì để công nhân tự ý lựa

chọn phương pháp làm việc riêng của họ

+ Lựa chọn và huấn luyện công nhân, phát triển tinh thần hợp tác đồng đội, thay

vì khích lệ những nỗ lực cá nhân riêng lẻ của họ

+ Phân chia công việc giữa nhà quản trị và công nhân để mỗi bên làm tốt nhất

công việc của họ chứ không phải chỉ đổ lên đầu công nhân như trước kia

Công tác quản lý tương ứng là:

+ Nghiên cứu thời gian và các thao tác hợp lý nhất để thực hiện công việc

+ Dùng cách mô tả công việc để chọn lựa công nhân, thiết lập hệ thống tiêu chuẩn

và hệ thống huấn luyện chính thức

+ Trả lương theo nguyên tắc khuyến khích theo sản lượng, bảo đảm an toàn lao

động bằng dụng cụ thích hợp.

+ Thăng tiến trong công việc, chú trọng lập kế hoạch và tổ chức hoạt động

16

Tóm lại: Trường phái quản lý khoa học có nhiều đóng góp có giá trị cho sự phát triển của tư tưởng quản trị, họ phát triển kỹ năng quản trị qua phân công và chuyên môn hoá quá trình lao động, hình thành quy trình sản xuất dây chuyền. Họ là những người đầu tiên nêu lên tầm quan trọng của việc tuyển chọn và huấn luyện nhân viên, đầu tiên dùng đãi ngộ để tăng năng suất lao động. Họ cũng là những người nhấn mạnh việc giảm giá thành để tăng hiệu quả, dùng những phương pháp có hệ thống và hợp lý để giải quyết các vấn đề quản trị, cuối cùng cũng chính họ coi quản trị như là một đối tượng nghiên cứu khoa học. Tuy vậy, trường phái này cũng có những giới hạn nhất định. Trước hết trường phái này chỉ áp dụng tốt trong trường hợp môi trường ổn định, khó áp dụng trong môi trường phức tạp nhiều thay đổi. Thứ đến, họ

quá đề cao bản chất kinh tế và duy lý của con người mà đánh giá thấp nhu cầu xã hội và tự thể hiện của con người, do vậy vấn đề nhân bản ít được quan tâm. Cuối cùng trường phái này cố áp dụng những nguyên tắc quản lý phổ quát cho mọi hoàn cảnh mà không nhận thấy tính đặc thù của môi trường và họ cũng quá chú tâm đến vấn đề kỹ thuật.

2.2.2. Trường phái quản lý hành chính

Trong khi trường phái quản lý khoa học chú trọng đến hợp lý hoá và những nhiệm vụ mà các công nhân phải làm thì trường phái quản lý tổng quát (hay hành chính) lại phát triển những nguyên tắc quản lý chung cho cả một tổ chức, chính vì thế trường phái này còn được gọi là tư tưởng quản lý tổ chức cổ điển. Đây là tên gọi để chỉ các ý kiến về cách thức quản lý doanh nghiệp do Henry Fayol ở Pháp và Max Weber ở Đức nêu lên, cũng cùng với thời kỳ Taylor ở Mỹ.

- Max Weber (1864 - 1920): Là một nhà xã hội học người Đức, có nhiều đóng góp vào lý thuyết quản trị thông qua việc phát triển một tổ chức quan liêu bàn giấy là phương thức hợp lý tổ chức một công ty phức tạp. Khái niệm quan liêu bàn giấy được định nghĩa là hệ thống chức vụ và nhiệm vụ được xác định rõ ràng, phân công, phân nhiệm chính xác, các mục têu phân biệt, hệ thống quyền hành có tôn ty trật tự. Cơ sở tư tưởng của Weber là ý niệm thẩm quyền hợp pháp và hợp lý. Ngày nay thuật ngữ “quan liêu” gợi lên hình ảnh một tổ chức cứng nhắc, lỗi thời, bị chìm ngập trong thủ tục hành chính phiền hà và nó hoàn toàn xa lạ với tư tưởng ban đầu của Weber. Thực chất những đặc tính về chủ nghĩa quan liêu của Weber là:

+ Phân công lao động với thẩm quyền và trách nhiệm được quy định rõ và được

hợp pháp hoá như nhiệm vụ chính thức.

+ Các chức vụ được thiết lập theo hệ thống chỉ huy, mồi chức vụ nằm dưới một

chức vụ khác cao hơn.

+ Nhân sự được tuyển dụng và thăng cấp theo khả năng qua thi cử, huấn luyện và

kinh nghiệm.

+ Các hành vi hành chính và các quyết định phải thành văn bản.

+ Quản lý phải tách rời sở hữu

Các nhà quản lý phải tuân thủ điều lệ và thủ tục. Luật lệ phải công bằng và được áp dụng thống nhất cho mọi người. Theo Maz Weber thì quyền hành căn cứ trên chức vụ. Ngược lại chức vụ tạo ra quyền hành. Vì vậy, việc xây dựng một hệ thống chức vụ và quyền hành phải căn cứ vào những nguyên tắc sau:

+ Mọi hoạt động của tổ chức đều phải chuyển vào văn bản quy định

+ Chỉ những người có chức vụ mới có quyền quyết định

+ Chỉ có những người có năng lực mới được giao chức vụ

17

+ Mọi quyết định trong tổ chức phải mang tính khách quan

- Henry Fayol (1841 - 1925): Là một nhà quản lý hành chính người Pháp. Với tác phẩm “Quản lý công nghiệp và quản lý tổng quát (1916)”. Khác hẳn với Taylor, cho rằng năng suất lao động kém là do công nhân không biết cách làm việc, và không được kích thích kinh tế đầy đủ, Fayol cho rằng năng suất lao động của con người làm việc chung trong tập thể tuỳ thuộc vào sự sắp xếp, tổ chức của nhà quản lý. Việc sắp xếp tổ chức đó được Fayol gọi là việc quản lý tổng quát và việc này cũng quan trọng như 5 việc khác trong cơ sở sản xuất kinh doanh: (1) sản xuất, (2) tiếp thị hay Marketing, (3) tài chính, (4) quản lý tài sản và con người và (5) kế toán - thống kê.

Để có thể làm tốt việc sắp xếp, tổ chức xí nghiệp Fayol đã đề nghị các nhà quản

lý nên theo 14 nguyên tắc quản lý:

+ Phải phân công lao động.

+ Phải xác định rõ mối quan hệ giữa quyền hành và trách nhiệm.

+ Phải duy trì kỷ luật trong xí nghiệp.

+ Mỗi công nhân chỉ nhận lệnh từ một cấp chỉ huy trực tiếp duy nhất.

+ Các nhà quản trị phải thống nhất ý kiến khi chỉ huy.

+ Quyền lợi chung phải luôn luôn đặt lên quyền lợi riêng

+ Quyền lợi kinh tế phải tương xứng với công việc

+ Quyền quyết định trong doanh nghiệp phải tập trung về một mối.

+ Doanh nghiệp phải được tổ chức theo cấp bậc từ giám đốc xuống đến công

nhân.

+ Sinh hoạt trong xí nghiệp phải có trật tự

+ Sự đối xử trong xí nghiệp phải công bằng.

+ Công việc của mỗi người trong xí nghiệp phải ổn định

+ Tôn trọng sáng kiến của mọi người

+ Doanh nghiệp phải xây dựng cho được tinh thần tập thể.

Tóm lại: Trường phái hành chính chủ trương cho rằng, năng suất lao động sẽ cao trong một tổ chức được sắp đặt hợp lý. Nó đóng góp rất nhiều trong lý luận cũng như thực hành quản trị, nhiều nguyên tắc quản lý của tư tưởng này vẫn còn được áp dụng đến ngày nay. Các hình thức tổ chức, các nguyên tắc tổ chức, quyền lực và sự uỷ quyền… đang ứng dụng phổ biến hiện nay chính là sự đóng góp quan trọng của trường phái quản lý hành chính.

18

Hạn chế của trường phái này là các tư tưởng được thiết lập trong một tổ chức ổn định, ít thay đổi, quan điểm quản lý cứng rắn, ít chú ý đến con người và xã hội nên dễ dẫn tới việc xa rời thực tế. Vấn đề quan trọng là phải biết cách vận dụng các nguyên tắc quản lý cho phù hợp với các yêu cầu thực tế, chứ không phải là từ bỏ các nguyên tắc đó.

2.2.3. Lý thuyết tâm lý xã hội trong quản lý

Lý thuyết tâm lý xã hội trong quản lý, còn gọi là lý thuyết hành vi, là những quan điểm quản trị nhấn mạnh đến vai trò của yếu tố tâm lý, tình cảm, quan hệ xã hội của con người trong công việc. Lý thuyết này cho rằng hiệu quả của quản lý do năng suất lao động quyết định, nhưng năng suất lao động không chỉ do các yếu tố vật chất quyết định mà còn do sự thoả mãn các nhu cầu tâm lý xã hội của con người. Lý thuyết này bắt đầu xuất hiện ở Mỹ trong thập niên 30, được phát triển mạnh bởi các nhà tâm lý học trong thập niên 60, và hiện nay vẫn còn được nghiên cứu tại nhiều nước phát triển nhằm tìm ra những hiểu biết đầy đủ về tâm hồn phức tạp của con người, một yếu tố quan trọng để quản lý.

Trường phái này có các tác giả sau:

- Robert owen (1771 - 1858): Là kỹ nghệ gia người Anh, là người đầu tiên nói đến nhân lực trong tổ chức. Ông chỉ trích các nhà công nghiệp bỏ tiền ra phát triển máy móc nhưng lại không cải tiến số phận của những “máy móc người”

- Hugo Munsterberg (1863 - 1916): Nghiên cứu tâm lý ứng dụng trong môi trường tổ chức, ông được coi là cha đẻ của ngành tâm lý học công nghiệp. Trong tác phẩm nhan đề “Tâm lý học và hiệu quả trong công nghiệp” xuất bản năm 1913, ông nhấn mạnh là phải nghiên cứu một cách khoa học tác phong của con người để tìm ra những mẫu mực chung và giải thích những sự khác biệt. Ông cho rằng năng suất lao động sẽ cao hơn nếu công việc giao phó cho họ được nghiên cứu phân tích chu đáo, và hợp với những kỹ năng cũng như tâm lý của họ.

- Mary Parker Follett (1863 - 1933): Là nhà nghiên cứu quản trị ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX đã chú ý đến tâm lý trong quản lý, bà có nhiều đóng góp có giá trị về nhóm lao động và quan hệ xã hội trong quản trị.

- Abraham Maslow (1908 - 1970): Là nhà tâm lý học đã xây dựng một lý thuyết về nhu cầu của con người gồm 5 bậc được xếp từ thấp đến cao theo thứ tự: (1) nhu cầu vật chất, (2) nhu cầu an toàn, (3) nhu cầu xã hội, (4) nhu cầu được tôn trọng và (5) nhu cầu tự hoàn thiện.

19

- Donghlas Mc Gregor (1906 - 1964): Mc Gregor cho rằng các nhà quản trị trước đây đã tiến hành các cách thức quản lý trên những giả thuyết sai lầm về tác phong và hành vi của con người. Những giả thuyết đó cho rằng phần đông mọi người đều không thích làm việc, thích được chỉ huy hơn là tự chịu trách nhiệm, và hầu hết mọi người làm việc vì lợi ích vật chất, và như vậy các nhà quản lý đã xây dựng những bộ máy tổ chức với quyền hành tập trung đặt ra nhiều quy tắc thủ tục, đồng thời với một hệ thống kiểm tra giám sát chặt chẽ. Gregor gọi những giả thuyết đó là X, và đề nghị một loạt giả thuyết khác mà ông gọi là Y. Thuyết Y cho rằng con người sẽ thích thú với công việc nếu có được những thuận lợi và họ có thể đóng góp nhiều hơn cho tổ chức. Mc Gregor cho rằng thay vì nhấn mạnh đến cơ chế kiểm tra thì nhà quản lý nên quan tâm nhiều hơn đến sự phối hợp hoạt động

Từ những kết quả nghiên cứu tại nhà máy Hawthorne do Elton Mayo (1880 - 1949) Giáo sư của đại học kinh doanh Havard nổi tiếng ở Mỹ thực hiện và trải qua nhiều kết quả nghiên cứu thực nghiệm khác của các nhà tâm lý công nghiệp, người ta đã cho rằng sự thoả mãn các nhu cầu tâm lý của con người như muốn được người khác quan tâm, muốn được người khác kính trọng, muốn có vai trò quan trọng trong sự nghiệp chung, muốn làm việc trong bầu không khí thân thiện giữa các đồng sự… có ảnh hưởng lớn đến năng suất và thành quả lao động của con người

- Quan điểm cơ bản của lý thuyết này cũng giống như quan điểm của lý thuyết quản lý khoa học. Họ cho rằng sự quản trị hữu hiệu tuỳ thuộc vào năng suất lao động của con người làm việc trong tập thể. Tuy nhiên, khác với ý kiến của lý thuyết quản trị khoa học, lý thuyết tâm lý xã hội cho rằng, yếu tố tinh thần có ảnh hưởng mạnh đối với năng suất của lao động

- Từ nhận thức đó, các nhà lý thuyết tâm lý quản lý cho rằng các nhà quản trị nên thay đổi quan niệm về công nhân. Họ không phải là những con người thụ động, thích được chỉ huy, thích được giao việc cụ thể. Trái lại, họ sẽ làm việc tốt hơn, năng suất cao hơn, phát huy sáng kiến nhiều hơn, nếu được đối xử như những con người trưởng thành, được tự chủ trong công việc. Ngoài ra, nhà quản trị phải cải thiện mối quan hệ con người trong tổ chức, từ mối quan hệ giữa thủ trưởng với nhân viên, đến mối quan hệ giữa các đồng sự ngang hàng, vì con người sẽ làm việc tốt hơn trong một môi trường quan hệ thân thiện

Tóm lại: Tư tưởng chính của nhóm tâm lý xã hội là:

- Doanh nghiệp là một hệ thống xã hội

- Khi động viên không chỉ bằng yếu tố vật chất mà còn phải quan tâm đến những

nhu cầu xã hội

- Tập thể ảnh hưởng trên tác phong cá nhân (tinh thần, thái độ, kết quả lao

động…)

- Lãnh đạo không chỉ là quyền hành do tổ chức mà còn do các yếu tố tâm lý xã

hội của tổ chức chi phối

- Các nhóm và các tổ chức phi chính thức trong xí nghiệp có tác dụng nhiều đến

tinh thần, thái độ và kết quả lao động

- Sự thỏa mãn về tinh thần có mối liên quan chặt chẽ đến năng suất và kết quả lao

động

- Công nhân có nhiều nhu cầu về tâm lý xã hội

- Tài năng quản trị đòi hỏi nhà quản lý phải có chuyên môn kỹ thuật và cả các

đặc điểm về quan hệ tốt với con người

Tuy vậy, lý thuyết này cũng còn những hạn chế nhất định:

- Quá chú ý đến yếu tố xã hội - khái niệm “con người xã hội” chỉ có thể bổ sung

20

cho khái niệm “con người kinh tế” chứ không thể thay thế

- Lý thuyết này coi con người là phần tử trong hệ thống khép kín mà không quan

tâm đến yếu tố ngoại lai

- Không phải lúc nào những “con người thoả mãn” đều là những lao động có

năng suất cao.

2.2.4. Lý thuyết định lượng trong quản lý

Thế chiến II đã đặt ra nhiều vấn đề mới cho việc quản lý. Nước Anh đã thành lập đội nghiên cứu hành quân bao gồm các nhà khoa học để tìm cách chống lại sự tấn công của Đức. Kết thúc chiến tranh thế giới II và từ thập niên 50, các kỹ thuật định lượng được các nhà công nghiệp Mỹ quan tâm và áp dụng vào nghiên cứu, tạo điều kiện để nâng cao tính chính xác của các quyết định quản trị. Kết quả từ những cố gắng này của họ đã làm nảy sinh một lý thuyết nữa về quản trị ra đời. Lý thuyết quản trị mới này được gọi bằng nhiều tên khác nhau như: lý thuyết hệ thống, lý thuyết định lượng về quản lý, lý thuyết khoa học quản lý. Tất cả tên gọi này chẳng qua nhằm để biểu đạt ý nghĩa về lý thuyết quản lý mới này được xây dựng trên nhận thức cơ bản rằng “quản lý là quyết định” và muốn việc quản lý có hiệu quả, các quyết định phải đúng đắn)

Do sự bùng nổ về thông tin và cuộc cách mạng về thông tin, xã hội loài người có những bước chuyển biến mang tính cách mạng mạnh mẽ trên bình diện của từng nước và toàn cầu, kéo theo đó là những thay đổi có tính cách mạng trong việc áp dụng những kỹ thuật công nghệ cao vào các quá trình lao động. Cùng với những trào lưu này, trường phái quản trị định lượng với cơ sở là lý thuyết quyết định, đã áp dụng có hiệu quả thống kê và sự phát triển của mô hình toán kinh tế với sự trợ giúp của máy tính điện tử vào quá trình ra quyết định. Trường phái này dựa trên sự suy đoán là tất cả các vấn đề đều có thể được giải quyết bằng các mô hình toán, và nó có các đặc tính sau:

- Nhấn mạnh phương pháp khoa học trong khi giải quyết các vấn đề quản lý

- Áp dụng phương pháp tiếp cận hệ thống để giải quyết các vấn đề

- Sử dụng các mô hình toán học

- Định lượng hoá các yếu tố có liên quan và áp dụng các phép tính toán học và

xác suất thống kê

- Chú ý các yếu tố kinh tế kỹ thuật trong quản lý hơn là các yếu tố tâm lý xã hội

- Sử dụng máy tính điện tử làm công cụ

- Tìm kiếm các quyết định tối ưu trong hệ thống khép kín

Theo lý thuyết định lượng, hệ thống được các tác giả định nghĩa như sau:

+ Berthalanfly: Hệ thống là phối hợp những yếu tố luôn luôn tác động lại với

nhau

21

+ Miller: Hệ thống là tập hợp các yếu tố cùng với những mối quan hệ tương tác

Tổng hợp những khái niệm trên, chúng ta có thể thấy hệ thống là phức tạp của

các yếu tố:

+ Tạo thành một tổng thể

+ Có mối quan hệ tương tác

+ Tác động lẫn nhau để đạt mục tiêu

Doanh nghiệp là một hệ thống. Đó là một hệ thống mở có liên hệ với môi trường (với khách hàng, với nhà cung cấp, với các đối thủ cạnh tranh…). Nó có một mục tiêu đặc thù: tạo ra lợi nhuận. Hệ thống doanh nghiệp bao gồm nhiều phân hệ có mối quan hệ tương tác với nhau như: phân hệ công nghệ, phân hệ nhân sự, phân hệ tài chính, phân hệ tổ chức, phân hệ quản lý, phân hệ kiểm tra…

Như vậy, lý thuyết quản lý định lượng có các đặc trưng cơ bản sau:

- Trọng tâm chủ yếu là để phục vụ cho việc ra các quyết định. Giải pháp được tìm thấy nhờ các kỹ thuật phân tích định lượng chỉ rõ cách thức mà các nhà quản lý có thể tiến hành

- Sự lựa chọn dựa trên tiêu chuẩn kinh tế. Biện pháp hành động được lựa chọn dựa vào những tiêu thức có thể đo lường được như chi phí, doanh thu, tỷ lệ hoàn vốn đầu tư và những tác động của thuế

- Sử dụng các mô hình toán học để tìm giải pháp tối ưu. Các tình huống được giả

định và các vấn đề được phân tích theo các mô hình toán học

- Máy điện toán giữ vai trò rất quan trọng. Máy điện toán được dùng để giải quyết những “bài toán vấn đề” phức tạp mà nếu tính toán bằng tay sẽ tốn rất nhiều chi phí và thời gian

Tóm lại: Trường phái định lượng trong quản lý có các ưu điểm và hạn chế cơ bản

sau

- Ưu điểm:

+ Định lượng là sự nối dài của trường phái cổ điển (quản trị một cách khoa học)

+ Trường phái định lượng thâm nhập hầu hết trong mọi tổ chức hiện đại với những kỹ thuật phức tạp. Ngày nay khoa học quản trị, quản trị tác nghiệp và quản lý hệ thống thông tin rất quan trọng cho các nhà quản lý các tổ chức lớn và hiện đại. Các kỹ thuật của trường phái này đã đóng góp rất lớn trong việc nâng cao trình độ hoạch định và kiểm tra hoạt động

- Hạn chế:

22

+ Không hề chú trọng đến yếu tố con người trong tổ chức quản lý + Các khái niệm và kỹ thuật quản lý của lý thuyết này khó hiểu cần phải có những chuyên gia giỏi, do đó việc phổ biến lý thuyết này còn rất hạn chế.

2.3. Lý thuyết quản lý hiện đại

Đây là sự kế thừa các tư tưởng quản lý truyền thống nhằm đáp ứng những thay đổi nhanh chóng của môi trường kinh doanh và mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thương trường

Nội dung: Các lý thuyết này đề cao tính linh hoạt của tổ chức, tận dụng các thành tựu của công nghệ thông tin, thúc đẩy tính độc lập sáng tạo của nhân viên, tích cực uỷ quyền và tăng cường truyền thông trong tổ chức, giảm đến mức tối đa sự lệ thuộc vào quy chế, nguyên tắc và chuẩn mực cứng nhắc, giảm thiểu các cấp quản trị trung gian nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng, phát triển những quan niệm, ý tưởng về sản phẩm

Về phương pháp cụ thể, lý thuyết quản lý hiện đại bao gồm một số phương pháp

quản lý chủ yếu sau:

- Phương pháp quản lý theo quá trình: Dưới sức ép của cạnh tranh, đầu thập niên 1990 nhiều doanh nghiệp Hoa kỳ đã tiến hành cải tổ các hoạt động kinh doanh dựa trên quan điểm coi sự thoả mãn nhu cầu riêng của từng khách hàng là mục tiêu sống còn của doanh nghiệp. Do đó, cơ cấu tổ chức, nhân sự ra quyết định của doanh nghiệp v.v… được tái cấu trúc cho phù hợp với mục tiêu thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Toàn bộ các hoạt động này được liên kết và thống nhất thành một “quá trình”, bao gồm toàn bộ các hoạt động từ hình thành ý tưởng, tổ chức thực hiện, lựa chọn nhân sự… và hiệu quả được đo bằng mức độ thoả mãn nhu cầu của khách hàng.

Lý thuyết “quản lý theo quá trình” là phương thức điều hành các hoạt động kinh doanh ngược lại so với lý thuyết quản trị theo khoa học của Taylor và các cộng sự của ông. Thay vì lấy công nghệ làm trọng tâm và tiến hành phân nhỏ quá trình sản xuất, chế tạo thành những thao tác đơn giản, nhằm cho phép người công nhân nhanh chóng nắm vững kỹ năng và dễ dàng thực hiện công việc của họ như các nhà quản lý khoa học đã làm. Các nhà “quản lý theo quá trình” đã lấy khách hàng làm trọng tâm và tiến hành liên kết, thống nhất từng thao tác, từng hoạt động riêng lẻ thành những hoạt động chung nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu riêng của từng khách hàng cụ thể. Bởi vậy, các doanh nghiệp đã được tổ chức và đang hoạt động theo cơ cấu tổ chức cũ cần phải được “tái lập” theo cơ cấu mới.

Cơ cấu tổ chức theo “quá trình” được hình thành dựa trên từng quá trình cụ thể, nhằm đáp ứng yêu cầu của từng khách hàng. Do đó, hình thành những đội công tác chức năng chéo, có tính linh hoạt rất cao và sau khi hoàn thành nhiệm vụ của nó, những đội này sẽ tự điều chỉnh hoặc giải thể. Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp phát triển theo chiều ngang, các cấp quản lý trung gian được giảm đến mức tối đa và nhân viên phải được trang bị những kiến thức tổng hợp, có khả năng đưa ra những quyết định độc lập.

23

- Phương pháp quản lý theo tình huống: Vào giữa những năm 1960, nhiều nhà lý thuyết và nhà quản lý đã không thành công khi cố gắng áp dụng những quan điểm quản lý cổ điển và hệ thống. Do đó, một số người cho rằng trong mỗi tình huống

quản lý cụ thể phải có sự lựa chọn phương pháp quản lý phù hợp. Từ đó xuất hiện lý thuyết quản lý theo tình huống. Các nhà quản lý và lý thuyết thuộc trường phái này cho rằng trong những tình huống khác nhau thì phải áp dụng những phương pháp quản lý khác nhau và các lý thuyết quản lý được áp dụng riêng rẽ hay kết hợp với nhau tuỳ theo từng vấn đề cần giải quyết. Do đó, các nhà quản lý phải dự kiến và hiểu rõ thực trạng của vấn đề cần giải quyết trước khi ra quyết định.

Cơ sở lý luận của phương pháp này dựa trên quan niệm cho rằng tính hiệu quả của từng phong cách, kỹ năng hay nguyên tắc quản lý sẽ thay đổi tuỳ theo từng trường hợp. Các nhà quản trị theo quan điểm này căn cứ vào từng tình huống cụ thể để lựa chọn và sử dụng những nguyên tắc quản lý thuộc các trường phái cổ điển, trường phái hành vi hay quản lý hệ thống mà họ cho là hữu hiệu nhất với tình huống cần giải quyết. Việc lựa chọn cách quản lý nào tuỳ thuộc vào những yếu tố cơ bản sau:

+ Công nghệ: Đây là phương pháp dùng để biến các yếu tố đầu vào của tổ chức thành các yếu tố đầu ra. Công nghệ bao gồm tri thức, thiết bị, kỹ thuật và những hoạt động thích hợp để biến nguyên liệu thô thành dịch vụ hay sản phẩm hoàn thành. Công nghệ có nhiều mức độ từ đơn giản đến phức tạp. Công nghệ đơn giản liên quan đến những nguyên tắc ra quyết định hàng ngày nhằm hỗ trợ cho người công nhân trong suốt quá trình sản xuất. Còn những công nghệ tinh vi đòi hỏi người công nhân phải đưa ra hàng loạt quyết định, đôi khi trong tình trạng không có đủ các thông tin cần thiết.

+ Môi trường bên ngoài: Các yếu tố môi trường bên ngoài có những tác động rất mạnh mẽ đối với tổ chức và sự thành công hay thất bại của tổ chức phụ thuộc rất nhiều vào mức độ phù hợp đối với môi trường của các quyết định quản lý. Chẳng hạn nếu ban lãnh đạo một doanh nghiệp quyết định đầu tư xây dựng nhà máy vào một khu vực thường xảy ra bạo động, lạm phát ở mức cao, không có chính sách hỗ trợ từ chính phủ thì mức độ rủi ro của dự án rất cao

+ Nhân sự: theo quan điểm quản lý tình huống, nhà quản lý cần căn cứ vào tình hình nhân sự của tổ chức để lựa chọn phong cách lãnh đạo thích hợp. Biến số nhân sự thể hiện ở trình độ nhận thức của công nhân, những giá trị chung về văn hoá, lối sống và cách thức phản ứng của họ trước mỗi quyết định quản lý

Quan điểm quản lý theo tình huống tỏ ra rất hữu hiệu bởi nó dựa trên phương pháp tiếp cận tuỳ theo tình trạng thực tế của tổ chức hoặc cá nhân mà lựa chọn giải pháp phù hợp nhất để ra các quyết định quản lý. Nhiều người cho rằng trường phái quản lý này không có gì mới bởi nó chỉ đơn thuần sử dụng một cách thích hợp các kỹ năng quản lý của các trường phái quản lý khác. Tuy nhiên, quan điểm quản lý theo tình huống hết sức linh hoạt về nguyên tắc, nó luôn tuân thủ tính hiệu quả, phù hợp với các nguyên lý và công cụ quản lý với từng tình huống, sau khi đã tìm hiểu, điều tra kỹ lưỡng.

24

- Trường phái quản trị Nhật bản:

+ Lý thuyết Z: Lý thuyết này được giáo sư Wiliam Ouchi, một người Mỹ gốc Nhật ở Trường đại học California đưa ra thông qua việc xuất bản cuốn sách thuyết Z - một cuốn sách được xếp vào loại bán chạy nhất tại Mỹ

Ouchi đặt vấn đề người Mỹ có thể học tập người Nhật về quản lý, trước hết là chế độ làm việc suốt đời cho một công ty lớn. Bởi vì Ouchi cho rằng, xí nghiệp Nhật bản thường gắn bó với chế độ làm việc suốt đời, xí nghiệp sẽ làm việc hết sức mình để phát triển lòng trung thành của nhân viên bằng cách đối xử với họ một cách công bằng và nhân đạo. Thêm nữa là chính sách nhân sự đề bạt chậm, song lại chú trọng phát triển các mối quan hệ không chính thức “thân tình, tế nhị và phức tạp của đồng nghiệp”. Một ưu điểm nữa trong thực tiễn quản lý Nhật bản là không chuyên môn hoá lao động quá mức; trái lại họ đã luân chuyển nhân viên qua những bộ phận khác nhau của công việc để họ có thể phát triển toàn diện

Ouchi còn đi vào tìm hiểu cơ chế quản lý của một xí nghiệp Nhật bản. Ông đặc biệt chú ý đến tinh thần và giá trị tập thể của phương pháp quản lý Nhật bản. Nó hoàn toàn xa lạ với các giá trị của chủ nghĩa cá nhân ở phương tây. So sánh doanh nghiệp Nhật bản với doanh nghiệp phương tây, ông tìm ra sự tương phản giữa chúng như sau:

Doanh nghiệp Nhật bản Doanh nghiệp phương tây

- Việc làm suốt đời - Việc làm giới hạn trong thời gian

- Đánh giá đề bạt chậm - Đánh giá và đề bạt nhanh

- Nghề nghiệp không chuyên môn hoá - Nghề nghiệp chuyên môn hoá

- Cơ chế kiểm tra mặc nhiên - Cơ chế kiểm tra hiển nhiên

- Quyết định tập thể - Quyết định cá nhân

- Trách nhiệm tập thể - Trách nhiệm cá nhân

- Quyền lợi toàn cục - Quyền lợi có giới hạn

25

Thuyết Kaizen: Thuyết này được đưa ra bởi Masaakiimai. Kaizen theo tiếng Nhật có nghĩa là cải tiến, cải thiện không ngừng liên quan đến mọi người, nhà quản lý lẫn công nhân. ở Nhật thay đổi là một lối sống. Mọi người coi thay đổi như là lẽ thường tình. “sự thần kỳ về kinh tế” hậu chiến của Nhật là do các giới kinh doanh đã nghiên cứu những nhân tố như cuộc vận động về năng suất, kiểm tra chất lượng toàn diện (TQC), hoạt động của các nhóm nhỏ, tự động hoá, người máy công nghiệp và quan hệ lao động. Thông diệp của Kaizen là không ngày nào không có một cải tiến nào ở một bộ phận nào đó trong công ty. Niềm tin phải cải tiến không ngừng đã thấm sâu vào trong óc của người Nhật, ngạn ngữ cổ của Nhật đã có câu: “nếu một người vắng mặt ba ngày, bạn anh ta phải nhìn kỹ xem anh ta có những thay đổi gì”. Kaizen chú trọng đến quá trình cải tiến liên tục, tập trung vào ba yếu tố chủ yếu của nhân sự là: giới quản lý, tập thể và cá nhân. Đặc điểm của Kaizen trong quản lý bao hàm khái

niệm sản xuất vừa đúng lúc và công ty luôn ghi nhận các ý kiến đóng góp của công nhân, khuyến khích công nhân khám phá và báo cáo mọi vấn đề phát sinh trong quá trình làm việc để giới quản lý kịp thời giải quyết. Giới quản lý ở Nhật luôn cố gắng làm cho công nhân tham gia vào Kaizen thông qua việc đóng góp ý kiến của họ. Do đó, hệ thống kiến nghị là một phần không thể tách rời của cơ chế quản lý và số ý kiến đóng góp của công nhân được coi như một tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá công việc của người giám sát công nhân làm việc. Về phần mình, người quản lý giúp đỡ các giám sát viên để họ có thể khuyến khích công nhân đóng góp nhiều ý kiến và họ bao giờ cũng nghiêm chỉnh xem xét các ý kiến đóng góp. Thường thì những ý kiến đóng góp được dán ở trên tường nơi làm việc để khuyến khích tinh thần thi đua trong công nhân, hơn nữa vì những tiêu chuẩn mới được ấn định lại chính là theo ý kiến của công nhân nên người công nhân cảm thấy hãnh diện và sẵn sàng làm tốt công việc theo tiêu chuẩn mới đó. Kaizen hướng về những nỗ lực của con người. Thật vậy, khi quan sát người công nhân làm việc, giới quản lý ở Nhật chú trọng tới cách người đó làm việc.

2.4. Các học thuyết về động lực cố gắng của con người

Cơ thể và cách suy nghĩ của con người rất phức tạp nhưng cũng rất thú vị và tất cả những khía cạnh khó hiểu này sẽ xuất hiện và có tác động tại môi trường làm việc. Một ví dụ điển hình là trường hợp một kỹ sư nhiều kinh nghiệm nhưng sắp đến tuổi nghỉ hưu tại một công trường xây dựng. Ông đã làm việc trên 25 năm cho công ty tại nhiều công trường khác nhau trong cả nước. Tuy nhiên do sắp nghỉ hưu nên ông ta cho rằng đã đến lúc nghỉ ngơi và tỏ ra rất chậm chạp khi thực hiện các công việc được giao và không hưởng ứng nhiều các yêu cầu cố gắng tăng NĂNG SUẤT lao động. Ban giám đốc công ty nhận ra điều này và gửi tín hiệu đến cho ông ta rằng toàn thể công ty đang rất cần tới kinh nghiệm, kỹ năng và trình độ chuyên môn của ông ta.

2.4.1. Sự quan trọng của động lực cố gắng

26

Phần này bao gồm các nội dung về việc những nhà quản lý trong tổ chức công ty có thể thực thi những biện pháp hay quy định nào để có thể khuyến khích và yêu cầu nhân viên làm việc cố gắng hơn nữa nhằm hoàn thành công việc được giao. Có thể coi động lực cố gắng là nền tảng quan trọng giúp đạt được mục tiêu đó. Khái niệm này được sử dụng trong các học thuyết quản lý để mô tả những áp lực bản thân đối với từng cá nhân, có tính đến vị trí làm việc, hướng phát triển và tính kiên trì theo đuổi các cố gắng tập trung hoàn toàn cho công việc. Có thể nhận biết một cách đơn giản là những người có động lực cố gắng cao sẽ làm việc tích cực và tập trung hơn rất nhiều so với những người không có động lực cố gắng. Những nhà quản lý muốn nâng cao động lực cố gắng cho các nhân viên trong tổ chức công ty thường tạo ra môi trường làm việc thoải mái và phù hợp để mọi người cảm thấy có động lực làm việc tích cực và hiệu quả. Tất nhiên một lực lượng lao động có động lực cố gắng cao luôn là điều cần thiết cho mọi tổ chức công ty trong việc đạt được kết quả thực hiện công việc bền vững theo yêu cầu đặt ra.

Theo cách chính thức thì một khoản đãi ngộ là một kết quả làm việc có giá trị dương của nhân viên trong tổ chức công ty. Một tập hợp công việc có động lực cố gắng sẽ bao gồm nhiều phần thưởng và chính sách đãi ngộ với người lao động có kết quả công việc tốt, giúp toàn bộ tổ chức công ty đạt được mục tiêu chung. Những đãi ngộ bên ngoài sẽ được quản lý bởi các nhân tố bên ngoài bản thân người lao động. Kết quả làm việc của một nhân viên sẽ được đánh giá bởi người khác, thường là người giám sát trực tiếp hoặc cấp trên của họ. Những đãi ngộ thông thường tại nơi làm việc bao gồm những khoản tiền thưởng, thăng chức, thêm ngày nghỉ, các nhiệm vụ đặc biệt, trang thiết bị lao động phù hợp, bằng khen, động viên miệng, và những thứ khác. Trong mọi trường hợp thì những kích thích tới động lực cố gắng do đãi ngộ bên ngoài luôn có xuất phát từ các yếu tố bên ngoài người lao động. Những đãi ngộ bên trong là những vấn đề được tự kiểm soát bên trong bởi các cá nhân. Chúng xuất hiện một cách tự nhiên khi người lao động thực hiện công việc và được tạo ra có liên quan trực tiếp tới công việc. Nguồn gốc chủ yếu tạo nên những đãi ngộ bên trong là sự tự cảm nhận bản thân về khả năng làm việc, phát triển kỹ năng và tích lũy kinh nghiệm tại nơi làm việc. Trái ngược với những đãi ngộ bên ngoài, những kích thích tới động lực cố gắng do những đãi ngộ bên trong là nội bộ cá nhân người lao động và không phụ thuộc vào tác động của những người khác. Đây chính là thế mạnh và là sức mạnh của “nội lực của các cố gắng bản thân”. Ví dụ như những kỹ sư xây dựng trên công trường xây dựng thường nói: tôi cố gắng làm việc đơn giản vì tôi yêu nghề xây dựng và muốn gắn bó với các công trình xây dựng.

2.4.2. Thuyết cấp bậc của các nhu cầu

Trong số những nghiên cứu sâu sắc nhất về các tác động liên quan đến con người thì nghiên cứu của Abraham Maslow về “những nhu cầu” của con người là một sơ sở quan trọng. Nhu cầu là một sự thiếu thốn về sinh lý hay tâm lý mà một người cảm nhận thấy có các áp lực hay ép buộc phải đạt được. Đây là một khái niệm quan trọng cho các nhà quản lý vì các nhu cầu thực sự gây nên các áp lực hay căng thẳng có ảnh hưởng tới cách ứng xử và thực hiện công việc của người lao động. Abraham Maslow xác định rõ có năm mức độ về các nhu cầu của con người, như chỉ ra trong hình 2., đó là: nhu cầu vật chất, nhu cầu được an toàn, nhu cầu xã hội, nhu cầu được kính trọng và nhu cầu được tự thực hiện ý muốn. Thuyết của ông dựa vào hai nguyên tắc cơ bản. Thứ nhất là nguyên tắc thiếu hụt – một nhu cầu được thoả mãn không phải là động cơ thúc đẩy hay cách ứng xử thông thường. Mọi người cảm thấy bị thúc ép hay áp lực để thoả mãn các nhu cầu như một động lực bản thân để tìm kiếm một điều gì đó còn bị thiếu. Thứ hai là nguyên tắc tiến triển không ngừng – năm nhu cầu này tồn tại theo một cấp bậc cao thấp rõ ràng. Một nhu cầu ở bất kỳ cấp bậc nào chỉ có thể được tính đến khi các nhu cầu ở cấp bậc thấp ngay phía dưới đã được thoả mãn.

27

Abraham Maslow cho rằng con người cố gắng thoả mãn năm nhu cầu này theo thứ tự cấp bậc của chúng. Họ sẽ tiến hành từng bước một từ các nhu cầu ở cấp bậc thấp nhất tới các nhu cầu ở cấp bậc cao nhất. Theo quá trình thoả mãn này thì một nhu cầu chưa được thoả mãn sẽ chi phối mạnh mẽ sự chú ý và cách ứng xử của con

người cho đến khi họ đạt được sự thoả mãn về nhu cầu đó. Tiếp theo thì cấp bậc cao kế tiếp phía trên về nhu cầu sẽ bắt đầu có ảnh hưởng và tạo nên những tập trung của con người. Tại cấp bậc cao nhất là nhu cầu được tự thực hiện theo ý muốn thì nguyên tắc thiếu hụt và nguyên tắc tiến triển không ngừng sẽ không còn tác dụng nữa. Khi mà các nhu cầu này càng được thoả mãn thì con người càng phát triển mạnh mẽ.

Nhu cầu được tự thực hiện ý muốn Mức độ nhu cầu cao nhất; nhu cầu được trọng dụng, được tự phát triển và sử dụng khả năng vào các việc tự chọn

Nhu cầu được kính trọng Nhu cầu được được kính trọng từ mọi người; nhu cầu được đề cao, có uy tín, được công nhận và tôn trọng

Nhu cầu xã hội Nhu cầu được yêu thương, được yêu thích, hoà đồng trong xã hội và có mối quan hệ tốt với mọi người

Nhu cầu được an toàn Nhu cầu đảm bảo an toàn, được bảo vệ và ổn định cuộc sống trong xã hội

Nhu cầu vật chất Cơ sở quan trọng nhất trong tất cả các nhu cầu của con người; nhu cầu duy trì sự sống, có thức ăn, nước uống và thể trạng tốt

Hình 2.1 Cấp bậc của Maslow về những nhu cầu con người

Phù hợp với những suy luận liên quan tới con người, thuyết Maslow gián tiếp cho rằng nếu các nhà quản lý có thể giúp người lao động thoả mãn được những nhu cầu quan trọng của họ tại nơi làm việc thì sẽ giúp tạo nên năng suất lao động cao nhất. Tuy nhiên, nhiều học giả trên thế giới đều cho rằng vấn đề này phức tạp hơn nhiều so với những đề xuất trong thuyết Maslow. Dẫu vậy, các ý tưởng của Maslow vẫn còn nhiều ý nghĩa và có tác dụng trong khoa học quản lý và thực tiễn ngày nay. Ví dụ như việc quản lý và làm việc với những người tình nguyện không đòi hỏi bất kỳ một khoản lương thưởng nào cả. Khi đó điều quan trọng cần hiểu về các tình nguyện viên là phải làm cho họ cảm thấy đã thoả mãn được các nhu cầu hiện tại, nếu không những người này sẽ đến những nơi làm việc tình nguyện khác để đạt được những điều họ muốn.

28

Có hai nguyên tắc trọng tâm trong thuyết nhu cầu Maslow về việc tác động từ các nhu cầu cá nhân tới ứng xử của con người. Thứ nhất là nguyên tắc thiếu hụt – một nhu cầu được thoả mãn không phải là động cơ thúc đẩy hay cách ứng xử thông thường. Mọi người cảm thấy bị thúc ép hay áp lực để thoả mãn các nhu cầu như một

động lực bản thân để tìm kiếm một điều gì đó còn bị thiếu. Thứ hai là nguyên tắc tiến triển không ngừng – năm nhu cầu này tồn tại theo một cấp bậc cao thấp rõ ràng. Một nhu cầu ở bất kỳ cấp bậc nào chỉ có thể được tính đến khi các nhu cầu ở cấp bậc thấp ngay phía dưới đã được thoả mãn. Tại cấp bậc cao nhất là nhu cầu được tự thực hiện theo ý muốn thì khi những nhu cầu này càng được thoả mãn nhiều thì con người càng phát triển và lớn mạnh hơn, đặc biệt là về những mặt trí tuệ, tâm lý và ý tưởng. Cũng theo Abraham Maslow thì một người sẽ luôn có được những động lực cố gắng trong suốt quá trình làm việc để hướng tới cấp bậc nhu cầu cao nhất khi mà những nhu cầu mức dưới đã dần được thoả mãn.

Nhu cầu mức độ cao bao gồm những gì?

- Công việc nhiều sáng tạo và thử thách - Tham gia vào quá trình ra quyết định - Công việc linh hoạt và tự chủ

Những nhu cầu được tự thực hiện ý muốn

Những nhu cầu được kính trọng

- Chịu trách nhiệm cho một công việc quan trọng - Đề bạt lên vị trí làm việc cao hơn - Được cấp trên khen ngợi và đánh giá cao

Nhu cầu mức độ thấp bao gồm những gì?

Những nhu cầu xã hội

- Có những đồng nghiệp thân thiện - Có mối quan hệ qua lại với khách hàng - Có cấp trên và người giám sát dễ chịu

Những nhu cầu được an toàn

- Điều kiện làm việc an toàn - Công việc ổn định - Mức lương thưởng theo quy định chung

Những nhu cầu vật chất

- Có thời gian nghỉ ngơi và thư giãn hợp lý - Cảm thấy thoải mái về thể chất tại nơi làm - Thời gian làm việc vừa phải

Hình 2.2 Những cơ hội làm thoả mãn các mức độ nhu cầu con người của Maslow

29

Dẫu cho nghiên cứu của Abraham Maslow không xác nhận và chỉ ra một cách rõ ràng về nguyên tắc thiếu hụt và nguyên tắc tiến triển không ngừng chuẩn mực, các ý tưởng của ông rất có ích giúp chúng ta hiểu được những nhu cầu của nhân viên trong tổ chức công ty và điều gì cần làm để giúp họ thoả mãn với môi trường làm việc hiện tại. Những ý tưởng trong thuyết nhu cầu con người của Maslow giúp cho các nhà quản lý nhận biết rõ ràng về những nhu cầu không đạt được có thể sẽ có ảnh hưởng tiêu cực tới cách ứng xử và thực hiện công việc của người lao động. Vì vậy bằng việc tạo điều kiện giúp nhân viên thoả mãn được các nhu cầu hiện tại sẽ tạo ra các tác động tích cực đến động lực cố gắng tiếp theo của họ. Hình 2.2 đưa ra những ví dụ về việc những nhà quản lý nên sử dụng các ý tưởng của Abraham Maslow trong việc thoả mãn tốt hơn nhu cầu của cấp dưới. Cũng cần chú ý rằng nhu cầu mức độ cao được tự thực hiện ý muốn được coi hoàn toàn là những đền đáp bên trong, nội tâm.

Những nhu cầu được kính trọng sẽ bao gồm cả bên trong và bên ngoài. Những nhu cầu mức độ thấp đơn thuần chỉ là sự đền đáp bên ngoài, ngoại tâm.

2.4.3. Thuyết ERG

Một trong những cố gắng có triển vọng nhất trong việc áp dụng các ý tưởng của Abraham Maslow là thuyết Erg, được đề xuất bởi Clayton Alderfer. Đề xuất đầu tiên của học thuyết này thay đổi 5 mức độ nhu cầu Maslow thành 3 mức độ. Những nhu cầu về tồn tại là những mong muốn có liên quan tới sinh lý con người và thể trạng vật chất. Những nhu cầu về quan hệ qua lại là những mong muốn được thoả mãn các mối quan hệ cá nhân và tập thể. Những nhu cầu về phát triển hơn nữa là những mong muốn được liên tục phát triển và lớn mạnh về mặt tâm lý. Ngoài ra thì thuyết ERG cũng có những điểm khác biệt so với học thuyết của Maslow. Clayton Alderfer không đưa ra giả định là các nhu cầu cấp độ thấp phải được thoả mãn trước khi các nhu cầu ở cấp độ cao được quan tâm tới. Theo quan điểm của thuyết ERG thì hoặc bất kỳ hoặc tất cả ba kiểu nhu cầu này đều có thể sẽ có ảnh hưởng tới tính cách và ứng xử của cá nhân tại cùng một thời điểm. Clayton Alderfer cũng không giả định rằng khi những nhu cầu được thoả mãn sẽ có tác động và làm mất đi động lực cố gắng của người lao động. Thay vào đó thì thuyết ERG bao gồm một nguyên tắc suy giảm thất vọng, theo đó một nhu cầu cấp độ thấp đã được thoả mãn hoàn toàn có thể tạo ra các ảnh hưởng và tác động tới tính cách và ứng xử của người lao động khi mà một nhu cầu cấp độ cao hơn không thể được thoả mãn. Phương pháp của Clayton Alderfer cung cấp thêm một cách phân tích bổ sung giúp hiểu hơn các nhu cầu cá nhân và ảnh hưởng của chúng tới người lao động tại nơi làm việc.

2.4.4. Thuyết hai nhân tố

Thuyết hai nhân tố của Frederick Herzberg đưa ra một cách nhìn nhận khác giúp hiểu rõ những vấn đề về động lực cố gắng của người lao động trong môi trường công việc. Học thuyết này được phát triển lên từ một mô hình tổng hợp qua các phản hồi của gần 4 000 người trả lời về công việc của họ. Khi được hỏi về điều gì “có tác động kích thích họ”, mọi người có xu hướng chỉ ra những thứ có liên quan tới bản chất công việc. Frederick Herzberg gọi đó là những nhân tố thoả mãn. Khi được hỏi về điều gì “không có tác động kích thích họ”, mọi người có xu hướng chỉ ra những thứ có liên quan nhiều tới hệ thống thực hiện công việc. Frederick Herzberg gọi đó là những nhân tố môi trường.

Bảng 2.1 Thuyết hai nhân tố của Frederick Herzberg

Không thoả mãn công việc Thoả mãn công việc

Bị ảnh hưởng bởi bối cảnh công việc, hay còn gọi là những nhân tố môi trường

Bị ảnh hưởng bởi nội dung công việc, hay còn gọi là những nhân tố động lực cố gắng

30

- Điều kiện làm việc - Ý thức về kết quả đạt được

- Những mối quan hệ cá nhân - Nhận ra các ghi nhận sự đóng góp

- Chính sách tổ chức và hoạt động - Ý thức về trách nhiệm

- Chất lượng giám sát công việc - Cơ hội thăng tiến

- Lương và tiền công cơ bản - Ý thức về sự phát triển của cá nhân

Nguyên tắc: nội dung công việc tốt làm tăng mức độ thoả mãn công việc.

Nguyên tắc: bối cảnh công việc không tốt làm tăng mức độ không thoả mãn công việc.

Như thể hiện trong bảng 2.1, thuyết hai nhân tố kết hợp các nhân tố môi trường, hoặc các nguồn gây ra sự không thoả mãn công việc, với các khía cạnh trong bối cảnh công việc. Khi đó, “những yếu tố không thoả mãn” được coi là một phần trong hệ thống thực hiện công việc chứ không thuộc vào bản chất tự nhiên của công việc. Những nhân tố môi trường bao gồm nhiều thứ như điều kiện làm việc, mối quan hệ con người, chính sách tổ chức và quản lý của tổ chức công ty, chất lượng giám sát kỹ thuật, và mức lương cơ bản. Điều quan trọng cần ghi nhớ rằng thuyết hai nhân tố của Frederick Herzberg đã biện luận: bằng việc củng cố và đề cao những nhân tố môi trường, như việc đặt thêm hệ thống loa âm nhạc hay áp đặt chính sách không hút thuốc, có thể giúp người lao động giảm được những điều chưa hài lòng về những vấn đề chưa tốt tại nơi làm việc. Tuy nhiên những tác nhân này lại không góp phần làm tăng mức độ thoả mãn cá nhân được. Điều này yêu cầu cần có những chú trọng vào tập hợp các nhân tố khác và những khích lệ trong quản lý.

Để tăng cường động lực cố gắng hơn nữa, Frederick Herzberg cho rằng các nhà quản lý cần phải có những chú trọng phù hợp tới nhân tố sự thoả mãn. Như là một phần của nội dung công việc thì nhân tố sự thoả mãn có liên quan tới những điều mà người lao động thực sự làm tại nơi làm việc. Bằng việc củng cố và nhấn mạnh những nhiệm vụ công việc mà các cá nhân bắt buộc phải thực hiện, Frederick Herzberg tin rằng có thể làm tăng thêm mức độ thoả mãn và quá trình thực hiện công việc. Những nhân tố sự thoả mãn bao gồm những mặt khác nhau như ý thức về kết quả đạt được, nhận ra các ghi nhận sự đóng góp, ý thức về trách nhiệm, cơ hội thăng tiến, và ý thức về sự phát triển của cá nhân.

31

Các học giả trên thế giới bình luận rằng học thuyết đưa ra bởi Frederick Herzberg là một phương pháp phóng đại và rất khó để áp dụng nguyên bản vào thực tế quản lý nguồn nhân lực. Tuy nhiên, những đề xuất trong học thuyết của ông đối với các nhà quản lý vẫn luôn có ích theo thời gian: (1) thường xuyên phải chỉnh sửa bối cảnh công việc không phù hợp để loại trừ các nguồn gốc thực sự hay nguồn tiềm năng về sự không thoả mãn công việc, (2) đảm bảo và duy trì các nhân tố sự thoả mãn trong nội dung công việc là làm tăng tối đa mức độ thoả mãn công việc. Thuyết hai nhân tố cũng nhắc nhở các nhà quản lý rằng đừng có quá hy vọng vào cách làm tăng cường động lực cố gắng qua những khích lệ kiểu như cung cấp thiết bị làm việc đắt tiền, bố trí các phòng nghỉ giữa ca tiện nghi, và thậm chí tăng mức lương cơ bản lên cao.

Thay vào đó, cần tập trung vào chính bản chất công việc và hướng sự chú ý trực tiếp tới những điều như trách nhiệm và cơ hội cho phát triển và thăng tiến cá nhân. Những xu hướng này là phù hợp và nhất quán với những yêu cầu đối với môi trường làm việc mới, tiên tiến.

2.4.5. Thuyết nhu cầu từ thực nghiệm

Vào cuối những năm 1940, David McClelland và các đồng nghiệp đã bắt đầu thực hiện thí nghiệm tổng quan theo chủ đề như một cách để xem xét những nhu cầu của con người. Thí nghiệm này tiến hành bằng cách yêu cầu các cá nhân ngắm kỹ các bức tranh và ghi lại các câu chuyện họ cảm nhận từ chúng. Kết quả thu được được phân tích theo các khía cạnh khác nhau để chỉ ra những nhu cầu của từng cá nhân. Từ nghiên cứu này, David McClelland xác định được ba loại nhu cầu làm cơ sở cho phương pháp của ông về động lực cố gắng. Nhu cầu về thành quả đạt được là mong muốn làm một số việc tốt hơn hoặc hiệu quả hơn, giải quyết được khó khăn, trục trặc hoặc kiểm soát được các vấn đề phức tạp nhất. Nhu cầu quyền lực là mong muốn kiểm soát người khác, gây ảnh hưởng lên tính cách và ứng xử của họ, và có trách nhiệm xắp xếp cho họ. Nhu cầu về quan hệ là mong muốn thiết lập và duy trì những mối quan hệ thân thiện và gần gũi với những người khác.

Theo David McClelland thì con người hình thành hoặc phát triển những nhu cầu theo thời gian qua những điều thu được trong quá trình sống và làm việc. Thêm nữa, ông đã kết hợp tất cả các nhu cầu với một tập hợp nhất định các sở thích. Các nhà quản lý được khuyến khích để xác nhận ra những điểm mạnh của mỗi nhu cầu đối với chính bản thân họ và những người khác. Khi đó, các cố gắng có thể được đặt ra để tạo nên những môi trường làm việc đáp ứng được yêu cầu của người lao động. Ví dụ như đối với những cá nhân có mức độ nhu cầu cao về thành quả đạt được sẽ có xu hướng tập trung khả năng cao nhất vào công việc, chấp nhận mức rủi ro vừa phải trong các tình huống cạnh tranh và thường làm việc một mình. Khi đó, những sở thích công việc của những người loại này là: (1) chịu trách nhiệm cá nhân với kết quả làm ra, (2) có thể đạt được kết quả nhưng không thích các công việc nhiều thách thức, và (3) tích cực phản hồi trong quá trình thực hiện công việc.

32

Dẫu vậy, nghiên cứu của David McClelland đã kết luận rằng những thành công của mức quản lý cấp cao không được dựa trên mối liên quan các thành quả đạt được của cá nhân. Điều này yêu cầu sự hấp dẫn rộng hơn có liên quan tới cả quyền lực và quan hệ. Những cá nhân có mức độ nhu cầu cao về quyền lực thường nỗ lực, cố gắng để ứng xử theo các cách có ảnh hưởng rõ ràng tới người khác và những sự kiện liên quan. Họ thích trạng thái kiểm soát tình thế người khác và sự công nhận trách nhiệm của họ. Dạng người này thường thích những công việc liên quan tới việc kiểm soát người khác, có tác động đến người khác và những sự kiện liên quan, muốn có sự chú ý và công nhận của công chúng cũng như những người xung quanh. Điều quan trọng là việc David McClelland phân biệt rõ ràng giữa hai kiểu nhu cầu quyền lực. Nhu cầu quyền lực cá nhân là những thành công có liên quan tới những kỹ năng cho mục đích đơn thuần về sự hài lòng bản thân. Tuy nhiên kiểu nhu cầu này được coi là sẽ không

thành công trong công việc quản lý. Trái ngược lại, nhu cầu quyền lực xã hội là một xu hướng tích cực. Nó bao gồm việc sử dụng quyền lực trong các cách thực thi trách nhiệm xã hội, hướng trực tiếp tới những mục tiêu chung của cả nhóm hay của cả tổ chức công ty hơn là chỉ cho các mục tiêu cá nhân đơn thuần. Kiểu nhu cầu này rất cần thiết cho các nhà lãnh đạo và quản lý.

Những người có mức độ nhu cầu cao về quan hệ thường tìm kiếm thêm tình bạn, sự chấp nhận của xã hội và thoả mãn các mối quan hệ qua lại. Họ cảm thấy thực sự thích thú các vị trí công việc có liên quan tới những mối liên hệ qua lại, làm các công việc để có thêm tình bạn mới và tìm kiếm những sự chấp nhận của xã hội. David McClelland tin rằng cá nhân chỉ có duy nhất nhu cầu về quan hệ sẽ không thể là những nhà quản lý tốt được do những mong muốn tìm kiếm sự chấp nhận của xã hội và tìm kiếm thêm tình bạn có thể làm phức tạp thêm quá trình đưa ra các quyết định quản lý. Có những lúc các nhà lãnh đạo vào quản lý phải đưa ra quyết định trái ngược với mong muốn và triết lý sống của họ. Điều này có nghĩa là nếu để cho các suy nghĩ cá nhân ảnh hưởng thì tính hiệu quả trong các quyết định quản lý có thể bị ảnh hưởng tiêu cực. Do vậy theo quan điểm của David McClelland là muốn thành công cần có các nhu cầu quyền lực xã hội lớn hơn và áp đảo các nhu cầu về quan hệ.

3. CÁC NGUYÊN TẮC CHUNG TRONG QUẢN LÝ

3.1. Khái niệm nguyên tắc quản lý

Nguyên tắc là những điều cơ bản nhất thiết phải được tuân theo trong một loạt các việc làm. Hoạt động quản lý là hoạt động có mục đích vì vậy phải xác định nguyên tắc đó trong quá trình hoạt động, giúp cho chủ thể quản lý thực hiện có hiệu qủa công việc của mình để đạt được mục tiêu quản lý. Nguyên tắc quản lý được hiểu là những tư tưởng chủ đạo nhằm định hướng cho các chủ thể quản lý khi thực hiện nhiệm vụ quản lý. Tính chất và đặc điểm của nguyên tắc quản lý là:

+ Nguyên tắc là do con người đặt ra nhưng nó xuất phát từ yêu cầu khách quan,

mang tính khách quan

+ Mang tính bắt buộc chủ thể quản lý phải tuân thủ trong quá trình thực hiện hành

động quản lý

+ Nguyên tắc quản lý liên tục được phát triển và hoàn thiện vì xã hội luôn luôn vận

động biến đổi.

+ Đối tượng của quản lý rất da dạng và phong phú, gắn liền với nhiều lĩnh vực cụ thể khác nhau nên bên cạnh nguyên tắ quản lý chung cơ bản có thể vận dụng cho mọi hoạt động quản lý thì mỗi lĩnh vực cụ thể sẽ gắn với các nguyên tắc cụ thể đi kèm.

3.2. Các quy luật

3.2.1. Khái niệm, đặc điểm của các quy luật

33

Quy luật là mối liên hệ bản chất, tất nhiên, phổ biến của các sự vật và hiện tượng trong những điều kiện nhất định. Những sự vật, hiện tượng tồn tại trong xã hội luôn biến đổi theo chu kỳ, lặp đi lặp lại, có tinh quy luật. Chẳng hạn, trong kinh tế thị

trường tất yếu phải có các quy luật cạnh tranh, cung-cầu giá trị v.v… đang tồn tại và hoạt động. Mặc dù, quy luật được con người đặt tên, nhưng không do con người tạo ra, nó có đặc điểm khách quan của nó:

- Con người không thể tạo ra quy luật nếu điều kiện hình thành quy luật chưa có, ngược lại khi điều kiện xuất hiện của quy luật vẫn còn thì con người không thể xóa bỏ quy luật.

- Các quy luật tồn tại và hoạt động không lệ thuộc vào việc con người có nhận

biết được nó hay không, có ưa thích hay là ghét bỏ nó.

- Các quy luật tồn tại đan xen vào nhau tạo thành một hệ thống thống nhất.

- Các quy luật có nhiều loại: Kinh tế, công nghệ, xã hội, tâm lý v.v… Các quy

luật này luôn chi phối và chế ngự lẫn nhau.

3.2.2. Cơ chế sử dụng các quy luật

- Con người muốn vận dụng có hiệu quả phải nhận biết được quy luật, quá trình nhận biết quy luật gồm hai giai đoạn: nhận biết qua các hiện tượng thực tiễn và qua phân tích bằng khoa học và lý luận. Đây là một quá trình tùy thuộc vào trình độ, sự mẫn cảm, nhạy bén của con người.

- Bên cạnh đó, các tổ chức, các doanh nghiệp cần tổ chức các điều kiện chủ quan của hệ thống để cho hệ thống xuất hiện các điều kiện khách quan mà nhờ đó quy luật phát sinh tác dụng.

3.2.3. Những quy luật kinh tế cần chú ý trong quản trị

* Quy luật cung - cầu giá cả

34

Quy luật cung – cầu là quy luật kinh tế cơ bản của nền kinh tế thị trường. Quy luật này đòi hỏi các nhà quản trị phải năm được điểm cân bằng kinh tế để có đối sách kinh doanh thich hợp. Trong Hình 3.1, chỉ rõ lúc đầu sản phẩm mới được đưa vào thị trường với đơn giá g1 và số lượng sản phẩm C1 (điểm B) thì nhu cầu tiềm năng (vì sản phẩm mới giá không đắt) là mức N1 (điểm A), do N1 > C1 (cầu > cung) phản ứng về phía người bán trên thị trường là nâng giá từ g1 lên g2 (g2 > g1 điểm C), do có lãi lớn, sản xuất được phát triển, mức sản xuất từ C1 lên C2 (điểm D), do giá đắt mà số lượng bán lại nhiều hơn nên người mua chững lại, người bán không tiêu thụ được sản phẩm, phải hạ giá xuống mức g3 (g3 < g2 – điểm E) và thu hẹp mức sản xuất từ C2 về C3 (C3 < C2 – điểm F) nhờ các giải pháp này, số sản phẩm của phía sản xuất trong chu kỳ thứ 2 được bán hết. Quá trình chi phối giữa cung – cầu – giá cứ tiếp tục mãi và đến cuối cùng kết thúc ở điểm I (điểm cân bằng kinh tế), là điểm ở đó thị trường có mức cung bằng mức cầu và giá cả hợp lý cho cả hai bên cung cầu về sản phẩm.

Hình 3.1 Quy luật Cung – Cầu – Giá cả

* Quy luật cạnh tranh

Quy luật cạnh tranh là quy luật phát sinh từ quy luật cung cầu. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh giữa các nhà sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ trên thị trường là tất yếu. Trên thế giới mỗi ngày có hàng trăm nghìn doanh nghiệp ra đời và cũng với một số lượng doanh nghiệp như vậy thất thế, phá sản. Sự quyết liệt của thương trường thực sự là một thách thức lớn đối với các nhà quản trị doanh nghiệp. Ai cũng có thể hiểu rằng “Cùng chung ngành nghề chứ không cùng chung lợi nhuận”, do đó cạnh tranh là sự tất yếu của thương trường. Cạnh tranh là sự so sánh, đối chứng sức mạnh cơ bản giữa các doanh nghiệp, những đe dọa thách thức hoặc cơ hội của doanh nghiệp, chủ yếu có được từ quá trình đối kháng của sức mạnh này. Cạnh tranh trên nhiều phương diện: Thương hiệu – Chất lương – Mẫu mã – Giá cả… Chính vì vậy, các nhà quản trị cần phải luôn vươn lên giành giật lấy toàn bộ hoặc một mảng nào đó của thị trường để tồn tại, tăng trưởng và phát triển. Quá trình cạnh tranh thường được sử dụng tổng hợp bằng nhiều phương pháp và thủ đoạn:

- Bằng công nghệ, để tạo ra sản phẩm tốt với giá rẻ nhất (biểu hiện của quy luật

giá trị).

- Bằng quan hệ hành chính, quân sự… thông qua các ưu đãi của chính quyền hành

chính để lũng đoạn thị trường.

- Bằng yếu tố bất ngờ (tung ra thị trường các sản phẩm mới, giảm giá bất ngờ để

chiếm lĩnh thị trường v.v…).

- Bằng các thủ đoạn bất minh: Hàng giả, trốn thuế, đánh lừa khách hàng, bắt chẹt

khách hàng.

- Bằng các biện pháp liên kết kinh doanh, sáp nhập nhiều doanh nghiệp nhỏ thành

doanh nghiệp lớn, tạo ra thế lực mạnh để giành thăng lợi trong cạnh tranh.

35

- Bằng yếu tố vốn lớn và kéo dài thời gian để chấp nhận chịu lỗ mặt hàng này, giai đoạn này để kiếm lãi ở mặt hàng khác, giai đoạn khác khi đã tạo ra được lợi thế v.v…

* Quy luật tăng lợi nhuận

Quy luật tăng lợi nhuận bằng các giải pháp kỹ thuật, quản lý giá cả. Các giải pháp đổi mới kỹ thuật đã được sử dụng phổ cập trong cạnh tranh. Còn các giải pháp quản lý nhằm loại bỏ sơ hở, yếu kém trong quá trinh tổ chức và vận hành doanh nghiệp nhờ đó hạ giá thành sản phẩm tạo ra. Các giải pháp về giá là các giải pháp đa dạng hóa các biểu giá bán (bán lẻ, bán buôn, bán buôn trả tiền một lúc, bán buôn trả tiền sau v.v…) và tăng giá bán trong khuôn khổ được thị trường chấp nhận để thu được tổng mức lợi nhuận cho mỗi chu kỳ sản xuất (tháng, quý, năm) lớn nhất.

Hình 3.2 Quy luật tăng lợi nhuận

Hình 3.2 chỉ rõ: Khi bán sản phẩm với giá P thì số lượng sản phẩm bán được là Q (điểm A); khi tăng giá lên P + Δ P thì số lượng bán chỉ còn Q – Δ Q (điểm B với: Δ Q > 0). Tương quan % giữa mức tăng giá và mức giảm số lượng bán (cầu) được gọi là hệ số co giãn giữa cầu và giá (ee/g), được tính bằng công thức:

Công thức (1) chỉ rõ, khi tăng giá lên 1% ở mức giá P thì cầu giảm xuống ee/g%.

giải pháp tăng giá chỉ có ý nghĩa khi ee/g < 1.

* Quy luật kích thích sức mua giả tạo

Đó là các biện pháp tăng cường các hoạt động chiêu thị (Promotion) để nâng sức mua của khách hàng lên, hoặc sử dụng biện pháp ngừng bán hoặc bán hàng nhỏ giọt trong một thời gian ngắn để gây ấn tượng thiếu hàng làm cho khách hàng nảy sinh tư tưởng phải có dự trữ.

* Quy luật cuả người mua

36

Người mua chỉ mua một sản phẩm nào đó để sử dụng khi sản phẩm đó phù hợp nhu cầu tiêu dùng của họ. Chính vì vậy người mua đòi hỏi người bán phải quan tâm tới lợi ích của họ, phải có trách nhiệm với họ cả sau khi bán, tức là trong kinh doanh phải giữ được chữ tín và phải có hoạt động bảo hành sau khi bán. Mặt khác, người mua bao giờ cũng mong muốn mua được những sản phẩm có chất lượng với giá hợp

lý, tạo dáng đẹp, độ bền sử dụng cao và cách bán thuận tiện, tức là đã kinh doanh thì phải chấp nhận cạnh tranh.

* Quy luật về ý chí tiến thủ của nhà quản trị

Ý chí tiến thủ của nhà quản trị được biểu diễn theo thời gian thành hai loại: Nhóm bảo thủ (đường cong 1 – Hình 3.3) và nhóm hãnh tiến (đường cong 2 – Hình 3.3). Trong hình vẽ, các giai đoạn đầu của đường cong biểu thị ý chí tiến thủ của nhà quản trị (1) (thể hiện ở quyết tâm cao độ trong quá trình làm giàu và tạo lập uy tín tiếng tăm trên thương trường) là trùng nhau. Khi họ mới nhận trọng trách làm thủ trưởng, họ thường có quyết tâm cao độ, có cường độ làm việc lớn để mong đem lại sự thành đạt cho doanh nghiệp, để chứng minh vị trí họ đảm nhiệm là hợp lý, họ xứng đáng nhất trong việc ngồi ở vị trí đó (giai đoạn 1 của chu kỳ ý chí tiến thủ). Giai đoạn này thường kéo dài từ 06 tháng đến 01 năm. Giai đoạn 2 của chu kỳ ý chí tiến thủ, chủ doanh nghiệp vẫn giữ được mức quyết tâm, cộng thêm kinh nghiệm và thành quả đạt được ở giai đoạn 1, họ gặt hái các kết quả khả quan, giai đoạn này thường kéo dài từ 02 đến 05 năm.

Giai đoạn 3 của chu kỳ ý chí tiến thủ, doanh nghiệp gặt hái kết quả ở mức tối đa họ điều hành doanh nghiệp một cách vững chãi, đầy kinh nghiệm nhưng đã bắt đầu có xu hướng trì trệ, giai đoạn này thường kéo dài từ 03 đến 05 năm. Giai đoạn 4 của chu kỳ ý chí tiến thủ được tách thành hai nhánh (của hai đường cong). Nhánh (1) thỏa mãn một mặt do tích lũy cho bản thân đã khá, họ thường hoạt động theo kiểu quán tính, sự nghiệp bắt đầu đi xuống và tiếp tục kinh doanh nữa chỉ gánh lấy thất bại. Nhánh (2) dành cho những người có tham vọng lớn, họ bắt đầu chuyển sang một giai đoạn mới của sự nghiệp kinh doanh, hoặc bắt đầu tham dự các hoạt động nhằm giành giật vị thế xã hội. Nếu nhân cách kém cỏi, họ thường ưa thích cuộc sống hưởng lạc; thích được người khác tâng bốc, tôn thờ cuộc sống hưởng lạc vật chất và dám vi phạm các điều cấm kỵ của luật pháp, của thông lệ xã hội và thương trường.

Hình 3.3 Quy luật về ý chí tiến thủ của doanh nghiệp

3.3. Các nguyên tắc của quản trị

37

Việc tổ chức và quản trị tổ chức chỉ đạt hiệu quả cao khi nhận thức và vận dụng được các quy luật. Các quy luật này được thể hiện cụ thể trong quá trinh điều hành và quản trị bằng các nguyên tắc quản trị. Do đó có thể hiểu: các nguyên tắc quản lý là

các nguyên tắc chỉ đạo, những tiêu chuẩn hành vi mà chủ doanh nghiệp phải tuân theo trong quá trình kinh doanh.

a) Tuân thủ luật pháp và thông lệ kinh doanh

Luật pháp là những ràng buộc của Nhà nước và các cơ quan quản lý vĩ mô đối với doanh nghiệp. Sự ràng buộc đó yêu cầu các doanh nghiệp phải kinh doanh theo định hướng của sự phát triển xã hội. Các nhà quản trị cần phải hiểu biết và kinh doanh đúng luật pháp nếu không sẽ bị xử lý bằng các biện pháp hành chính và kinh tế. Ngoài việc tuân thủ những quy định của pháp luật về hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp còn phải kinh doanh cho phù hợp với thông lệ của xã hội.

b) Phải xuất phát từ khách hàng

Kinh doanh theo cơ chế thị trường ngày nay, kết quả cuối cùng tùy thuộc gần như quyết định vào người mua, mọi chủ doanh nghiệp phải tạo cho mình một khối lượng khách hàng cần có để tồn tại và phát triển. Nguyên tắc này là căn cứ để hình thành chiến lược tiếp thị của mỗi doanh nghiệp (bao gồm cả bốn nội dung: sản phẩm, giá cả, phân phối và chiêu thị và các nội dung quản lý của doanh nghiệp (vốn, lao động, công nghệ, thị trường, văn hóa doanh nghiệp. Nguyên tắc này cũng đòi hỏi điều kiện phải nắm vững vòng đời của mỗi sản phẩm để luôn luôn đổi mới chiến lược sản phẩm, thích nghi được với thị trường luôn biến động.

c) Hiệu quả và hiện thực

Nguyên tắc này đòi hỏi mọi hoạt động của doanh nghiệp phải đạt được các mục tiêu đề ra một cách thiết thực và an toàn, thể hiện ở các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế cao:

e = E =

Trong đó:

- e: Hiệu quả so sánh (tương đối); E: Hiệu quả tuyệt đối (chung);

- K: Là kết quả lợi nhuận bình quân thu được mỗi năm;

- C: Là tổng chi phí bỏ ra; Ci: là chi phí bổ sung năm thứ i;

- Co: Là chi phí bỏ ra ban đầu cho xây dựng doanh nghiệp;

- Ki: Kết quả thu được năm i; n: Số năm khai thác sử dụng doanh nghiệp;

Các đơn vị tiền tệ được tính quy đổi với cùng một đơn vị (thứ nguyên) theo kỹ thuật “hiện đại hóa vốn”.

d) Chuyên môn hóa

38

Là nguyên tắc đòi hỏi việc quản lý các doanh nghiệp phải được những người có chuyên môn, được đào tạo, có kinh nghiệm và tay nghề theo đúng vị trí trong guồng máy sản xuất và quản lý của doanh nghiệp thực hiện. Đây là cơ sở của việc nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp. Một mặt, những người hoạt động trong guồng máy doanh nghiệp phải nắm vững chuyên môn nghề nghiệp ở vị trí công tác

của mình, mặt khác, họ phải ý thức được mối quan hệ của họ với những người khác và bộ phận khác thuộc guồng máy chung của doanh nghiệp.

e) Kết hợp hài hòa các lợi ích

Đòi hỏi các chủ doanh nghiệp phải xử lý thỏa đáng mối quan hệ biện chứng hữu cơ giữa các lợi ích có liên quan đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp bao gồm:

- Lợi ích của người lao động trong doanh nghiệp, phải bảo đảm đủ động lực cho họ sống và làm việc, nhờ đó gắn bó họ một cách văn minh và chặt chẽ trong doanh nghiệp.

- Lợi ích của khách hàng, đó là những người mua sản phẩm của doanh nghiệp cùng với các yêu cầu về sản phẩm của doanh nghiệp và cách phục vụ của doanh nghiệp.

- Lợi ích của nhà nước và xã hội, đó là nghĩa vụ về thuế và các ràng buộc pháp luật khác mà doanh nghiệp phải thực hiện là các thông lệ xã hội (môi sinh, môi trường, nghĩa vụ cộng đồng v.v…) mà doanh nghiệp phải tuân thủ.

- Lợi ích của các bạn hàng, đó là những cá nhân và đơn vị tham gia cung ứng một phần hoặc toàn bộ các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp. Họ phải được giải quyết thỏa đáng các lợi ích của mình khi thực hiện mối quan hệ làm ăn với doanh nghiệp, nếu không họ sẽ cắt quan hệ vơi doanh nghiệp để quan hệ với các doanh nghiệp khác.

f) Luôn luôn bị giám sát, biết dấu ý đồ

Đó là nguyên tắc đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn luôn biết dấu kín ý đồ và tiềm năng kinh doanh của mình. Quá trình kinh doanh là quá trình phát triển và tiến tới chiếm lĩnh thị trường, điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm mọi giải pháp sáng tạo độc đáo nhất, cho sự thành công của mình, đó cũng là quá trình bị các đối thủ cạnh tranh và các cơ quan luật pháp giám sát, và vì thế các doanh nghiệp phải biết che dấu ý đồ cũng như tiềm năng kinh doanh của mình một cách có lợi nhất.

g) Biết tận dụng thời cơ và môi trường kinh doanh

Mọi doanh nghiệp dù có quy mô và tiềm năng lớn tới đâu đều có những mặt hạn chế và có các điểm yếu nhất định. Do vậy, đòi hỏi các chủ doanh nghiệp phải biết tận dụng thời cơ và môi trường kinh doanh để giành lấy hiệu quả. Phải biết khai thác thông tin có lợi từ mọi nguồn, đặc biệt là thông tin về công nghệ mới và sự biến động trong chính sách quản lý, mà doanh nghiệp phải gánh chịu do các nhà chức trách dự định đưa ra để kịp thời xử lý thỏa đáng. Đây là mối quan hệ giữa thế lực của doanh nghiệp. Lực là tiềm năng của doanh nghiệp, còn thế là mối quan hệ của doanh nghiệp trong môi trường kinh doanh, thông qua các yếu tố nằm ngoài doanh nghiệp để nắm bắt và khai thác có hiệu quả.

3.4. Nội dung các nguyên tắc quản lý

39

a) Nguyên tắc mục tiêu

Lý do tồn tại của tổ chức là mục tiêu. Tổ chức được hình thành là do yêu cầu cùng thực hiện một mục tiêu xác định. Mục tiêu đó gắn liền với tổ chức trong suốt quá trình tồn tại. Do đó có thể khẳng định rằng mục tiêu là vấn đề có tính cốt lõi, cơ bản nhất của bất kì một tổ chức nào. Trong quá trình tồn tại tổ chức phải tìm cách để thực hiện mục tiêu và đạt được mục tiêu, lúc đó lợi ích của tổ chức mới được thoả mãn. Các tổ chức và từng thành viên trong tổ chức muốn tồn tại và phát triển thì nhất thiết phải đạt được mục tiêu.

Yêu cầu: Phải quan tâm vận dụng, triển khai nguyên tắc mục tiêu trong suốt quá trình thực hiện hoạt động quản lý, đặc biệt là phải quan tâm mấy vấn đề cơ bản là xác định mục tiêu và tổ chức thực hiện mục tiêu đó. Xác định mục tiêu phải xuất phát từ nhu cầu cơ bản của mõi thành viên trong tổ chức và của cả xã hội trong từng giai đoạn phát triển. Để xác định định hướng, tổ chức phải vận động đẻ đạt tới trong suốt quá trình tồn tại và phát triển. Việc tổ chức thực hiện mục tiêu, phải cụ thể hoá mục tiêu chung của tổ chức thành các mục tiêu cụ thể và phân công cho các cá nhân, bộ phận trong tổ chức để thực hiện. Chỉ khi tổ chức đạt được mục tiêu thì mới thoả mãn được lợi ích. Mục tiêu là mối quan tâm hàng đầu của mọi cơ quan, tổ chức đơn vị … nên hoạt động quản lý phải coi mục tiêu là nguyên tắc cơ bản hàng đầu để định hướng, chi phối các nguyên tắc khác.

b) Nguyên tắc thu hút sự tham gia của tập thể

Lý do: Khai thác trí tuệ của đông đảo tập thể trong tổ chức là việc rất cần thiết. Mục tiêu của tổ chức không chỉ là nhiệm vụ của nhà quản lý mà còn là nhiệm vụ chung của cả tập thể, của cả tổ chức. Do đó thu hút sự tham gia của tập thể cũng có nghĩa là thu hút họ vào việc thực hiện mục tiêu của tổ chức. Thông qua đó, tạo ra được sự thống nhất ý chí và làm gia tăng động cơ tham gia hoạt động thực hiện mục tiêu của các thành viên trong tổ chức.

Yêu cầu: Vừa phải tập trung thống nhất trong hoạt động quản lý vừa phải dân chủ công khai để có thể huy động và khai thác được trí tuệ của tập thể, giúp cho chủ thể quản lý luôn luôn chủ động trong việc tổ chức điều hành cũng như dảm bảo sự tác động của chủ thể lên đói tượng quản lý trong bất kì hoàn cảnh điều kiện nào. Mặt khác việc quan tâm thu hút sự tham gia của tập thể yêu cầu không thẻ coi nhẹ để tạo ra sự thống nhất ý chí của cá chủ thể với đối tượng để cùng hướng tới thực hiện mục tiêu của tổ chức. Tạo cho mối quan hệ giữa các nhà quản lý với đối tượng quản lý có sự cởi mở và tác động qua lại nhau một cách tích cực.

Yêu cầu: Cần phải được kết hợp hài hoà các lợi ích ngay từ khi hoạch định và phát triển tổ chức. Lợi ích hợp lý là lợi ích xuất phát từ quy luật lợi ích đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Lợi ích phải được dung hoà và chia sẻ. Thông qua giải quyết tốt mối quan hệ lợi ích sẽ tạo nên tính thống nhất trong tổ chức, đảm bảo cho tổ chức hoạt động đồng bộ thông suốt, ít nảy sinh các mâu thuẫn cục bộ.

40

c) Nguyên tắc hiệu quả

Lý do: Hiệu quả là mục đích của mọi hoạt động quản lý. Hoạt dộng quản lý là hoạt động có định hướng, có chủ đích. Việc đạt được mục tiêu quản lý sễ làm thoả mãn những lợi ích mà tổ chức mong muốn. Tuy nhiên để đạt tới lợi ích một cách tối đa với các chi phí hợp lý nhất thì các nhà quản lý phải quan tâm đến hiệu quả.

Yêu cầu: Phải luôn luôn đặt hiệu quả quản lý lên hàng đầu, phải coi nó là chuẩn mực của mọi quá trình quản lý trong điều kiện hiện nay, cho dù mục tiêu của quản lý là lớn lao và quan trọng nhưng không thể đạt đến mục tiêu với bất cứ giá nào, mà các nhà quản lý cần phải quan tâm cân đối xem xét giữa kết quả thực hiện mục tiêu mang lại với việc sử dụng chi phí về nhân lực, vật lực cũng như những chi phí vô hình khác mà chủ thể cần phải bỏ ra để có thể thực hiện mục tiêu đó.

d) Nguyên tắc thích ứng linh hoạt

Lý do: Bất kì một tổ chức nào cũng đều tồn tại trong môi trường mà môi trường đó lại luôn luôn vận động biến đổi theo những quy luật khách quan vốn có của nó. Điều đó có nghĩa là tổ chức muốn tồn tại và phát triển thì buộc phải thích ứng được với những thay đổi đó của môi trường chung quanh.

Nhà quản lý phải có được tư duy mềm dẻo, linh hoạt, nhạy cảm và khách quan trong việc nhìn nhận đánh giá vấn đề, tránh lối tư duy bảo thủ, trì trệ, cứng nhắc, quan liêu, vì những thói quen này sẽ phá hỏng sự tồn tại của tổ chức và sự phát triển của tổ chức.

e) Nguyên tắc khoa học hợp lý

Lý do: Hoạt động quản lý không thể dựa theo kinh nghiệm mà phải dựa vào

những căn cứ khoa học, để khoa học chỉ đường.

Yêu cầu: Phải quan tâm đến những vấn đề có tính khoa học, dựa trên những vấn đề khoa học, đảm bảo tính khách quan và biện chứng. Hoạt động quản lý không thể cứng nhắc mà phải có sự linh hoạt, đảm bảo tính hợp lý.

f) Nguyên tắc phối hợp hoạt động các bên có liên quan

Lý do: Vì tổ chức không thể đứng riêng lẻ một mình trong xã hội mà phải có sự

liên kết phối hợp và hợp tác, tạo ra sức mạnh.

Yêu cầu: Nhà quản lý phải biết liên kết phối hợp với các tổ chức khác để khai thác hết tiềm năng của họ, tăng cường sức mạnh cho mình và hạn chế những điểm yếu của tổ chức mình.

3.5. Các phương pháp quản lý

3.5.1. Phương pháp Kinh tế

41

Là phương pháp tác động gián tiếp đến hành vi của các đối tượng quản lý thông qua việc sử dụng những đòn bẩy kinh tế để tác động lên lợi ích của con người. Nội dung của phương pháp này chính là sự quản lý bằng lợi ích thông qua lợi ích của con người. Lợi ích là điểm trung tâm của quản lý kinh tế, nó quyết định hiệu quả tác động. Các cá nhân, tập thể là đối tượng bị tác động vì lợi ích thiết thân của mình sẽ phải tự xác định và lựa chọn phương án giải quyết vấn đề.

Phương pháp này sử dụng các công cụ đòn bẩy kinh tế như: quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, chế độ hạch toán kinh tế, chế độ khen thưởng, % doanh số… nhằm tạo ra điều kiện vật chất thuận lợi và những sự kích thích lợi ích để động viên các đối tượng quản lý phát huy năng lực, sở trường, sự sáng tạo của mình, lựa chọn cách tốt nhất để hoàn thành nhiệm vụ, sử dụng có hiệu quả nhất tài sản được giao, phát huy tối đa khả năg sẵn có của họ.

Ưu điểm:

- Tác động lên đối tượng quản lý một cách nhẹ nhàng, không gây ra sức ép tâm

lý, tạo ra bầu không khí thoaỉ mái, dễ được chấp nhận.

- Tính dân chủ rất cao, các đối tượng quản lý có quyền lựa chọn hành động theo ý mình. - Nó kích thích khả năng sáng tạo, phát huy tính sáng tạo trong công việc, mang lại hiệu quả rất cao.

- Được áp dụng linh hoạt, phù hợp với nhiều đối tượng trong nhiều điều kiện

hoàn cảnh và trong nhiều lĩnh vực.

Nhược điểm:

- Không có sự dảm bảo thực hiện cao vì nó không bắt buộc.

- Dễ bị đối tượng quản lý xem thường nếu không kèm theo các PP tác động khác.

- Đòi hỏi phải có điều kiện về quyền lực, về vật chất đi kèm theo.

3.5.2. Phương pháp Hành chính

Là phương pháp quản lý bằng các tác động trực tiếp của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý thông qua các quyết định dứt khoát mang tính mệnh lệnh, đòi hỏi và bắt buộc mọi người trong hệ thống phải chấp hành, nếu không sẽ bị xử lý bằng chế tài. Đây thực chất là phương pháp tác động dựa vào các mối quan hệ, kỉ luật, tổ chức của hệ thống quản lý. Đặc trưng của phương pháp này là: sử dụng quyền uy của tổ chức để ra các mệnh lệnh đơn phương áp đặt cho đối tượng buộc họ phải thực hiện, nếu không sẽ phải chịu các chế tài của tổ chức.

Phương pháp này tác động theo 2 hướng: hướng tổ chức và hướng điều chỉnh

hành vi con người.

- Hướng tổ chức: thành lập – cơ cấu – sáp nhập – giải thể các bộ phận, các đơn vị

của tổ chức

- Hướng điều chỉnh hành vi: ban hành các quy tắc, quy định, điều lệ để điều

chỉnh hành vi như: quyết định kỉ luật, điều động luân chuyển …

Ưu điểm:

Có uy lực, có tính đảm bảo cho việc thực hiện mục tiêu của tổ chức.

Tạo ra được sự tập trung thống nhất của tổ chức trong quản lý làm cho hoạt động

42

của tổ chức diễn ra theo ý muốn của chủ thể.

Khi sử dụng không cần phải đi kèm những phương pháp khác mà vẫn đảm bảo

hiệu quả.

Nhược điểm:

Tạo ra áp lực, sức ép tâm lý, làm giảm khả năng sáng tạo.

Nhà quản lý phải là những người rất có bản lĩnh để quan sát nắm bắt được đối

tượng để có sự tác động chuẩn xác, phù hợp thì mới có hiệu quả trong quản lý

3.5.3. Phương pháp giáo dục thuyết phục động viên

Là phương pháp vận dụng các quy luật các nguyên tắc hoạt động của tâm lý, giáo dục và xã hội để tác động lên tâm lý, tình cảm của con người làm cho những mặt tích cực trong con người họ thức dậy và làm lãng quên hay kìm nén những mặt tiêu cực để đạt đến kết quả làm việc cao. Đặc trưng của phương pháp này là tính thuyết phục. Nhà quản lý làm cho đối tượng có thể hiểu và phân biệt được phải trái, đúng sai, tốt xấu, đẹp xấu, lợi hại, thiện ác … từ đó nâng cao tính tự giác và sự sự gắn bó với hệ thống. Phương pháp này được sử dụng dưới nhiều hình thức rất phong phú và đa dạng.

Chia sẻ tâm tư nguỵện vọng với cấp dưới, quan tâm kịp thời để nắm bắt những khó khăn, vướng măc, gần gũi động viên khuyến khích kịp thời, đánh giá công bằng, khách quan. Khơi dậy tính tự nguyện, tự giác của người lao động, kích thích họ làm việc hăng hái với tất cả trí tuệ và khả năng cao nhất. Muốn áp dụng có hiệu quả phương pháp này, các nhà quản lý cần phải có uy tín trước tập thể và phải đi sâu tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của mọi thành viên trong tổ chức để có cách ứng xử hợp lý. đồng thời cũng cần kết hợp với các phương pháp quản lý khác cho thích hợp.

Ưu điểm:

- Không gây sức ép tâm lý cho đối tượng, trái lại đói tượng cảm thấy được quan tâm nên sẽ tạo ra được sự phấn khởi, hăng hái, không khílàm việc sôi nổi, đôi khi mang lại những kết quả vượt xa sự mong đợi.

Nhược điểm:

- Dễ làm cho người lao động ỷ lại trông chờ vào tập thể hoặc đưa ra yêu sách quá sức đối với tổ chức. Tính hiệu lực không cao, không đảm bảo thực hiện chắc chắn, nên khi sử dụng vẫn cần phải có kết hợp đi kèm các phương pháp khác.

- Nó đặt ra yêu cầu cho nhà quản lý phải là người có đủ uy tín, có điều kiện và có

thời gian quan tâm chăm sóc, động viên cấp dưới.

3.5.4. Phương pháp quản lý theo mục tiêu

43

Là quá trình xác định các mục tiêu thực hiện thông qua sự tham gia giữa cấp trên và cấp dưới, luôn có sự xem xét định kỳ, sự tiến triển hướng tới mục tiêu và có sự khen thưởng theo tiến triển hướng tới mục tiêu đó. Đây là một trong những phương pháp đã giúp các nhà quản lý doanh nghiệp khai thác triệt để các lý thuyết khoa học quản lý đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu ứng dụng.

Yêu cầu:

- Phải xác định, xây dựng mục tiêu có sự tham gia phối hợp của cá cấp quản lý và tất cả những người thừa hành để hoàn thành nên mục tiêu tổng thể. Mỗi cá nhân, bộ phận tự xác định mục tiêu cho mình trên cơ sở mục tiêu tổng thể.

- Xây dựng mục tiêu là một công việc khó, yêu cầu phải xuất phát từ cấp thấp nhất là

cấp cơ sở lên đến cấp cao.

Đặc trưng:

- Tạo ra tính cu thể, mục tiêu được xác định cụ thể rõ ràng gán với từng cá nhân,

bộ phận của tổ chức.

- Những quy định trong tổ chức thì có sự tham gia của các thành viên trong tổ chức

nhất là những quy định chung của tổ chức.

- Nó có tính thời hạn cụ thể

- Luôn luôn có thông tin phản hồi về sự tiến triển của mục tiêu.

- Nó có sự khen thưởng động viên kịp thời

3.5.5. Phương pháp quản lý chất lượng toàn bộ theo ISO

Đây là phương pháp mới, được thành lập 1947 tại Thuỵ Sĩ. Là một trong những phương pháp hiện đại lúc đầu chỉ được áp dụnh trong các doanh nghiệp hiện nay vẫn đang được vận dụng trong hầu hết các tổ chức, doanh nghiệp kể cả các tổ chức Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng hàng hoá dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Thuật ngữ ISO đang đồng hành với chất lượng của hàng hóa, dịch vụ.

Định nghĩa:

- Quản lý chất lượng toàn bộ (TQM) là phương pháp quản lý của một tổ chức trong đó định hướng vào chất lượng dựa trên sự tham gia của mọi thành viên nhừm đem lại sự thành công dài hạn thông qua sự thoả mãn khách hàng. Mục tiêu của phương pháp này chính là việc cải tiến chất lượng sản phẩm và làm thỏa mãn khách hàng ở mức tốt nhất cho phép.

- Yêu cầu:

- Phải xây dựng được một hệ thống quản lý chất lượng gồm rất nhiều yếu tố: xây dựng cơ cấu tổ chức, xây dựng các quy trình, các nguồn lực, các thủ tục nhằm bảo đảm cho hàng hoá dịch vụ thoả mãn nhu cầu khách hàng ở mức cao nhất.

- Yêu cầu của phương pháp này là phải vận dụng được các tiêu chuẩn đã xây dựng

đưa vào áp dụng trong công tác quản lý.

Đặc trưng:

44

- Nó cung cấp một hệ thống toàn diện cho công tác quản lý và cải tiến mọi khía cạnh liên quan đến chất lượng đồng thời nó huy động được sự tham gia của mọi cá nhân, bộ phận trong tổ chức nhằm đạt được mục tiêu đề ra.

- Giúp nâng cao chất lượng hàng hoá dịch vụ, góp phần nâng cao năng suất lao động. Bên cạnh đó nó tạo ra được một cơ chế hàng hoá dịch vụ liên tục được cải tiến chất lượng làm tăng sự công nhận của khách hàng về chất lượng và làm thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng.

45

- Giúp nâng cao đạo đức của người lao động.

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ QUẢN LÝ CÔNG NGHỆ TRONG XÂY DỰNG

1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ

1.1. Giới thiệu chung

Ngày nay khoa học và công nghệ đã trở thành một lực lượng sản xuất quan trọng hàng đầu của nhân loại, là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế-xã hội của quốc gia. Trong sự phát triển của KH&CN hiện đại, hoạt động KH&CN mang tính xã hội phổ biến, vì vậy mọi nhà đều quan tâm đến lĩnh vực này. Khoa học, kỹ thuật và công nghệ là một hiện tượng phưc tạp, một đối tượng nghiên cứu có phạm vi rất rộng lớn, cho nên từ lâu, vấn đề phát triển khoa học và kỹ thuật đã thu hút sự quan tâm của đông đảo các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như: triết học, khoa học luận, các môn khoa học tự nhiên và xã hội khác. Việc nghiên cứu sự phát triển của khoa học-kỹ thuật đã được triển khai theo nhiều hướng với những phương pháp tiếp cận khác nhau như:

- Coi khoa học là một hình thái ý thức xã hội: Đó tập trung phân tích bản chất của hệ thống các khoa học với mối quan hệ giữa các bộ môn, chuyên ngành của nó và được trình bày trong các tác phẩm nghiên cứu như là một hệ thống tri thức.

- Tiếp tục phát triển theo hướng trên, chú trọng vào sự phát triển của khoa học - kỹ thuật với tư cách là một lực lượng sản xuất trực tiếp của nhân loại, với những biến đổi về kinh tế-xã hội của loài người do các cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuật tạo ra. Kết quả theo hướng này thường được thể hiện trong các công trình có tính dự báo, nhằm phục vụ cho việc đổi mới chiến lược phát triển khoa học-cụng nghệ và kinh tế -xã hội.

- Hướng nghiên cứu thứ ba là khoa học luận: Đối tượng của khoa học luận là nghiên cứu sự hình thành, phát triển bản thân các khoa học, các quy luật vận động của chúng và các phương pháp hoạt động khoa học như một chỉnh thể thống nhất. Khoa học luận chú trọng tới phương diện khoa học là một hiện tượng đặc thù, một hệ thống xã hội chuyên biệt.

- Từ những năm 80 của thế kỷ XX, nổi lên việc nghiên cứu những đặc điểm của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, sự tác động của nó trong các quốc gia cụ thể, để tìm ra các chính sách thúc đấy sự phát triển KH-CN phù hợp với sự phát triển kinh tế-xã hội. Cách tiếp cận này mang tính tổng hợp dựa trên các phương pháp của các khoa học cụ thể như toán học, kinh tế học, quản trị học ... và đặc bịêt là triết học-xã hội. Kết quả của nó được công bố trên các sách báo khoa học của các nước, đặc biệt là báo cáo chuyên đề hàng năm của Liên Hợp Quốc và do các cơ quan chức năng như UNDP, UNIDO, UNESCO soạn thảo.

1.2. Khái niệm công nghệ

46

Khoa học là kiến thức có hệ thống và đã được xác lập, còn công nghệ được định nghĩa là ”kiến thức được dùng trong các sản phẩm hay quy trình sản xuất”. Theo nghĩa rộng, khoa học bao gồm cả kỹ thuật, công nghệ và trong nhiều trường hợp,

nguời ta đã đồng nhất kỹ thuật với công nghệ. Cùng với sự phát triển của khoa học- công nghệ trong lịch sử, sự phân biệt giữa các khái niệm này ngày càng rõ nét. Khoa học có các khía cạnh riêng của nó, như là hệ thống thể chế, như là hệ thống hoạt động và như là hệ thống tri thức, cụ thể:

* Hệ thống thể chế (còn gọi “thiết chế”): vì khoa học là một lĩnh vực “xã hội chuyên môn hoá cao” và cùng tồn tại với các thể chế khác đã có trong lịch sử (như tôn giáo, các trường đại học trung cổ…) Thể chế là hình thức pháp lý để đưa đường lối, chính sách vào cuộc sống, để mọi tổ chức, cá nhân sống và làm việc theo pháp luật. Thể chế ở đây hiểu theo cả hai khía cạnh là cơ chế pháp lý và hình thức tổ chức thực hiện chính sách và pháp luật của Nhà nước. Thể chế của khoa học là môi trường pháp lý của nó do Nhà nước cụ thể tạo nên bằng các chính sách, luật, pháp lệnh, nghị định, quy định ... Các hoạt động khoa học của mỗi quốc gia, trong một thời điểm nhất định đều diễn ra trong một môi trường pháp lý đặc thù so với các quốc gia khác.

* “Hệ thống hoạt động” của khoa học: Là chính quá trình làm khoa học, sản xuất ra các giá trị khoa học của các tổ chức và cá nhân nhà khoa học, diễn ra trong một thể chế chung ở mỗi nước và chịu sự chi phối của các quy luật sáng tạo và ứng dụng, phổ biến khoa học. Đặc điểm của hoạt động khoa học là sự đòi hỏi các chủ thể của nó phải được đào tạo chu đáo, có một “hàm lượng chất xám” cao, được đánh giá là loại lao động phức tạp. Sản phẩm do các nhà khoa học tạo ra không vì sự tiêu dùng của bản thân họ mà vị lợi ích của xã hội, vì sự phát triển con người và tiến bộ xã hội. Do vậy các sản phẩm khoa học được coi như loại hàng hoá công cộng và các hoạt động KH&CN thường được xếp vào khu vực kinh tế nhà nước, do Nhà nước trực tiếp đầu tư, bảo hộ và quản lý. Hoạt động khoa học ở mỗi nước không chỉ chịu sự tác động trực tiếp của môi trường pháp lý của Nhà nước sở tại mà còn chịu ảnh hưởng của các xu hướng lớn của thời đại, tình hình quốc tế và khu vực. Nói cách khác, các hoạt động khoa học vừa có tính quốc gia vừa mang tính quốc tế, song cái chi phối đến hoạt động khoa học nhiều nhất là các chính sách, pháp luật tạo ra thể chế khoa học của quốc gia.

47

* “Hệ thống tri thức” trong khái niệm khoa học: Khoa học là một hệ thống tri thức, vì trình độ phản ánh của khoa học ở giai đoạn lý tính, trình độ lý luận của ý thức con nguời cao hơn so với giai đoạn nhận thức cảm tính và kinh nghiệm. Nhận thức khoa học là kết quả của chủ thể nhận thức phản ánh khách thể, có đặc điểm mang tính chân thực, chính xác. Như vậy, xét về loại hình và trình độ phản ánh, nhận thức khoa học là một hình thái ý thức xã hội khác với các loại hình ý thức khác như nghệ thuật, tôn giáo... Các hoạt động khoa học có đặc điểm chung là kế thừa, sử dụng nhiều tri thức của nhân loại đã tích luỹ được và kết quả của nó thường biểu hiện ra như một hệ thống tri thức mới. Tri thức khoa học giúp cho con người nhận thức thế giới và bản thân ngày càng đầy đủ và sâu sắc để tăng cường hiệu quả hoạt động của họ. Thế kỷ XX đã chứng kiến sự gia tăng mạnh mẽ của tri thức khoa học và vai trò “cơ sở vật chất kỹ thuật” không chỉ cho hoạt động KH&CN mà còn cho các hoạt động kinh tế -xã hội nói chung của các thư viện, trung tâm thông tin, tư liệu. Với tư

cách là một hệ thống tri thức, khoa học là sự biểu hiện khôn ngoan của trí tuệ, đồng thời là một nguồn tài nguyên vô tận cho cuộc sống con người.

Công nghệ (technology) có xuất xứ từ hai từ trong tiếng Hy lạp cổ: techno - có nghĩa là tài năng, nghệ thuật, kỹ thuật, sự khéo léo; logy- có nghĩa là lời lẽ, ngôn từ cách diễn đạt, học thuyết. Như vậy, ngay từ nghĩa gốc, công nghệ đã bao gồm trong đó các yếu tố kỹ thuật và khoa học. Công nghệ được hiểu theo 3 nghĩa:

- Công nghệ làm hay “khoa học làm”, là khoa học ứng dụng nhằm vận dụng các quy luật tự nhiên và các nguyên lý khoa học, đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của con người.

- Công nghệ là các phương tiện kỹ thuật, là sự thể hiện vật chất hoá các tri thức ứng dụng các khoa học.

- Công nghệ là một tập hợp các cách thức, các phương pháp dựa trên cơ sở khoa học và được ứng dụng vào các ngành sản xuất khác nhau để tạo ra các sản phẩm vật chất và dịch vụ [Từ điển Bách khoa Việt Nam, trang 582 – 583]

Các thành phần cơ bản của công nghệ (theo thống nhất của tổ chức quốc tế về

công nghiệp - công nghệ và của Từ điển Bách khoa Việt Nam) có:

* Phần trang thiết bị: bao gồm máy móc, dụng cụ, nhà xưởng... tức là phần cứng

của công nghệ. [T]

* Phần con người: bao gồm kỹ năng tay nghề của đội ngũ nhân lực để vận hành,

điều khiển và quản lý dây truyền thiết bị [H]

* Phần thông tin: bao gồm tư liệu, dữ liệu, tức là “phần mềm” của công nghệ,

bản mô tả sáng chế, bí quyết kỹ thuật (know - how) [I]

* Phần quản lý-tổ chức: bao gồm các hoạt động về phân bổ nguồn lực, tạo lập mạng lưới, sản xuất, tuyển dụng và khuyến khích nhân lực. Với phần quản lý, “công nghệ được hiện thân trong thể chế và khoa học quản lý đã trở thành nguồn lực”[O]

Như vậy, có thể nói khoa học và kỹ thuật là yếu tố nền tảng của công nghệ, còn quản lý và khoa học quản lý là yếu tố gắn kết các yếu tố của công nghệ thành một hệ thống và nó quyết định sự triển khai, thành bại của công nghệ. Công nghệ, cũng như giáo dục, không thể mang bán trên giá mà nó nằm sâu trong kiến thức và các kỹ năng.

48

Định nghĩa về công nghệ: “công nghệ là quy trình vận dụng các kiến thức khoa học và kỹ thuật để tạo ra hay cải tiến một sản phẩm hàng hoá và dịch vụ hoàn chỉnh”. (Chú ý: Khái niệm công nghệ (technology) không đồng nhất và thường lẫn lộn với khái niệm kỹ thuật (technic, technique) tuy chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Công nghệ là một loại khoa học - khoa học ứng dụng chủ yếu được dùng trong lĩnh vực kinh doanh và phát triển kinh tế).

1.3. Vai trò của khoa học công nghệ đối với sự phát triển của loài người

Khoa học và công nghệ có vai trò rất quan trọng đối với sư phát triển của nhân loại cũng như ở mỗi quốc gia, dân tộc (Hoạt động KH&CN vừa có tính quốc gia vừa có tính quốc tế). Như Các Mác đã nhận định: “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng ta sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”. Sản xuất bằng cách nào, với tư liệu lao động nào là cơ sở để nhận biết và đánh giá các thời đại kinh tế. Mức độ phát triển của KH&CN là cơ sở để tạo ra phương tiện và cách thức sản xuất của loài người, do đó nó quyết định trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quyết định sự phát triển của các thời đại. Lịch sử hình thành và phát triển của KH&CN đã chứng minh rằng sự phát triển của nó không phải là một con đường đi lên đều đặn mà bao hàm những bước nhảy vọt- những cuộc cách mạng dẫn đến sự thay đổi sâu sắc và triệt để về phương diện và cách thức sản xuất của nhân loại.

Điểm qua một số cuộc cách mạng theo tiến trình xuất hiện có liên quan đến hoạt

động khoa học và công nghệ:

1.3.1. Cách mạng công nghệ

Cách mạng công nghệ là khái niệm được dùng để chỉ giai đoạn phát triển trọng yếu có tính chất nhảy vọt của hệ thống công nghệ và kỹ thuật của nhân loại, được biểu hiện bằng những thay đổi về chất của hệ thống các phương pháp, phương tiện... được con người sáng tạo, sử dụng trong chinh phục thế giới khách quan. Các tiêu chí cơ bản để xem xét và phân chia các cuộc cách mạng công nghệ là: nguồn nhiên liệu và năng lượng được khai thác, chế tạo và sử dụng; các loại nguyên vật liệu được khai thác, được chế tạo, trình độ làm chủ của con người về thời gian và sau cũng là những bước tiến của công nghệ trong lĩnh vực sinh học.

Người ta đã phân chia ra (dựa theo các tiêu chí trên) thành 5 cuộc cách mạng

công nghệ (CMCM):

- Cuộc cách mạng công nghệ lần thứ nhất diễn ra từ khi con người biết cách sử dụng, duy trì lửa để phục vụ nhu cầu cuộc sống (diễn ra vào khoảng năm 300 TCN).

- Cuộc cách mạng công nghệ lần thứ hai diễn ra từ thiên niên kỷ thứ năm trước công nguyên đến khoảng thế kỷ thứ V, con người đã biết sử dụng đồ đồng, đồ sắt bằng công nghệ nấu chảy kim loại và chế tạo công cụ lao động theo kinh nghiệm.

- Cuộc cách mạng công nghệ lần thứ ba diễn ra từ khoảng thế kỷ XV đến thế kỷ XIX trên cả 4 lĩnh vực: năng lượng, vật liệu, sinh học, cơ khí chính xác.

49

- Cuộc cách mạng công nghệ lần thứ tư diễn ra từ khoảng thế kỷ XIX đến những năm giữa thế kỷ XX. Đây là thời kỳ diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp, là giai đoạn biến đổi và phát triển về chất trong lĩnh vực kỹ thuật, của sản xuất công nghiệp, chuyển từ công trường (xưởng) thủ công tư bản chủ nghĩa sang hệ thống công xưởng, nhà máy tư bản chủ nghĩa nhờ áp dụng những sáng chế mới trong

công nghệ. Cuộc cách mạng công nghệ diễn ra sớm nhất ở Anh (từ khoảng những năm 70 của thế kỷ XVIII) sau đó lan truyền sang các nước châu Âu khác và Mỹ, Nhật. Nó đã đặt cơ sở vật chất-kỹ thuật cho bước cuối cùng chuyển từ chủ nghĩa phong kiến sang chủ nghĩa tư bản. Cuộc cách mạng khoa học lần này đã dẫn đến sự ứng dụng nhanh hơn nhiều những thành tựu của tiến bộ khoa học vào thực tiễn sản xuất, dẫn đến sự biến đổi nhanh trong khoa học-kỹ thuật, chấm dứt thời kỳ khoa học đi sau kỹ thuật, chuẩn bị tiền đề cho thời kỳ khoa học vượt trước, đóng vai trò định hướng cho kỹ thuật.

- Cuộc cách mạng công nghệ lần thứ năm diễn ra từ giữa thế XX đến nay (hay còn gọi là cuộc cách mạng công nghệ hiện đại). Đặc trưng cơ bản nhất của cuộc CMCN lần thứ năm là nó được kết hợp chặt chẽ với cuộc cách mạng khoa học lần thứ tư, trở thành cuộc cách mạng khoa học-công nghệ, giai đoạn phát triển rất cao của cách mạng khoa học-kỹ thuật. Khi xem xét các cuộc cách mạng công nghệ trong lịch sử, chúng ta nhận thấy có mối quan hệ sâu sắc, chặt chẽ, biện chứng giữa tiến bộ khoa học, tiến bộ công nghệ và tiến bộ xã hội.

1.3.2. Cách mạng khoa học và cách mạng khoa học-kỹ thuật

Là giai đoạn phát triển về chất, được biểu hiện ở quy mô, nhịp độ, trình độ phát triển của khoa học, trước hết là những biến đổi cách mạng trong phương pháp tư duy khoa học. Cơ sở lý luận và phương pháp luận của việc xem xét các giai đoạn phát triển của cách mạng khoa học là lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng được sáng tạo bởi C. Mác và Ph. Angghen và được phát triển toàn diện bởi V.I.Lênin. Bên cạnh đó, lý thuyết về “khuôn mẫu” trong sự phát triển khoa học của T.Kun (Thomat Kun - sinh năm 1922, nhà nghiên cứu lịch sử người Mỹ, tác giả của cuốn sách“Cấu trúc của những cuộc cách mạng khoa học”-1962) cũng được coi là một căn cứ lý luận quan trọng để xem xét các cuộc cách mạng trong lịch sử. Trên cơ sở đó, người ta cho rằng có 4 cuộc cách mạng khoa học:

50

- Cuộc cách mạng khoa học đầu tiên diễn ra vào thế kỷ XVI -XVII đã thay thế triết học tự bịên bằng quan sát thực nghiệm và gắn với tên tuổi của G.Galilê, J.Keple, R.Đêcac, C.Huyghenx, I.Niutơn, N.Copecnich… Khoa học, trước cuộc cách mạng công nghiệp ( trong cách mạng công nghệ lần thứ 4) trong một thời kỳ dài (khoảng 10.000 năm - theo Alvin Toffler) mới chỉ phát triển thành một hệ thống tri thức tổng kết kinh nghiệm hoạt động nhận thức, chưa trở thành nhân tố trực tiếp của lực lượng sản xuất, khoa học không song hành với kỹ thuật và kỹ thuật sản xuất của loài người chỉ dựa trên sự khéo léo của chân tay và sức mạnh của cơ bắp, chưa có sự trợ giúp của máy móc. Nhận thức khoa học bắt đầu nở rộ từ thời kỳ Cổ đại ở cả phương Đông và phương Tây, bị lụi tàn vào thời kỳ Trung cổ, sau đó được hồi sinh và tiếp tục phát triển từ thời kỳ Phục hưng. “Cuộc cách mạng trên trời” (mặt trời là trung tâm) của N.Copecnic (1473 - 1543, người Ba lan) đã giải phóng cho khoa học khỏi sự nô dịch, phụ thuộc vào thần học và triết học kinh viện, mở ra thời kỳ mới.

- Cuộc cách mạng khoa học lần thứ hai diễn ra vào thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX dựa trên quan điểm cơ học về thế giới. Vào nửa sau thế kỷ XVIII, ở Châu Âu, máy móc bắt đầu xuất hiện, đánh dấu sự ra đời của xã hội công nghiệp (như đã nêu trong cuộc cách mạng công nghiệp và cách mạng công nghệ lần thứ 4). Trước khi Toán học và Vật lý học vạch ra được các nguyên lý chuyển động và cơ cấu các máy công tác thì các nhà kỹ thuật đã mày mò và sáng chế ra các máy thực nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất. [Gion Kei (1704-1774) đã chế tạo con thoi dệt đầu tiên; Gien Khargrip (1720-1778) đã chế tạo máy kéo sợi đầu tiên mang tên Gienny, có năng suất gấp 6 lần chiếc máy sợi thủ công. Cả hai ông đều làm việc trong các công trường thủ công Anh. Các máy trên chỉ được sử dụng rộng rãi khi nóđược liên kết thành một hệ thống máy với động cơ hơi nước do Giêm Oát (1736-1819)- nhà kỹ thuật người Anh chế tạo và được cấp bằng phát minh sáng chế năm 1784]

- Cuộc cách mạng khoa học lần thứ ba diễn ra từ nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX , khởi đầu từ Vật lý, sau đó lan sang các ngành khoa học cơ bản và gắn liền với tên tuổi của A. Anhxtanh, M.Plăng. Trong thời gian này, đã diễn ra cuộc cách mạng kỹ thuật, còn gọi là cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuật lần thứ nhất. Cách mạng khoa học-kỹ thuật là giai đoạn phát triển căn bản về chất, diễn ra trong hệ thống khoa học và kỹ thuật hiện đại, bao quát mọi mặt, mọi thành tố của hệ thống đó. Sự phát triển mọi mặt của kỹ thuật được đặc trưng trước hết bởi kỹ thuật bước vào giai đoạn phát triển mới, là giai đoạn cơ giới hoá, tự động hoá. Thời kỳ đầu, máy móc dần thay thế những thao tác lao động thủ công của người sản xuất, tiếp đó là thời kỳ mà các chức năng máy móc dần dần đựơc tự động hoá, được thay thế bởi các máy tự động. Cách mạng khoa học-kỹ thuật đánh dấu giai đoạn biến đổi to lớn trong việc nghiên cứu, áp dụng những thành tựu của khoa học vào thực tiễn. Với cuộc cách mạng này, sự phát triển của khoa học đã bắt đầu gắn bó mật thiết với sản xuất và kỹ thuật, khoa học bắt đầu trực tiếp nghiên cứu đáp ứng những nhu cầu của chính thực tiễn sản xuất và của chính kỹ thuật. Sự áp dụng nhanh chóng những thành tựu khoa học vào sản xuất và kỹ thuật và nói chung vào thực tiễn đã tạo nên sự hoà quyện, quan hệ hữu cơ giữa khoa học và kỹ thuật. Cách mạng khoa học và cách mạng kỹ thuật dường như không còn ranh giới rõ ràng, mà trở thành cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuật.

51

- Cuộc cách mạng khoa học lần thứ tư diễn ra ở thế kỷ XX và gắn với cách mạng khoa học- kỹ thuật hiện đại lần thứ hai và cách mạng công nghệ lần thứ năm trở thành cách mạng khoa học-công nghệ phát triển cho đến nay. Đặc trưng cơ bản của giai đoạn này là sự nhảy vọt của khoa học và kỹ thuật, là sự đột phá của những công nghệ mũi nhọn, từng bước tạo lập nền công nghệ cao. Bản chất của công nghệ cao (High-Tech) là cách thức sản xuất tạo ra những sản phẩm có chất lượng tốt, bền, đẹp, tốn ít nhiên liệu và năng lượng, phù hợp với những yêu cầu bảo vệ sinh thái. Xu thế chung của lịch sử phát triển khoa học là khoảng thời gian diễn ra các cuộc cách mạng trong khoa học ngày càng rút ngắn lại, trong khi quy mô, nhịp độ và khối lượng tri thức tích luỹ được qua mỗi cuộc cách mạng ấy lại tăng theo gia tốc. [Từ cuộc cách mạng khoa học lần thứ tư đến nay đã làm cho khối lượng tri

thức của nhân loại về thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy trở nên đồ sộ, gấp nhiều lần khối lượng tri thức mà những người đi trước đó đã tích luỹ từ khi xuất hiện loài người. Sau khi tổng kết sự phát triển của khoa học và công nghệ của những năm cuối thế kỷ XX, nhà tương lai học nổi tiếng Claude Soudin đã chỉ ra rằng cứ sau 5 năm công nghệ lại lạc hậu đi một nửa. Sự lạc hậu của công nghệ đã có là thể hiện sự nảy sinh các công nghệ mới, tiên tiến hơn, hiện đại hơn, mang lại năng suất, chất lượng và hiệu quả cao hơn, kho tàng tri thức nhân loại được tích luỹ thêm nhiều kiến thức khoa học mới. Trong những năm gần đây, các nhà khoa học cũng đã tổng kết và chỉ ra rằng, trung bình cứ sau 7 đến 10 năm, khối lượng tri thức khoa học của loài người lại tăng lên gấp đôi.]

1.3.3. Vai trò của KH&CN đối với sự phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội

Trên cơ sở tổng quan chung về các cuộc cách mạng liên quan đến KH&CN (cách mạng công nghệ, cách mạng khoa học, cách mạng khoa học-kỹ thuật, cách mạng khoa học-công nghệ) cho ta xác lập vai trò KH&CN đối với sự phát triển kinh tế. Các khả năng lao động của con người như kỹ thuật, kỹ năng lao động, xử lý thông tin, tổ chức quản lý quá trình sản xuất...đã gắn bó được với nhau để tạo ra một nhân tố tổng hợp. Nhân tố con người có vai trò quyết định sự ra đời của các công nghệ mới cũng như sự phát triển của các nền kinh tế quốc gia. So sánh với khoa học-công nghệ, các yếu tố thiết yếu của kinh tế truyền thống như đất đai, tài nguyên thiên nhiên, tiền vốn, sức lao động, thậm chí từng yếu tố riêng rẽ của nó là khoa học hoặc kỹ thuật đã trở nên ít quan trọng hơn. Trong khi các tài nguyên thiên nhiên có xu hướng giảm dần giá trị thì các nguồn tài nguyên cho khoa học và công nghệ lại có giá trị gia tăng. Thông tin là một khái niện trung tâm của khoa học trong thời đại chúng ta và sự phát triển của công nghệ thông tin không chỉ giúp cho con người tự động hoá các vận động cơ giới mà còn tự động hoá các quá trình thông tin để sử dụng nguồn vốn trí tuệ hiệu quả hơn. Trong một nền kinh tế dựa vào trí tụê - nền kinh tế trí thức, con người không chỉ rút ngắn được khoảng cách thời gian từ phát minh khoa học đến vận dụng vào thực tế mà còn tăng tốc độ đổi mới công nghệ và rút ngắn chu trình sống của các hàng hoá là sản phẩm của công nghệ tiên tiến. Những đổi mới từ hoạt động KH&CN là ngọn nguồn của làn sóng chính làm thay đổi đời sống kinh tế-xã hội của loài người, dẫn chúng ta đến cách tiếp cận mới, tư duy mới về vai trò của KH&CN. Khoa học và công nghệ ngày nay là biểu hiện sức mạnh của trí tụê loài người, là cơ sở và động lực quan trọng nhất cho sự phát triển kinh tế-xã hội của các quốc gia. Nó có khả năng tạo ra những ngành kinh tế mới, những đối tượng lao động mới cũng như các cơ hội mới cho sự phát triển của mỗi con người và mỗi quốc gia. “Những thành tựu to lớn của cuộc cách mạng KH&CN hiện đại đã và đang đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động, làm chuyển biến mạnh mẽ cơ cấu kinh tế của các quốc gia và làm thay đổi sâu sắc mọi mặt đời sống xã hội loài người” (Văn kiện Hội nghị lần thứ 2 BCH TW Đảng khoá VIII, trang 48).

52

Như vậy, Khoa học-công nghệ đã thực hiện hai chức năng cơ bản đối với sự phát triển kinh tế-xã hội là phục vụ và dẫn đường (đi trước) cho kinh tế-xã hội phát triển.

Để thấy rõ vai trò của KH&CN trong tiến trình phát triển kinh tế của nhân loại, ta có thể biểu diễn hàm tăng trưởng kinh tế là Y với các yếu tố tạo nên của nó là: Đất đai, tài nguyên thiên nhiên (đ); Lao động (l); Vốn đầu tư (v); Công nghệ (c); Tri thức (tt); ý tưởng (yt)…

Trong thời kỳ sơ khai, con người chỉ dùng sức lao động của mình tác động lên đất đai, tài nguyên thiên nhiên để duy trì sự sống, cho nên sự tăng trưởng kinh tế được biểu diễn qua hàm số: Y = f(đ,l)

Trong nền kinh tế nông nghiệp kéo dài 6-7 nghìn năm cho đến cuối thế kỷ XVII, cũng có thể gọi là kinh tế sức lao động, đặc trưng chủ yếu là sản xuất bằng lao động thủ công, năng suất thấp, đất đai là tài nguyên chủ yếu ,vốn tri thức của con người và vốn đầu tư còn quá ít, công nghiệp hầu như không đổi mới, tác động của tri thức, công nghệ chưa rõ rệt, tiến bộ khoa học hết sức chậm chạp, là đặc điểm của nền văn minh nông nghiệp. Hàm tăng trưởng kinh tế được biểu diễn: Y = f(đ,l,v)

Những thành tựu khoa học thế kỷ XVII dẫn đến cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất (cuối thế kỷ XVIII), đã thúc đẩy sự chuyển biến từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp (còn được gọi là kinh tế tài nguyên, dựa chủ yếu vào máy móc và tài nguyên thiên nhiên). Kinh tế công nghiệp đã phát triển nhanh trong hơn 200 năm, của cải của loài người đã tăng hàng trăm lần nhờ vào việc ứng dụng công nghệ và tạo dựng nên nền văn minh công nghiệp. Khoa học và công nghệ ngày càng đóng góp quan trọng trong việc tăng trưởng kinh tế cho xã hội và ngày càng có điều kiện để phát triển nhanh hơn, nhưng vấn đề khai thác quá mức tài nguyên cũng được cảnh báo. Hàm tăng trưởng kinh tế được biểu diễn: Y = f(đ,l,v,c)

Những thành tựu nổi bật của khoa học đầu thế kỷ XX với vai trò dẫn đầu của Thuyết tương đối và Thuyết lượng tử, là tiền đề cho cuộc cách mạng KH&CN hiện đại ra đời và phát triển từ giữa thế kỷ XX. Trong 1/4 cuối thế kỷ này đã bước sang giai đoạn bùng nổ thông tin và tri thức, bùng nổ công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao như: Công nghệ thông tin (nhất là siêu xa lộ thông tin, Internet, multimelia, tương tác, thực tế ảo); Công nghệ sinh học (đặc biệt là công nghệ gen, công nghệ tế bào); Công nghệ vật liệu mới; Công nghệ năng lượng. Các công nghệ này đã làm tăng nhanh nhịp độ tăng trưởng kinh tế, dịch chuyển mạnh mẽ cơ cấu kinh tế, tạo sự nhảy vọt trong lực lượng sản xuất và tạo nên nền kinh tế tri thức ( bắt đầu hình thành từ giữa thế kỷ XIX). Lực lượng sản xuất này đã bước sang giai đoạn mới về chất, trong đó tri thức và thông tin trở thành yếu tố hàng đầu của sản xuất, KH&CN trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Đây không chỉ là cách mạng trong KH&CN, trong phát triển lực lượng sản xuất mà còn là cách mạng trong các quan niệm và cách tiếp cận, nó đòi hỏi con người phải đổi mới cách nghĩ, cách làm để thích nghi và làm chủ sự phát triển. Nền văn minh loài người chuyển từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ và Hàm tăng trưởng kinh tế được biểu diễn như sau:

Y = f(đ,l,v,c,tt)

53

[Có nhiều tên gọi khác nhau cho giai đoạn phát triển mới của nền kinh tế tri thức này:

+ • “Kinh tế thông tin-Intormation economy”

• “Kinh tế mạng-Network economy”

• “Kinh tế số-Digital economy”

(Nói lên vai trò quyết định của Công nghệ thông tin trong phát triển kinh tế)

+ “Kinh tế học hỏi - learning economy” (nói lên động lực chủ yếu của nền

kinh tế là sự học tập suốt đời của mọi người).

+ “Kinh tế dựa vào tri thức - Knowledge based economy”

“Kinh tế dẫn dắt bởi tri thức - Knowledge driven economy”

“Kinh tế tri thức - Knowledge economy” (nói lên vai trò quyết định của tri thức và công nghệ đối với phát triển kinh tế).

“Kinh tế mới - New economy” (là tên gọi khung, không xác định nội dung).

Kinh tế tri thức là tên gọi thường dùng nhất của Tổ chức OECD và được chính thức dùng từ 1995. Tên gọi này nói lên được nội dung cốt lõi của kinh tế mới, còn kinh tế thông tin, kinh tế số chỉ mới nói về Công nghệ thông tin, mặc dù CNTT là nội dung chủ yếu nhất nhưng không bao gồm được các yếu tố tri thức và công nghệ mới. Chưa bao giờ vai trò động lực của tri thức, của KH&CN đối với sự phát triển kinh tế- xã hội trở nên rõ ràng, nổi bật như ngày nay, nó còn quan trọng hơn cả vốn và lao động. Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống. Trong nền kinh tế tri thức vẫn còn nông nghiệp và công nghiệp, nhưng hai ngành này chiếm tỷ lệ thấp. Trong nền kinh tế tri thức chiếm đa số là các ngành kinh tế dựa vào tri thức, dựa vào các thành tựu mới nhất của KH&CN. Kinh tế tri thức xuất hiện trong mọi lĩnh vực, trong toàn bộ cơ cấu nền kinh tế quốc dân. Ngày nay, ở Bắc Mỹ và một số nước Tây Âu, nền kinh tế tri thức đã bắt đầu hình thành. Riêng về kinh tế thông tin (dựa chủ yếu vào CNTT), trong đó kinh tế tri thức là chủ yếu, đã chiếm ~45-50% GDP. Trong các nước OECD, kinh tế tri thức đã chiếm >50% GDP. Công nhân tri thức chiếm trên 60% lực lượng lao động. Nhiều người ước tính, vào khoảng năm 2030 nền kinh tế của các nước đều trở thành các nền kinh tế tri thức.

54

Tiếp sau nền kinh tế tri thức, các ý tưởng khoa học đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển KH&CN nói riêng và kinh tế-xã hội nói chung và sẽ tạo nên nền kinh tế hậu tri thức. Hàm tăng trưởng kinh tế trong thời kỳ này được biểu diễn như sau: Y = f(đ,l,v,c,tt,yt...)

So sánh khái quát các nền kinh tế

55

Vai trò của KH&CN đối với sự phát triển kinh tế thể hiện rõ nhất ở các nước phát triển. Ở Mỹ, khoảng 1/3 mức tăng sản lượng có thể là do tăng lao động (số lượng ) và tăng vốn, 2/3 còn lại có thể quy cho giáo dục, đổi mới, hiệu quả của kinh tế theo quy mô, tiến độ khoa học và nhiều yếu tố khác (P. Samuecson- Nhà kinh tế học người Mỹ được giải thưởng Noben và đồng nghiệp của ông là W.Nordhous trong cuốn Kinh tế học). Theo M. Boskin và L.J.Lan thì tiến bộ công nghệ đã góp từ 49% đến 78% vào sự tăng trưởng kinh tế, cụ thể ở 5 nước có nền kinh tế phát triển nhất là Pháp (76%), Tây Đức (78%), Nhật Bản (55%), Anh (73%), Hoa kỳ (49%). Phát triển sự nghiệp KH&CN, bao gồm các khía cạnh của nó được thể hiện trong chính sách,

chiến lược kinh tế-xã hội của các nước đang phát triển. Xét về mặt kinh tế, các nước đang phát triển có đặc điểm chung là chưa thoát được “cái vòng luẩn quẩn” của sự nghèo khổ và kém phát triển, bị giam hãm trong 4 mắt xích: Thu nhập bình quân thấp, tiết kiệm và đầu tư thấp, tốc đọ tích luỹ vốn thấp và năng suất thấp.(Khi mức thu nhập thấp thì cản trở việc tiết kiệm, làm cho vốn đầu tư tăng chậm, cản trở tăng năng suất lao động và làm cho thu nhập cứ thấp mãi).

Các lý thuyết phát triển kinh tế hiện đại đã đưa ra những giải pháp khác nhau về việc các nước nghèo cần làm gì để thoát khỏi tình trạng chậm phát triển và “cất cánh”. Nhìn chung, không một lý thuyết nào còn cho rằng nạn đói hoặc chiến tranh là giải pháp cần thiết cho sự tồn tại của loài người, trái lại, nhân loại cần chống lại những tai hoạ đó và đầu tư cho khoa học công nghệ cùng với giáo dục và đào tạo là điều kiện cần thiết, là đột phá khẩu để tạo ra sự phát triển kinh tế-xã hội của các nước nghèo. Lịch sử đã chứng minh rằng, chính cuộc cách mạng KH&CN đã mở ra một cơ hội mới cho các nước đang phát triển đi nhanh, đi tắt vào công nghệ hiện đại và rút ngắn khoảng thời gian cho công nghiệp hoá đất nước [Anh:120 năm, Tây Âu và Mỹ: ~80 năm, Nhật bản: 60 năm, trong khi 4 con rồng nhỏ Châu á là Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và Singapore chỉ cần trên dưới 30 năm]. Thành công của các nước Châu Á này là dựa trên một triết lý phát triển và chính sách chỉ đạo của các Nhà nước ưu tiên đầu tư cho GD&ĐT, KH&CN nhằm tạo ra một nội lực quốc gia mạnh, kịp thời tận dụng thời cơ hội nhập vào nền kinh tế thế giới trong giai đoạn cách mạng KH&CN để phát huy lợi thế so sánh và phát triển KT-XH của nước mình. Lịch sử nhân loại, suy cho cùng là lịch sử từng bước đưa nhân loại lên địa vị làm chủ tự nhiên, xã hội và bản thân. Trong quá trình tiến hoá không ngừng, các cộng đồng người khác nhau về địa vị kinh tế, xã hội, do đó khác nhau cả về lợi ích đã cùng tồn tại, cùng đấu tranh, tác động lẫn nhau tạo thành động lực xã hội cho sự phát triển.

Sự phát triển của xã hội, một mặt, chịu tác động mạnh mẽ của những tiến bộ KH&CN, mặt khác, những tiến bộ xã hội và kinh tế, về chế độ chính trị, văn hoá, tư tưởng... lại có tác động trở lại, kìm hãm hay mở đường, định hướng, thậm chí có lúc làm mất phương hướng phát triển của tiến bộ KH&CN. Do đó việc xem xét tiến bộ khoa học-kỹ thuật không thể tách rời những tiến bộ xã hội tương ứng. Tiến bộ Khoa học- kỹ thuật và công nghệ là nhân tố năng động, có tác động thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Sự phát triển của KH&CN không thể không chịu ảnh hưởng của hệ thống tư tưởng. Các điều kiện chính trị-xã hội có tác dụng kìm hãm hoặc thúc đẩy sự phát triển KH&CN. Những điều nêu trên, giúp cho chúng ta có cách nhìn đúng đắn các vấn đề về tổ chức hoạt động KH&CN, tổ chức quản lý các hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, quan hệ của hoạt động KH&CN với những lĩnh vực khác của đời sống xã hội, về các yếu tố hợp thành của hoạt động KH&CN.

2. CÁC ĐẶC TRƯNG CỦA CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG

2.1. Giới thiệu chung về ngành xây dựng

56

2.1.1. Lịch sử phát triển công nghệ xây dựng trên thế giới

Trong sự phát triển của nền văn minh nhân loại thì sự phát triển của ngành xây dựng có vị trí và vai trò quan trọng mang tính then chốt đánh giá trình độ của từng thời kỳ. Từ ngàn xưa thì bằng khối óc và tâm huyết các bậc thày về xây dựng ( kiến trúc sư ) dựa vào các hiểu biết về thiên văn địa lý phong thủy đã tạo nên các công trình nổi tiếng trường tồn với thời gian, càng ngày quá trình xây dựng thiết kế càng phát triển vượt bậc đòi hỏi cần có một mô hình quản lý cũng như thi công ngày càng hiện đại từ đó nảy sinh và kéo theo các hình thức mô hình “Quản lý dự án” nhằm đáp ứng được các nhu cầu của xã hội. Có thể Great Wall của Trung Quốc, các kim tự tháp, hoặc Stonehenge được xây dựng mà không có quản lý dự án? Có thể nói rằng khái niệm về quản lý dự án đã được khoảng từ đầu của lịch sử. Nó đã cho phép các nhà lãnh đạo lập kế hoạch dự án táo bạo và lớn và quản lý kinh phí, vật liệu và lao động trong một khung thời gian được chỉ định.

Trong cuối thế kỷ 19, ở Mỹ, các dự án của chính phủ quy mô lớn là động lực cho việc ra quyết định quan trọng đã trở thành cơ sở cho phương pháp quản lý dự án như đường sắt xuyên lục địa, bắt đầu xây dựng vào những năm 1860. Đột nhiên, lãnh đạo doanh nghiệp thấy mình phải đối mặt với nhiệm vụ khó khăn của tổ chức lao động thủ công của hàng ngàn công nhân và chế biến, lắp ráp với số lượng chưa từng có của nguyên liệu. Quản lý dự án theo hình thức hiện tại của nó đã bắt đầu bén rễ một vài thập kỷ trước. Trong đầu những năm 1960, các tổ chức công nghiệp và kinh doanh bắt đầu hiểu được lợi ích của tổ chức công việc xung quanh dự án. Họ hiểu sự cần thiết quan trọng để giao tiếp và hợp tác trên nhiều phòng ban và chuyên nghiệp.

57

Với tư cách là một ngành khoa học, quản lý dự án phát triển từ những ứng dụng trong các lĩnh vực khác nhau như xây dựng, kỹ thuật và quốc phòng. Ở Hoa Kỳ, hai ông tổ của quản lý dự án là Henry Gantt, được gọi là cha đẻ của kỹ thuật lập kế hoạch và kiểm soát, người đã cống hiến hiểu biết tuyệt vời của mình bằng việc sử dụng biểu đồ Gantt như là một công cụ quản lý dự án, và Henri Fayol người tìm ra 5 chức năng của quản lý, là cơ sở cho những kiến thức cốt lõi liên quan đến quản lý dự án và quản lý chương trình.

Frederick Taylor (1856-1915). Henry Gantt (1861 -1919)

Thuyết Taylor là nguyên mẫu đầu tiên cho các công cụ quản lý dự án hiện đại,

bao gồm cả cấu trúc phân chia công việc (WBS) và phân bổ nguồn lực.

Cả hai ông Gantt và Fayol đều được biết đến như là những học trò, theo trường

phái lý thuyết quản lý theo sơ đồ grant.

Một biểu đồ Gantt là một loại phổ biến của biểu đồ thanh để minh họa một tiến độ dự án và đã trở thành một kỹ thuật phổ biến để đại diện cho các giai đoạn và các hoạt động của một cấu trúc chi tiết công việc của dự án, vì vậy họ có thể hiểu được một đối tượng rộng. Mặc dù bây giờ được coi là một kỹ thuật biểu đồ thông thường, biểu đồ Gantt được coi là một cuộc cách mạng tại thời điểm được giới thiệu. Biểu đồ Gantt được sử dụng vào các dự án cơ sở hạ tầng lớn như đập Hoover và hệ thống đường cao tốc Interstate và vẫn được chấp nhận ngày hôm nay là công cụ quan trọng trong quản lý dự án.

58

Một ví dụ về biểu đồ Gantt cho thấy mối quan hệ giữa một loạt các nhiệm vụ minh họa từ Quản lý dự án Barron & Barron cho các nhà khoa học và kỹ sư

Henri Fayol (1841-1925).

Người tìm ra 5 chức năng của quản lý, là cơ sở cho những kiến thức cốt lõi liên quan đến quản lý dự án và quản lý chương trình

Đến giữa thế kỷ XX, các dự án được quản lý trên cơ sở đặc biệt sử dụng chủ yếu là Gantt Charts, và các kỹ thuật và các công cụ chính thức. Trong thời gian đó, các dự án Manhattan đã được khởi xướng và phức tạp của nó chỉ là có thể bởi vì các phương pháp quản lý dự án. Dự án Manhattan là tên mã cho các nỗ lực của Đồng Minh để phát triển các loại vũ khí hạt nhân đầu tiên trong Thế chiến II. Nó liên quan đến hơn ba mươi trang web dự án khác nhau ở Mỹ và Canada, và hàng ngàn nhân viên từ Mỹ, Canada và Vương quốc Anh. Sinh ra trong một chương trình nghiên cứu nhỏ đã bắt đầu vào năm 1939, Dự án Manhattan cuối cùng sẽ sử dụng 130.000 người và tổng chi phí gần 2 tỷ USD và dẫn đến việc tạo ra nhiều địa điểm sản xuất và nghiên cứu hoạt động trong bí mật. Dự án đã thành công trong việc phát triển và nổ ba vũ khí hạt nhân vào năm 1945.

Những năm 1950 đánh dấu sự khởi đầu của kỷ nguyên quản lý dự án hiện đại.

Hai mô hình dự án lập kế hoạch toán học được phát triển:

Chương trình đánh giá và đánh giá Kỹ thuật (PERT) được phát triển bởi Booz Allen & Hamilton-như một phần của chương trình tàu ngầm tên lửa Polaris Hải quân Hoa Kỳ của. PERT là một phương pháp để phân tích các nhiệm vụ liên quan để hoàn thành một dự án nhất định, đặc biệt là thời gian cần thiết để hoàn thành mỗi nhiệm vụ, sự phụ thuộc giữa các nhiệm vụ, và thời gian tối thiểu cần thiết để hoàn thành tổng dự án về cơ bản.

59

Phương pháp đường tới hạn (CPM) được phát triển trong một liên doanh của Tổng công ty và cả hai DuPont Remington Rand Corporation cho việc quản lý dự án bảo trì nhà máy. Con đường quan trọng quyết định thả nổi, hoặc lịch trình linh hoạt, cho từng hoạt động bằng cách tính toán thời gian sớm bắt đầu, ngày kết thúc sớm nhất, ngày bắt đầu mới nhất, và ngày kết thúc mới nhất cho mỗi hoạt động. Con đường quan trọng thường là đường dẫn đầy đủ nhất về dự án. Bất kỳ hoạt động với thời gian nổi mà bằng không được coi là một nhiệm vụ con đường quan trọng. CPM có thể giúp bạn tìm ra dự án phức tạp của bạn sẽ mất bao lâu để hoàn thành và các hoạt động rất quan trọng; có nghĩa là họ phải được thực hiện đúng thời hạn hoặc

người nào khác toàn bộ dự án sẽ mất nhiều thời gian. Các kỹ thuật toán học nhanh chóng lan rộng sang nhiều doanh nghiệp tư nhân.

Những năm 1950, đánh dấu sự bắt đầu của kỷ nguyên quản lý dự án hiện đại. Quản lý dự án đã được chính thức công nhận là một ngành khoa học phát sinh từ ngành khoa học quản lý. Một lần nữa, tại Hoa Kỳ, trước những năm 1950, các dự án đã được quản lý trên một nền tảng đặc biệt bằng cách sử dụng chủ yếu là biểu đồ Gantt (Gantt Charts), cùng các kỹ thuật và các công cụ phi chính thức. Tại thời điểm đó, hai mô hình toán học để lập tiến độ của dự án đã được phát triển. "Phương pháp Đường găng" (tiếng Anh là Critical Path Method, viết tắt là CPM) phát triển ở liên doanh giữa công ty Dupont và công ty Remington Rand để quản lý các dự án bảo vệ thực vật và hóa dầu. Và "Kỹ thuật đánh giá và xem xét chương trình (dự án)" (tiếng Anh là Program Evaluation and Review Technique hay viết tắt là PERT), được phát triển bởi hãng Booz-Allen & Hamilton thuộc thành phần của Hải quân Hoa Kỳ (hợp tác cùng với công ty Lockheed) trong chương trình chế tạo tên lửa Polaris trang bị cho tàu ngầm. Những thuật toán này đã lan rộng một cách nhanh chóng sang nhiều doanh nghiệp tư nhân.

Năm 1969, viện Quản lý Dự án (PMI) đã được thành lập để phục vụ cho lợi ích của kỹ nghệ quản lý dự án. Những tiền đề của viện Quản lý dự án (PMI) là những công cụ và kỹ thuật quản lý dự án được chia sẻ bằng nhau giữa các ứng dụng phổ biến trong những dự án từ ngành công nghiệp phần mềm cho tới ngành công nghiệp xây dựng. Trong năm 1981, ban giám đốc viện Quản lý dự án (PMI) đã cho phép phát triển hệ lý thuyết, tạo thành cuốn sách Hướng dẫn về những kiến thức cốt lõi trong Quản lý dự án (PMBOK Guide). Cuốn sách này chứa các tiêu chuẩn và nguyên tắc chỉ đạo về thực hành được sử dụng rộng rãi trong toàn bộ giới quản lý dự án chuyên nghiệp. Ngành xây dựng trên thế giới là nơi hội tụ và đầu tư an toàn của các nhà đầu tư tư nhân và Chính Phủ các nước. Việc giá dầu tăng và ổn định cũng giúp các nước trong khu vực cải thiện được cán cân thanh toán và tích lũy phát triển kinh tế.

60

Việc hình thành các khu vực kinh tế trung tâm trong thời gian dài đã phát huy hiệu quả và thu hút được nguồn vốn khổng lồ đầu tư dài hạn vào các lĩnh vực xây dựng, thương mại, cơ sở hạ tầng, khách sạn và đạt được tăng trưởng mạnh mẽ cho đến khi khu vực này chịu sự tác động mạnh mẽ của suy thoái kinh tế thế giới bắt đầu từ năm 2008. Việc suy thoái kinh tế thế giới cũng ảnh hưởng và gây nhiều khó khăn cho việc triển khai các dự án xây dựng và đầu tư cơ sở hạ tầng qua đó cũng tác động tới tốc độ phát triển kinh tế chung của khu vực. Hơn nữa, nền kinh tế hiện nay đang có dấu hiệu phục hồi là tín hiệu tốt và đầy hứa hẹn cho ngành xây dựng tiếp tục tăng trưởng. Chính Phủ các nước trên thế giới đưa ra nhiều sáng kiến bổ sung và khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân tham gia đầu tư vào các lĩnh vực đầu tư cơ sở hạ tầng, xây dựng các khu chung cư, dịch vụ, năng lượng và khách sạn… Công nghệ khoa học và kỹ thuật xây dựng ngày càng hiện đại các công trình trên thế giới ngày càng phong phú đa dạng về cả hình thức

kiến trúc công năng, chiều cao, sự đồ sộ, quy mô và phục vụ nhu cầu của mọi người ngày càng cao.

2.1.2. Lịch sử phát triển công nghệ xây dựng Việt Nam

Trên thế giới, ngành xây dựng luôn được coi là ngành kinh tế quan trọng, là bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế quốc dân. ở nhiều nước trên thế giới, trong bảng xếp hạng các ngành tạo nguồn thu chủ yếu và sử dụng nhiều lao động của nền kinh tế, ta luôn thấy có tên ngành xây dựng. Ở Việt Nam cũng vậy. Khi tổng kết bức tranh kinh tế toàn cảnh người ta thường chú ý tới 3 chỉ số: việc sử dụng đất đai, việc sử dụng lao động và sản lượng. Những số liệu thống kê chính thức trong nhiều năm đã cho phép chúng ta cùng hình dung ra các nét cơ bản nhất của ngành công nghiệp xây dựng. Tổng thể trong những năm trước đây, ngoại trừ những giai đoạn khủng hoảng của nền kinh tế thì ngành công nghiệp xây dựng chiếm tỷ trọng khá lớn trong GDP của cả nước.Theo các số liệu gần đây nhất (2003 – 2005) thì hiện nay ở VN, ngành xây dựng là ngành trực tiếp và gián tiếp đào tạo việc làm cho khoảng 15% lực lượng lao động và chiếm gần 15% GDP. Như vậy, trong mối quan hệ ở nền kinh tế, ngành xây dựng đang càng mở rộng vị thế của mình so với các ngành khác trên cơ sở ngày càng phát triển tỷ trọng đóng góp của ngành vào cuộc thu nhập quốc dân, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Nghiên cứu ngành xây dựng trong mối tương quan với những ngành xây dựng của các nước khác trên thế giới, chúng ta sẽ có dịp thấy thêm nhiều tính chất mới và tầm vóc của ngành xây dựng.

Xây dựng cơ bản giữ một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Vai trò và ý nghĩa của xây dựng cơ bản có thể nhìn thấy rõ từ sự đóng góp của lĩnh vực này trong quá trình tái sản xuất tài sản cố định cho nền kinh tế quốc dân thông qua các hình thức xây dựng mới, cải tạo sửa chữa lớn hoặc khôi phục các công trình hư hỏng hoàn toàn. Cụ thể hơn, xây dựng cơ bản là một trong những lĩnh vực sản xuất vật chất lớn của nền kinh tế quốc dân, cùng các ngành sản xuất khác, trước hết là ngành công nghiệp chế tạo và ngành công nghiệp vật liệu xây dựng, nhiệm vụ của ngành xây dựng là trực tiếp thực hiện và hoàn thành khâu cuối cùng của quá trình hình thành tài sản cố định (thể hiện ở những công trình nhà xưởng bao gồm cả thiết bị và công nghệ lắp đặt kèm theo) cho toàn bộ các lĩnh vực sản xuất của nền kinh tế quốc dân và các lĩnh vực phi sản xuất khác. Ở đây nhiệm vụ chủ yếu của các đơn vị xây dựng là kiến tạo các kết cấu công trình để làm vật bao che, nâng đỡ lắp đặt máy móc cần thiết để đưa chúng vào sử dụng.

Công trình xây dựng có ý nghĩa rất lớn về mặt kỹ thuật, kinh tế, chính trị, xã hội,

nghệ thuật.

61

Về mặt kỹ thuật các công trình sản xuất được xây dựng lên là thể hiện cụ thể của đường lối phát triển khoa học kỹ thuật của đất nước là kết tinh hầu hết các thành tựu khoa học kỹ thuật đã đạt được ở chu kỳ trước và sẽ góp phần mở ra một chu kỳ phát triển mới của khoa học và kỹ thuật ở giai đoạn tiếp theo.

Về mặt kinh tế các công trình được xây dựng lên là thể hiện cụ thể đường lối phát triển kinh tế của nền kinh tế quốc dân, góp phần tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho đất nước, làm thay đổi cơ cấu của nền kinh tế quốc dân, đẩy mạnh tốc độ và nhịp điệu tăng năng xuất lao động xã hội và phát triển của nền kinh tế quốc dân

Về mặt chính trị và xã hội các công trình được xây dựng lên sẽ góp phần mở rộng các vùng công nghiệp và các khu đô thị mới

Về mặt văn hóa và nghệ thuật các công trình được xây dựng lên ngoài việc góp phần mở mang đời sống cho nhân dân, đồng thời còn làm phong phú thêm cho nền nghệ thuật của đất nước.

Về mặt quốc phòng các công trình được xây dựng lên góp phần tăng cường tiềm lực quốc phòng của đất nước, mặt khác khi xây dựng chúng đòi hỏi phải tính toán kết hợp với vấn đề quốc phòng

Tóm lại, trong khuôn khổ nền kinh tế khổng lồ thì ngành xây dựng nước ta được

coi là ngành quan trọng nhất.

Ngày 29-4-1958, theo Nghị quyết của kì họp thứ VIII Quốc hội khoá I do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ tọa đã quyết định thành lập Bộ Kiến trúc - nay là Bộ Xây dựng. Từ đó đến nay, ngày 29-4 hàng năm đã trở thành ngày truyền thống của ngành Xây dựng Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước với sự nỗ lực của toàn thể cán bộ công nhân viên trong suốt chặng đường 42 năm phát triển, ngành Xây dựng đã đạt được nhiều thành tựu góp phần vào những thắng lợi to lớn của cả nước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những thành tựu trong 42 năm qua của ngành Xây dựng gắn liền với những sự kiện trong lịch sử giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất nước ta. Đặc biệt sau khi hoàn thành cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, ngành Xây dựng đã đi đầu lòng sự nghiệp xây dựng lại đất nước. Những kết quả trong giai đoạn này đã gắn liền với sự trưởng thành nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng của đội ngũ những người xây dựng, sự hi sinh phấn đấu của các thế hệ và sự chỉ đạo của các đồng chí lãnh đạo tiền nhiệm của ngành Xây dựng. Sự phát triển và trưởng thành của ngành Xây dựng là thành quả của sự đổi mới về lượng và về chất, thể hiện trên các mặt chính như sau:

1. Về công tác quản lý nhà nước:

62

Từ khi chuyển sang thời kì đổi mới đến nay, Bộ và toàn ngành Xây dựng đã nỗ lực phấn đấu vượt qua mọi khó khăn thử thách, tạo được chuyển biến tích cực, đúng hướng và toàn diện trong quản lí nhà nước, chỉ đạo điều hành và thực hiện phát triển sản xuất kinh doanh. Bộ đã phân định rõ chức năng quản lí nhà nước và quản lí sản xuất kinh doanh, mạnh dạn trao quyền tự chủ cho các đơn vị kinh tế cơ sở, hướng dẫn và thúc đẩy các sở xây dựng thực hiện chức năng quản lí nhà nước đối với ngành tại các tỉnh, thành phố. Tiến hành các đợt kiện toàn bộ máy cơ quan Bộ, xây dựng chức năng, nhiệm vụ, quy chế tổ chức cho phù hợp với quy chế mới. Đồng thời kiện toàn và sắp xếp lại hệ thống tổ chức sản xuất kinh doanh trong ngành, bằng cách sáp

nhập, nâng cấp chuyển hoá mở rộng quyền hạn và tinh giản bộ máy quản lí tại các đơn vị cơ sở. Tạo môi trường lành mạnh cho sản xuất và kinh doanh phát triển.

Để góp phần đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Bộ đã nghiên cứu đề ra các chiến lược, định hướng phát triển và các cơ chế, chính sách của ngành. Tổ chức các hội nghị, hội thảo để trao đổi và thống nhất với các cấp, các ngành về quan điểm, nhận thức đối với các nội dung đổi mới. Bộ đã và đang soạn thảo mới, bổ sung, thay thế các văn bản pháp quy trình Nhà nước ban hành, hoặc ban hành theo thẩm quyền để ngày càng hoàn thiện môi trường pháp lí quản lí các lĩnh vực do Bộ phụ trách cho phù hợp với cơ chế thị trường, hội nhập các nước. Đồng thời Bộ đã tiến hành nhiều đợt thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các thủ tục, pháp quy, chủ trương, chính sách của ngành tại nhiều cơ quan, đơn vị thuộc các ngành, các cấp. Đã tổ chức và thúc đẩy sự hoạt động thường xuyên của hệ thống giám sát chất lượng công trình xây dựng và sản phẩm vật liệu xây dựng.

2. Về công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật và công nghệ:

Đã có những tiến bộ đáng kể. Từ một viện thí nghiệm vật liệu xây dựng lúc ban đầu, đến nay trực thuộc Bộ đã có các viện nghiên cứu về khoa học công nghệ xây dựng, vật liệu xây dựng, kiến trúc, quy hoạch đô thị, nông thôn, môi trường, khoa học quản lí kinh tế xây dựng... Các tổ chức nghiên cứu khoa học kĩ thuật, khoa học quản lí cũng được hình thành ở các địa phương và các doanh nghiệp. Hàng vạn sáng kiến, hàng ngàn đề tài nghiên cứu (R), nghiên cứu ứng dụng (R & D) đã được công nhận và phát huy hiệu quả. Trong thời kì nền kinh tế đất nước còn khó khăn, trang thiết bị yếu kém... những sáng kiến, những đề tài nghiên cứu đã góp phần tích cực trong các hoạt động của ngành.

Trong thời kì đổi mới, việc nghiên cứu khoa học công nghệ càng được chú trọng, đã giải quyết được hàng loạt vấn đề về chuyển giao công nghệ mới, ứng dụng những tiến bộ kĩ thuật trong xây dựng, trong sản xuất vật liệu xây dựng và trong các tiêu chuẩn, quy trình quy phạm để từng bước hội nhập với cộng đồng thế giới. Đội ngũ những người làm công tác khoa học, công nghệ đã phát triển và trưởng thành; có khả năng giải quyết nhiều vấn đề kĩ thuật phức tạp trong xây dựng các công trình công nghiệp, dân dụng quy mô lớn ở Việt Nam như xử lí nền móng, castơ, xử lí chống lún, chống dột; xây dựng và lắp ráp nhà máy lớn (không có chuyên gia kĩ thuật nước ngoài) như Xi măng Hà Tiên, Xi măng Hoàng Thạch, Xi măng Bút Sơn...; làm chủ được nhiều công nghệ hiện đại trong công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng như kĩ thuật sản xuất xi măng theo phương pháp khô, kĩ thuật sản xuất sứ vệ sinh, gạch lát ceramic, kính xây dựng, công nghê thông tin trong điều hành sản xuất, điều hành quản lí...

3. Về công tác đào tạo cán bộ:

63

Được hết sức coi trọng, đã bổ sung nhanh cả về số lượng và chất lượng, là nhân tố và động lực quan trọng trong quá trình phát triển của ngành. Bắt đầu từ một trường

và một lớp nhỏ đào tạo cán bộ kỹ thuật, kiến trúc sư vào cuối thập kỷ 50, đến nay toàn ngành đã có một hệ thống, một mạng lưới đào tạo ngành nghề tương đối đồng bộ và hoàn chỉnh, bao gồm các trường đào tạo kiến trúc sư, kỹ sư, cán bộ quản lí, cán bộ kĩ thuật trên đại học, các trường kỹ thuật nghiệp vụ, trường đào tạo công nhân kỹ thuật ở trung ương và địa phương. Cùng với việc đào tạo trong nước, nhiều cán bộ, công nhân được cử đi học tập ở nước ngoài (đặc biệt là đối với các cán bộ quản lí cán bộ cao cấp kĩ thuật, quản lí và các công nhân thuộc ngành nghề mới, kĩ thuật phức tạp).

Qua 42 năm hoạt động, ngành Xây dựng không ngừng trưởng thành và phát triển. Đến nay lực lượng toàn ngành đã có tới 35 vạn người; trong đó thuộc trung ương 23 vạn, thuộc địa phương 12 vạn. Riêng Bộ Xây dựng có trên 14 vạn cán bộ, công nhân. Về cán bộ khoa học, kĩ thuật chuyên môn, nghiệp vụ, toàn ngành có trên 43.000 người, trong đó Bộ Xây dựng có trên 22.000 người. Cán bộ có trình độ đại học toàn ngành là gần 20.000 người, trong đó Bộ xây dựng có trên 11.000 người. Cán bộ có trình độ tiến sĩ toàn ngành có 220 người, trong đó Bộ Xây dựng có 200 người. Thạc sĩ có trên 200 người, trong đó Bộ Xây dựng có gần 150 người. Chất lượng cán bộ kỹ thuật ngày càng được nâng cao, đáp ứng các yêu cầu về trình độ quản lí, trình độ kỹ thuật chuyên môn, chính trị và ngoại ngữ.... Chất lượng đội ngũ công nhân kĩ thuật cũng được đổi mới, từ tác phong công nghiệp đến cơ cấu ngành nghề. Hầu hết các công trình xây dựng quy mô lớn, các sản phẩm vật liệu xây dựng kĩ thuật cao... do trong nước hoặc nước ngoài đầu tư đều do bàn tay của người công nhân ngành Xây dựng thực hiện và làm chủ được ngành nghề.

4. Về công tác thi đua:

Ngay từ những năm đầu thành lập, Lãnh đạo Bộ, Công đoàn Xây dựng Việt Nam đã tổ chức và phát động nhiều phong trào thi đua. Từ phong trào thi đua "Mọi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt" do Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi; phong trào thi đua "Phát huy sáng kiến, cải tiến kĩ thuật, nâng cao năng suất lao động", phong trào thi đua năng suất cao" trước đây, đến các phong trào thi đua "Năng suất cao - Quản lí giỏi" hiện nay, là những phong trào thi đua liên tục được cán bộ, công nhân viên trong ngành hưỏng ứng tích cực, dấy lên các cao trào lao động sản xuất sôi nổi 42 năm qua. Vận dụng sáng tạo các phong trào thi đua vào từng nhiệm vụ, từng lĩnh vực công tác, từng công trình xây dựng, đặc biệt đối với những dự án quan trọng, trọng điểm của Nhà nước, các phong trào thi đua đã có tác dụng rất lớn. Nhiều nơi đã trở thành phong trào thi đua quốc tế lôi cuốn được cán bộ công nhân các nước bạn cùng tham gia như tại công trình Điện Phả Lại, Thuỷ điện Hoà Bình, Trị An, Apatit Lào Cai, Kính Đáp Cầu, Xi măng Bỉm Sơn tăng và Bảo tàng Chủ tịch Hồ Chí Minh.... Phong trào thi đua bảo đảm chất lượng công trình, chất lượng sản phẩm xây dựng" đã cuốn hút cả các ngành, các địa phương có công trình xây dựng tham gia.

64

Đảng và Nhà nước đánh giá cao những thành quả của ngành Xây dựng trong 42 năm qua, và đã tuyên dương 9 tập thể Anh hùng, 24 cá nhân là Anh hùng lao động, tặng thưởng hàng ngàn huân chương các loại; trong đó có Huân chương Sao vàng

(1998), Huân chương Hồ Chí Minh (1994), 25 Huân chương Độc lập và một số giải thưởng Hồ Chí Minh.

- Chương trình khung tổ chức thực hiện định hướng qui hoạch tổng thể phát triển

đô thị và định hướng phát triển cấp nước đô thị việt nam đến năm 2020.

- Định hướng phát triển thoát nước đô thị Việt Nam đến năm 2020.

- Định hướng phát triển nhà ở đến năm 2010.

- Chiến lược phát triển khoa học công nghệ ngành Xây dựng đến năm 2010 với

tầm nhìn 2020.

- Qui hoạch tổng thể ngành công nghiệp vật liệu xây dựng ở việt nam đến năm

2010 và định hướng đến năm 2020.

- Hoạt động hợp tác quốc tế Bộ Xây dựng.

- Định hướng phát triển kiến trúc việt nam đến năm 2020.

2.2. Các đặc điểm của ngành xây dựng

- Xây dựng cơ bản (XDCB) là ngành sản xuất vật chất độc lập có chức năng tái sản xuất tài sản cố định cho nền kinh tế quốc dân. Nó tạo nên cơ sở vật chất cho xã hội, tăng tiềm lực kinh tế và quốc phòng của đất nước. Hơn thế nữa, đầu tư XDCB gắn liền với việc ứng dụng các công nghệ hiện đại do đó góp phần thúc đẩy sự phát triển của khoa học kỹ thuật đối với các ngành sản xuất vật chất. Nó có tác động mạnh mẽ tới hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh. Vì vậy, một bộ phận lớn của thu nhập quốc dân nói chung và quỹ tích luỹ nói riêng với vốn đầu tư, tài trợ của nước ngoài được sử dụng trong lĩnh vực XDCB.

- So với các ngành sản xuất khác, XDCB có những đặc điểm kinh tế kỹ thuật đặc trưng, được thể hiện rất rõ ở sản phẩm xây lắp và quá trình sáng tạo ra sản phẩm của ngành.

- Đặc điểm của sản phẩm xây lắp là có quy mô lớn, kết cấu phức tạp, thời gian sử dụng lâu dài, có giá trị lớn đòi hỏi các nhà xây dựng phải dự đoán trước xu hướng tiến bộ xã hội để tránh bị lạc hậu. Phong cách kiến trúc và kiểu dáng một sản phẩm cần phải phù hợp với văn hoá dân tộc. Trên thực tế, đã có không ít các công trình xây dựng trở thành biểu tượng của một quốc gia như chùa Một cột ở Hà nội, tháp Ephen ở Pari... và do đó chất lượng của các công trình xây dựng cũng phải được đặc biệt chú ý. Nó không chỉ ảnh hưởng tới tuổi thọ của công trình và còn ảnh hưởng tới sự an toàn cho người sử dụng.

65

- Sản phẩm xây lắp mang tính tổng hợp phát huy tác dụng về mặt kinh tế, chính trị, kế toán, nghệ thuật... Nó rất đa dạng nhưng lại mang tính độc lập, mỗi một công trình được xây dựng theo một thiết kế, kỹ thuật riêng, có giá trị dự toán riêng và tại một địa điểm nhất định, nơi sản xuất ra sản phẩm cũng đồng thời là nơi sau này khi sản phẩm hoàn thành được đưa vào sử dụng và phát huy tác dụng. Những đặc điểm này có tác động lớn tới giá trị sản xuất ngành xây dựng.

- Quá trình từ khi khởi công cho đến khi hoàn thành công trình bàn giao và đưa vào sử dụng thường kéo dài. Nó phụ thuộc quy mô và tính chất phức tạp về kỹ thuật của từng công trình. Quá trình thi công được chia thành nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn thi công lại chia thành nhiều công việc khác nhau, các công việc chủ yếu diễn ra ngoài trời chịu tác dộng rất lớn của các nhân tố môi trường xấu như mưa, nắng, lũ, lụt... đòi hỏi các nhà xây dựng phải giám sát chặt chẽ những biến động này để hạn chế đến mức thấp nhất những ảnh hưởng xấu của nó.

- Sản phẩm xây dựng là sản phẩm đơn chiếc và được tiêu thụ theo cách riêng. Các sản phẩm được coi như tiêu thụ trước khi được xây dựng theo giá trị dự toán hay giá thoả thuận với chủ đầu tư (giá đấu thầu) do đó tính chất hàng hoá của sản phẩm xây lắp không được thể hiện rõ bởi vì sản phẩm xây lắp là hàng hoá đặc biệt.

2.3. Những đặc điểm kinh tế – kỹ thuật của sản phẩm xây dựng

2.3.1. Một sô đặc điểm về giá cả

Giá cả của sản phẩm Xây dựng có các đặc điểm sau:

+ Giá cả sản phẩm xây dựng có tính cá biệt cao vì nó phụ thuộc vào: điểm đặt của công trình xây dựng (điều kiện địa chất, thuỷ văn, cự ly vận chuyển…), phương án tổ chức xây dựng, công nghệ thi công, thời điểm và thời gian xây dựng, ý muốn của người có công trình xây dựng;

+ Quá trình hình thành giá công trình xây dựng kéo dài kể từ lúc đấu thầu đến khi kết thúc xây dựng, thanh và quyết toán;

+ Không thể định sẵn giá cho một sản phẩm xây dựng cuối cùng, mà chỉ có thể định sẵn phương pháp tính toán giá cả, định mức và đơn giá để tính nên giá của sản phẩm xây dựng. Đồng thời trong quá trình xây dựng có thể có phát sinh các chi phí mới không lường trước được;

+ Trong xây dựng có nhiều loại giá: giá xét thầu, giá tranh thầu, giá hợp đồng, giá thanh quyết toán công trình, giá cứng, giá mềm, giá trần, giá sàn, giá bắt buộc, giá thoả thuận…

+ Giá xây dựng công trình hình thành chủ yếu thông qua đấu thầu và đàm phán; + Về mặt giá cả cũng như đã nói ở trên, chủ đầu tư (bên mua) giữ vai trò quyết định đối với mức giá công trình thông qua đấu thầu hoặc chỉ định thầu;

+ Giá xây dụng có nhiều tên gọi và cách tính khác nhau tuỳ thuộc vào giai đoạn đầu tư và ý đồ quản lý như: tổng mức đầu tư, tổng dự toán công trình, giá trị dự toán chi tiết các hạng mục công trình và các công việc xây lắp (trình bày cụ thể trong chương Quản lý chi phí xây dựng và phương pháp xác định chi phí xây dựng), giá hợp đồng, giá thanh quyết toán…

66

+ Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành giá cả các công trình xây dựng do vốn ngân sách của Nhà nước cấp hoặc do vốn của doanh nghiệp Nhà nước

bỏ ra thông qua các định mức, đơn giá, phương pháp tính toán chi phí xây dựng và các định hướng về giải pháp xây dựng cũng như các luật có liên quan đến xây dựng.

2.3.2. Một sô đặc điểm về marketing trong xây dựng

Khác với các ngành khác, marketing trong xây dựng có những đặc điểm sau:

- Về chính sách sản phẩm trong xây dựng, ví dụ kiểu, dáng công trình xây dựng không phải do chủ thầu xây dựng thiết kế mà do đơn vị tư vấn (do chủ đầu tư thuê) thực hiện (trừ trường hợp áp dụng hình thức tổng thầu “chìa khoá trao tay”. Nghĩa là sản phẩm đích thực của chủ thầu xây dựng chỉ là các giải pháp công nghệ thi công mà họ đem chào hàng và tham gia tranh thầu;

- Về chính sách giá cả trong xây dựng chịu nhiều ảnh hưởng của các đặc điểm của giá cả trong xây dựng (như đã trình bày ở trên);

- Về chính sách giao tiếp và quảng cáo trong xây dựng diễn ra chủ yếu trong giai đoạn tranh thầu, quảng cáo là chính;

- Về chính sách tiêu thụ trong xây dựng chịu ảnh hưởng của quá trình tiêu thụ sản phẩm xây dựng (như một số đặc điểm về quá trình tiêu thụ sản phẩm trình bày ở trên). Các kênh tiêu thụ là chủ đầu tư có công trình xây dựng, không có các tổ chức đại lý bán hàng; các kênh tiêu thụ này chỉ có thể hoạt động khi quá trình đấu thầu xây dựng bắt đầu.

2.3.3. Một số đặc diêm về vai trò của Nhà nước

Trong nền kinh tế thị trường thuộc lĩnh vực xây dựng, vai trò của Nhà nước được đề cao hơn các ngành sản xuất khác vì:

+ Công việc xây dựng liên quan chặt chẽ đến việc sử dụng đất đai, nó là một loại tài sản chung của quốc gia;

+ Xây dựng có liên quan đến môi trường tự nhiên, do đó Nhà nước cần có sự quản lý xây dựng chặt chẽ để bảo vệ môi trường;

67

+ Khối lượng xây dựng do ngân sách Nhà nước cấp tương đối lớn, nhất là trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng văn hoá – xã hội. Nên Nhà nước phải có sự quản lý trong lĩnh vực định mức, đơn giá nói riêng và trong Lĩnh vực đầu tư xây dựng nói chung. Ngoài ra, ở Việt nam có những đặc điểm xuất phát từ hoàn cảnh kinh tế xã hội, đã tác động không nhỏ tới công tác tổ chức sản xuất trong toàn ngành xây dựng. Lực lượng xây dựng ở nước ta rất đông đảo, đa dạng các loại hình tổ chức và hoạt động, song còn phân tán manh mún, chưa tập trung thành những doanh nghiệp có quy mô lớn, trình độ trang bị máy móc thiết bị tiên tiến còn rất hạn chế. Đội ngũ công nhân lành nghề thiếu. Do đó khả năng đáp ứng yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước còn thấp, khả nâng cạnh tranh với các tập đoàn xây dựng quốc tế để thắng thầu các công trình có quy mô lớn, kỹ thuật phức tạp còn hạn chế. Biện pháp hữu hiệu là thành lập hiệp hội các nhà thầu nhằm tăng khả năng cạnh tranh đối với các nhà thầu quốc tế.

3. QUẢN LÝ CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG

Như đã nêu trong các phần trước, Nhà nước có vai trò quyết định đối với sự phát triển KH&CN quốc gia trên tất cả các phương diện như phát triển nguồn lực, hệ thống thể chế - tổ chức, kết quả và hiệu qủa hoạt động của nó cũng như mức độ và quy mô đóng góp của KH&CN cho sự phát triển kinh tế-xã hội đất nước. Vì không có một học thuyết quản lý và kinh tế chung cho mọi nền kinh tế, cho nên việc quản lý các hoạt động KH&CN của mỗi Nhà nước phải căn cứ vào đối tượng của mình, vào hệ thống tổ chức và môi trường kinh tế xã hội, văn hoá của nó. Quản lý Nhà nước đối với hoạt động KH&CN có những điểm riêng so với quản lý các ngành kinh tế, kỹ thuật hoặc văn hoá xã hội. Khoa học và công nghệ với tư cách là một ngành kinh tế, kỹ thuật đặc thù, đòi hỏi chủ thể quản lý Nhà nước cần có một phương thức quản lý phù hợp và đạt hiệu quả kinh tế-xã hội cao.

3.1. Cơ sở lý luận của quản lý Khoa học và Công nghệ

Theo cách tiếp cận hệ thống, mọi tổ chức (cơ quan quản lý Nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp...) đều có thể được xem như một hệ thống gồm hai phân hệ: chủ thể quản lý và đối tượng quản lý. Mỗi hệ thống bao giờ cũng hoạt động trong môi trường nhất định (khách thể quản lý). Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý là đối tượng quản lý và khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực, các thời cơ của tổ chức để đạt mục tiêu đề ra trong điều kiện môi trường luôn biến động. Quan hệ quản lý là một mối quan hệ con người giữa chủ thể và đối tượng quản lý trong môi trường xác định. Chủ thể quản lý luôn là con người và có cơ cấu tổ chức phụ thuộc vào quy mô, độ phức tạp của đối tượng và khách thể quản lý. Với các tổ chức nhỏ, chủ thể quản lý thường chỉ là một cá nhân. Mọi tổ chức hoặc một lĩnh vực hoạt động rộng lớn như một ngành kinh tế kỹ thuật cơ bản của đời sống xã hội như: kinh tế, quốc phòng- an ninh, khoa học- công nghệ, giáo dục, y tế...hay một xã hội, đòi hỏi chủ thể quản lý của nó phải là một hệ thống tổ chức có sự phân công thành các cấp bậc, chức vị và chuyên môn- chuyên ngành quản lý khác nhau. Bản thân các chủ thể quản lý này lại là đối tượng chịu sự quản lý của người lãnh đạo tổ chức đó hoặc là của tổ chức khác theo quy định. Chủ thể phải thực hành việc tác động và phải biết tác động quản lý. Vì thế, đòi hỏi chủ thể phải biết tác động và điều khiển đối tượng một cách có hiệu quả. Chủ thể quản lý cần sử dụng nguồn lực nhất định và dựa vào các nguồn lực này để thực hiện các chức năng quản lý (quản trị): Hoạch định, tổ chức, lãnh đạo, kiểm tra, cũng như xác định mục tiêu quản lý.

68

Đối tượng quản lý chịu sự tác động điều khiển, tác động của chủ thể quản lý. Đối tượng quản lý là các tổ chức và cá nhân cũng như các nguồn lực của nó. Đối tượng quản lý có mối tác động phản hồi với chủ thể quản lý, làm cho các thông tin, tác động và quyết định quản lý phát ra từ chủ thể quản lý tăng thêm hiệu quả hoạt động và đạt mục tiêu của toàn hệ thống. Đối tượng quản lý rất đa dạng, phong phú và thường xuyên biến đổi theo môi trường (khách thể quản lý). Đây là vấn đề cốt lõi của hoạt

động quản lý, do vậy cần có nhận thức đúng đắn và phù hợp với xu thế phát triển của xã hội và nhân loại.

Mối quan hệ giữa các đối tượng quản lý

Các nguyên lý cơ bản của quản lý nhà nước về KH&CN: Để quản lý nhà nước về KH&CN hợp lý và hiệu quả, cần tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau:

1. Nguyễn tắc về sự thống nhất giữa khoa học và kinh tế có định hướng của Nhà nước, bao trùm lên tất cả để gắn hoạt động KH&CN với các hoạt động kinh tế. (Phải thể hiện trên tất cả các mặt kế hoạch, đầu tư, tổ chức chỉ đạo thực hiện ). Điều đặc biệt quan trọng là văn bản quy phạm pháp luật phải được lồng ghép trong các văn bản hành chính, pháp lý chung. Chính sách, pháp luật, kế hoạch, biện pháp, tổ chức, đầu tư đều phải gắn bó với kinh tế.

69

2. Nguyên tắc kết hợp với cơ chế tác động của thị trường: Các chủ trương, biện pháp quản lý KH&CN đề ra phải căn cứ vào nhu cầu của thị trường, bám sát thị trường.

Thị trường có sức hút các kết quả nghiên cứu một cách mạnh mẽ. Mặt khác, sự chủ động và sáng tạo của nhà khoa học (và tập thể khoa học) có tác dụng đi trước thúc đẩy, gợi ý, mở đường cho sản xuất kinh doanh phát triển.

3. Nguyên tắc kết hợp tập trung- dân chủ: Đó là sự tập trung nguồn lực, nỗ lực vào một đích, là nhân tố quyết định thành công cho mọi hình thái hoạt động. Trong khi đó, giải quyết các bài toán kỹ thuật, công nghệ đòi hỏi tính sáng tạo linh hoạt cao độ. Cần phát huy sáng tạo của mọi thành viên, đa dạng hoá các phương án, biện pháp để lựa chọn phương án và biện pháp triển khai thực hiện tốt nhất.

4. Nguyên tắc phân công, phân cấp: Các tổ chức phải có sự phân công, phân cấp rành mạch để tập trung vào giải quyết hiệu quả và có sự phối hợp để phát huy thế mạnh từng thành viên tạo sức mạnh tổng hợp.

5. Nguyên tắc tham gia cộng đồng: Tiến bộ KH&CN về bản chất là một quá trình xã hội. Cần tạo lập cơ chế hút - đẩy. Xã hội hóa trong quản lý KH&CN có ý nghĩa to lớn đến sự phát triển KH&CN (bao gồm cả đầu tư).

6. Nguyên tắc kế thừa và phát triển: Sự phát triển của công nghệ luôn có sự kế thừa. Sự sáng tạo có kế thừa là sáng tạo gấp đôi, gấp ba cái đáng ra có thể làm được, do đó làm tăng hiệu quả trong việc nghiên cứu ra cái mới, sản phẩm mới. Trong quản lý KH&CN cần có biện pháp tránh trùng lặp, nhưng phải kế thừa được cái đã nghiên cứu, đã làm.

Quản lý phải trả lời các câu hỏi: “Phải đạt mục tiêu nào?”, “Phải đạt mục tiêu như thế nào và bằng cách nào?”, “Đạt được mục tiêu kết quả quản lý để làm gì?”

Quản lý hướng vào mục tiêu chung

70

Quản lý chính là sự kết hợp được nỗ lực chung của mọi người trong tổ chức và sử dụng tốt nhất các nguồn lực để đạt tới mục tiêu chung của tổ chức và mục tiêu riêng của mỗi người một cách khôn khéo và có hiệu quả nhất. Thực chất của quản lý là quản lý con người trong tổ chức, thông qua đó sử dụng có hiệu quả nhất mọi tiềm năng và cơ hội của tổ chức. Quản lý ra đời chính là để tạo ra hiệu quả hoạt động cao hơn hẳn so với việc làm của từng cá nhân riêng rẽ (Mô hình quản lý theo” Đàn sếu bay” của Nhật Bản). Các vấn đề nêu trên và Quản lý KH&CN trong phạm vi một quốc gia đã nêu trong mục 2.2 chương 2 là cơ sở lý luận quan trọng để xác định những nội dung chủ yếu của quản lý KH&CN ở nước ta. Con người sáng tạo ra mọi hệ thống quản lý, trực tiếp vận hành, đổi mới, hoàn thiện nó nhưng lại bị hệ thống quản lý chi phối trở lại. Hệ thống quản lý khoa học, dân chủ là sản phẩm của trí tuệ tập thể, có tác động khơi nguồn mọi động lực, khuyến khích mọi tài năng sáng tạo ra cái mới.

3.2. Những nội dung chủ yếu của quản lý KH&CN ở Việt Nam

Trong Luật khoa học và công nghệ đã quy định các nội dung quản lý Nhà nước về khoa học và công nghệ do Bộ Khoa học và Công nghệ chịu trách nhiệm:

1. Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách, chiến lược, kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ, quy hoạch mạng lưới tổ chức khoa học và công nghệ công lập;

2. Xây dựng và phê duyệt phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ khoa học và công nghệ 05 năm và hằng năm;

3. Thống nhất quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ các cấp; hướng dẫn xây dựng và tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước các cấp, trực tiếp quản lý và tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia; xây dựng và tổ chức thực hiện nhiệm vụ trong chương trình, đề án khoa học và công nghệ đã được

Thủ tướng Chính phủ phê duyệt;

4. Quản lý, sử dụng hiệu quả ngân sách nhà nước đầu tư cho khoa học và công nghệ; xây dựng đề xuất cơ cấu, tỉ lệ chi ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ làm căn cứ cho việc giao dự toán ngân sách nhà nước hằng năm;

5. Thẩm định việc thành lập tổ chức khoa học và công nghệ công lập theo phân cấp của Chính phủ; cho phép thành lập tổ chức khoa học và công nghệ có vốn nước ngoài; đăng ký hoạt động khoa học và công nghệ theo thẩm quyền;

6. Xây dựng và quản lý hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia về khoa học và công nghệ; hệ thống thống kê khoa học và công nghệ và tiêu chí thống kê thống nhất trong cả nước; đẩy mạnh việc khai thác và sử dụng sáng chế; phát triển thị trường khoa học và công nghệ;

7. Tổ chức quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ về khoa học và công nghệ;

8. Tuyên truyền, phổ biến và tổ chức hướng dẫn thực hiện pháp luật về khoa học và công nghệ;

9. Hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ;

10. Thanh tra, kiểm tra hoặc phối hợp thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về khoa học và công nghệ; giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật về khoa học và công nghệ theo thẩm quyền; căn cứ kết quả kiểm tra và hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ của các cơ quan và tổ chức để đề xuất điều chỉnh việc phân bổ kinh phí

cho giai đoạn tiếp theo;

71

11. Thực hiện nhiệm vụ khác được Chính phủ ủy quyền hoặc phân công.

Trong luật cũng đã quy định trách nhiệm của Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang bộ và của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Môi trường hoạt động KH&CN của tổ chức luôn có sự biến đổi nhanh chóng. Những biến đổi nhanh chóng của môi trường thường tạo ra những cơ hội và nguy cơ bất ngờ. Quản lý giúp đỡ tổ chức thích nghi được với môi trường, nắm bắt và vận dụng tốt hơn các cơ hội và giảm bớt ảnh hưởng tiêu cực của các nguy cơ từ môi trường, đảm bảo sự phát triển ổn định và bền vững của tổ chức.

Qúa trình phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với quản lý, nhất là nội dung quản lý KH&CN cần phải thích ứng như:

• Sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, cả về quy mô cơ cấu và trình độ KH&CN làm tăng tính phức tạp của quản lý. Do vậy, đòi hỏi trình độ quản lý phải được nâng cao tương ứng với sự phát triển kinh tế.

• Cuộc cách mạng KH&CN đang diễn ra với tốc độ cao và quy mô rộng lớn trên phạm vi toàn cầu khiến cho quản lý có vai trò hết sức quan trọng và quyết định tới sự phát huy tác dụng của KH&CN đối với sản xuất và đời sống. Tuy nhiên, KH&CN không thể tự động xâm nhập vào sản xuất với hiệu quả mong muốn mà phải thông qua quản lý. Muốn phát triển KH&CN, kể cả việc tiếp nhận, chuyển giao từ nứơc ngoài vào và ứng dụng các thành tựu KH&CN vào sản xuất đời sống, Nhà nước và các tổ chức phải có chính sách và cơ chế quản lý phù hợp.

• Trình độ xã hội và các quan hệ xã hội ngày càng cao đòi hỏi quản lý phải thích ứng. Trình độ xã hội và các quan hệ xã hội thể hiện qua các mặt:

- Trình độ giáo dục và đào tạo, trình độ học vấn và trình độ văn hoá nói chung của mọi tầng lớp dân cư trong xã hội;

- Nhu cầu đòi hỏi về vật chất và tinh thần của xã hội ngày càng cao, càng đa dạng và phong phú;

- Yêu cầu dân chủ hoá đời sống kinh tế-xã hội, yêu cầu của người lao động được tham gia ngày càng nhiều hơn vào việc quyết định những vấn đề quan trọng trong xây dựng và phát triển đất nước cũng như các công việc của tổ chức;

- Hoạt động KH&CN là hoạt động sáng tạo, có tính đặc thù cao.

• Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế đang diễn ra nhanh chóng. Quá trình hội nhập kinh tế đòi hỏi Nhà nước và các tổ chức kinh tế, xã hội phải nâng cao trình độ quản lý và hình thành một cơ chế quản lý phù hợp để phát triển một cách hiệu quả và bền vững.

72

Trong chương trình đào tạo cao học ngành Quản lý KH&CN được cập nhật nhiều môn học như: Quản trị nguồn nhân lực, Quản trị tài chính, Quản trị chiến lược, Hành vi trong tổ chức, Quản lý chất lượng, Quản lý công nghệ, Cơ sở chính sách KH&CN, Sở hữu trí tuệ, Quản lý tri thức, Hệ thống thông tin trong quản lý, Văn hoá trong

quản lý,Xây dựng và Quản lý dự án, Kinh tế và Quản lý môi trường, Quản trị tiếp thị, Quản lý hành chính Nhà nước, Logistics, Pháp luật ...

3.3. Tiến trình quản lý và những đặc thù trong quản lý KH&CN

3.3.1. Tiến trình trong quản lý

Trên cơ sở nguyên lý của quản trị học, chủ thể quản lý ( Nhà quản trị) cần sử dụng hệ thống phương pháp và các công cụ quản lý các nguồn lực nhất định để thực hiện các chức năng quản lý nhằm đạt mục tiêu của mình với hiệu quả cao nhất trong môi trường hoạt động theo một trình tự nhất định:

Tiến trình quản lý chung

Tuy nhiên, trong thực tế, các chức năng quản lý nói trên cũng không được thực hiện một cách riêng biệt và theo một trình tự nhất định. Bởi lẽ các chức năng đó có liên hệ mật thiết với nhau và tại mọi thời điểm, người quản lý bao giờ cũng đồng thời thực hiện nhiều hoạt động và hơn thế nữa, một biến cố phát sinh trong quá trình thực hiện cũng có thể làm thay đổi cách thức phối hợp giữa các chức năng này.

3.3.2. Những đặc thù trong quản lý KH&CN

Trong quản lý KH&CN, môi trường quản lý là hoạt động của ngành KH&CN nằm trong một thể thống nhất với hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước, chịu sự chi phôi chung của hệ thống tổ chức và môi trường kinh tế xã hội, văn hoá của đất nước. Mặt khác hành động KH&CN với tư cách là một ngành kinh tế, kỹ thuật đặc thù, đòi hỏi chủ thể quản lý Nhà nước cần có một phương thức quản lý phù hợp để đạt hiệu quả kinh tế-xã hội cao. Tính đặc thù của hoạt động KH&CN thể hiện trên các mặt mà chủ thể quản lý cần chú ý thu thập và xử lý thông tin liên lạc trong tiến trình quản lý.

- Hoạt động KH&CN có bản chất là lao động sáng tạo. Sáng tạo là việc tạo lập cái mới, là sự phủ định biện chứng đối với cái hiện đang tồn tại, nó đòi hỏi các chủ thể hoạt động phải không được thoả mãn với nhứng tri thức và cách tiếp cận có sẵn, phải luôn tìm tòi, thử nghiệm, khám phá ... cho nên những vấp ngã, sai lầm của con người trong quá trình sáng tạo là những tất yếu.

73

- Chuyển dịch khoa học là đặc trưng quan trọng của phát triển KH&CN hiện đại, trong thời đại hiện nay, tốc độ đổi mới KH&CN rất nhanh, đánh dấu một trong

những chỉ tiêu quan trọng của trình độ, năng lực khoa học của một quốc gia, là năng lực theo kịp và tính thích ứng với KH&CN mới của thế giới để hội nhập và khai thác. Do vậy cần tính đến tính dự báo và tính lâu dài trong quản lý KH&CN.

Sản phẩm KH&CN là sản phẩm đặc biệt, khó đo đếm bằng tiền, là cơ sở cho một nền kinh tế dựa trên trí tuệ và có sự lan toả, kéo theo sự phát triển của các ngành và lĩnh vực xã hội khác. Nhà nước cần ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng cho KH&CN tạo điều kiện cho sản phẩm khoa học theo quy luật giá trị và quản lý tốt các nguồn lực của nó thì mới có thể phát triển kinh tế-xã hội của đất nước nhanh và bền vững. Lao động KH&CN đòi hỏi nhiều “chất xám”, nguồn nhân lực của nó phải được đào tạo chu đáo và thường xuyên được đào tạo lại để phù hợp với sự phát triển chung của thời đại. Do vậy KH&CN ngày càng có mối quan hệ khăng khít với ngành giáo dục. Mặt khác lao động KH&CN có tính tự do cao trong nghiên cứu khoa học, do đó cần có chính sách nhân sự và đãi ngộ thoả đáng với lao động chất xám để phát triển nguồn nhân lực, tạo môi trường hoạt động theo nhóm, theo trường phái nhằm phát huy hiệu quả, điều hoà phối hợp để đạt mục tiêu tổng thể.

3.4. Tính linh hoạt của quản lý KH&CN

Tính linh hoạt của quản lý KH&CN xuất phát từ 3 nguyên nhân chủ yếu:

1.Trong NCKH, có sự thay đổi nhanh chóng nhân tố chưa biết quá nhiều, cùng với sự dịch chuyển rất nhanh của KH&CN hiện đại, nhất là các lĩnh vực công nghệ cao, nó là đặc trưng quan trọng của phát triển KH&CN hiện đại. Do tốc độ đổi mới KH&CN rất nhanh, cho nên một trong những chỉ tiêu quan trọng của trình độ, năng lực khoa học của một quốc gia là năng lực theo kịp và thích ứng đối với KH&CN mới. Do đó trong quản lý KH&CN, khi hoạch định chiến lược, quy hoạch KH&CN phải chú ý từ khâu bồi dưỡng cán bộ đến khâu bố trí bộ máy, nhằm tăng cường năng lực ứng biến nhanh chóng, kịp thời của công tác NCKH.

2. Do đặc điểm tự thân lao động khoa học quyết định. Bởi lẽ lao động KH&CN là lao động trí óc, mang tính thăm dò tìm kiếm và sáng tạo là chính, sau khi đã chọn định đề tài nghiên cứu, căn cứ vào lý luận khoa học nhất định để hoạch định phương án nghiên cứu, kế hoạch thực thi. Trong quá trình nghiên cứu, thường hay xuất hiện những vấn đề không biết trước được, lúc đó phải căn cứ vào tình hình thực tế để thay đổi phương án, kế koạch, thậm chí có khi phải huỷ bỏ cả phương án, kế hoạch đã định trước, hoặc xem xét tới những nhân tố của nhiều mặt khác nhau, đặc biệt là yếu tố sáng tạo mới kỹ thuật, phải kịp thời huỷ bỏ, chuyển đề tài, để kế hoạch hoàn thành sớm, hoặc kéo dài... Điều này yêu cầu quản lý KH&CN không được cứng nhắc, máy móc mà phải có tính linh hoạt.

74

3. Độ tự do của bản thân lao động khoa học. Tâm lý sáng tạo khoa học là một trạng thái tâm lý phức tạp, đòi hỏi một sự thăng hoa của tư duy logic. Nhà khoa học đòi hỏi có một môi trường lao động thuận lợi, một trạng thái cuộc sống ổn định, một bầu không khí dân chủ. Thông thường, độ tự do của nghiên cứu do sự khác nhau của các loại hình nghiên cứu mà có sự khác

nhau đáng kể. Quản lý KH&CN thực chất cũng là tạo ra môi trường thuận lợi cho lao động sáng tạo có thể cho những kết quả tốt nhất.

3.5. Hoạch định trong quản lý KH&CN trong xây dựng

Trên cơ sở lý luận chung, hoạch định là một quá trình ấn định những nhiệm vụ, mục tiêu và các phương pháp tốt nhất để thực hiện các nhiệm vụ đó. Hoạch định là chức năng đầu tiên và cơ bản nhất trong hệ thống chức năng quản lý theo giai đoạn, nó là cơ sở của các chức năng còn lại. Nội dung cơ bản của hoạch định là xác định mục tiêu chương trình hành động và bước

75

đi cơ bản của tổ chức trong thời gian cụ thể. Hoạch định là nhằm ứng phó với sự thay đổi, là tập trung chú ý vào các mục tiêu, là tạo khả năng đạt các mục tiêu một cách kinh tế và là giúp cho các nhà quản lý có khả năng kiểm soát quá trình thực hiện. Trong hoạch định thường có hai loại: chiến lược và kế hoạch (tác nghiệp). Nguyên lý hoạch định Chiến lược KH&CN thể hiện trong hình sau.

Sơ đồ nguyên lý hoạch định chiến lược phát triển KH&CN

Xây dựng chiến lược chính là xác định mục tiêu nội dung và các biện pháp lớn có tính cơ bản để đạt đến mục tiêu quản lý, trên cơ sở các nguồn lực hiện có cũng như nguồn lực có khả năng huy động (nguyên tắc xây dựng chiến lược được giới thiệu trong môn học Quản trị chiến lược). Có nhiều loại chiến lược: Chiến lược tổng thể (Ví dụ: Chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Chiến lược phát triển KH&CN Việt Nam đến năm 2010...); Chiến lược của ngành, tổ chức... Các loại chiến lược đan xem nhau tạo thành một tổng thể để đạt mục tiêu chung. Ví dụ: chiến lược phát triển KH&CN Việt Nam có vai trò quan trọng để thực hiện chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bản thân các tổ chức, ngành cũng có chiến lược phát triển KH&CN của riêng mình để phục vụ cho việc thực hiện chiến lược phát triển KH&CN chung của đất nước... Đây cũng có thể gọi là kế hoạch dài hạn, có tính chất định hướng (đặc trưng) và có thể là đơn dụng.

Kế hoạch là cụ thể hoá chiến lược, hình thành các phương án hành động nhằm mục tiêu đã định. Trong kế hoạch thường gồm mục tiêu, biện pháp và những yếu tố đảm bảo cần thiết về nguồn lực: nhân lực, tài lực, vật lực, tin lực và theo tiến trình thời gian trong một khoảng thời gian nhất định (1-5 năm). Chiến lược thường là Kế họach dài hạn: trên 10 năm, còn gọi là chiến lược hay quy hoạch. Kế hoạch (chiến thuật) thường là ngắn hạn, cụ thể , thường xuyên.

Ví dụ: - Chiến lược phát triển KH&CN Việt Nam đến năm 2010, trong đó kế hoạch đơn dụng là kế hoạch xây dựng Khu Công nghệ cao Hoà Lạc, Khu Công nghệ cao thành phố Hồ Chí Minh… ;

- Kế hoạch thường trực là kế hoạch thực hiện các chương trình ưu tiên trọng điểm trong từng giai đoạn 5 năm về KHXH-NV, KHTN, KH&CN.

Các yêu cầu cơ bản đối với việc hoạch định trong quản lý KH&CN:

Có thể hiểu hoạch định là phải xác định: làm cái gì? làm như thế nào? khi nào làm? và ai sẽ làm? Do đó hoạch định đòi hỏi phải xác định đường lối một cách có ý thức và các quyết định đưa ra phải được dựa trên cơ sở các mục tiêu, sự hiểu biết và những đánh giá thận trọng. Có thể biểu diễn chức năng hoạch định theo tiến trình: Đường lối, Chiến lược, Kế hoạch và Chính sách vĩ mô và vi mô tương ứng.

Khi xây dựng “CHIẾN LƯỢC” yêu cầu đặt ra là đảm bảo tính “KHẢ THI”, đối với “CHÍNH SÁCH” là tính “HỢP LÝ”, và với “KẾ HỌACH” phải là tính “HIỆU QUẢ”. Các đòi hỏi này phải được quán triệt cả trong việc xác định mục tiêu, lựa chọn hướng hành động, thiết kế cấu trúc và cơ chế vận hành của hệ thống.

Các sai lầm thường gặp khi hoạch định chiến lược:

76

- “Duy ý chí”: Mong muốn nhiều, đặt ra mục tiêu quá cao nhưng không phù hợp với môi trường cho nên không khả thi.

- “Kỹ trị”: Trong quá trình hoạch định chiến lược diễn ra quá nhiều cuộc bàn luận và tính toán về những chỉ số chi tiết (mang tính kỹ thuật) mà quên mất những vấn đề quan trọng về những giải pháp.

77

- “Lý luận suông”: Đội ngũ cán bộ hoạch định chiến lược tập trung quá nhiều sức lực tâm trí vào những vấn đề về quan điểm, câu chữ mà ít tranh luận vào những nội dung mang tính triết lý của chiến lược, các yếu tố đảm bảo để chiến lược mang tính khả thi.

CHƯƠNG 3: CHIẾN LƯỢC CÔNG NGHỆ TRONG XÂY DỰNG

Như đã nêu trong chương trước, chiến lược là một khâu quan trọng trong chức năng hoạch định của quản lý. Để có thể định hướng phát triển KH&CN ở tầm quốc gia, các nước sử dụng nhiều công cụ khác nhau như xây dựng tầm nhìn, ra tuyên bố về chiến lược hoặc kế hoạch phát triển trung hạn, dài hạn; xây dựng các lộ trình công nghệ và kế hoạch hành động quốc gia về KH&CN. Tùy theo bối cảnh cụ thể của từng nước, các công cụ này được sử dụng với những vị trí và vai trò khác nhau. Tuy có sự rất khác nhau giữa các nước trong việc sử dụng các công cụ định hướng chiến lược phát triển KH&CN nhưng cũng có thể thấy được một số điểm chung là: Hoạch định chiến lược không thể không bao gồm việc đưa ra các tầm nhìn về tương lai, qua đó thể hiện năng lực và thái độ chủ động lựa chọn mục tiêu, đồng thời, lý giải tại sao các mục tiêu chiến lược đó lại được lựa chọn.

1. CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ

1.1. “Chiến lược Khoa học và công nghệ” kiểu truyền thống

Theo tác giả B. Benev, “Chiến lược KH&CN được hiểu là sự xác định các phương hướng chủ yếu, các con đường phát triển, các vấn đề KH&CN ưu tiên và các nỗ lực hướng đích của Nhà nước trong lĩnh vực KH&CN ”. Theo các tác giả Trung Quốc: “Chiến lược phát triển KH&CN là những chuẩn tắc quy định những hành vi trong các hoạt động KH&CN, mang tính chất toàn diện và lâu dài, hoặc của một nhà nước, hoặc của một khu vực, hướng vào thực hiện các nhiệm vụ phát triển KT-XH và đáp ứng nhu cầu phát triển của bản thân KH&CN”.

Hai quan niệm nêu trên về “chiến lược KH&CN” có thể nói là điển hình của cách quan niệm truyền thống về chiến lược trong các nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, chỉ huy và quan liêu bao cấp trước đây.

Đối tượng của “chiến lược KH&CN”

Theo cách hiểu truyền thống, đối tượng của chiến lược KH&CN mặc nhiên được hiểu là các hoạt động KH&CN. Hoạt động KH&CN theo mô hình tuyến tính được hiểu chỉ bao gồm các hoạt động nghiên cứu khoa học (trong đó bao gồm nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu định hướng ứng dụng) và phát triển công nghệ, tức là các hoạt động diễn ra trước khi tiến hành sản xuất, chế tạo ra các sản phẩm vật chất, hay nói cách khác là những hoạt động nằm bên ngoài hoạt động sản xuất và kinh doanh.

78

Trong sơ đồ dưới đây (Hình 4.1), hoạt động KH&CN chủ yếu chỉ bao gồm các hoạt động diễn ra trong các khối (1)-nghiên cứu cơ bản và (2)- triển khai công nghệ, không bao gồm các hoạt động sản xuất và thương mại hoá, tức là áp dụng tri thức KH&CN để sản xuấtvà tiêu thụ sản phẩm (khối 3).

Hình 4.1: Các hoạt động KH&CN

Từ cách hiểu này, phạm vi điều chỉnh, tác động của chiến lược KH&CN chỉ khuôn hẹp vào trong phạm vi các hoạt động cung cấp đầu vào dưới dạng các tri thức khoa học, các ý tưởng công nghệ và các sáng chế công nghệ cho quá trình sản xuất kinh doanh mà không quan tâm, không tác động đến quá trình và kết quả áp dụng những sản phẩm nghiên cứu KH&CN vào trong sản xuất kinh doanh như thế nào. Nhiệm vụ chủ yếu của Chiến lược KH&CN là lựa chọn hướng nghiên cứu KH&CN trọng điểm, lựa chọn các mục tiêu xây dựng nguồn lực KH&CN. Việc sử dụng các đầu ra của hoạt động KH-CN cho các hoạt động KT-XH, việc gắn kết các mục tiêu chiến lược KH&CN với chiến lược phát triển KT-XH thường diễn ra không phải là trong quá trình xây dựng chiến lược KH&CN mà thường là sau khi xây dựng chiến lược KH&CN.

Sự gắn kết giữa hai chiến lược chủ yếu thể hiện trên câu chữ trong các văn bản chiến lược và hầu như không thể hiện rõ trong quá trình xây dựng chiến lược và lại càng ít thấy trong quá trình tổ chức thực hiện chiến lược ở từng dự án đầu tư cụ thể. Nhược điểm của cách quan niệm này về đối tượng và phạm vi của chiến lược KH&CN là dễ thấy và hậu quả lớn nhất là chiến lược KH&CN chỉ mang tính tự thân, không đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng ở những hoạt động phát triển KT-XH, sản xuất và kinh doanh gắn với những sản phẩm và dịch vụ mới mà xã hội có thể nhận biết.

Chủ thể tham gia xây dựng Chiến lược KH&CN

Theo cách hiểu về chiến lược KH&CN nêu trên (Benev, và các tác giả Trung Quốc), nhà nước là chủ thể chính đứng ra xây dựng chiến lược KH&CN của quốc gia và việc xây dựng chiến lược KH&CN thường chỉ do cộng đồng và các cơ quan quản lý KH&CN tiến hành với sự tham góp ý kiến của các cơ quan quản lý thuộc các bộ ngành KT-XH. Về cơ bản có thể nói đó là chiến lược của giới KH&CN và vì sự phát triển tự thân của KH&CN. Chính vì vậy trong thực tế chiến lược KH&CN chỉ là chiến lược của KH&CN và cho KH&CN

Sản phẩm đầu ra của “Chiến lược KH&CN”

Tuy cách diễn đạt về khái niệm chiến lược KH&CN cũng có sự khác biệt, nhưng nếu suy ra từ các văn kiện được công bố của một số nước theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, thì nội dung cơ bản của chiến lược KH&CN cũng như là đầu ra của một bản chiến lược KH&CN thường là một văn bản bao gồm:

79

- Các quan điểm chỉ đạo.

- Các mục tiêu cần đạt tới (có phân đoạn theo thời gian).

- Các trọng điểm ưu tiên về KH&CN.

- Các con đường/cách đi để đạt tới mục tiêu theo các hướng ưu tiên đó lựa chọn; và

- Các biện pháp tác động của nhà nước để thúc đẩy phát triển KH&CN.

Điều đặc biệt cần lưu ý là chiến lược KH&CN chỉ được quan niệm là một chiến lược bộ phận của chiến lược phát triển KT-XH và sau khi được xây dựng, chiến lược KH&CN thường được gửi cho bộ phận soạn làm chiến lược KT-XH tham khảo. Bản chất của quan niệm ở đây là chiến lược KH&CN với chiến lược KT-XH là hai chiến lược khác nhau. Đồng thời, “Chiến lược KH&CN và chiến lược KT-XH có mối liên hệ và có phân biệt với nhau. Chiến lược kinh tế là chủ thể, và vì vậy chiến lược KH&CN phải phục tùng chiến lược kinh tế. Đó là sự thống nhất của hai loại chiến lược này”. Một mặt, chúng là cơ sở của nhau, tuỳ thuộc vào nhau, là tiền đề của nhau. Mặt khác, chúng có tính độc lập tương đối phù hợp với chức năng và quy luật phát triển riêng vốn có của mình.

1.2. Chiến lược KH&CN theo cách tiếp cận “đổi mới- Innovation”

Đối tượng của chiến lược KH&CN theo cách tiếp cận hệ thống đổi mới Từ những năm 80 và nhất là đầu những năm 90 của thế kỷ trước, dưới tác động của toàn cầu hóa và các công nghệ kết nối và xử lý thông tin toàn cầu qua mạng internet, ranh giới giữa các hoạt động KH&CN mang tính chuyên môn hóa và hoạt động sản xuất kinh doanh đã bị nhanh chóng phá vỡ. Nhiều ý tưởng KH&CN mới được hình thành và thực hiện ngay trong các quá trình sản xuất kinh doanh ở nhiều doanh nghiệp mà không nhất thiết chỉ diễn ra trong các phòng thí nghiệm, hay viện nghiên cứu. Trên thực tế đã ngày càng xoá nhoà ranh giới truyền thống giữa các hoạt động KH&CN với các hoạt động ngoài KH&CN. Hiện thực này đã là cơ sở cho sự phổ biến của khái niệm “innovation” trong hầu hết diễn đàn về quản lý KH&CN trên thế giới những năm gần đây.

“Innovation” – tạm dịch là đổi mới là thuật ngữ thường gặp trên các sách báo nghiên cứu quản lý và phát triển KH&CN trên thế giới, đặc biệt là tại khối các nước thuộc tổ chức OECD từ những năm 1980 trở lại đây. Muộn hơn chút ít, cách đây 1-2 thập kỷ, cách tiếp cận hệ thống đổi mới đã được sử dụng tại nhiều nước thuộc khối các nước NICs và một số nước đang phát triển khác tại Đông Âu, Châu Á và Châu Mỹ La tinh.

80

Đổi mới là một tổng thể và hệ thống bao gồm nhiều hoạt động cả nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, tạo ra các đối tượng sở hữu công nghiệp (SHCN), thương mại hóa công nghệ, hoạt động sản xuất và phân phối các sản phẩm và dịch vụ mới trên thị trường. Trong phạm vi của hoạt động đổi mới, ranh giới giữa các loại hoạt động không những không còn mà hơn thế chúng tự liên kết, đan xem, lồng ghép và tích hợp với nhau một cách hữu hiệu để có thể tạo ra các sản phẩm và dịch vụ mới

được xã hội và thị trường chấp nhận. Điểm khác biệt về cơ bản giữa hoạt động KH&CN với hoạt động đổi mới là ở chỗ, đầu ra của các hoạt động KH&CN là các phát minh và sáng chế thì đầu ra của các hoạt động đổi mới là các sản phẩm và dịch vụ mới được xã hội và thị trường chấp nhận. Chính vì vậy việc đòi hỏi các hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ phải tạo ra sản phẩm và dịch vụ mới đưa lại hiệu quả kinh tế và có lãi sẽ không bao giờ có thể được đáp ứng, trừ khi các hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đó được đặt trong hệ thống của các hoạt động đổi mới và có cơ chế bảo đảm cho các hoạt động đổi mới diễn ra và phát huy tác dụng.

1.3. Mối quan hệ giữa Chiến lược và Chính sách KH&CN

Về bản thân khái niệm chính sách KH&CN cũng có nhiều cách hiểu khác nhau. Loại hiểu thứ nhất, cho rằng chính sách (với ý nghĩa là đường lối chung về phát triển KH&CN) có tầm bao quát rộng hơn và có tác dụng “chỉ đạo” đối với việc lựa chọn chiến lược phát triển KH&CN. Với cách hiểu này thì chiến lược như là một giải pháp cơ bản, đột phá, nhằm thực hiện chính sách một cách hiệu quả. Theo cách hiểu này, chính sách bao gồm cả phần hệ quan điểm (tư tưởng chính sách), chiến lược và chiến thuật.

Trong nội dung nghiên cứu, chính sách được hiểu theo loại thứ hai, cho rằng chính sách (với tư cách là chính sách phát triển từng lĩnh vực KH&CN như: chính sách phát triển công nghệ cao, chính sách nhập công nghệ, chính sách nghiên cứu cơ bản, chính sách hợp tác quốc tế về KH&CN, v.v...) là công cụ (biện pháp) để thực hiện các mục tiêu của chiến lược phát triển KH&CN. Theo cách hiểu này, chính sách là một bộ phận của chiến lược. Dưới chính sách là các Chương trình (Program); dưới chương trình là các Kế hoạch (Plan) 5 năm, hàng năm; và dưới Kế hoạch là các Dự án (Project).

Như đã đề cập ở chương trước, nếu như đối với chiến lược, yêu cầu đặt ra là đảm bảo tính “khả thi”, với chính sách là tính “hợp lý”, thì đối với các kế hoạch phải là tính “hiệu quả”. Các đòi hỏi này phải quán triệt cả trong việc xác định mục tiêu, lựa chọn hướng hành động, thiết kế cấu trúc và cơ chế vận hành của hệ thống.Trong nhiều trường hợp do không nắm chắc yêu cầu này nên đã dẫn tới các kiểu chỉ đạo sai lệch trong thực tiễn, hoặc “duy ý chí” hoặc “kỹ trị” hoặc “lý luận suông”.

1.4. Mối quan hệ giữa chiến lược KH&CN và chiến lược KT-XH

81

Các nhà nghiên cứu lịch sử KH&CN thường lưu ý tới hai chức năng cơ bản của KH&CN, đó là: Phục vụ kinh tế-xã hội; và Dẫn đường cho kinh tế-xã hội (đi trước KT-XH). Để có thể thực hiện việc dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng mong muốn cần phải có những bước phát triển vượt trước hợp lý về mặt công nghệ, khoa học và đào tạo, với tư cách là các yếu tố hợp thành ngày càng quan trọng của hệ thống kết cấu hạ tầng xã hội. Về tổng thể, với mức độ ước lệ nhất định, có thể biểu diễn mối quan hệ giữa KT-XH và KH&CN thông qua 3 loại chính sách dưới dạng sơ đồ sau (Hình 4.2):

Hình 4.2. Mối quan hệ giữa các chính sách Chính sách công nghệ thực hiện chức năng là “công cụ” để thực hiện các mục tiêu của chính sách KT-XH nói chung và trực tiếp là chính sách cơ cấu. Chính sách công nghệ luôn phải đảm bảo một hệ số vượt trước hợp lý về mặt công nghệ. Điều này càng đặc biệt quan trọng trong giai đoạn cách mạng công nghệ năng động hiện nay.

2. CÁC MÔ HÌNH CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KH-CN

2.1. Mô hình chiến lược dựa vào công nghệ cao

Từ những năm 1950 đến nay, trong phạm vi toàn thế giới, xuất hiện một cuộc cách mạng mới và có 8 lĩnh vực công nghệ lớn là: công nghệ vi tính điện tử, công nghệ sinh học, công nghệ không gian, công nghệ hải dương, laser, quang tuyến, vật liệu mới, nguồn năng lượng mới, đã hình thành một cụm sản xuất công nghệ cao mới. Việc xuất hiện các ngành công nghệ cao mới này, đích thực đã tuyên chiến với công nghệ sản xuất theo công nghệ truyền thống. Các nước phát triển trên thế giới đang điều chỉnh lại chiến lược, đặt ra đối sách mới để phù hợp với yêu cầu của cuộc cách mạng công nghệ này.

82

Nước Mỹ, từ đầu những năm của thập kỷ 80 này đã xây dựng và thực thi chiến lược chiến tranh các vì sao (SDI). Chiến lược công nghệ cao này liên quan đến rất nhiều lĩnh vực như công nghệ laser, công nghệ thăm dò, công nghệ xử lý thông tin, công nghệ không gian... Đó là một công trình hệ thống phức tạp. Nó đã thể hiện sự giao thoa giữa khoa học xã hội, KH&CN và khoa học quân sự, và sự tổng thành của nhiều ngành công nghệ khác. Ngoài các loại công nghệ lớn kể trên, nó còn liên quan đến các lĩnh vực công nghệ khác như máy tính điện tử thế hệ thứ năm, vi điện tử học, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, khoa học quang điện, laser năng lượng cao cho đến công nghệ hàng hải.... Từ những năm 1990 trở về trước, là giai đoạn nghiên cứu cơ sở các phương án và công nghệ cho luận chứng khả thi. Bắt đầu từ những năm 1990 là giai đoạn "phát triển hệ thống", tiến hành thể chế nghiên cứu hệ thống và từ thế kỷ 21, bước vào giai đoạn sắp xếp toàn bộ hệ thống. Trong hơn 30 năm nghiên cứu, chỉ tính riêng giai đoạn nghiên cứu luận chứng khả thi đã phải dùng đến 26 tỷ đô la Mỹ. Dự tính toàn bộ chiến lược phải dùng đến 1 hoặc 2 ngàn tỷ đô la Mỹ. Chiến lược này được mọi người tán thưởng là "công trình thế kỷ hàng tỷ đô la". Nhân lực đầu tư năm 1984 là 5000 nhà khoa học, năm 1987 là 18500 nhà khoa học

và có đến gần nghìn công ty tham gia nghiên cứu. Mục tiêu chiến lược này là phát huy mạnh mẽ ưu thế công nghệ của nước Mỹ, chiếm lĩnh "tầm cao chiến lược" của không gian vũ trụ, giành lấy quyền kiểm soát vũ trụ, từ đó tăng cường địa vị bá quyền thế giới của nước Mỹ ở thế kỷ 21. Mục tiêu chính trị của nó: một là tranh thủ sự ủng hộ của dư luận trong và ngoài nước, hai là buộc Liên Xô phải đàm phán về việc hạn chế vũ khí nguyên tử và những nhượng bộ khác. Mục tiêu kinh tế là mượn công nghệ cao để giành lấy quyền chủ đạo kinh tế thế giới.

Để chống lại kế hoạch “chiến tranh các vì sao”, các nước châu Âu đã duy trì sự độc lập giữa công nghệ và kinh tế, đã liên kết xây dựng kế hoạch Eurêka với mục tiêu là liên hợp các nước châu Âu lại để mưu cầu sinh tồn, đua tranh phát triển. Trọng điểm của chiến lược này là tập trung vào 5 lĩnh vực công nghệ cao lớn gồm: Máy tính cỡ lớn và phần mềm, người máy và công nghiệp sản xuất phần mềm, máy laser năng lượng cao và vật liệu mới, công nghệ thông tin và giao thông hiệu suất cao, công nghệ sinh học. Dự kiến đầu tư khoảng 10 tỷ USD cho kế hoạch chiến lược công nghệ cao này.

Tháng 12 năm 1985, Liên xô cũng thông qua “Cương lĩnh tiến bộ công nghệ năm 2000" được gọi là kế hoạch "Eurêka - phương đông" cũng là một kế hoạch phát triển công nghệ cao cho 4 lĩnh vực chủ yếu. Đó là vi điện tử hoá kinh tế quốc dân và điện tử hoá toàn diện công xưởng, công nghệ năng lượng hạt nhân phát triển tốc độ cao, vật liệu mới, ứng dụng rộng rãi công nghệ sinh học.

Cách đây 10 năm, Nhật Bản cũng đã nêu ra "Cương lĩnh hành động 3 năm" với hình thức rất sôi động, tập trung ở các lĩnh vực khai thác máy tính thế hệ thứ năm và công xưởng tự động hoá toàn bộ, công nghệ sinh học, khoa học hải dương, công nghệ hàng không, vật liệu mới… Ý đồ của Nhật Bản là dùng công nghệ cao vũ trang xí nghiệp để sáng tạo ra năng suất lao động cao nhất thế giới, thúc đẩy kinh tế và mậu dịch liên tục phát triển.

Đặc điểm chung của chiến lược phát triển công nghệ cao là:

- Phát triển công nghệ cao, hình thành ngành nghề mới,

- Đầu tư mức độ cao,

- Thu được lợi nhuận lớn,

- Sản phẩm luôn đổi mới, dễ dàng chiếm lĩnh thị trường,

- Bảo mật mức độ rất cao.

Do vậy, chiến lược này nhất định được bảo đảm bằng thực lực kinh tế hùng hậu và thực lực mạnh về KH&CN. Đối với đông đảo các nước đang phát triển thì việc áp dụng khuôn mẫu chiến lược này tương đối khó khăn.

2.2. Mô hình chiến lược mô phỏng

83

Loại này đã được khái quát thành mô hình nhập khẩu - tiêu hoá - tiếp thu - sáng tạo - tái xuất khẩu sản phẩm công nghệ mới. Trong vòng 15 năm, từ năm 1955 đến năm

1970, Nhật bản cơ bản áp dụng mô hình chiến lược này để xây dựng một hệ thống nhập khẩu công nghệ và hấp thụ tiêu hoá có hiệu quả cao. Từ nhà nước đến xí nghiệp, từ pháp luật đến thể chế, đã sử dụng tất cả các biện pháp, hình thành năng lực khai thác và tiếp thu được toàn bộ công nghệ gần nửa thế kỷ của thế giới chỉ trong vòng 15 năm. Theo thống kê, Nhật Bản đã nhập khẩu 25.700 hạng mục công nghệ mới, chi ra hơn 9 tỷ đô la Mỹ, tiết kiệm được rất nhiều tiền vốn và thời gian, từ đó đã nhanh chóng xoá đi khoảng cách công nghệ với các nước tiên tiến. Cuối những năm 1960 kinh tế Nhật bản đã rất lớn mạnh, mẫu hình chiến lược này không còn phù hợp nữa, do vậy phải chuyển sang xây dựng chiến lược mới "Lấy việc tự mình triển khai là chủ yếu", "Dùng công nghệ để xây dựng đất nước".

Mẫu hình chiến lược này thường phù hợp với các nước mà nền kinh tế phát triển đang ở vào giai đoạn khôi phục, chấn hưng, từng bước đi lên. Ví dụ như các nước vừa và nhỏ như Hàn Quốc, Xinhgapo, Malayxia, Thái Lan..,trước mắt còn đang ở vào giai đoạn này, nếu chỉ hoàn toàn dựa vào bản thân phát triển KH&CN thì không có đủ điều kiện, cũng không đủ sức đầu tư kinh tế lớn, nhưng lại có được điều kiện nhập khẩu nhất định, do vậy mà họ sử dụng mẫu hình chiến lược này.

2.3. Mô hình chiến lược KH&CN thích hợp

Mô hình chiến lược KH&CN thích hợp là loại chiến lược mà trong điều kiện trình độ công nghệ, kinh tế không cao, muốn thúc đẩy sự phát triển của KT-XH, đã lựa chọn những công nghệ phù hợp với hoàn cảnh địa phương lúc bấy giờ. Chẳng hạn như ở một khu vực nông thôn nghèo khó đang phổ cập và mở rộng một công nghệ nuôi vịt, nuôi ngỗng nhổ lông, nói về trình độ công nghệ thì đây là một công nghệ hết sức đơn giản, hết sức dễ nắm bắt, khó có thể cho rằng đó là tính tiên tiến của công nghệ. Thế nhưng nó đã trở thành một biện pháp hết sức quan trọng đã giúp hàng vạn nhân dân xoá đói giảm nghèo, đồng thời cũng đem lại hiệu quả kinh tế to lớn. Công nghệ này chính là công nghệ phù hợp đối với việc phát triển kinh tế miền núi. Tại các vùng nông thôn Trung quốc phổ biến triển khai kế hoạch "Đốm lửa", trên thực tế chính là phát triển kinh tế nông thôn, đó chính là chiến lược phát triển công nghệ thích hợp.

84

Cái gọi là công nghệ thích hợp, thông thường không có liên quan đến một kết cấu kinh tế công nghệ cụ thể nào, mấu chốt là ở chỗ thích ứng với một đối tượng cụ thể nào đó. Công nghệ thích hợp thông thường là công nghệ tương đối đơn giản, dễ nắm bắt, song nó lại là công nghệ thúc đẩy sự phát triển KT-XH có hiệu quả, là công nghệ phù hợp với đặc điểm kinh tế của một quốc gia hay khu vực nào đó. Nó chỉ xuất phát từ hiệu ích tổng hợp KT-XH của công nghệ, mục đích nhằm thoả mãn nhu cầu của nhân dân, sáng tạo ra nhiều cơ hội lập nghiệp, đồng thời lại tiết kiệm tiền vốn đến mức tối đa. Chiến lược phát triển công nghệ thích hợp chủ yếu là áp dụng đối với những nước còn tương đối nghèo khó, công nghệ còn tương đối lạc hậu, đặc trưng là tập trung đông lao động, kinh tế nông nghiệp là chủ yếu. Những nước này có thể lựa chọn tiếp thu những công nghệ thích hợp với nước mình, gia công khai thác sử dụng để phát triển kinh tế của đất nước. Chính vì vậy mà rất nhiều nhà nước phát triển trung bình

trong từng giai đoạn phát triển nhất định, thường thường lựa chọn con đường phát triển công nghệ thích hợp. Sau đó, khi kinh tế phát triển lại lựa chọn hoặc đổi chiến lược phát triển khác.

2.4. Mô hình chiến lược KH&CN tổng hợp

Chiến lược phát triển này dựa vào tên gọi mà suy xét nghĩa lý, thì là một thể thức phức hợp tổng hợp cả 3 hình thức đã giới thiệu ở trên, hình thành nhiều tầng thứ, nhiều mẫu hình giao thoa. Ý nghĩa chủ yếu cơ bản của nó xuất phát từ tình hình trong nước, dựa vào một loạt các đặc điểm tài nguyên tự nhiên, thực lực kinh tế, lực lượng KH&CN, và những nhu cầu phát triển KT-XH nói chung và phát triển KH&CN nói riêng. Theo mô hình này, kết hợp chặt chẽ các công tác triển khai công nghệ cao, nhập khẩu công nghệ mới, ứng dụng KH-CN thích hợp với công việc nghiên cứu cơ bản cần thiết, suy xét thống nhất, xuất phát từ những nhu cầu khác nhau của những thời kỳ khác nhau, để tiến hành sắp xếp một cách có chọn lọc, có phân biệt nặng nhẹ từng cấp, hình thành một chiến lược phát triển KH&CN có hệ thống và tầng thứ, theo thời gian và theo địa phương.

Chiến lược phát triển tổng hợp là mô hình phức hợp phù hợp với các nước lớn có mức độ phát triển trung bình. Các nước này có nguồn tài nguyên, thực lực kinh tế và KH&CN nhất định, song trình độ phát triển kinh tế còn không thật đồng đều, có nhiều hình thức sản xuất từ lạc hậu đến tiên tiến đồng thời đan xen tồn tại, chẳng hạn như Trung Quốc, Ấn Độ, Braxin ….

3. NHỮNG YẾU TỐ CẦN XEM XÉT KHI XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC

KH&CN

85

Tuy có sự rất khác nhau giữa các nước trong việc sử dụng các công cụ định hướng chiến lược phát triển KH&CN nhưng cũng có thể thấy được một số điểm chung là: Hoạch định chiến lược không thể không bao gồm việc đưa ra các tầm nhìn về tương lai, qua đó thể hiện năng lực và thái độ chủ động lựa chọn mục tiêu, đồng thời, lý giải tại sao các mục tiêu chiến lược đó lại được lựa chọn. Tiếp theo, các mục tiêu chiến lược một khi được lựa chọn thì phải được cụ thể hóa và minh chứng tính khả thi bằng cách xác định các công nghệ then chốt và lộ trình công nghệ đi kèm, trong đó có tính đến cả nhu cầu thị trường, năng lực KH&CN và các yếu tố tổ chức khác cần có để hiện thực hóa các công nghệ then chốt đã lựa chọn. Xây dựng tầm nhìn, xác định công nghệ then chốt và các lộ trình công nghệ là ba công cụ quan trọng trong quá trình định hướng chiến lược phát triển KH&CN mà nhiều nước đã và đang chú trọng áp dụng. Để có thể định ra một chiến lược phát triển KH&CN đúng đắn không thể chỉ quan tâm tới các quy luật phát triển nội tại của KH&CN, mà còn phải xem xét đầy đủ tới các ảnh hưởng của môi trường KT-XH. Môi trường này bao gồm: Người đặt hàng; Người đảm bảo các nguồn lực và các thể chế xã hội đảm bảo cho việc phát triển và phổ cập các thành tựu KH&CN. Trong đó cần đặc biệt lưu ý tới các khía cạnh sau:

- Cần làm rõ những nhu cầu KT-XH của đất nước đang và sẽ đặt ra trong tương lai, đòi hỏi có sự tham gia của hệ thống KH&CN,;

- Cần đánh giá (dự báo) các xu thế phát triển KH&CN của thế giới và tác động khả dĩ tới việc lựa chọn con đường phát triển khoa học và đổi mới công nghệ của đất nước;

- Cần định lượng khả năng huy động các nguồn lực của quốc gia và từ bên ngoài có thể đầu tư cho phát triển khoa học và đổi mới công nghệ. Về mối quan hệ, tác động qua lại giữa các yếu tố có ảnh hưởng tới việc hoạch định chiến lược KH&CN có thể minh hoạ dưới dạng sơ đồ sau (Hình 4.3)

Hình 4.3. Mối quan hệ giữa các yếu tố trong chiến lược phát triển KH&CN

4. MỘT SỐ CÁCH TIẾP CẬN TRONG XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC KH&CN

4.1. Cách tiếp cận qua đánh giá tổng quan chính sách KH&CN

Bản chất cơ bản của cách tiếp cận này là: Chính sách KH&CN của một quốc gia phải được hình thành và thích nghi với những điều kiện cụ thể của địa phương; Bất cứ một mô hình nào chỉ đơn giản được du nhập từ bên ngoài sẽ khó đưa lại những lợi ích mong đợi. Do vậy,việc đánh giá lại chính sách KH&CN hiện hành sẽ là cơ sở tốt cho việc định hướng điều chỉnh chính sách KH&CN trong tương lai.

Đặc điểm đáng lưu ý của cách tiếp cận này là:

86

- Việc đánh giá tổng quan được thực hiện bởi một Nhóm chuyên gia quốc tế (từ nhiều nước khác nhau) để phân tích chính sách KH&CN;

- Phương pháp tiến hành đánh giá chủ yếu dựa vào kết quả khảo sát và phỏng vấn trực tiếp ba nhóm người: Những người hoạch định chính sách; Những người thực thi chính sách; Và những người chịu tác động của chính sách.

- Mục tiêu của “Đánh giá tổng quan” không hướng vào việc đưa ra các “Lời khuyên”, các “Khuyến nghị” mà chỉ cố gắng đưa ra “một tấm gương” dựa trên sự nắm bắt và chắt lọc những kinh nghiệm, những ý kiến đánh giá và cách nhìn nhận của những người được phỏng vấn và tham gia đối thoại về chính sách KH&CN của nước sở tại.

Trong cách tiếp cận đánh giá tổng quan chính sách KH&CN cần lưu ý là: một chiến lược phát triển phù hợp và khôn ngoan là phải có khả năng thích nghi cao với những biến đổi của tình hình. Vì vậy Chiến lược nên được coi là một “La bàn” định hướng, mà không nên có những cam kết cứng nhắc. Với ý nghĩa đó, các chuyên gia quốc tế cho rằng cách tiếp cận SWOT có thể cho phép có được một cương lĩnh hành động vừa tích cực và chủ động hướng về tương lai (vì biết được đâu là những “cơ hội” cần khai thác; đâu là những “nguy cơ”, “đe dọa” cần chủ động đối phó), vừa hiện thực (vì biết được đâu là “điểm mạnh) cần phát huy và đâu là những “điểm yếu” cần tìm cách khắc phục để vươn lên chủ động nắm bắt thời cơ, có thể mở ra và chủ động đối phó với những “đe dọa” trong tương lai.

4.2. Nhìn trước về công nghệ - một công cụ quan trọng tăng cường hệ thống đổi mới quốc gia

Trong thế giới hiện đại, người ta hầu như đã thống nhất nhận định rằng: Tương lai của công ty và của cả đất nước tuỳ thuộc nhiều vào khả năng tạo ra các hàng hóa và dịch vụ với “hàm lượng tri thức” cao. Chính vì vậy các công nghệ mới có vai trò đặc biệt quan trọng. Ngay cả đối với các nước đang phát triển, công nghệ cao cũng đang trở thành tác nhân làm thay đổi năng lực cạnh tranh trên thị trường.

Như là một công cụ quản lý có ý nghĩa thực tế, “nhìn trước”(foresight) đang được ứng dụng ngày càng rộng trong tất cả các lĩnh vực của đời sống, nơi mà tương lai chưa phải là hoàn toàn được xác định. Ý tưởng cho rằng, tương lai có thể được “xây dựng”, được “tạo ra” đã được nêu ra từ những năm 1980 và hiện nay đang trở thành “nền tảng” trong việc hoạch định các kế hoạch phát triển của các công ty và các chính phủ.

Do tầm quan trọng đối với quá trình xây dựng chiến lược phát triển KH&CN, nên nội dụng của phương pháp “Nhìn trước” công nghệ được trình bầy gắn kết hơn ở phần tiếp theo.

4.3. Cách tiếp cận xây dựng Lộ trình công nghệ

4.3.1. Tổng quát cách tiếp cận

87

Trong lĩnh vực ngành và doanh nghiệp, để lựa chọn định hướng đổi mới công nghệ cho một sản phẩm nhằm tạo được sức cạnh tranh trên thị trường trong tương lai, chẳng hạn, trong 5-10 năm tới, người ta cần phải trả lời một số câu hỏi như sau:

- Những công nghệ nào thật sự có ý nghĩa quyết định cần phải áp dụng để có thể làm ra các sản phẩm có khả năng cạnh tranh trên thị trường tiềm năng?

- Từ hiện trạng công nghệ, nên lựa chọn lộ trình đổi mới công nghệ như thế nào để có thể đáp ứng những đòi hỏi của thị trường trong tương lai?

“Lộ trình công nghệ” (còn hiểu là một bản đồ con đường phát triển công nghệ) có hàm ý nói tới “một cách nhìn có hệ thống và tích cực hướng về tương lai”. “Lộ trình công nghệ” không phải là một bản dự báo đơn thuần về công nghệ, vì dự báo công nghệ chỉ cho ta thông tin về những công nghệ gì sẽ xuất hiện trong tương lai. Còn việc một doanh nghiệp, một ngành cụ thể của một đất nước có định áp dụng các công nghệ đó hay không, còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Và đây chính là nhiệm vụ của “Lộ trình công nghệ”.

“Lộ trình công nghệ” phải xác định được các công nghệ then chốt (critical) cần thiết cho công nghiệp (theo ngành, theo doanh nghiệp) để đáp ứng nhu cầu của thị trường trong vòng 5 -10 năm tới. Thực chất của việc xác định “Lộ trình công nghệ” là: “Từ đánh giá nhu cầu của thị trường trong tương lai, xác định những công nghệ quan trọng cần thiết qua các mốc thời gian (3 năm, 5 năm hoặc 10 năm) để đáp ứng đòi hỏi của thị trường; đồng thời đưa ra các biện pháp phối hợp các nỗ lực của cả Nhà nước, cộng đồng KH&CN và giới doanh nghiệp để có thể vươn tới các công nghệ đã xác định”.

Như vậy “Lộ trình công nghệ” có thể hiểu như một loại chương trình hướng vào hành động, vì vậy phạm vi áp dụng cách tiếp cận này tương đối vạn năng. Có thể xây dựng các loại “Lộ trình công nghệ” sau: Lộ trình công nghệ cho các ngành kinh tế (công nghiệp, nông nghiêp, bưu chính viễn thông, hàng không, v.v...); Lộ trình công nghệ cho các doanh nghiệp; Lộ trình công nghệ cho một dự án phát triển (ví dụ dự án phát triển năng lượng mặt trời ở Mỹ); Lộ trình cộng nghệ cho một sản phẩm; v.v...

4.3.2. Các bước xây dựng lộ trình công nghệ (Hình 4.4)

Lộ trình công nghệ thường bao gồm ba bước, đó là:

Bước 1: Dự báo nhu cầu thị trường;

88

Bước 2: Lựa chọn sản phẩm;

Bước 3: Lựa chọn công nghệ.

Hình 4.4. Sơ đồ xây dựng “Lộ trình công nghệ”

5. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG TRONG XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC

KH&CN

Trong nghiên cứu xây dựng các chiến lược nói chung và chiến lược phát triển KH&CN nói riêng, một số phương pháp thường được sử dụng để tiến hành bao gồm:

5.1. Phương pháp SWOT

Phương pháp SWOT (strengths - điểm mạnh; weaknesses - điểm yếu; opportunities - thời cơ; threats – nguy cơ) được sử dụng rất rộng rãi trong phân tích môi trường. Mục tiêu của phân tích SWOT là tìm ra những thời cơ và nguy cơ trong môi trường bên ngoài, các điểm mạnh và điểm yếu của chính cơ sở có tác động mạnh mẽ đến hoạt động của tổ chức và trên cơ sở đó xác định những gay cấn chiến lược cần được giải quyết.

Khác với cách phân tích truyền thống, phương pháp phân tích SWOT giúp bóc tách các yếu tố bên trong và các yếu tố bên ngoài riêng ra mà không dồn lẫn hai nhóm yếu tố này vào một như cách đánh giá các mặt thuận lợi và khó khăn mà chúng ta vẫn thường làm. Việc tách riêng hai loại yếu tố này giúp các bước tiếp theo của quá trình xây dựng chiến lược được tiến hành thuận lợi hơn.

89

Theo lôgíc của vấn đề thì những điểm mạnh và những điểm yếu nằm chính trong bản thân tổ chức, ở chừng mực nào đó, có thể điều khiển được hoặc chí ít cũng thay đổi được trong một thời gian nhất định. Các yếu tố thời cơ và nguy cơ không phụ thuộc và nằm ngoài tầm kiểm soát của tổ chức, do vậy tổ chức chỉ có thể tận dụng hoặc tìm cách giảm thiểu ảnh hưởng chứ không thể chủ động lập kế hoạch thay đổi chúng được. Việc lập kế hoạch trên cơ sở tận dụng những thời cơ, giảm thiểu ảnh hưởng của các nguy cơ, phát huy điểm mạnh và khắc phục điểm yếu sẽ giúp xác định công việc cần làm đúng đắn và hiệu quả hơn.

5.2. Phương pháp ngoại suy

Phương pháp này giả định tương lai là kéo dài của hiện tại, và mọi sự kiện vẫn tiếp diễn theo phương thức như trong quá khứ. Giả định này rõ ràng là quá đơn giản trong một thế giới ngày càng tùy thuộc lẫn nhau, đồng thời những biến đổi bất ngờ tại mọi nơi, mọi lúc, đều có thể tác động mạnh mẽ đến nền KT-XH.

5.3. Phương pháp Điều tra Delphi

Phương pháp này bao gồm nhiều vòng hỏi ý kiến chuyên gia dưới dạng phiếu hỏi, nhằm tìm kiếm một sự hội tụ, sự đồng thuận về vấn đề đặt ra. Giả định ở đây là: Sự đồng thuận của một nhóm chuyên gia có thể là tin cậy hơn so với ý kiến từng cá nhân. Một lợi thế và ưu điểm của phương pháp này là tính bí mật độc lập, và sự tham gia rộng rãi của các đối tượng. Tuy nhiên, phương pháp này đòi hỏi tốn nhiều thời gian và kinh phí.

5.4. Phương pháp tham vấn

Phương pháp này sử dụng các tiếp cận rộng rãi ý kiến của nhiều cộng đồng, nhằm tham vấn về các loại tương lai ở tầm dài hạn, đó là: tương lai có thể xảy ra; tương lai mong muốn; và tương lai ưa thích. Trong đó, tương lai có thể là bao gồm hàng loạt phương án (kịch bản) có thể xuất hiện; tương lai mong muốn là các phương án phân tích của các chuyên gia dựa trên các xu thế; còn tương lai ưa thích là những phương án mà xã hội cần phải đạt đến. Bằng cách so sánh những tương lai này với nhau, phân tích những vấn đề cốt yếu, các tham vấn sẽ xác định một chiến lược nhằm đạt được tương lai ưa thích.

5.5. Phương pháp xây dựng kịch bản

Phương pháp này sử dụng cách tiếp cận có chủ đích là phát triến các kịch bản về tương lai và đánh giá ý nghĩa của chúng. Những kịch bản được nêu ra thường phải là những bức tranh hợp lý, có lôgic về những khả năng trong tương lai, chứa đựng các yếu tố định lượng và định tính, nhằm tạo cơ sở để đề xuất những phản ứng linh hoạt trước những thay đổi đột ngột trong tương lai.

5.6. Phương pháp xác định công nghệ then chốt

Phương pháp này sử dụng một nhóm nhỏ chuyên gia để triển khai một danh mục các công nghệ nguồn có vai trò thiết yếu đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, các kết quả theo phương pháp này thường mang tính chất “trọng cung”, theo kiểu “công nghệ đẩy”, hoặc bị chi phối bởi các nhu cầu công nghiệp, mà ít chú ý đến các nhu cầu xã hội, do vậy có ít tác dụng đối với chiến lược phát triển chung của cả hệ thống KT-XH.

6. KINH NGHIỆM LỰA CHỌN MÔ HÌNH CHIẾN LƯỚC PHÁT TRIỂN

KH&CN CỦA CÁC QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI

90

Một trong những căn cứ quan trọng nhất để căn cứ và lựa chọn phương án chiến lược phát triển KH&CN là phải hướng tới một kiểu chiến lược phát triển KH&CN nào đó vừa sớm đưa lại hiệu quả kinh tế, đồng thời góp phần thu hẹp khoảng cách với các nước đang phát triển.

Để bảo đảm đạt được hướng đó, trước hết hãy tìm hiểu kinh nghiệm phát triển KH&CN của thế giới. Tuỳ thuộc vào mục tiêu và cách đi, người ta phân ra các loại chiến lược sau:

- Chiến lược phát triển toàn diện.

- Chiến lược phát triển chọn lọc.

- Chiến lược phát triển thích nghi.

- Chiến lược phát triển dẫn trước.

- Chiến lược hỗn hợp.

Nếu coi chu trình “khoa học- sản xuất- tiêu thụ” là một chuỗc các giai đoạn kế tiếp nhau, bao gồm “nghiên cứu cơ bản- nghiên cứu ứng dụng- triển khai (phát triển)-phổ cập” thì chiến lược chọn lọc, thích nghi, dẫn trước không chỉ áp dụng cho một hướng, một lĩnh vực khoa học hoặc công nghệ, mà có thể vận dụng cho một khâu nào đó của chu trình này. Dựa vào cách phân loại trên, người ta có thể trình bày tóm tắt các phương án lựa chọn các kiểu chiến lược phát triển KH&CN như sau:

91

Bảng 4.1. Các phương án lựa chọn chiến lược KH&CN

92

Để vận dụng vào Việt Nam, ta có thể đưa ra nhận xét các phương án:

I.1 và II.1: Đây là các phương án có lẽ không phù hợp, đòi hỏi trình độ quản lý KH&CN cao, nền sản xuất tiên tiến.

II.2: Điều kiện đặt ra thấp hơn, tiềm lực công nghệ và KH&CN hiện có có thể gặp trở ngại, chu kỳ phát huy tác động tương đối dài và có hiệu quả kinh tếngắn hạn có phần hạn chế.Đây là kiểu chiến lược cần xem xét các yếu tố ban đầu để nghiên cứu áp dụng.

IV.1: Với phương án này, chúng ta không đủ các nguồn lực để thực hiện, ngay cả các nứơc siêu cường cũng không thể đeo đuổi cách đi “khép kín” mà xu thế quốc tế hoá đang càng ngày càng tăng.

III.2: Đây là cách đi hấp dẫn cho hiệu quả kinh tế ngắn hạn, cần lượng vốn khổng lồ. Do vậy phương án này rất khó đối với ta.

III.1: Cần được xem xét một cách toàn diện, dễ có điều kiện khả thi nhưng cần tìm tòi cơ chế quản lý hợp lý để tạo nên những hình mẫu tổ chức sản xuất kinh doanh năng động ở một số ngành và địa phương. Chúng ta có những yếu tố ban đầu để thực hiện phương án chiến lược này. Nó có thể sớm đưa hiệu quả kinh tế, tạo tiền đề để phát triển, khả năng đầu tư cho phát triển KH&CN sẽ được mở rộng và tạo nên vòng tuần hoàn tốt. Đây chính là kiểu chiến lược phát triển bằng công nghệ và lấy công nghệ nuôi KH&CN.

Về mục tiêu phát triển, chiến lược này cho phép từng bước thu hẹp khoảng cách về công nghệ so với các nước đi trước, phù hợp với xu hướng nhanh chóng tạo lập một năng lực công nghệ quốc gia có khả năng thích nghi với nhịp độ đổi mới công nghệ gia tăng cho thời gian tới.

Về chu trình nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu và phát triển công nghệ đến phổ cập và nhân rộng trong sản xuất, thì khâu đột phá trọng tâm ưu tiên của chiến lược khoa học nhỏ- công nghệ lớn chính là khâu phổ biến và nhân rộng các đổi mới công nghệ trong thực tiễn sản xuất-kinh doanh của các tổ chức, doanh nghiệp.

Để nhanh chóng thu hẹp khoảng cách (nhờ hiệu quả kinh tế ngắn hạn, chu kỳ hoàn vốn nhanh) chúng ta cần thiết và có thể tranh thủ ngay những thành tựu công nghệ tiên tiến phù hợp. Tuỳ thuộc vào yêu cầu của hoạt động sản xuất, kinh doanh và cả khả năng tiếp thu đã được tạo lập trong nước, chứ không phải là lặp lại các bước đi tuần tự, sử dụng các lợi thế trong nước một cách tối đa.

7. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA “CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN

KH&CN VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2010”

93

Ngày 31/12/2003, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 272/2003/QĐ -TTg phê duyệt “chiến lược phát triển KH&CN Việt Nam đến năm 2010” và giao cho Bộ KH&CN chủ trì, phối hợp với các Bộ ngành liên quan và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương triển khai thực hiện chiến lược. Xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch KH&CN năm và hàng năm phù hợp với chiến lược phát

triển KH&CN và kế hoạch phát triển KT-XH. Đồng thời, chính phủ đã giao những nhiệm vụ cụ thể cho các Bộ, Ngành khác hoặc chủ trì hoặc phối hợp thực hiện một số vấn đề của chiến lược này thuộc lĩnh vực do Bộ, Ngành mình phụ trách.

Tư tưởng cơ bản của chiến lược phát triển KH&CN Việt Nam đến năm 2010 là tập trung xây dựng KH&CN nước ta theo hướng hiện đại, hội nhập, đưa KH&CN thực sự trở thành nền tảng và động lực đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.

Quan điểm phát triển KH&CN đến năm 2010:

Quan điểm chủ đạo về phát triển KH&CN Việt Nam được chỉ rõ trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước, cụ thể như:

- Phát triển KH&CN là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.

- Phát triển KT-XH dựa vào KH&CN, phát triển KH&CN định hướng vào mục tiêu KT-XH , củng cố quốc phòng và an ninh.

- Bảo đảm sự gắn kết giữa KH&CN với giáo dục và đào tạo, giữa khoa học và công nghệ, giữa khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật.

- Đẩy mạnh tiếp thu thành tựu KH&CN thế giới, đồng thời phát huy năng lực KH&CN nội sinh, nâng cao hiệu quả sử dụng tiềm lực KH&CN của đất nước.

- Tập trung đầu tư của Nhà nước vào các lĩnh vực trọng điểm, ưu tiên, đồng thời đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động KH&CN

Mục tiêu phát triển KH&CN đến năm 2010:

Chiến lược phát triển KH&CN đến năm 2010 tập trung thực hiện 3 nhóm mục tiêu:

- Bảo đảm cung cấp luận cứ khoa học cho quá trình công nghiệp hoá rút ngắn, phát triển bền vững theo định hướng XHCN và hội nhập thành công vào nền kinh tế thế giới (Xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH, các giải pháp phát triển bền vững và hội nhập thành công vào nền kinh tế khu vực và thế giới; Giải đáp kịp thời những vấn đề lý luận và thực tiễn khác do cuộc sống đặt ra).

- Góp phần quyết định nâng cao chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế và năng lực cạnh tranh của sản phẩm, hàng hoá, đảm bảo quốc phòng và an ninh.

Chiến lược đặt ra mục tiêu đến năm 2010, KH&CN phải góp phần quyết định vào việc tạo ra sự chuyển biến rõ rệt về năng suất chất lượng và hiệu quả ở một số ngành kinh tế quan trọng ( nông- lâm ngư nghiệp và công nghiệp chế biến; đổi mới công nghệ cho khu vực vừa và nhỏ, tiểu thủ công để nâng cao chất lượng giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm, tiếp nhận tốt công nghệ hiện đại nhập ngoại, xây dựng và phát triển có trọng điểm một số ngành công nghiệp công nghệ cao.

94

- Đẩy mạnh xây dựng và phát triển năng lực KH&CN.

Chiến lược KH&CN Việt Nam đặt ra các mục tiêu:

-Tăng tỷ lệ đầu tư cho KH&CN từ NSNN (2005:1%-1,5% GDP).

-Phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao, có cơ cấu trình độ và chuyên môn phù hợp với các hướng KH&CN ưu tiên, với nhu cầu phát triển KH-XH theo vùng lãnh thổ, nâng cao chất lượng và phát triển đội ngũ cán bộ KH&CN.

-Hình thành một số Tổ chức Nghiên cứu-Phát triển và một số Trường Đại học ở một số lĩnh vực công nghệ trọng điểm, một số ngành có thế mạnh.

-Hoàn thành xây dựng giai đoạn I các khu công nghệ cao Hoà Lạc và thành phố Hồ Chí Minh; các phòng thí nghiệm trọng điểm, hạ tầng kỹ thuật một số tổ chức dịch vụ KH&CN quan trọng như Tiêu chuẩn-Đo lường-Chất lượng (TC-ĐL-CL), thông tin KH&CN.

-Hình thành mạng lưới tổ chức KH&CN đủ năng lực hội nhập quốc tế, gắn kết chặt chẽ với GD-ĐT, sản xuất kinh doanh. -Hình thành cơ chế quản lý KH&CN tiến bộ, tương hợp với quốc tế. Đổi mới căn bản cơ chế quản lý KH&CN theo hướng phù hợp với cơ chế thị trường, đặc thù của hoạt động KH&CN và hội nhập quốc tế, tạo động lực phát huy sáng tạo của đội ngũ cán bộ KH- CN, nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN.

-Nâng cao năng lực KH&CN: Đến năm 2010, KH&CN nước ta có đủ năng lực tiếp thu, làm chủ và sử dụng có hiệu quả công nghệ hiện đại nhập từ nước ngoài, có khả năng nghiên cứu và ứng dụng một số công nghệ hiện đại, nhất là CNTT, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu tiên tiến, công nghệ tự động hoá, cơ điện tử, tiếp cận trình độ thế giới trong một số lĩnh vực khoa học Việt Nam có thế mạnh.

Nhiệm vu trọng tâm phát triển KH&CN đến năm 2010:

Chiến lược phát triển KH&CN đến năm 2010 đã nêu ra một số nhiệm vụ trọng tâm nghiên cứu trong các lĩnh vực KHXH&NV, KHTN và KH&CN:

+ Trong lĩnh vực Khoa học xã hội và nhân văn:

-Nghiên cứu lý luận và thực tiễn con đường phát triển của Việt Nam.

-Nghiên cứu những vấn đề kinh tế, chính trị, pháp luật, văn hoá, xã hội, quốc

phòng, an ninh.

-Nghiên cứu về phát triển con người Việt Nam.

-Nghiên cứu dự báo các xu thế phát triển của thế giới.

+ Trong lĩnh vực Khoa học tự nhiên:

Nhà nước quan tâm phát triển nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng với những trọng tâm để phục vụ cho:

95

- Công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu tiên tiến, công nghệ tự động hoá, cơ điện tử.

- Sử dụng và khai thác hợp lý tài nguyên.

- Dự báo phòng tránh thiên tai.

- Khai thác các nguồn lợi cơ bản, đảm bảo an ninh quốc phòng. - Phát triển một số lĩnh vực nghiên cứu lý thuyết mà Việt Nam có thế mạnh như toán học, vật lý lý thuyết...

+ Trong những hướng công nghệ trọng điểm phục vụ phát triển KH-XH, chọn lọc một số công nghệ tiên tiến có tác động to lớn đến hiện đại hoá các ngành kinh tế - kỹ thuật, bảo đảm quốc phòng-an ninh.Tạo điều kiện phát triển một số ngành nghề mới, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, những công nghệ phát huy được lợi thế của nước ta về tài nguyên nông nghiệp nhiệt đới và lực lượng lao động dồi dào ở nông thôn, tạo ra sản phẩm xuất khẩu và có thu nhập cho các tầng lớp dân cư. Chiến lược nêu cụ thể hướng công nghệ ưu tiên phát triển trong các lĩnh vực công nghệ thông tin- truyền thông, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu tiên tiến, công nghệ tự động hoá, cơ điện tử, năng lượng nguyên tử và các dạng năng lượng mới, công nghệ vũ trụ, công nghệ cơ khí chế tạo máy, công nghệ bảo quản và chế biến nông sản, thực phẩm...

Các giải pháp phát triển KH&CN:

Để đạt được những mục tiêu phát triển KH&CN đến năm 2010, cần tập trung thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp chủ yếu sau:

- Đổi mới cơ chế quản lý KH&CN;

- Phát triển tiềm lực KH&CN (nguồn lực);

- Xây dựng và phát triển thị trường KH&CN;

- Đẩy mạnh hội nhập quốc tế về KH&CN.

Trong đó, đổi mới cơ chế quản lý KH&CN để khai thác mọi tiềm năng sáng tạo KH&CN, sử dụng có hiệu quả tiềm lực KH&CN hiện có, được coi là giải pháp có ý nghĩa đột phá, chiến lược hướng vào đổi mới một số mặt:

- Quản lý nhà nước về KH&CN;

- Tổ chức thực hiện các nhiệm vụ KH&CN: Thực hiện phân cấp, đổi với cơ chế trong tổ chức và thực hiện các nhiệm vụ KH&CN;

- Đổi mới cơ chế quản lý các tổ chức KH&CN;

- Xây dựng cơ chế tài chính phù hợp cho KH&CN

96

Trên cơ sở các nội dung của chiến lược, chính phủ đã có chương trình hành động, đã có các nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ KH&CN. Bộ KH&CN và Bộ Nội vụ đã ban hành thông tư liên tịch hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn giúp Uỷ ban nhân dân quản lý nhà nước về KH&CN ở địa phương . Xây dựng Đề án đổi mới cơ chế quản lý KH&CN và Đề án quỹ phát triển KH&CN Quốc gia; xây dựng quy chế,

97

chính sách và thúc đẩy tiến độ hình thành các khu công nghệ cao, triển khai thực hiện Luật khoa học và công nghệ; thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước về KH&CN; Hoạt động của tổ chức tư vấn cấp cao về KH&CN (Hội đồng chính sách KH&CN Quốc gia, Hội đồng lý luận trung ương, công tác xây dựng văn bản pháp luật KH&CN).

CHƯƠNG 4: ĐÁNH GIÁ CÔNG NGHỆ VÀ NĂNG LỰC CÔNG NGHỆ TRONG XÂY DỰNG

1. ĐÁNH GIÁ CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG

1.1. Cơ sở chung để đánh giá công nghệ

Đánh giá công nghệ khởi nguồn từ một thực tế là không phải mọi đổi mới công nghệ đều mang lại lợi ích cho xã hội. Ngày nay, nhiều quốc gia coi đánh giá công nghệ như là bước đầu tiên để hoạch định công nghệ nói riêng và hoạch định chính sách kinh tế - xã hội nói chung. Tuy vậy, đánh giá công nghệ lại là một công việc còn mới mẻ đối với Việt Nam.

1.1.1. Khái niệm

Cho đến nay chưa có một định nghĩa thống nhất về đánh giá công nghệ. Dưới đây là một số định nghĩa về đánh gía công nghệ.

- Đánh giá công nghệ là một dạng nghiên cứu chính sách nhằm cung cấp sự hiểu biết toàn diện về một công nghệ hay một hệ thống công nghệ cho đầu vào của quá trình ra quyết định.

- Đánh giá công nghệ là qúa trình tổng hợp xem xét tác động giữa công nghệ với môi trường xung quanh nhằm đưa ra các kết luận về khả năng thực tế và tiềm năng của một công nghệ hay một hệ thống công nghệ.

- Đánh giá công nghệ là việc phân tích định lượng hay định tính các tác động của một công nghệ hay một hệ thống công nghệ đối với các yếu tố của môi trường xung quanh.

1.1.2. Quá trình xuất hiện và phát triển của đánh giá công nghệ

98

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, nhiều công nghệ tiên tiến từ lĩnh vực quốc phòng được chuyển sang dân dụng. Các công nghệ tiên tiến này, một mặt làm ra nhiều của cải tạo nên sự tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao, mặt khác gây ô nhiễm nặng nề cho môi trường sống do phần lớn các công nghệ quốc phòng tiêu thụ nhiều nguyên vật liệu và năng lượng. Tác động xấu của công nghệ đến môi trường sống đã làm vỡ mộng nhiều nhà khoa học và chính trị về việc áp dụng các công nghệ hiện đại, đặc biệt gây phản ứng mạnh mẽ trong công chúng.Vào những năm 60, khởi đầu từ Hoa Kỳ, áp lực của quần chúng khiến chính phủ phải xem xét vấn đề gây ô nhiễm của các công nghệ sản xuất, đưa ra các luật lệ để kiểm soát, điều chỉnh và sau đó lập ra cơ quan chuyên theo dõi vấn đề này. Quá trình trên dẫn đến sự hình thành đánh giá công nghệ ở cấp nhà nước. Khi đánh giá công nghệ chỉ xem xét tác động của công nghệ đến môi trường sống, các chủ doanh nghiệp chỉ áp dụng đánh giá công nghệ như một công cụ để đối phó với chính quyền. Tuy nhiên, đánh giá công nghệ trong giai đoạn này đã có tác dụng thức tỉnh xã hội về hậu quả của thay đổi công nghệ, mặc dù đánh giá công nghệ còn mang tính chất thực nghiệm và chưa có một cơ sở lý luận khoa học.

Giai đoạn tiếp theo, những năm của thập kỷ 70, hoạt động đánh giá công nghệ lan sang Tây Âu, ở Tây Âu các nhà đánh giá công nghệ không chỉ xem xét tác động của công nghệ đối với môi trường sống, mà mong muốn phát triển đánh giá công nghệ như một bộ môn khoa học mới. Xu hướng này nhằm hướng tới việc ứng dụng các kết quả của đánh giá công nghệ, đồng thời tăng cường tính trung lập về chính trị của nó. Bên cạnh đó, những năm 70 cũng chứng kiến sự xuất hiện của xu hướng đánh giá công nghệ mang sắc thái văn hoá, xã hội, môi trường và cả về chính trị. Kết quả của các phong trào này đã tạo ra một loại cách tiếp cận mới đối với đánh giá công nghệ.

Giai đoạn tiếp theo, cuối những năm 70, đầu thập kỷ 80 là giai đoạn thể chế hoá đánh giá công nghệ. Các cơ quan chuyên trách về đánh giá công nghệ được hình thành, như văn phòng đánh giá công nghệ của quốc hội Mỹ (OTA) năm 1976, cơ quan đánh giá công nghệ của Hà Lan (NOTA), chương trình dự báo và đánh giá công nghệ của cộng đồng châu âu (FASR). Ở một số nước tuy không có cơ quan chính thức chuyên trách về đánh giá công nghệ, nhưng có các nhóm ở các viện khoa học, ở các cơ quan của chính phủ và các phong trào xã hội quan tâm đến đánh giá công nghệ ở quy mô đáng kể.

Từ những năm 80 đến nay, đánh giá công nghệ đã bước vào giai đoạn hoàn thiện. Đánh giá công nghệ bắt đầu có ảnh hưởng đến việc hoạch định chính sách và phát triển công nghệ. Về phương pháp luận, xu hướng chung là chuyển từ các mô hình định lượng và phân tích hệ thống sang cách tiếp cận định tính hướng về mục đích sử dụng, dựa đáng kể vào nghiên cứu tình huống. Việc phát triển mạng lưới quốc tế các nhà nghiên cứu đánh giá công nghệ đã bắt đầu hình thành. Ngày nay, ở các nước phát triển, đánh giá công nghệ trở thành vấn đề có tính lập pháp và trở thành một bộ phận khoa học. Kỹ thuật đánh giá công nghệ đã được dùng để phân tích hiệu quả trong đổi mới sản phẩm và công nghệ chế tạo ra sản phẩm, trong chính sách kinh doanh, trong lựa chọn địa điểm đầu tư…. mà các phương pháp phân tích thị trường, phân tích kinh tế truyền thống không giải quyết được.

1.1.3. Mục đích của đánh giá công nghệ

Ở các nước đang phát triển, đánh giá công nghệ nhằm các mục đích sau:

- Đánh giá công nghệ để chuyển giao hay áp dụng một công nghệ. Để đạt được mục đích này, đánh giá công nghệ phải xác định được tính thích hợp của công nghệ đối với môi trường nơi áp dụng nó.

- Đánh giá công nghệ để điều chỉnh và kiểm soát công nghệ. Thông qua đánh giá công nghệ để nhận biết các lợi ích của một công nghệ, trên cơ sở đó phát huy, tận dụng các lợi ích này, đồng thời tìm ra các bất lợi tiềm tàng của công nghệ để có biện pháp ngăn ngừa, hạn chế, khắc phục.

- Đánh giá công nghệ cung cấp một trong những đầu vào cho quá trình ra quyết

định:

99

+ Xác định chiến lược công nghệ khi có thay đổi lớn trong chính sách kinh tế - xã hội quốc gia.

+ Khi quyết định chấp nhận các dự án tài trợ công nghệ của nước ngoài.

+ Quyết định triển khai một công nghệ mới hay mở rộng một công nghệ đang hoạt động.

+ Xác định thứ tự ưu tiên phát triển công nghệ của quốc gia trong từng giai

đoạn.

1.1.4. Các đặc điểm và nguyên tắc trong đánh giá công nghệ

Đánh giá công nghệ được coi là một dạng nghiên cứu chính sách. Nó có các đặc điểm sau:

- Đánh giá công nghệ liên quan đến rất nhiều biến số, các biến số lại có các thứ nguyên khác nhau. Đó là vì đánh giá công nghệ đề cập đến tất cả các yếu tố môi trường xung quanh công nghệ, bao gồm: kinh tế, xã hội, văn hoá, tài nguyên, dân số, chính trị và pháp lý.

- Phải xem các tác động nhiều bậc, bao gồm trực tiếp và gián tiếp. Ví dụ khi xem xét khía cạnh dân số khi triển khai một công nghệ ở một địa phương: số lượng cán bộ, công nhân viên nhà máy có thể xác định chính xác, song không xác định được thân nhân của họ cùng đến sinh sống…

- Phải xem xét tác động đến nhiều nhóm người trong xã hội. Các nhóm này có

các lợi ích khác nhau, đôi khi đối lập nhau đối với một công nghệ cụ thể.

- Đánh giá công nghệ liên quan đến nhiều bộ môn khoa học, vì phải đánh giá mối

quan hệ với tất cả các yêu tố mà công nghệ có thể tác động tới.

- Đánh giá công nghệ đòi hòi phải cân đối nhiều mục tiêu: ngắn hạn, trung hạn, dài hạn. Đa số các công nghệ thường tồn tại tương đối dài, trong thời gian đó các yếu tố của môi trường xung quanh có thể thay đổi nên mức độ tác động của công nghệ có thể tăng, giảm hoặc đổi dấu.

- Đánh giá công nghệ thường phải giải quyết tối ưu nhiều mục tiêu: tối đa các lợi

ích, tối thiểu các bất lợi.

- Đánh giá công nghệ mang đặc tính động bởi các tác động qua lại, các yếu tố môi trường xung quanh luôn thay đổi và bản thân công nghệ được đánh giá cũng thay đổi liên tục.

Để đáp ứng các đặc điểm nói trên, quá trình đánh giá cần tuân thủ ba nguyên tắc: toàn diện, khách quan và khoa học.

100

- Nguyên tắc toàn diện yêu cầu đề cập đến tất cả các tác động có thể có của một công nghệ đến môi trường xung quanh, nhằm cung cấp cho người ra quyết định hiểu được toàn bộ các mối tương tác giữa các khía cạnh của vấn đề được đánh giá.

- Nguyên tắc khách quan đòi hỏi khi đánh giá cần đề cập đến tất cả các vấn đề mà các nhóm có lợi ích khác nhau quan tâm và cần được trả lời. Cần đề cập đến các quan điểm khác nhau đối với các vấn đề được đánh giá.

- Nguyên tắc khoa học đòi hỏi khi đánh giá phải xem xét các yếu tố của bối cảnh xung quanh một công nghệ theo quan điểm động. Phải sử dụng các số liệu thích hợp sẵn có, các kết quả của đánh giá phải có căn cứ khoa học và phải sử dụng ngay được.

1.1.5. Sự tương tác giữa công nghệ và môi trường xung quanh

Sự tương tác giữa công nghệ và các yếu tố của môi trường xung quanh là rất phức tạp vì vậy khi đánh giá công nghệ phải xem xét một loạt các yếu tố. Các tài liệu khác nhau đưa các danh mục yếu tố khác nhau, nhưng chúng có thể được phân thành bảy nhóm như sau:

(1) Các yếu tố công nghệ. Các chỉ tiêu liên quan đến khía cạnh kỹ thuật như năng lực, độ tin cậy và hiệu quả; các phương án lựa chọn công nghệ như độ linh hoạt và quy mô; mức độ phát triển của hạ tầng như sự hỗ trợ và dịch vụ.

(2) Các yếu tố kinh tế. Các chỉ tiêu phản ánh yếu tố này có thể là tính khả thi về kinh tế (chi phí - lợi ích); cải thiện năng suất (vốn và các nguồn lực khác); tiềm năng thị trường (qui mô, độ co giãn); tốc độ tăng trưởng và độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

(3) Các yếu tố đầu vào. Một công nghệ có thể tác động đến mức độ dồi dào của

nguyên vật liệu và năng lượng, tài chính và nguồn nhân lực có tay nghề.

(4) Các yếu tố môi trường. Các chỉ tiêu phản ánh yếu tố này bao gồm môi trường vật chất (không khí, nước và đất đai); điều kiện sống (mức độ thuận tiện và tiếng ồn); cuộc sống (độ an toàn và sức khoẻ) và môi sinh.

(5) Các yếu tố dân số. Một công nghệ có thể tác động đến tốc độ tăng trưởng dân số, tuổi thọ, cơ cấu dân số theo các chỉ tiêu khác nhau, trình độ học vấn và các đặc điểm về lao động (mức thất nghiệp và cơ cấu lao động).

(6) Các yếu tố văn hoá – xã hội. Thuộc nhóm yếu tố này có chỉ tiêu như sự tác động đến cá nhân (chất lượng cuộc sống), tác động đến xã hội (các giá trị về mặt xã hội) và sự tương thích với nền văn hoá hiện hành.

(7) Các yếu tố chính trị - pháp lý. Một công nghệ có thể được chấp nhận về mặt chính trị hoặc là không, có thể đáp ứng được đại đa số nhu cầu của dân chúng hoặc là không; và có thể phù hợp hoặc không phù hợp với thể chế và chính sách.

101

Danh mục các yếu tố thuộc từng nhóm có thể còn dài hơn nữa, phụ thuộc vào từng công nghệ cụ thể. Các yếu tố của môi trường xung quanh được liệt kê ở trên liên tục được thay đổi theo thời gian vì vậy mức độ tác động của công nghệ đối với chúng cũng thay đổi. Điều này đòi hỏi hoạt động đánh giá công nghệ cũng mang tính động không tĩnh tại.

1.1.6. Các loại hình đánh giá công nghệ

Sự phân loại đánh giá công nghệ được dựa vào các cơ sở sau đây:

- Mức độ đặc thù của phạm trù được đánh giá, chẳng hạn như đánh giá công nghệ

cho một dự án có tính đặc thù cao như xây dựng đập nước;

- Phạm vi của hệ thống được đánh giá, chẳng hạn có thể công nghệ sản xuất ô tô riêng biệt hoặc đánh giá toàn bộ cả hệ thống bao gồm sản xuất ô tô, đường xá, trạm xăng và dịch vụ bảo hành sửa chữa.

- Giới hạn các đặc điểm kỹ thuật cần được đánh giá, chẳng hạn như đối với ô tô có thể chỉ đánh giá hiệu suất sử dụng nhiên liệu hoặc an toàn trong va quệt;

- Phạm vi các loại ảnh hưởng được xem xét, chẳng hạn như môi trường, sức

khoẻ, xã hội, tâm lý, sinh thái….

- Phạm vi về mặt không gian và thời gian được xem xét ví dụ ấp quốc gia, vùng

lãnh thổ hoặc ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn;

- Mức độ phản ánh dứt khoát với các phương án chính sách cho hệ thống xã hội -

kỹ thuật được đánh giá;

- Mức độ “trung lập” khi đánh giá, ví dụ đánh giá để thu thập chứng cứ hỗ trợ cho chính sách đã chọn hoặc để đánh giá hậu quả các chính sách khác nhau;

- Giai đoạn trong vòng đời của công nghệ được đánh giá, chẳng hạn giai đoạn ấp ủ (nghiên cứu và triển khai), giai đoạn giới thiệu, giai đoạn tăng trưởng, giai đoạn trưởng thành của công nghệ.

Trên các cơ sở được nêu ở trên, hiện nay có các loại hình đánh giá công nghệ như sau:

a/ Đánh giá công nghệ định hướng vấn đề: Đặc trưng của loại hình này là xem xét và đánh gía các giải pháp bao gồm các công nghệ cũng như các biện pháp phi kỹ thuật đối với một vấn đề cụ thể. Các giải pháp đó là tập hợp các công nghệ “cứng” và “mềm”.

b/ Đánh giá công nghệ định hướng dự án: Hình thức này thường được áp dụng khi đánh giá một dự án cụ thể như xây dựng đường cao tốc, siêu thị, đường ống dẫn dầu…. Việc đánh giá dự án thường gắn với một địa bàn cụ thể.

c/ Đánh giá công nghệ định hướng chính sách: Hình thức này rất giống hình thức đánh giá định hướng vấn đề, ngoại trừ một điểm, đó là hình thức này nhấn mạnh nhiều hơn đến các phương án lựa chọn phi công nghệ để đạt được các mục tiêu này, công nghệ chỉ là một trong số các phương án lựa chọn.

102

d/ Đánh giá công nghệ định hướng công nghệ: Hình thức đánh giá này tập trung sự chú ý vào việc thiết kế phác hoạ một công nghệ cụ thể theo các phương án lựa chọn khác nhau. Hình thức đánh giá này rất thông dụng và thường được sử dụng để làm cơ sở cho các nghiên cứu đánh giá lớn hơn và rộng hơn. Đánh giá công nghệ định hướng

công nghệ được chia ra các dạng đánh giá nhỏ hơn tuỳ thuộc vào đặc tính công nghệ được đánh giá. Cụ thể là:

- Đối với công nghệ vật chất: việc xây dựng và phác hoạ các phương án công nghệ chủ yếu dựa vào các khả năng thực thi về mặt kỹ thuật, các khía cạnh đánh giá về chính sách chỉ đóng vai trò thứ yếu và thườ ng bị loại bỏ.

- Đối với công nghệ quản lý: Việc xây dựng và phác hoạ các phương án công nghệ phụ thuộc nhiều vào khả năng thực thi về mặt xã hội và chính trị, khả năng thực thi về mặt kỹ thuật chỉ đóng vai trò thứ yếu. Việc phác hoạ các phương án lựa chọn công nghệ liên quan chặt chẽ đến các lựa chọn chính sách.

- Đối với công nghệ đang hoạt động: đòi hỏi phải có sự phân tích ảnh hưởng một cách chi tiết và đầy đủ để đáp ứng sự quan tâm của các nhóm người có quyền lợi khác nhau.

- Đối với công nghệ đang xuất hiện: đòi hỏi phải nhấn mạnh hơn đến việc thiết lập và biện minh các tác động chủ yếu nhằm cung cấp cơ sở vững chắc cho các phân tích tác động chi tiết hơn trong tương lai.

1.2. Các công cụ và kỹ thuật sử dụng trong đánh giá công nghệ

1.2.1. Các công cụ và kỹ thuật

Đánh giá công nghệ không có các công cụ và kỹ thuật riêng, do đây là một bộ môn khoa học còn mới mẻ. Các công cụ dùng trong đánh giá thường được vay mượn từ các ngành khoa học – xã hội và khoa học hệ thống như:

- Phân tích kinh tế

- Phân tích hệ thống

- Đánh giá mạo hiểm

- Phương pháp tổng hợp

Các kỹ thuật có thể sử dụng :

- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia

- Phương pháp mô hình

- Phân tích xu thế

- Phân tích ảnh hưởng liên ngành

103

Một kỹ thuật phân tích mới cũng đã được sử dụng trong đánh giá công nghệ, đó là phương pháp phân tích kịch bản (Senario analysis). Mỗi kịch bản là một chuỗi các sự kiện được giả thiết xây dựng nhằm mục tiêu tập trung sự chú ý vào các quá trình nhân quả và các thời điểm có tính quyết định. Phương pháp phân tích kịch bản phát sinh từ lý thuyết trò chơi và mô phỏng bằng máy tính được coi là một kỹ thuật mạnh để khảo sát tương tác giữa một thực thể với môi trường xung quanh ở hiện tại và trong tương lai.

a/ Phân tích kinh tế: Phân tích kinh tế là một công cụ chủ yếu khi đề cập đến yếu tố kinh tế của bất kỳ hoạt động nào. Phân tích kinh tế sử dụng trong đánh gía công nghệ bao gồm cả phân tích chi phí - lợi ích và phân tích chi phí - hiệu quả.

- Phân tích chi phí - lợi ích là một phương pháp phân tích định lượng khi tất cả các biến số tác động được quy thành tiền và tính giá trị lợi nhuận ròng hiện tại. Kết quả phân tích của phương pháp này có tính thuyết phục cao, cho kết quả rõ ràng, ví dụ so sánh các dự án công nghệ để triển khai, dự án có giá trị lợi nhuận ròng hiện tại cao nhất được coi là tốt nhất. Tuy nhiên, khi thực hành có thể gặp một số trở ngại, như không phải lúc nào cũng có được các số liệu chính xác, các giá trị của các biến số có được qua tính toán thu, chi trong tương lai.

- Phân tích chi phí và hiệu quả. Đây là phương pháp định tính so sánh chi phí của các phương án công nghệ hoặc của các công nghệ với lợi ích tổng hợp. Chi phí và lợi ích đều không có thứ nguyên.

b/ Phân tích hệ thống: Đây là quá trình nghiên cứu hoạt động hoặc quy trình bằng cách định rõ các mục tiêu của hoạt động hoặc qui trình đó để nâng cao hoạt động và qui trình để thực hiện chúng một cách có hiệu quả nhất. Phân tích hệ thống có lịch sử từ lĩnh vực quân sự, ưu điểm của phương pháp phân tích này là có được một tầm nhìn tổng quát nhưng lại nhấn mạnh quá nhiều vào sự ổn định chứ không phải sự thay đổi, trong khi đó hệ thống công nghệ lại liên tục thay đổi.

c/ Đánh giá mạo hiểm: Việc triển khai một công nghệ hoặc một phương án công nghệ bao giờ cũng bao hàm một mức độ rủi ro nhất định. Phương pháp đánh giá này thiết lập một hệ thống các phương án lựa chọn. Trong đó mỗi phương án liên quan đến một mức độ rủi ro nhất định. Yếu tố quan trọng trong đánh giá mạo hiểm là sự tiếp cận của xã hội nói chung đối với tri thức và thông tin.

d/ Các phương pháp phân tích tổng hợp: Đây là quá trình bao gồm phân tích, tổng hợp và phâ n tích lại. Các phân tích này tận dụng các thông tin hiện có, phân tích chúng và rút ra kết luận. Các phương pháp này có thể chia ra làm hai nhóm chính là phương pháp tập hợp phân tích (meta- analysis) và phương pháp xử lý nhóm (group – process method).

* Phương pháp tổng hợp phân tích là phương pháp phân tích các bản phân tích. Nó được tiến hành bằng cách thu thập kết quả nghiên cứu của các tác nhân, tập hợp chúng lại và rút ra kết luận chung.

* Phương pháp xử lý nhóm được áp dụng rộng rãi ở giai đoạn thứ hai của lịch sử phát triển đánh giá công nghệ khi người ta muốn lôi kéo sự tham gia của xã hội vào hoạt động đánh giá công nghệ. Các kỹ thuật thường hay sử dụng trong phương pháp xử lý nhóm là:

104

- Kỹ thuật Delphi: thông qua các cuộc hội thảo lấy ý kiến của các chuyên gia, một thông báo liên quan đến các điều kiện phù hợp để sử dụng công nghệ được đánh giá. Tuyên bố này sau đó được gửi đến các nhà hoạch định chính sách, các nhà chuyên môn và các phương tiện thông tin đại chúng.

- Điều tra xã hội: điều tra sử dụng bản câu hỏi liên quan đến việc sử dụng công nghệ được đánh giá, chất lượng phân tích kết quả điều tra phục thuộc rất nhiều về nhận thức chung của dân chúng về công nghệ được đánh giá.

- Thử nghiệm xã hội: Phương pháp lôi kéo sự tham gia của xã hội ở những nơi công nghệ được triển khai đối với việc đánh giá định tính các tác động của công nghệ đối với cuộc sống hàng ngày của dân chúng, đối với các quan hệ xã hội….

1.2.2. Phương pháp phân tích chi phí - lợi ích áp dụng trong đánh giá công nghệ

Thực chất của phương pháp phân tích chi phí - lợi ích là so sánh giá trị ròng hiện tại của các phương án của một công nghệ hoặc của các công nghệ khác nhau. Gía trị ròng hiện tại được dùng để đo lường mức độ thích hợp của các phương án công nghệ hoặc của các công nghệ. Khi phân tích chi phí - lợi ích (định lượng) tất cả các tác động của công nghệ được quy thành tiền với các tác động tích cực được xem là lợi ích còn các tác động tiêu cực là chi phí. Phân tích chi phí - hiệu quả (định tính) sử dụng các đánh giá chủ quan của các chuyên gia về các tác động không có thứ nguyên của công nghệ.

a/ Phân tích chi phí - lợi ích (định lượng): Phương pháp này rất thích hợp khi chọn các phương án đầu tư để thay đổi công nghệ và được tiến hành thông qua các bước sau:

Bước 1: Liệt kê các phương án công nghệ [i = 1, 2, 3,… n; n là tổng số các phương án công nghệ].

Bước 2: Xác định tất cả các yếutố chi phí [j = 1, 2, 3,…m ; m là tổng số các yếu tố chi phí]. Bước 3: Tính tổng chi phí của tất cả các phương án công nghệ hiện tại

Bước 4: Xác định tất cả các yếu tố lợi ích [j = 1, 2, 3; … ; k ; k là tổng số các yếu tố lợi ích].

105

Bước 5: Tính tổng lợi ích của tất cả các phương án công nghệ theo giá trị hiện tại

Bước 6: So sánh chi phí và lợi ích của các phương án công nghệ trên cơ sở giá trị hàng năm hoặc giá trị ròng hiện tại. Giá trị hàng năm đuợc tính theo công thức sau:

Giá trị ròng hiện tại và lợi ích đầu tư được tính theo các công thức sau:

Bước 7: Chọn các phương án công nghệ thích hợp trên cơ sở mục tiêu và ràng buộc. Chỉ tiêu thích hợp đầu tiên có thể căn cứ vào giá trị ròng hiện tại. Tuy nhiên, trong trường hợp tồn tại một số phương án có giá trị ròng hiện tại như nhau thì phương án nào càng có tỷ suất đầu tư cao càng có đuợc ưu tiên lựa chọn trước. Nếu qúa trình chọn được tiến hành theo gía trị hàng năm thì phương án nào càng có giá trị hàng năm cao càng được ưu tiên chọn trước.

Bước 8: Điều chỉnh sự lựa chọn ở bước 7 có tính đến các yếu tố phụ thuộc khác mà quá trình tính toán ở trên không bao hàm được. Chẳng hạn, trong quá trình tính toán và lựa chọn đến bước 7 đưa ra một phương án ưu tiên lựa chọn cao nhất là phương án công nghệ phải chuyển giao từ một nước đang có quan hệ thù địch với nươc tiến hành đánh giá công nghệ thì phương án này không thể ưu tiên lựa chọn đầu tiên được.

b/ Phân tích chi phí - hiệu quả (định tính).

Phương pháp vừa trình bày ở trên rất thích hợp khi lựa chọn các phương án của một công nghệ để đầu tư. Tuy nhiên khi phải lựa chọn giữa các công nghệ thì rất khó quy thành tiền các tác động của công nghệ. Trong trường hợp này phương pháp định tính lại thích hợp hơn. Phương pháp phân tích chi phí - lợi ích định tính chỉ cần đi qua 7 bước.

Bước 1. Liệt kê các phương án công nghệ hoặc các công nghệ [i = 1, 2, 3,…,n; n là tổng số các phương án công nghệ].

Bước 2. Lựa chọn các tiêu chuẩn (yếu tố) để đánh giá công nghệ [j= 1,2, 3,…,m; m là tổng sốcác tiêu chuẩn để đánh giá].

106

Bước 3. Xác định hệ số tầm quan trọng tương đối của từng tiêu chuẩn trên cơ sở ý kiến của các chuyên gia:

Bước 4: Đánh giá giá trị của từng phương án công nghệ theo từng tiêu chuẩn dựa trên ý kiến của các chuyên gia:

Bước 5: Tính tổng giá trị của từng phương án công nghệ:

Bước 6: Lựa chọn các phương án thích hợp trên cơ sở mục tiêu và ràng buộc: phương án công nghệ nào có kết quả tính toán càng lớn càng được ưu tiên lựa chọn trước.

Bước 7: Điều chỉnh sự lựa chọn ở bước 6 có tính đến các yếu tố khác mà quá trình tính toán ở trên không bao quát được.

1.3. Thực hành đánh giá công nghệ

1.3.1. Nội dung tổng quát đánh giá công nghệ

Hiện nay chưa có một phương pháp chung để đánh giá công nghệ do sự phức tạp, đa dạng của công nghệ. Dưới đây trình bày một cấu trúc gọi là phương pháp luận đánh giá chung do một nhóm nghiên cứu của trường đại học Stanford đề xuất. Theo phương pháp này có 3 nội dung cơ bản đề cập trong một đánh giá công nghệ, bao gồm: Miêu tả công nghệ (hay vấn đề) và phác hoạ các phương án lựa chọn; đánh giá tác động và ảnh hưởng; phân tích chính sách.

a/ Miêu tả công nghệ, phác hoạ các phương án lựa chọn

Trong nội dung này, bản đánh giá công nghệ cần mô tả các phương án sẽ đánh giá. Vì nội dung mô tả là cơ sở để tiến hành đánh giá các tác động và ảnh hưởng, nên nó phải chi tiết để có thể đo, đánh giá được. Có ba bước phải thực hiện đó là thu thập các dữ liệu liên quan; giới hạn phạm vi đánh giá và phác hoạ các phương án sẽ đánh giá.

Bước 1: Thu thập dữ liệu liên quan

Các dữ liệu có thể thu được qua các kênh khác nhau như phỏng vấn, hội thảo, thăm dò hay từ các trung tâm thông tin tư liệu… Các dữ liệu bao gồm các thông số liên quan đến công nghệ, không đề cập đến các thông tin không liên quan đến việc phân tích các ảnh hưởng.

107

Bước 2: Giới hạn phạm vi đánh giá

Mặc dù đánh giá công nghệ đòi hỏi đảm bảo nguyên tắc toàn diện, nhưng không có nghĩa phải đề cập đến mọi vấn đề liên quan trong một đánh giá công nghệ. Lý do vì những ràng buộc sau:

- Đánh giá công nghệ là một hoạt động mang tính chuyên nghiệp cao, nó đòi hỏi

được cấp kinh phí mới có thể tiến hành.

- Đánh giá công nghệ đòi hỏi có các chuyên gia của từng lĩnh vực cần đánh giá, vì vậy nội dung đánh giá tuỳ thuộc các chuyên gia đủ trình độ ở một lĩnh vực

- Đánh giá công nghệ là đầu vào của quá trình ra quyết định, vì thế nó bị giới hạn

về thời gian phải hoàn thành.

Ngoài ra những khía cạnh về kỹ thuật, địa lý, thể chế tổ chức, các cơ cấu giá trị xã hội cũng là những ràng buộc. Để có một hiểu biết toàn diện một vấn đề (một dự án) lớn, rõ ràng phải tiến hành nhiều đánh giá công nghệ.

Bước 3 : Phác hoạ các phương án sẽ đánh giá

Các phương án phải được mô tả chi tiết ở mức cần thiết để có thể đánh giá được.

b/ Dự báo và đánh giá tác động.

Đây là nội dung chính của một bản đánh giá công nghệ. Dựa vào các yếu tố cần đánh giá đã được giới hạn ở trên, có ba bước phải tiến hành:

Bước 1 : Lựa chọn tiêu chuẩn cho mỗi tác động.

Có bảy yếu tố cơ bản tác động tới việc đánh giá công nghệ (Mục 5 phần 2.1.1), do đó cần lựa chọn tiêu chuẩn cho mỗi tác động đó. Ví dụ khi đánh giá một dự án công nghệ về yếu tố công nghệ, tiêu chuẩn đánh giá có thể là độ linh hoạt trong sử dụng công nghệ; hoặc khi đánh giá yếu tố kinh tế, tiêu chuẩn có thể là tính khả thi về kinh tế.

Bước 2 : Đo lường và dự đoán các tác động.

Đối với mỗi tiêu chuẩn thể hiện tác động đến mỗi yếu tố; ví dụ tính khả thi kinh tế của công nghệ xét về yếu tố kinh tế; cần xác định các giá trị thông qua đo lường, tính toán hay dự báo kết quả (trong trường hợp các dự án). Để xác định các giá trị hay kết quả này có thể sử dụng các công cụ trong đánh giá công nghệ.

Bước 3 : So sánh và trình bày ảnh hưởng tác động.

Dựa trên các kết quả và giá trị đã xác định được của mỗi tiêu chuẩn đối với từng yếu tố, tiến hành so sánh với các tiêu chuẩn quy định (nếu có), hoặc trình bày các tác động, ảnh hưởng này để có cơ sở kết luận trong phần phân tích chính sách tiếp theo.

c/ Phân tích chính sách.

108

Về thực chất đây là phần báo cáo kết quả đánh giá tới cơ quan sử dụng kết quả. Phân tích chính sách có thể thực hiện theo hai mức sau :

Mức 1 : Hình thành phương án được coi là tốt nhất. Thiết lập tổ chức để thực hiện phương án đã nêu.

Mức 2 : Xem xét các vấn đề, các trở ngại còn tiềm tàng. Đề xuất giải pháp mới, có thể nằm ngoài phạm vi đã giới hạn ở trên.

1.3.2. Đánh giá công nghệ ở doanh nghiệp

Ở phạm vi doanh nghiệp, đánh giá công nghệ có thể tiến hành theo trình tự sau :

Bước 1 : Đặt vấn đề.

- Xác định mục đích đánh giá.

- Xác định hoạt động của đối tượng được đánh giá.

- Xác định phạm vi và mục tiêu.

Bước 2 : Khảo sát công nghệ.

- Mô tả các công nghệ liên quan.

- Dự báo xu thế phát triển của các công nghệ liên quan.

- Mô tả công nghệ sẽ đánh giá.

Bước 3 : Dự báo tác động và ảnh hưởng của công nghệ.

- Mô tả các lĩnh vực truyền thống mà công nghệ có thể tác động (môi trường vật

chất, tài nguyên...)

- Mô tả cách thức tác động của công nghệ đến lợi thế cạnh tranh (hình thành giá

thành, sự khác biệt của sản phẩm)

- Mô tả các tác động khác.

- Mô tả tác động có thể có của công nghệ đến cấu trúc ngành kinh tế.

Bước 4 : Đánh giá các tác động.

- Nêu các chỉ tiêu phản ánh tác động.

- Đo lường, dự báo các tác động công nghệ đối với cơ sở/ ngành kinh tế.

- Đo lường, dự báo các tác động khác (môi trường, xã hội…)

Bước 5 : Đề xuất các giải pháp khắc phục.

- Các giải pháp có thể có.

- Phân tích các giải pháp và hậu quả.

Bước 6 : Chọn giải pháp phù hợp.

- Lựa chọn giải pháp thích hợp.

- Xây dựng kế hoạch thực hiện.

109

1.3.3. Nhận xét thực hành đánh giá công nghệ

Đánh giá công nghệ không chỉ là một bộ môn khoa học, mà nó còn được các nhà thực hành đánh giá công nghệ coi như một dạng nghệ thuật. Đánh giá công nghệ là một quá trình phân tích và đánh giá để giúp các nhà ra quyết định ở tầm vĩ mô lẫn vi mô chứ không chỉ là một sản phẩm và nó không bị ràng buộc trong những phương pháp hay mô hình cứng nhắc.

Việc vận dụng các công cụ và kỹ thuật trong đánh giá công nghệ phụ thuộc rất nhiều vào sựnhạy cảm và hiểu biết của người thực hành đánh giá. Giá trị của một đánh giá công nghệ còn phụ thuộc vào môi trường, chính trị, văn hoá và xã hội cụ thể.

Ngày nay, đánh gía công nghệ đã được khảng định là một công cụ tích cực giúp cho các nước đang phát triển tận dụng những lợi thế của các nước đi sau nhằm tận dụng tối đa các lợi thế và hạn chế đến mức tối thiểu những bất lợi khi áp dụng công nghệ, dù đó là công nghệ nội sinh hay công nghệ nhập ngoại.

2. ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CÔNG NGHỆ

2.1. Năng lực công nghệ

2.1.1. Khái niệm

Đối với các nước đang phát triển, phát triển công nghệ chủ yếu tập trung vào nhập khẩu công nghệ nước ngoài. Chuyển giao công nghệ trong tình hình như vậy làm phát sinh nhiều vấn đề: giá công nghệ quá cao; công nghệ không phù hợp với nguồn lực, điều kiện và mục tiêu; phụ thuộc vào công nghệ nước ngoài … dẫn đến việc sử dụng công nghệ kém hiệu quả. Từ thực tế như vậy, các nước đang phát triển nhận thấy cần phải xây dựng và phát triển năng lực công nghệ quốc gia (National Technological Capability – NTC).

Đây là nhiệm vụ cơ bản của các nước đang phát triển, không chỉ đơn thuần về mặt kinh tế, mà còn xuất phát từ quan điểm xã hội, vì những tài sản phi vật chất như kỹ năng và kiến thức đóng góp đáng kể vào sự phát triển văn hoá – xã hội của đất nước. Hơn nữa, người ta có thể khẳng định rằng có nguồn tài nguyên lớn mà năng lực công nghệ yếu kém thì không thể đảm bảo cho quá trình phát triển. Năng lực công nghệ quốc gia là một vấn đề phức tạp, đã có nhiều tác giả nghiên cứu. Theo Lall, “ Năng lực công nghệ quốc gia (ngành, cơ sở) là khả năng của một nước triển khai các công nghệ hiện có một cách có hiệu quả và ứng phó được với những thay đổi công nghệ.” Theo định nghĩa này có hai mức hoạt động phát triển công nghệ, cũng là hai cơ sở để phân tích năng lực công nghệ, đó là :

- Sử dụng có hiệu quả công nghệ có sẵn.

- Thực hiện đổi mới công nghệ thành công.

110

Khái niệm này cũng đã khái quát được hai mặt cơ bản của năng lực công nghệ mà nhiều chuyên gia đã đề cập là khả năng đồng hoá công nghệ và khả năng phát triển công nghệ nội sinh Vào những năm 1960, các nghiên cứu tập trung vào những vấn đề liên quan đến chuyển giao công nghệ nhằm mục đích mang lại nhiều lợi ích cho các

nước nhập công nghệ. Trong giai đoạn này, năng lực công nghệ được hiểu là năng lực quản lý hoạt động chuyển giao công nghệ.

Vào cuối những năm 1970 và vào những năm 1980, một số tác giả cho rằng mặc dù các nước đang phát triển phụ thuộc vào công nghệ nước ngoài nhưng cũng có thể tạo được một nền tảng công nghệ (bao gồm phương tiện, kỹ năng, kiến thức và tổ chức) hoặc có thể tạo được một năng lực công nghệ. Do vậy, các nghiên cứu chuyển sang các vấn đề liên quan đến công nghệ sau khi đã được nhập. Như vậy vào những năm 1980, năng lực công nghệ ở các nước đang phát triển được hiểu rộng hơn và có liên quan đến năng lực của doanh nghiệp trong việc mua, hấp thụ, sử dụng, thích nghi, cải tiến và đổi mới công nghệ.

Vào những năm 1990, năng lực công nghệ được nghiên cứu sâu hơn vì một số lý do sau :

- Năng lực công nghệ quốc gia là yếu tố quyết định mức độ thành công của các

chiến lược phát triển công nghiệp, đa dạng hoá và xuất khẩu.

- Năng lực công nghệ ở cấp doanh nghiệp được nâng cao sẽ giúp doanh nghiệp giảm được chi phí trong việc mua và hấp thụ công nghệ, tăng cường năng lực cạnh tranh.

2.1.2. Phân loại năng lực công nghệ

a/ Phân loại của Fransman

Theo Fransman năng lực công nghệ liên quan đến năng lực của doanh nghiệp để tiến hành các hoạt động nhằm biến đổi đầu vào thành đầu ra. Năng lực công nghệ gồm những loại năng lực sau:

- Năng lực tìm kiến và lựa chọn công nghệ để nhập.

- Năng lực hấp thụ và sử dụng thành công công nghệ nhập.

- Năng lực thích nghi và cải tiến công nghệ nhập.

- Năng lực đổi mới công nghệ.

b/ Phân loại của S. Lall

Lall cho rằng năng lực công nghệ của doang nghiệp được phản ánh bởi năng lực tổng hợp để thực hiện những nhiệm vụ trong chuỗi hoạt động “mua - sử dụng – thích nghi - cải tiến”. Lall chia năng lực công nghệ ở cấp doanh nghiệp làm các loại như sau:

- Năng lực chuẩn bị đầu tư: bao gồm năng lực phân tích sơ bộ lợi ích của đầu tư, phân tích chi tiết dự án, tìm kiếm công nghệ, mua công nghệ và nghiên cứu kỹ thuật.

111

- Năng lực thực hiện dự án: gồm năng lực để thực hiện các công việc như: thiết kế kỹ thuật, xác định các loại thiết bị cần phải có, tìm mua và thử nghiệm; xây dựng, lắp đặt; giám sát dự án; đào tạo vận hành...

- Năng lực thực hiện các công việc về công nghệ sản phẩm (Product

Technolpgy): bao gồm năng lực thiết kế, cải tiến và đổi mới sản phẩm.

- Năng lực thực hiện các công việc về công nghệ quá trình (Process Technology): gồm năng lực đảm bảo quá trình hoạt động hiểu quả, năng lực thay đổi, cải tiến và đổi mới quá trình.

- Năng lực lập kế hoạch tổng thể và điều hành sản xuất.

- Năng lực chuyển giao công nghệ: gồm năng lực hỗ trợ kỹ thuật, cấp license, xây dựng nhà máy theo hợp đồng chìa khoá chao tay, cung cấp các dịch vụ.

- Năng lực đổi mới về tổ chức để phát triển công nghệ: tăng thêm quyền tự trị và quản lý tài chính cho bộ phận chịu trách nhiệm về công nghệ, đưa thêm cán bộ kỹ thuật vào ban quản trị cấp cao, truyền bá thông tin công nghệ khắp các bộ phận của doanh nghiệp, tạo các mối quan hệ với bên ngoài như các nhà cung cấp công nghệ, các trường đại học, các hiệp hội công nghiệp ...

c/ Phân loại của viện nghiên cứu phát triển Thái Lan (TDRI):

Theo TDRI, năng lực công nghệ của một doanh nghiệp là năng lực tiến hành các hoạt động liên quan đến công nghệ hoặc những hoạt động nhằm áp dụng tri thức một cách có hệ thống biến đổi đầu vào thành đầu ra. Có bốn năng lực loại công nghệ chủ yếu:

- Năng lực tiếp nhận: bao gồm năng lực tìm kiếm, đánh giá, đàm phán, mua bán,

chuyển giao, thiết kế nhà xưởng, lắp đặt các phương tiện sản xuất.

- Năng lực vận hành: gồm năng lực thao tác, bảo dưỡng, đào tạo, quản lý, kiểm

tra chất lượng...

- Năng lực thích nghi: gồm tiếp thu kiến thức, hấp thụ công nghệ, thích nghi và

cải tiến sản phẩm và qúa trình.

- Năng lực đổi mới: gồm R&D, đổi mới sản phẩm và quá trình.

Ngoài các phân loại nói trên đây còn nhiều cách phân loại các năng lực công nghệ của các tác giả khác. Dựa vào những phân loại đã có, người ta đưa ra một phân loại khác vừa khắc phục được nhược điểm của những phân loại trước đây vừa bổ sung thêm năng lực mới. Theo cách phân loại này, năng lực công nghệ gồm 4 loại: năng lực vận hành, năng lực giao dịch công nghệ, năng lực đổi mới và năng lực hỗ trợ.

- Năng lực vận hành: Năng lực vận hành giúp doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất có hiệu quả, gồm những năng lực sau:

+ Năng lực sử dụng hiệu quả thiết bị và nhà máy hiện có.

+ Năng lực hoạch định và điều hành sản xuất.

+ Năng lực sữa chữa và bảo hành máy móc, thiết bị.

+ Năng lực thay đổi nhanh chuyển sang các moden sản phẩm mới.

112

+ Năng lực sử dụng các hệ thống thông tin và điều khiển dựa trên máy tính

- Năng lực giao dịch công nghệ: Năng lực này giúp doanh nghiệp hoạch định và thực hiện có hiệu quả các hoạt động chuyển giao công nghệ, bao gồm:

+ Năng lực xác định nhu cầu công nghệ và lập luận chứng cho việc giao dịch.

+ Năng lực tìm kiếm, đánh giá và lựa chọn đối tác.

+ Năng lực lựa chọn phương thức chuyển giao công nghệ.

+ Năng lực đàm phán.

- Năng lực đổi mới: Thuật ngữ đổi mới (lnnovation) ở đây ám chỉ đổi mới dựa trên công nghệ (Technology – based Innovation) hay đổi mới công nghệ (Tecnological Innovation). Năng lực đổi mới là năng lực giúp doang nghiệp thực hiện các đổi mới về công nghệ và áp dụng vào sản xuất nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh hiện tại, tạo ra những hoạt động kinh doanh mới và khai thác các cơ sở công nghệ mới. Năng lực đổi mới gồm các năng lực như sau:

+ Năng lực bắt trước công nghệ hấp thu được

+ Năng lực đổi mới sản phẩm.

+ Năng lực đổi mới quá trình.

+ Năng lực đổi mới ứng dụng.

+ Năng lực đổi mới hệ thống (đưa ra những hệ thống mới thông qua việc tích hợp nhiều hệ thống phụ và bao gồm những đổi mới sản phẩm, quá trình và ứng dụng)

- Năng lực hỗ trợ: Ba loại năng lực chủ yếu của doanh nghiệp là năng lực vận hành, giao dịch công nghệ và đổi mới vừa được đề cập ở phần trên. Tuy nhiên, để cũng cố phát triển và phối hợp các năng lực này cần phải có thêm năng lực hỗ trợ. Năng lực hỗ trợ gồm các loại sau:

+ Năng lực xây dựng chiến lược phát triển dựa trên công nghệ.

+ Năng lực thăm dò và báo thị trường.

+ Năng lực hoạch định và thực hiện dự án.

+ Năng lực tiếp cận có hiệu quả các nguồn nguyên liệu.

+ Năng lực tìm được nguồn cung cấp vốn.

+ Năng lực hoạch định và thực hiện chương trình phát triển nguồn nhân lực.

2.2. Đánh giá năng lực công nghệ

2.2.1. Khái niệm

Năng lực công nghệ là kết hợp của những quan hệ, tương tác giữa các tổ chức, khả năng về nguồn lực và các nhóm lợi ích, thể hiện sự đa dạng của các yếu tố như:

113

- Khả năng điều hành quá trình sản xuất.

- Khả năng của cơ sở hạ tầng phục vụ cho phát triển công nghệ.

- Khả năng đóng góp của các nguồn lực.

- Khả năng liện kết giữa các tác nhân thúc đẩy sự phát triển của các thành phần

công nghệ.

- Lực lượng lao động lành nghề.

- Hàm lượng công nghệ của các sản phẩm ...

Như vậy đánh giá năng lực công nghệ rất phức tạp và cần phải đánh giá được các yếu tố cơ bản của năng lực công nghệ là năng lực hấp thụ, thích nghi, cải tiến công nghệ nhập và năng lực đổi mới công nghệ. Có thể dựa vào phương pháp luận của “Technology Atlas Project” do APCTT thực hiện để đánh giá năng lực của công nghệ. Việc đánh giá này có thể tiến hành ở cấp quốc gia, ngành hoặc doanh nghiệp. Đánh giá năng lực công nghệ cấp quốc gia, cấp ngành nhằm mục đích :

- Giúp cho việc hoạch định chiến lược phát triển công nghệ và chính sách công

nghệ.

- Bằng các phương pháp luận và phương pháp tính toán hợp lý xác định mặt mạnh, mặt yếu của cơ sở, của ngành, quốc gia so với quốc gia khác trong khu vực và so với các nước khác trên thế giới từ đó trong kế hoạch phát triển có biện pháp và đối sách cho phù hợp.

- Xác định được trạng thái công nghệ của cơ sở, chủ yếu về trình độ công nghệ

và năng lực nội sinh để hoạt động.

2.2.2. Các bước cơ bản để đánh giá năng lực công nghệ ngành công nghiệp (hay ngành kinh tế)

Bước 1: Giới thiệu và đánh giá tổng quan về ngành công nghiệp hay ngành kinh tế.

- Giới thiệu vị trí của ngành so với các ngành kinh tế khác trong nước.

- Giới thiệu khả năng và thành tựu của ngành.

Bước 2: Đánh giá định tính năng lực công nghệ

- Đánh giá định tính năng lực công nghệ của ngành (có số liệu tham khảo so sánh

với một số nước)

- Đánh giá khả năng đồng hoá công nghệ nhập

- Đánh giá khả năng phát triển công nghệ nội sinh

Bước 3: Đánh giá nguồn tài nguyên

- Giới thiệu toàn cảnh nguồn lực tự nhiên, đặc biệt có số liệu đối chiếu nguồn lực

tự nhiên lớn, như: Khoáng sản, nhiên liệu v.v…

- Có số liệu để so sánh nguồn lực tự nhiên của quốc gia so với toàn cầu, hay

114

nguồn lực so đầu người.

Bước 4: Đánh giá nguồn nhân lực

- Giới thiệu bảng phân tích nguồn nhân lực

- Giới thiệu phân bố kỹ năng, kỹ xảo, tay nghề và cơ cấu lực lượng lao động theo

các giai đoạn chuyển đổi.

Bước 5: Đánh giá cơ sở hạ tầng

- Đánh giá, xem xét cường độ các pha của chuỗi phát triển các thành phần công

nghệ.

- Đánh giá hiệu quả tương tác giữa các tác nhân thúc đẩy và các pha của chuỗi

phát triển.

- Đánh giá cường độ liên kết của cơ sở hạ tầng và các đơn vị sản xuất.

- Bước 6: Đánh giá cơ cấu công nghệ

- Biểu diễn cơ cấu công nghệ ngành dưới dạng biểu đồ cực, trong đó độ dài véc

tơ sẽ

- biểu thị giá trị gia tăng, còn góc giữa véc tơ và trục x biểu thị hệ số đóng góp

của công nghệ.

- Phân tích cơ cấu công nghệ của ngành trong một số năm, chỉ ra những thay đổi

trong năng lực công nghệ.

Bước 7: Đánh giá năng lực công nghệ tổng thể.

Những kết quả thu được ở các bước đánh giá các mặt nhân lực, tài nguyên, cơ sở hạ tầng, cơ cấu công nghệ ở các bước 3, 4, 5 và 6 có thể tổ hợp lại để có một chỉ số năng lực công nghệ tổng thể của ngành.

2.2.3. Đánh giá năng lực công nghệ của doanh nghiệp

Khi phân tích, đánh giá năng lực công nghệ của một ngành, một quốc gia không thể tách rời hai bộ phận của năng lực công nghệ đó là trình độ công nghệ và khả năng phát triển công nghệ nội sinh, cho nên khi phân tích, đánh giá năng lực công nghệ của một doanh nghiệp, một công ty càng không thể tách rời hai bộ phận đó.

a/ Theo Atlas công nghệ, phần năng lực phát triển công nghệ nội sinh thì lại xét riêng lẻ theo 4 năng lực đó là :

- Năng lực vận hành, bao gồm

+ Năng lực sử dụng và kiểm tra kỹ thuật, vận hành ổn định dây chuyền sản xuất theo quy trình, quy phạm về công nghệ.

+ Năng lực quản lý sản xuất bao gồm: Xây dựng, kế hoạch sản xuất và tác nghiệp, đảm bảo chất lượng sản phẩm, kiểm soát cung ứng vật tư, đảm bảo thông tin.

+ Năng lực bảo dưỡng thường xuyên thiết bị công nghệ và ngăn ngừa sự cố.

115

+ Năng lực khắc phục sự cố xảy ra.

- Năng lực tiếp thu công nghệ từ bên ngoài, bao gồm

+ Năng lực tìm kiếm, đánh giá và chọn ra công nghệ thích hợp với yêu cầu của sản xuất kinh doanh.

+ Năng lực lựa chọn hình thức tiếp thu công nghệ phù hợp nhất (liên doanh,

licence, v.v…).

+ Năng lực đàm phán về giá cả, các điều kiện đi kèm trong hợp đồng chuyển giao

công nghệ.

+ Năng lực học tập, tiếp thu công nghệ mới được chuyển giao.

- Năng lực hỗ trợ cho tiếp thu công nghệ, bao gồm:

+ Năng lực chủ trì dự án tiếp thu công nghệ.

+ Năng lực triển khai nguồn nhân lực để tiếp thu công nghệ.

+ Năng lực tìm kiếm, huy động vốn cho đầu tư.

+ Năng lực xác định các thị trường mới cho sản phẩm của mình và đảm bảo đầu vào cần thiết cho sản xuất.

- Năng lực đổi mới công nghệ, bao gồm:

+ Năng lực thích nghi công nghệ được chuyển giao (có những thay đổi mới về sản phẩm, thay đổi nhỏ về thiết kế sản phẩm và nguyên liệu…).

+ Năng lực sao chép (làm lại theo mẫu) có thể có những thay đổi nhỏ về quy trình

công nghệ.

+ Năng lực thích nghi công nghệ được chuyển giao bằng thay đổi cơ bản về sản phẩm, về thiết kế sản phẩm và nguyên liệu.

+ Năng lực thích nghi công nghệ được chuyển giao bằng thay đổi cơ bản về quy trình công nghệ.

+ Năng lực tiến hành nghiên cứu và triển khai thực sự, thiết kế quy trình công nghệ dựa trên kết quả nghiên cứu và triển khai.

+ Năng lực sáng tạo công nghệ, tạo ra các sản phẩm hoàn toàn mới.

b/ Phân tích định lượng năng lực công nghệ cơ sở theo Atlas công nghệ.

Cơ sở của phương pháp này là tập hợp các kiến thức để nghiên cứu, phân tích, tính toán và xác định giá trị tạo được do đóng góp của công nghệ khi thực hiện hoạt động một công nghệ cục thể ở một cơ sở cụ thể. Căn cứ vào giá trị tạo được do công nghệ, ta có thể kết luận năng lực công nghệ của cơ sở đó cao hay thấp.

116

Trong phần này chỉ xét đến việc sử dụng hàm lượng công nghệ gia tăng (TCA) để đánh giá năng lực công nghệ.

Qua hàm hệ số trên ta thấy, tất cả các thành phần công nghệ đều có mặt đồng thời trong bất kỳ công đoạn nào và luôn bổ sung, tương tác lẫn nhau. Cho nên hệ số đóng góp của công nghệ là tích của các hệ số thành phần, mỗi hệ số được gắn một số mũ tương ứng thể hiện cường độ đóng góp của thành phần đó trong hệ số đóng góp chung. Các giá trị T, H, I, O được chuẩn hoá giữa 0 và 1 trước khi đưa vào biểu thức. Các số mũ, được xác định theo phương pháp so sánh tầm quan trọng từng đôi một và lập thành ma trận sau đó phân tích theo giá trị riêng.

Các bước xác định TCC:

Bước 1: Mô tả quá trình sản xuất

Phân tích dây truyền sản xuất để thấy được các giai đoạn của quá trình. Thí dụ các giai đoạn cơ bản trong nhà máy liên hợp gang – thép: thiêu kết, luyện cốc, luyện gang, luyện thép, đúc, cán và gia công tinh.

117

Bước 2: Đánh giá mức độ tinh vi của các thành phần công nghệ

Có thể sử dụng thang điểm từ 1 đến 9 theo cấp độ phức tạp (hay độ nâng cao từ thấp đến cao). Sự chồng lẫn điểm giữa hai cấp liên tiếp chỉ ra rằng trong thực tiễn, ranh giới rõ ràng giữa hai cấp kề nhau là không thực hiện được Cách cho điểm được tiến hành như sau:

- Thu thập các thông tin cần thiết về 4 thành phần công nghệ

- Xác định các đối tượng chính của thành phần T và H cần đánh giá. Thí dụ trong nhà máy liện hợp gang – Thép, thành phần T có thể là xưởng thiêu kết quạng, xưởng luyện cốc, lò cao, lò luyện thép, xưởng đúc và xưởng cán thép. Thành phần H có thể bao gồm công nhân, đốc công, nhà quản trị, nhà nghiên cứu và phát triển. Riêng đối với thành phần I và 0, việc đánh giá được thực hiện ở cấp công ty.

- Xác định giới hạn trên và dưới của mức độ tinh vi. Sau khi có điểm thành phần T và H theo từng mức độ tinh vi (bảng 2.1), xem các thành phần này của các nhà máy thuộc mức độ tinh vi nào để tính giới hạn trên và dưới, thí dụ ở bảng 2.2 và 2.3. Gọi các giới hạn này của đối tượng i huộc thành phần T và UTi và LTi , của đối tượng j thuộc thành phần H là Uhj và LHj . Vì mức độ tinh vi của thành phần I và 0 được đánh giá ở cấp công ty nên giới hạn trên và dưới được gọi là UI, LI và UO, LO. Các thành phần I và 0 vẫn cho điểm tương tự.

118

Mức độ tinh vi của thành phần T,H,I,O và điểm tương ứng

Xác định giới hạn trên và dưới của thành phần T

Xác định giới hạn trên và dưới của thành phần H

Bước 3. Trình độ hiện đại của các thành phần công nghệ.

Sử dụng các tiêu chuẩn để đánh giá từng thành phần (thang điểm từ 0 đến 10). Điểm được tính bằng các biểu thức sau:

- Đối tượng i của thành phần T:

- Đối tượng j của thành phần H:

Trong đó hjl là điểm ứng với tiêu chuẩn thứ l của đối tượng j của thành phần H

- Thành phần I:

119

Trong đó Im là điểm ứng với tiêu chuẩn thứ m của thành phần I ở cấp công ty

- Thành phần O

Trong đó On là điểm ứng với tiêu chuẩn thứ n của thành phần O ở cấp công ty

Bước 4. Xác định đóng góp riêng của các thành phần công nghệ

Trên cơ sở các giới hạn của mức độ tinh vi và điểm của trình độ hiện đại đã được xác định có thể tính được đóng góp riêng của từng thành phần như sau:

Ti chỉ phần đóng góp ứng với đối tượng i của thành phần T và Hj chỉ phần đóng góp của đối tượng j của thành phần H. Để có được toàn bộ phần đóng góp của T và H ở cấp công ty có thể sử dụng các biểu thức sau:

Bước 5: Đánh giá cường độ đóng góp của các thành phần công nghệ (β)

Có thể là sử dụng phương pháp so sánh theo cặp. Lập ma trận so sánh từng cặp dựa vào sự sắp xếp các thành phần công nghệ theo thứ tự về tầm quan trọng (cũng là thứ tự của các β) và dựa vào thang mức độ quan trọng tương đối. Sau khi chuẩn hoá (βt + βh + βo + βi = 1) sẽ xác định được giá trị β

Bước 6: Tính hệ số đóng góp của công nghệ (TCC)

Sử dụng các giá trị T, H, I, O và các cường độ đóng góp của các thành phần công nghệ có

120

thể tính được TCC bằng biểu thức:

Vì tất cả các hệ số T, H, I, O đều nhỏ hơn 1 và tổng các β bằng 1 (sau khi chuẩn hoá) nên giá trị cực đại của TCC sẽ bằng 1. Hàm hệ số đóng góp của công nghệ của một doanh nghiệp hay công ty cho biết sự đóng góp của công nghệ vào hoạt động đổi vào kết quả đầu ra của doanh nghiệp. Nói cách khác TCC cũng có thể xem như giá trị công nghệ gia tăng trên một đơn vị đầu ra. Hiểu theo cách này ta thấy rõ doanh nghiệp có khối lượng đầu ra lớn hơn sẽ có giá trị gia tăng của công nghệ nhiều hơn so với doanh nghiệp có cùng TCC nhưng sản phẩm đầu ra thấp hơn.

c/ Phân tích định lượng năng lực công nghệ cơ sở theo phương pháp kết hợp

Ngoài phương pháp phân tích ở mục a, dựa trên cơ sở của Atlas công nghệ, trong một đề tài nghiên cứu về năng lực công nghệ của doanh nghiệp mà bộ môn Quản lý công nghệ - trường đại học Kinh tế quốc dân đã tiến hành, bộ môn đã đưa ra phương pháp phân tích định lượng năng lực công nghệ cơ sở theo phương pháp kết hợp, xin được trình bày để tham khảo.

Nội dung của phương pháp là tính giá trị đóng góp của công nghệ vào giá trị kinh tế của doanh nghiệp hay chính là xác định hàm hệ số đóng góp của công nghệ trên cơ sở tích hợp hai yếu tố trình độ công nghệ thông qua hàm hệ số đóng góp công nghệ (như phương pháp của Atlas công nghệ) và năng lực phát triển công nghệ nội sinh (gọi tắt là năng lực công nghệ nội sinh) của doanh nghiệp thông qua 4 thành phần năng lực công nghệ.

Như vậy, năng lực công nghệ được đánh giá thông qua giá trị tạo được do công nghệ. Nhưng cách tính có khác phương pháp trên.

- C : H ệ số đóng góp theo năng lực nội sinh công nghệ

Cách xác định TCC như đã trình bày ở trên, còn C được xác định như sau:

Các thành phần năng lực nội sinh công nghệ gồm:

- Năng lực vận hành, ký hiệu C1

- Năng lực tiếp thu công nghệ, ký hiệu C2

- Năng lực hỗ trợ tiếp thu công nghệ, ký hiệu C3

121

- Năng lực đổi mới, ký hiệu C4

Căn cứ vào thang điểm chuẩn ứng với từng loại năng lực các chuyên gia sẽ cho điểm, sau đó tính tổng hợp lại.

Ví dụ: Năng lực vận hành C1 gồm có:

2.3. Các biện pháp nâng cao năng lực công nghệ

2.3.1. Nâng cao nhận thức và hiểu biết về năng lực công nghệ

Như đã nêu ở trên, năng lực công nghệ là vấn đề quan trọng. Đặc biệt ta cần nhấn mạnh thêm trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, muốn phát triển và trưởng thành vững vàng tuỳ thuộc một phần vào công sức và hiệu quả phấn đấu tạo ra những năng lực công nghệ để vươn tới thành thạo làm chủ công nghệ, tất nhiên còn tuỳ thuộc vào nhiều nhân tố nằm ngoài phạm vi ý muốn của chúng ta.Phân tích và nâng cao năng lực công nghệ đồng nghĩa với phát triển công nghệ.

Phân tích, đánh giá và nâng cao năng lực công nghệ không phải là công việc của riêng ai mà là trách nhiệm của cả cộng đồng, chính vì vậy từ cơ chế đến tổ chức phải đồng bộ và khuyến khích mọi người cùng tham gia. Mục tiêu cuối cùng mà chúng ta cần có là có được năng lực công nghệ để giải quyết tốt nhất các vấn đề công nghệ đặt ra.

2.3.2. Xây dựng yêu cầu năng lực công nghệ cơ sở, ngành, quốc gia

122

Theo lý thuyết cũng như kinh nghiệm của các nước phát triển, trong quá trình phát triển kinh tế muốn nền kinh tế tăng trưởng cao và ổn định, ứng với từng thời kỳ phải xác định cho được thực trạng năng lực công nghệ để từ đó và kết hợp với các mục

tiêu phát triển kinh tế, xã hội xây dựng được các yêu cầu năng lực công nghệ cho từng thời kỳ phát triển. Điểm mấu chốt của đánh giá thực trạng năng lực công nghệ là phải nêu bật được mặt mạnh cần phát huy, mặt yếu cần khắc phục và những vấn đề tăng cường và bổ sung.

2.3.3. Tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện phương pháp phân tích đánh giá năng lực công nghệ

Để phục vụ cho việc phân tích, đánh giá năng lực công nghệ. Việc đầu tiên là xác định phương pháp phân tích năng lực công nghệ. Nhiều nước, đặc biệt các nước Đông Nam á dùng phương pháp trong Atlas công nghệ. Muốn nâng cao năng lực công nghệ, thì việc đầu tiên là xác định được thực trạng để từ đó có giải pháp cho nên việc nghiên cứu và hoàn thiện phương pháp phân tích năng lực công nghệ là hết sức cần thiết.

Đối với nước ta phương pháp phân tích định lượng năng lực công nghệ cần thoả mãn các yêu cầu sau:

- Xác định được định lượng trạng thái các thành phần công nghệ đang sử dụng (4 thành phần công nghệ).

- Xác định được hiệu quả kinh tế của công nghệ một cách rõ ràng đối với một cơ sở cụ thể.

- Kết quả xác định thông qua phương pháp có thể dùng để so sánh với các doanh nghiệp trong nước, đối chiếu với các doanh nghiệp cùng loại ở khu vực Đông Nam á. Muốn thế phương pháp phải luôn được bổ sung, điều chỉnh nhờ sự tham khảo phương pháp của khu vực.

- Phương pháp cần đơn giản, dễ áp dụng để có kết quả trong thời gian ngắn.

- Kết quả của phương pháp phải có khả năng tích hợp để khái quát được năng lực của ngành và quốc gia.

Phương pháp sẽ từng bước được hoàn chỉnh và khả thi nếu:

- Phương pháp được áp dụng trong bối cảnh đồng bộ và thống nhất giữa các doanh nghiệp.

- Thời gian thực hiện đồng nhất để tạo điều kiện phân tích so sánh giữa các doanh nghiệp và tổng hợp được theo ngành.

- Có sự tham gia tích cực và hiệu quả của các cán bộ chỉ đạo ngành, cơ sở, địa phương.

- Có sự tham gia tự giác, tích cực, sáng tạo, nhạy bén của cán bộ cơ sở trong điều tra phân tích.

- Phương pháp điều tra lấy mẫu phải khoa học, tỉ mỉ, đơn giản, chính xác.

123

- Có bộ phận nghiên cứu (nhóm chuyên gia) để nghiên cứu đề xuất quy trình xác định từng loại chỉ tiêu riêng lẻ của trình độ công nghệ và năng lực nội sinh công nghệ.

- Có bộ phận nghiên cứu (nhóm chuyên gia) để nghiên cứu, điều tra, khảo sát, phân tích môi trường quốc gia ảnh hưởng tới công nghệ để đề xuất hệ số λ (chỉ số môi trường công nghệ) và lập thành bảng hồ sơ tra cứu cho các công trình nghiên cứu liên quan tới công nghệ và năng lực công nghệ.

- Các nhóm chuyên gia am hiểu kỹ từng ngành, lĩnh vực là cơ sở để nghiên cứu đề xuất các tiêu thức và phương pháp cho điểm các tham số, yếu tố công nghệ và năng lực công nghệ đã trình bày ở trên.

- Từng bước có thể chuẩn hoá các công đoạn phân tích năng lực công nghệ và có trợ giúp của công nghệ thông tin.

2.3.4. Tạo nguồn nhân lực cho công nghệ

Để tạo điều kiện phát triển kinh tế dựa trên nền tảng phát triển công nghệ cần phải tạo ra nguồn nhân lực được đào tạo về công nghệ phù hợp nhu cầu xã hội và một điều quan trọng nữa là tạo cơ hội thích hợp cho việc tuyển dụng lực lượng lao động theo đúng lĩnh vực chuyên môn của họ. Như vậy việc tạo nguồn nhân lực công nghệ là một trong những khâu quan trọng nhằm củng cố năng lực công nghệ quốc gia nói chung và năng lực công nghệ ngành, cơ sở nói riêng.

Để có nguồn nhân lực công nghệ phù hợp, phải biết đánh giá nguồn nhân lực trên cơ sở đó quy hoạch và xác định kế hoạch xây dựng nguồn nhân lực một cách khoa học và có hệ thống.

2.3.5. Xây dựng và củng cố hạ tầng cơ sở công nghệ

Như chúng ta đã thấy ở trên năng lực công nghệ mạnh hay yếu quyết định một phần chủyếu do cơ sở hạ tầng công nghệ. Đối với các nước đang phát triển như nước ta vấn đề này càng phải nhấn mạnh. Trước mắt có thể chúng ta cần lưu ý:

- Đối với trường học nói chung cần chú trọng trang thiết bị phục vụ thí nghiệm và thực hành, tránh tình trạng học sinh học chay hoặc thực hành với trang thiết bị lạc hậu, để sau khi ra trường khả năng hành nghề không bị hạn chế so với bằng cấp.

- Đối với các tổ chức nghiên cứu và phát triển cần xây dựng và củng cố cho phù hợp với cơ chế thị trường, đặc biệt cần tập trung đầy đủ trang thiết bị ở khâu nghiên cứu và thửnghiệm để thời gian nghiên cứu không kéo dài, có điều kiện thử nghiệm ở quy mô bán công nghiệp, nhanh chóng hoàn thiện công nghệ, hạn chế rủi ro và có khả năng cạnh tranh với công nghệ nước ngoài giới thiệu.

- Phải thường xuyên bổ sung nhân lực có năng lực cho các viện nghiên cứu, trường đại học, cơ quan nghiên cứu để có năng lực mạnh hơn các cơ sở sản xuất, thì mới tạo ra cơhội mới đề xuất công nghệ mới cũng như có khả năng làm chức năng tư vấn, hướng dẫn cơ sở sản xuất hoạt động và đặc biệt là lựa chọn hợp lý công nghệ nhập.

124

- Cần có các biện pháp nhằm tạo ra các điều kiện cần thiết để mối quan hệ giữa đào tạo, nghiên cứu và thực tiễn sản xuất gắn liền với nhau, phục vụ và hỗ trợ lẫn nhau.

- Củng cố và tăng cường trang thiết bị hệ thống đo lường, kiểm tra chất lượng để đảm bảo sự cân đối với trình độ trong khu vực và trên thế giới, tạo cơ sở cho hàng hoá nước ta dễ dàng thâm nhập thị trường ngoài nước.

- Củng cố và hoàn chỉnh mạng lưới các cơ quan thông tin khoa học - công nghệ để cung cấp thông tin đầy đủ "để biết" và "để làm".

125

- Tăng cường và phát huy tác dụng tích cực của các tổ chức tư vấn, đặc biệt tư vấn về chuyển giao công nghệ và đầu tư, cần bổ sung đội ngũ cán bộ thành thạo nghiệp vụ cũng như tạo cơ sở dữ liệu cần thiết để thực hiện có chất lượng công tác tư vấn.

CHƯƠNG 5: LỰA CHỌN VÀ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG

1. LỰA CHỌN CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG

1.1. Công nghệ thích hợp

1.1.1. Khái niệm chung

Trong hai thập kỷ (1950 – 1970), nền kinh tế thế giới tăng trưởng với tốc độ cao chưa từng thấy, do sự mở rộng quy mô và chuyển các công nghệ trong lĩnh vực quốc phòng sang dân dụng. Nhưng sau cuộc khủng hoảng giá dầu mỏ (1972 – 1973) dẫn đến khủng hoảng nền kinh tế thế giới, các nước công nghiệp nhận ra rằng, chính những ngành công nghiệp khổng lồ là mối đe doạ trực tiếp sự sống còn của họ. Các nước đang phát triển cũng nhận thấy rằng một số ngành công nghiệp làm họ nghèo thêm và phụ thuộc nhiều hơn vào các nước phát triển. từ đó nảy sinh vấn đề công nghệ nào là thích hợp cho sự phát triển và xác lập tính thích hợp của công nghệ như thế nào.

Bắt đầu một công việc kinh doanh chân chính phải nên xem xét đến tính thích hợp của công nghệ sắp được áp dụng. Công nghệ thích hợp ở các nước công nghiệp bắt đầu là do sự tập trung của hàng loạt lợi ích khác nhau. Các lợi ích này bao gồm các nhu cầu để:

- Tìm ra mối quan hệ hài hoà hơn và có thể chấp nhận được với hoàn cảnh xung quanh.

- Tìm ra được cách để thoát khởi sự khủng hoảng về nguyên liệu và năng lượng đang thúc bách lúc bấy giờ.

- Giảm bớt các công việc nặng nhọc mà ít người muốn làm.

- Triển khai nhiều hơn các việc làm để có lợi cho xã hội

- Đưa các ngành kinh tế địa phương phát triển đúng hướng, cùng với việc tăng các doanh nghiệp do chính người địa phương điều hành và làm chủ.

- Thúc đẩy sự phát triển văn hoá địa phương để chống lại sự đơn điệu và cằn cỗi ngày một tăng của văn hoá quần chúng đã truyền bá thông qua các phương tiện điện tử.

Đặc trưng các hoạt động hướng tới công nghệ thích hợp ở các nước đã công nghiệp hoá là sự cố gắng để sửa chữa sự thái qúa và mất cân bằng của nền văn hoá công nghiệp với sự sùng bái thái quá chủ nghĩa vật chất.

126

Ở các nước đang phát triển, công nghệ thích hợp được phát triển do một loạt các nhu cầu khác nhau. Điều nổi bật là họ thừa nhận chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá bắt chước ở các nước phát triển đã không thành công trong giải quyết vấn đề nghèo đói và mất ổn định. Vấn đề này có thể có nhiều lý do. Nguồn tài nguyên công nghệ của thế giới, một cơ sở cần thiết cho công nghiệp hoá, cơ bản đang bị khống chế bởi một số ít các nước mạnh nhất phục vụ cho nền kinh tế và lối sống của họ. Chuyển giao công nghệ chỉ phục vụ cho lợi ích của các nước giàu trong việc khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên, lao động rẻ mạt và các thị trường tiêu thụ tốt. Kết quả là hàng

trăm triệu người đã được hiện đại hoá sự nghèo khổ của mình và trong nhiều trường hợp việc áp dụng các công nghệ nhập khẩu đã tạo ra một cuộc công kích mạnh mẽ, dữ dội vào nền văn hoá địa phương. Do đó đặc trưng công nghệ thích hợp ở các nước đang phát triển về thực chất là cố gắng để thích nghi và triển khai công nghệ phù hợp với hoàn cảnh của họ. Đối với nước ta, để tăng trưởng kinh tế, trước hết cần có một mô hình kinh tế phù hợp. Tìm hiểu kinh nghiệm của nhiều nước, chúng ta không dập khuôn bất kỳ một mô hình nào đó mà tiếp thu những ưu điểm, loại trừ khuyết tật của các mô hình để có thể hình thành các mô hình kinh tế Việt Nam, phù hợp với thực tiễn đất nước, truyền thống dân tộc và xu thế thời đại. Theo ý kiến của nhiều chuyên gia và theo hướng suy nghĩ tích cực, thực tiễn, thì ta phải biết kết hợp các nhân tố của kinh tế thị trường, kinh tế tri thức, kinh tế sinh thái, kinh tế nhân văn, kinh tế văn hoá, kinh tế - xã hội. Để thích ứng với mô hình kinh tế hợp lý đó, vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hoá cũng phải có bước đi riêng và tìm ra một mô hình thích hợp. Để thực hiện ý đồ đó, tìm ra nguồn lực động lực và mục tiêu của nó là vấn đề cốt lõi. Trong những vấn đề cần chú ý thì công nghệ thích hợp là vấn đề cơ bản. Vậy công nghệ thích hợp là gì ? Khái quát trong một định nghĩa ngắn gọn là vấn đề phức tạp và rất khó. Các nước đang phát triển thống nhất quan niệm:

"Công nghệ thích hợp là các công nghệ đạt được các mục tiêu của quá trình phát triển kinh tế - xã hội, trên cơ sở phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của địa phương"

1.1.2. Căn cứ xác định công nghệ thích hợp

Công nghệ được tạo ra từ hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D). Tuy nhiên, các hoạt động R&D tại các nơi khác nhau sẽ tạo ra công nghệ khác nhau để đạt được cùng một mục tiêu. Điều này là do hoàn cảnh, bao gồm các yếu tố như dân số; tài nguyên; hệ thống kinh tế, công nghệ, môi trường, văn hoá – xã hội, pháp luật- chính trị. Do vậy bất kỳ công nghệ nào cũng được xem là thích hợp tại thời điểm phát triển, đối với hoàn cảnh mà nó được phát triển và mục tiêu phát triển. Nó có thể thích hợp hoặc không thích hợp ở nơi khách hoặc vào thời điểm khác. Như vậy, tính thích hợp của công nghệ không phải là một tính chất nội tại của công nghệ, nó phụ thuộc vào hoàn cảnh, thời gian và mục tiêu.

- Hoàn cảnh bao gồm các yếu tố như : Dân số, tài nguyên, kinh tế, công nghệ, môi trường sống, văn hoá, xã hội, chính trị, pháp luật, quan hệ quốc tế.

127

- Mục tiêu : Dựa vào các mục tiêu quốc gia, của ngành , của địa phương, của cơ sở mà xác định, nhưng phải tối đa hiệu quả và tối thiểu hậu quả. Mục tiêu có thể đổi khác khi những yếu tố, nhân tố tạo nên hiệu quả và gây hậu quả thay đổi và tương quan giữa hai tập yếu tố này.

Giới thiệu một số tiêu chuẩn đánh giá tính thích hợp của công nghệ

1.1.3. Định hướng công nghệ thích hợp

Trong bối cảnh của các nước đang phát triển, công nghệ thích hợp được xem xét ở 4 khía cạnh:

a/ Định hướng theo trình độ công nghệ

Tiền đề cơ bản làm cơ sở cho định hướng này là có một loạt công nghệ sẵn có để thỏa mãn một nhu cầu nhất định. Vấn đề là lựa chọn công nghệ như thế nào cho phù hợp. Các công nghệ sẵn có được sắp xếp theo thứ tự thô sơ, thủ công đến tiên tiến, hiện đại. Đối với các nước đang phát triển, nếu chọn công nghệ tiên tiến:

- Công nghệ tiên tiến là cơ hội để các nước đang phát triển có thể hoàn thành công nghiệp hoá nhanh chóng.

- Công nghệ tiên tiến có thời gian sử dụng lâu dài

- Công nghệ tiên tiến tạo năng suất lao động cao, chất lượng tốt, giá thành hạ, lợi nhuận cao, thuận lợi trong phân công hợp tác quốc tế.

Tuy nhiên, các công nghệ tiên tiến vốn ứng dụng các kết quả của khoa học hiện đại, nên khi tiếp nhận chúng, các nước đang phát triển thường gặp khó khăn như:

- Tập trung vốn lớn, khó thực hiện nhiều mục tiêu một lúc, kìm hãm sự phát triển các cơ sở vừa và nhỏ.

- Đòi hỏi năng lực vận hành và trình độ quản lý cao

128

- Cắt đứt một cách đột ngột với quá khứ, do đó tính thích nghi giảm.

Quan điểm của nhiều chuyên gia cho rằng, đối với các nước đang phát triển là để dung hoà có thể chọn công nghệ trung gian. Loại công nghệ này có trình độ trung gian giữa công nghệ thô sơ, rẻ tiền và công nghệ tiên tiến, hiện đại. Lý do có thể là:

- Điều kiện ở các nước đang phát triển không giống như điều kiện ở các nước phát triển. Cho nên loại công nghệ trung gian có thể dung hoà được hai hoàn cảnh đó.

- Được xây dựng với quy mô từ nhỏ đến lớn, từ đơn giản đến phức tạp, từ trình độ trung bình đến hiện đại. Công nghệ trung gian sẽ tạo ra các cơ hội tốt bằng thực nghiệm và từng bước nâng dần kỹ năng, kỹ xảo cũng như kinh nghiệm quản lý.

- Có điều kiện triển khai nhiều công nghệ để giải quyết nhiều mục tiêu trong điều kiện nguồn vốn bị hạn chế.

- Công nghệ trung gian tạo điều kiện cho việc tiếp thu, đồng hoá dễ dàng.

b/ Định hướng theo nhóm mục tiêu

Cơ sở định hướng là dựa vào các nhóm mục tiêu phát triển công nghệ. Thông thường các nhóm mục tiêu được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên, đó là cơ sở để lựa chọn công nghệ thích hợp theo từng giai đoạn. Nhóm mục tiêu bao gồm:

- Thoả mãn các nhu cầu tối thiểu, tạo công ăn việc làm và nâng cao mức sống đồng đều.

- Tăng năng suất lao động và sức cạnh tranh trên thị trường.

- Tự lực và độc lập về công nghệ

Ví dụ, khi mục tiêu phát triển công nghệ là thoả mãn nhu cầu tối thiểu, đối tượng phục vụ của công nghệ sẽ là đông đảo dân nghèo ở nông thôn. Tiêu thức thích hợp của công nghệ có thể là chi phí sản xuất thấp, giá thành sản phẩm hạ, phát huy các công nghệ truyền thống, tận dụng các nguồn lức sẵn có của địa phương.v.v…

c/ Định hướng theo sự hạn chế các nguồn lực

Cơ sở của định hướng là xem xét công nghệ có thích ứng với nguồn tài nguyên vốn có, phù hợp với điều kiện chung trong sự phát triển ở địa phương hay không. Một số trong số các điều kiện về nguồn lực là đội ngũ nhân lực, vốn đầu tư nội địa, năng lượng, nguyên vật liệu. Vấn đề là sử dụng các nguồn lực này như thế nào cho hợp lý, vừa có hiệu quả trong hiện tại, trong ngắn hạn, đồng thời đảm bảo sử dụng lâu dài bền vững.

d/ Định hướng theo sự hoà hợp (không gây đột biến).

129

Cơ sở thứ tư của công nghệ thích hợp đó là mong muốn có được tiến bộ công nghệ thông qua phát triển chứ không phải cách mạng. Có nghĩa là phải có sự hài hoà giữa sửdụng, thích nghi, cải tiến, đổi mới. Sự phát triển theo tuần tự, không gượng ép, không gây ô nhiễm, không mất cân bằng sinh thái, bảo đảm hoà hợp tự nhiên, kết hợp công nghệ nội địa và công nghệ nhập, tạo lập sự phát triển nhanh và bền vững,

không mâu thuẫn giữa quốc gia và địa phương, hoà hợp giữa công nghệ truyền thống và hiện đại….

Qua 4 định hướng vừa nêu về công nghệ thích hợp, chúng ta dễ thấy vì sao mọi người hiểu công nghệ thích hợp một cách khác nhau và không thể nào thoả mãn đồng thời những yêu cầu như vậy. Để công nghệ thích hợp trở thành khả thi chúng ta cần:

- Loại bỏ những nhận thức không đúng về công nghệ thích hợp.

- Không có công nghệ nào thích hợp cho tất cả các nước và cũng không có công nghệ nào không thích hợp với nước nào.

- Tính thích hợp và không thích hợp của công nghệ cần được xem xét lại một cách thường xuyên và một chiến lược cân bằng là cần thiết cho phát triển công nghệ.

Đối với các nước đang phát triển, có thể chia các tình huống lựa chọn công nghệ thành 3 nhóm lớn:

Nhóm lựa chọn công nghệ

1.2. Lựa chọn công nghệ

1.2.1. Khái niệm

Lựa chọn công nghệ là quá trình phức tạp và khía cạnh quan trọng nhất của nó là công nghệ được lựa chọn phải hỗ trợ có hiệu quả cho chiến lược của doanh nghiệp. Lựa chọn công nghệ không đúng có thể dẫn đến nhà máy ngừng hoạt động hoặc doanh nghiệp phá sản. Một nghiên cứu của Schemenner cho thấy hơn 1/3 các nhà máy ngừng hoạt động thuộc về các nhà máy đã được xây dựng không quá 6 năm và nguyên nhân chủ yếu là do lựa chọn công nghệ - lựa chọn những công nghệ làm cho năng xuất thấp.

130

Lựa chọn công nghệ rất quan trọng đối với việc tạo lợi thế cạnh tranh.Doanh nghiệp phải lựa chọn những công nghệ nào để thực hiện các hoạt động thuộc chuỗi giá trị (Value chain) nhằm đạt được lợi thế cạnh tranh mà doanh nghiệp theo đuổi khi thực hiện chiến lược cạnh tranh. Chẳng hạn, nếu chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp

là khác biệt hoá thì doanh nghiệp sẽ lựa chọn những công nghệ có khả năng tối đa hoá các lợi thế cạnh tranh về mặt tính năng cao, đáp ứng nhanh chóng nhu cầu, dịch vụ khách hàng tốt hơn.

1.2.2. Các yếu tố cần xem xét khi lựa chọn công nghệ

Khi lựa chọn công nghệ doanh nghiệp cần xem xét các yếu tố sau:

- Môi trường công nghệ: Có 4 loại môi trường công nghệ.

+ Môi trường công nghệ thay đổi nhanh với tính cạnh tranh cao (1)

+ Môi trường công nghệ thay đổi nhanh với tính cạnh tranh thấp (2)

+ Môi trường công nghệ thay đổi chậm với tính cạnh tranh cao (3)

+ Môi trường công nghệ thay đổi chậm với tính cạnh tranh thấp (4)

Các doanh nghiệp nằm trong môi trường thuộc loại (1) và (2) chọn nhiều công nghệ mới hơn các doanh nghiệp nằm trong môi trường thuộc loại (3) và (4) vì các doanh nghiệp này muốn theo kịp các công nghệ mới để thích ứng với môi trường công nghệ đang thay đổi nhanh.

- Công nghệ: Có thể xem xét giá trị của công nghệ, chu kỳ sống của công nghệ, xu hướng công nghệ trong tương lai (nhờ vào dự báo công nghệ)

- Sản phẩm: Xem xét tính phức tạp của sản phẩm, độ chính xác theo yêu cầu khi chế tạo sản phẩm, kích thước của lô (trường hợp sản xuất theo lô) số lượng model…

- Thị trường: Xem xét thị trường sản phẩm giúp xác định quy mô công nghệ, tính linh hoạt của trình độ công nghệ.

Ngoài các yếu tố trên, có thể xem xét them vấn đề đầu tư; năng lực công nghệ; trình độ tổ chức; quản lý; mục tiêu; chiến lược của doanh nghiệp.

1.2.3. Một số phương pháp lựa chọn công nghệ

a/ Lựa chọn công nghệ theo hàm lượng công nghệ.

Như đã trình bày ở chương một, một công nghệ luôn hàm chứa trong bốn thành phần đó là: Phần kỹ thuật (T), phần con người (H), phần thông tin (I) và phần tổ chức(O). Bốn thành phần này có sự đóng góp với mức độ khác nhau trong mỗi công nghệ. Sự đóng góp chung của cả bốn thành phần trong một công nghệ được biểu thị bằng đại lượng hệ số đóng góp của các thành phần công nghệ và được xác định bởi công thức:

131

Nếu các thành phần của công nghệ không thay đổi thì TCC là hệ số đóng góp của công nghệ. Nếu một trong các thành phần công nghệ thay đổi (biến số) thì TCC là hàm hệ số đóng góp của công nghệ. Chúng ta dễ dàng chứng minh được rằng:

Từ biểu thức trên ta nhận thấy tỷ lệ gia tăng của hàm hệ số đóng góp (TCC) phải bằng tổng tỷ lệ gia tăng của bốn thành phần công nghệ có trọng số và như vậy nếu được lựa chọn một trong nhiều công nghệ, chúng ta có thể chọn công nghệ có tỷ lệ gia tăng lớn nhất. Mặt khác trên cơ sở so sánh tỷ lệ gia tăng của các thành phần công

chúng ta cũng có thể quyết định đầu tư cho thành phần công

nghệ nghệ nào có độ gia tăng cao.

Tuy nhiên trong thực tế, TCC chưa phản ánh được mức đóng góp của công nghệ đối với một doanh nghiệp, mà còn phải xem xét giá trị đóng góp của công nghệ vào giá trị gia tăng trên một đơn vị đầu ra, ký hiệu là TCA:

Qua đây ta thấy nếu hai công nghệ có cùng giá trị TCC thì công nghệ nào tạo ra giá trị gia tăng lớn hơn sẽ sinh lợi nhiều hơn và quyết định chọn công nghệ đó. Điều này cũng đúng trong trường hợp một doanh nghiệp tạo ra một đơn vị giá trị gia tăng với TCC lớn hơn sẽ có năng lực công nghệ cao hơn doanh nghiệp tạo ra một đơn vị giá trị gia tăng với TCC nhỏ hơn.

Trong trường hợp lựa chọn công nghệ mới, giá trị gia tăng thường chỉ là dự báo, vì vậy kết quả lựa chọn khó chính xác. Do đó có thể lựa chọn công nghệ theo hiệu suất hấp thụ công nghệ, ký hiệu là: ηcn(%).

Ví dụ: A’ và B’ là hai công nghệ được áp dụng từ hai công nghệ gốc A và B. Quyết định chọn công nghệ nào xuất phát từ sự so sánh về hiệu suất hấp thụ của hai công nghệ trên:

Công nghệ có hiệu suất hấp thụ lớn hơn sẽ được chọn.

b/ Lựa chọn công nghệ theo công suất tối ưu.

132

Phương pháp lựa chọn công nghệ theo công suất tối ưu thường được áp dụng trong giai đoạn xây dựng luận chứng kinh tế - kỹ thuật, vì chủ yếu dựa trên số liệu dự báo và điều tra thị trường.

Công suất của một công nghệ là lượng đầu ra tối đa trong một đơn vị thời gian, ngoài các yếu tố đầu vào nó phụ thuộc chủ yếu vào các thành phần công nghệ. Cân đối giữa chi phí sản xuất và doanh thu từ sản phẩm, công suất của công nghệ có thể nằm trong khoảng Qmin và Qmax

Lựa chọn công nghệ theo công suất tối ưu

Trong khoảng đó Q* được coi là công suất tối ưu, vì không nhất thiết phải hoạt động với công suất tối đa mới đạt hiệu quả kinh tế cao nhất (lợi nhuận cao nhất).

c/ Phương pháp lựa chọn công nghệ theo chỉ tiêu tổng hợp.

133

Trong thực tế, để lựa chọn công nghệ không thể chỉ căn cứ vào một chỉ tiêu riêng lẻ, mà phải đồng thời xem xét nhiều chỉ tiêu. Để lựa chọn được một công nghệ thoả mãn các điều kiện về kỹ thuật, kinh tế, tài chính, môi trường, tài nguyên … đòi hỏi phải đánh giá được mối tương quan giữa các yếu tố trên để ra quyết định đúng đắn. Phương pháp lựa chọn công nghệ theo chỉ tiêu tổng hợp (K) không chỉ tính toán một cách độc lập, đồng thời, các giá trị đặc trưng của công nghệ như: năng suất hoà vốn, giá trị NPV, giá trị IRR, giá trị hàm hệ số đóng góp của công nghệ, giá trịchỉ số sinh lời, tuổi thọ của công nghệ, giá trị công nghệ tính bằng tiền, tác động của công nghệ

đến môi trường…. mà còn đưa ra thông số tổng hợp các đặc trưng này cho mỗi phương án được đưa ra xem xét.

Tầm quan trọng tương đối của các chỉ tiêu trên được xác định bằng các trọng số theo phương pháp chuyên gia.

Hệ số đánh giá chỉ tiêu tổng hợp được tính theo công thức:

Như vậy, nếu hai công nghệ A và B cùng loại, sau khi tính toán, công nghệ nào có hệ số công nghệ tổng hợp K cao hơn sẽ được chọn.

Ví dụ: Các giá trị đã chuẩn hóa của hai công nghệ A và B cho trong bảng. Nên lựa chọn công nghệ nào.

Từ kết quả tính toán đi đến kết luận chọn công nghệ B vì KB > KA.

d/ Lựa chọn công nghệ theo nguồn lực đầu vào

Chúng ta đều biết rằng để đạt được một hàm mục tiêu đã được xác định, có thể sử dụng nhiều các công nghệ khác nhau.

Đối với các doanh nghiệp ở các quốc gia đang phát triển, việc đổi mới dựa trên sự lựa chọn một công nghệ phù hợp trong số các công nghệ sẵn có, có ý nghĩa quyết định tới sự phát triển bản thân doanh nghiệp.

Vì vậy, việc đầu tiên phải làm là loại bỏ các công nghệ kém hiệu quả trong số các ứng cử viên cho sự lựa chọn.

134

Nếu ta gọi Ai j là yếu tố đầu vào thứ i để sản xuất theo công nghệ thứ j

Với (i = 1…n, j = 1…m) aij ≥0 thì ta sẽ có ma trận chi phí sau:

Để đơn giản ta giả thiết aij = const (trên thực tế ai j có thể làm hàm số phụ thuộc vào các yếu tố khác, ví dự: Tổ chức, sản lượng….) và thông thường như trong kinh tế học người ta quy đổi các yếu tố đầu vào thành hai yếu tố chính đó là vốn (K) và lao động(L), do đó ma trận chi phí sẽ trở thành:

Trong không gian 2 chiều mỗi cặp aij với i = 1 ÷ 2 được thể hiện bởi một điểm Aj (a1j, a2j),

Lựa chọn công nghệ: loại bỏ công nghệ kém hiệu quả

Nối các điểm Aj với nhau ta sẽ được một đường gấp khúc, người ta gọi đó là đường đẳng lượng ứng với mức sản lượng A = const. Tuy nhiên điều này chưa chính xác, bởi vì trên đường thẳng lượng chỉ có những phương án công nghệ hiệu quả, do đó cần phải loại bỏ những phương án công nghệ không hiệu quả so với các tập hợp đang khảo sát. Đường đẳng lượng là một đường lồi với gốc tạo độ đều là không hiệu quả và dĩ nhiên không được đưa vào phương án lựa chọn.

135

Tổng quát, khi số lượng các phương án công nghệ khá lớn ( j -> ∝) thì đường đẳng lượng sẽ là một đường cong trơn và lồi so với gốc toạ độ.

Làm thế nào để loại bỏ các phương án công nghệ kém hiệu quả? Chúng ta có thể tiến hành theo nhiều cách khác nhau bằng công cụ giải tích hoặc đơn giản nhất là chúng ta tiến hành việc loại bỏ các phương án công nghệ không hiệu quả bằng hình học.

Đầu tiên chúng ta xác định các phương án công nghệ trên hệ trục toạ độ

Loại bỏ công nghệ kém hiệu quả.

Lần lượt nối các điểm theo một thứ tự Ai - Ai + 1, i = 1…n (ví dự L giảm dần A1- A2, A2-A3…) nếu có phương án công nghệ nào nằm bên trái (phía gốc toạ độ) so với đường thẳng được tạo bởi các đoạn thẳng đó thì Ai + 1 sẽ là công nghệ kém hiệu quả và bỏ qua, tiếp theo ta nối Ai – Ai+2… kết quả cuối cùng sẽ cho ta được một đường gấp khúc lồi so với gốc toạ độ.

Ví dụ, trên hình, khi nối điểm 2 với điểm 3, ta thấy điểm 4 nằm trên trái đường thẳng, vậy công nghệ ứng với điểm A3 sẽ là công nghệ không hiệu quả.

2. ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ

2.1. Khái niệm

2.1.1. Đổi mới công nghệ là gì?

136

Lịch sử phát triển xã hội loài người đã trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn gắn liền với sự xuất hiện và phát triển của một loại hình kỹ thuật đặc trưng quyết định sự phát triển của xã hội loài người ở giai đoạn đó. Thời kỳ đồ đá phát triển cao hơn thời kỳ trước đó là nhờ sự xuất hiện và phát triển của các công cụ lao động bằng đá. Thời kỳ đó lại được thay thế bởi thời kỳ đồ đồng có mức độ phát triển cao hơn với sự xuất hiện và phát triển của việc sản xuất và sử dụng các công cụ sản xuất bằng đồng. Chính khả năng dễ chế tạo thành các công cụ lao động khác nhau của đồng và tính hiệu quả cao hơn của các công cụ này đã làm cho chất lượng sống của con người được nâng cao hơn …. Đến thế kỷ XVIII tất cả các hệ thống kỹ thuật mà loài người đã sử dụng lúc đó dần được thay đổi đó là ở nguồn động lực, với sự ra đời của máy hơi nước - nguồn động lực mới thay thế nguồn động lực truyền thống là sức lực cơ bắp của con người và gia súc và một phần nhỏ sức mạnh tự nhiên như sức gió, sức

nước. Đó là một trong các yếu tố tạo nên cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, làm thay đổi bộ mặt của thế giới.

Ngày nay việc ứng dụng các thành tựu của công nghệ thông tin là một xu thế tất yếu của hệ thống công nghệ toàn cầu đã và đang mang lại những hiệu quả to lớn đối với sự phát triển của từng doanh nghiệp, mỗi quốc gia và toàn thế giới, nhờ liên tục đổi mới công nghệ.

Vậy đổi mới công nghệ là gì? Đó chính là cấp cao nhất của thay đổi công nghệ và là qúa trình quan trọng nhất của sự phát triển đối với tất cả các hệ thống công nghệ. Có quan điểm cho rằng đổi mới công nghệ là sự hoàn thiện và phát triển không ngừng các thành phần cấu thành công nghệ dựa trên các thành tựu khoa học nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của sản xuất kinh doanh và quản lý kinh tế, xã hội. Với quan điểm này một sự thay đổi trong các thành phần công nghệ dù nhỏ cũng được coi là đổi mới công nghệ, thực ra các hoạt động này nên coi là cải tiến công nghệ thì chính xác hơn. Mặt khác, hệ thống công nghệ mà con người đang sử dụng có tính phức tạp và đang dạng cao, chỉ một loại sản phẩm đã có thể dùng rất nhiều loại công nghệ khác nhau, do đó nếu xếp tất cả các thay đổi nhỏ về công nghệ thuộc về đổi mới công nghệ thì việc quản lý đổi mới công nghệ là việc làm không có tính khả thi. Để có thể quản lý được các hoạt động đổi mới thì cần tập trung vào những hoạt động cơ bản. Do đó ta có thể đưa ra khái niệm đổi mới công nghệ như sau: “Đổi mới công nghệ là việc chủ động thay thế tầm quan trọng (cơ bản, cốt lõi) hay toàn bộ công nghệ đang sử dụng bằng một công nghệ khác tiên tiến hơn, hiệu quả hơn.”

Đổi mới công nghệ có thể chỉ nhằm giải quyết các bài toán tối ưu các thông số sản xuất như năng suất, chất lượng, hiệu quả…. (Đổi mới quá trình) hoặc có thể nhằm tạo ra một sản phẩm, dịch vụ mới phục vụ thị trường (đổi mới sản phẩm).

Đổi mới công nghệ có thể là đưa ra hoặc ứng dụng những công nghệ hoàn toàn mới (ví dụ, sáng chế công nghệ mới) chưa có trên thị trường công nghệ hoặc là nơi sử dụng nó lần đầu và trong một hoàn cảnh hoàn toàn mới (ví dụ, đổi mới công nghệ nhờ chuyển giao công nghệ theo chiều ngang).

2.1.2. Phân loại đổi mới công nghệ

Từ những năm 1950, các nhà kinh tế học tân cổ điển đã nhận thức được vai trò của công nghệ. Trong các mô hình phát triển của họ đã có sự tham gia của tiến bộ công nghệ. Các nhà kinh tế học đã khẳng đinh chính đổi mới công nghệ đã giúp cho các nền kinh tế, một mặt thoát khỏi tình trạng lợi tức giảm, mặt khác đạt được tỷ lệ tăng trưởng dài hạn.

Đổi mới công nghệ có thể được phân loại theo tính sáng tạo và theo sự áp dụng.

a/ Theo tính sáng tạo.

137

Bao gồm đổi mới gián đoạn (Discontinuous Innovation) và đổi mới liên tục (Continuous Innovation)

Đổi mới gián đoạn, còn gọi là đổi mới căn bản (Radical Innovation), thể hiện sự đột phá về sản phẩm và quá trình, tạo ra những ngành mới hoặc làm thay đổi những ngành đã chín muồi. Đổi mới này tạo nên lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp trên thị trường mới.

Đổi mới liên tục, còn gọi là đổi mới tăng dần (Incremental Innovation), nhằm cải tiến sản phẩm và quá trình để duy trì vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường hiện có.

Mối quan hệ giữa đổi mới gián đoạn và đổi mới liên tục được minh hoạ ở hình vẽ.

b/ Theo sự áp dụng.

Nếu xem công nghệ gồm công nghệ sản phẩm (Product technology) và công nghệ quá trình (Process technology) thì đổi mới công nghệ bao gồm đổi mới sản phẩm (sản phẩm gồm hàng hoá và dịch vụ) và đổi mới quá trình.

- Đổi mới sản phẩm : Đưa ra thị trường một loại sản phẩm mới (mới về mặt công nghệ)

- Đổi mới quá trình : Đưa vào doanh nghiệp hoặc đưa ra thị trường một quá trình sản xuất mới (mới về mặt công nghệ)

- Đổi mới sản phẩm và quá trình có thể đổi mới gián đoạn hay liên tục.

Ngoài ra còn một số cách phân loại khác như: Nếu đổi mới công nghệ có thể giúp nhà sản xuất tạo ra cùng một lượng sản phẩm nhưng tiết kiệm vốn nhiều hơn tiết kiệm lao động, trong trường hợp này người ta gọi là đổi mới công nghệ tiết kiệm vốn.Nếu đổi mới công nghệ tiết kiệm lao động nhiều hơn tiết kiệm vón thì đổi mới công nghệ được gọi là đổi mới công nghệ tiết kiệm lao động. Trong trường hợp đổi mới công nghệ có tác dụng tiết kiệm cả hai yếu tố cùng một tỷ lệ, thì đổi mới công nghệ được gọi là trung tính. Cũng có cách phân loại đổi mới công nghệ phần cứng và đổi mới công nghệ phần mềm.

2.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến đổi mới công nghệ

a/ Thị trường.

138

Những nền kinh tế thị trường có thể có lợi thế trong quá trình đổi mới. Nếu thị trường của một loại sản phẩm nào đó được mở rộng thì điều này sẽ thúc đẩy đổi mới. Đổi

mới chỉ thật sự hoàn thành sau khi sản phẩm hay quá trình được người sử dụng chấp nhận, do vậy một khía cạnh rất quan trọng của đổi mới là Marketing.

b/ Nhu cầu

Phần lớn các trường hợp đổi mới công nghệ xuất phát từ nhu cầu. Có thể là do áp lực của môi trường kinh doanh (các yếu tố vĩ mô như chính trị, xã hội, kinh tế, công nghệ…) làm xuất hiện nhu cầu, thí dụ: do áp lực của xã hội về vấn đề ô nhiễm môi trường, các nhà sản xuất ô tô nghiên cứu để chế tạo thiết bị giảm ô nhiễm trang bị cho ô tô. Nhu cầu của người tiêu dung cũng thúc đẩy đổi mới.

c/ Hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D)

Nghiên cứu và phát triển là khâu quan trọng trong quá trình đổi mới. Báo cáo về năng lực cạnh tranh của Châu Âu nêu rõ: “Nếu không có cơ sở nghiên cứu khoa học mạnh và đa dạng thì sẽ không hề có bất kỳ một sự cất cánh công nghệ nào cả”. Các doanh nghiệp có ngân sách R&D lớn và nguồn nhân lực R&D có kỹ năng nghiên cứu sẽ thuận lợi trong đổi mới công nghệ.

d/ Cạnh tranh.

Nói chung cạnh tranh thúc đẩy đổi mới.

e/ Các chính sách quốc gia hỗ trợ đổi mới.

Để khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, chính phủ thường có những chính sách thích hợp.

2.2. Tác động của đổi mới công nghệ

2.2.1. Đối với năng suất

Theo Diorio, “năng suất là sự kết hợp hiệu quả (efficiency) và kết quả (effectiveness), nghĩa là đạt được kết quả với việc sử dụng tốt nhất các nguồn lực.”

Đổi mới công nghệ thường làm tăng năng suất thể hiện qua việc giảm chi phí sản xuất trên mỗi đơn vị sản phẩm và giúp các doanh nghiệp đạt được các mục tiêu như nâng cao tính linh hoạt, đáp ứng nhanh chóng nhu cầu của khách hang

2.2.2. Đối với chất lượng sản phẩm

Công nghệ mới có vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Khi đồ thị thống kê chuẩn và đồ thị thống kê thực tế chênh lệch nhau vượt quá giới hạn cho phép, chuông sẽ báo động và nhân viên trực sẽ tiến hành điều chỉnh, ngăn chặn ngay từ đầu việc sản xuất sản phẩm không đảm bảo chất lượng.

2.2.3. Đối với chu kỳ sống của sản phẩm

Sử dụng công nghệ mới làm rút ngắn chu kỳ sống của sản phẩm vì công nghệ mới có tính linh hoạt cao, có thể đưa ra nhiều model mới.

139

2.2.4. Đối với chiến lược kinh doanh

Để xác định ảnh hưởng của đổi mới công nghệ đến năng lực của doanh nghiệp. Abernathy và Clark chia năng lực của doanh nghiệp ra thành năng lực sản xuất (công nghệ) năng lực thị trường (khách hàng)

- Về mặt sản xuất (công nghệ), đổi mới có thể làm thay đổi thiết kế sản phẩm, hệ thống sản xuất, thiết bị, vật liệu, kỹ năng, kiến thức của người lao động.

- Về mặt thị trường (khách hàng), đổi mới có thể làm thay đổi thái độ, hành vi của khách hang, kênh phân phối, phương thức truyền thông …

Điều này có nghĩa là những lĩnh vực hoạt động trong chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp có thể bị thay đổi

2.2.5. Đối với việc làm

Nói chung mối quan hệ giữa đổi mới công nghệ với việc làm thì không đơn giản và được thể hiện trên hình

Tác động của đổi mới công nghệ đối với việc làm

2.3. Quá trình đổi mới công nghệ

2.3.1. Một số xu thế ảnh hưởng tới đổi mới công nghệ

140

Để tiến hành đổi mới công nghệ có hiệu quả tại các quốc gia cũng như tại các doanh nghiệp, cần phải nghiên cứu kỹ các yếu tố ảnh hưởng tới đổi mới công nghệ. Hiện nay mô hình đổi mới tuyến tính cổ điển với kiến thức khoa học mới đặt phía trước và những sản phẩm, dịch vụ và lợi nhuận thị trường ở phía cuối con đường đang ngày càng bị thách thức. Lịch sử kinh tế học hiện đại đã chỉ ra rằng sự đi đầu của nghiên cứu sẽ không tự động chuyển đổi sang thành công kinh tế.

Đổi mới là một hoạt động đồng thời tương tác và phi tuyến nó bao gồm không chỉ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mà cả xã hội, chính trị và các tương tác kinh tế cũng như chính sách công. Trong đó yếu tố vô cùng quan trọng của đổi mới là sự tìm tòi khoa học là những người nuôi dưỡng nền móng tri thức giàu có của thế giới. Các kỹ sư là những người tinh thông “trong sự chính xác tương đương với sự hỗn loạn nhằm đưa ra các hình ảnh tập trung vào tiêu điểm”. Phần này đề cập tới các xu thế có ảnh hưởng một cách chiến lược tới quá trình đổi mới.

a/. Xu thế thứ nhất đó là xu thế hợp tác quốc tế.

Xu thế này nhấn mạnh vào tầm quan trọng của sự hợp tác trong khoa học - công nghệ giữa các quốc gia, một quy luật tất yếu của sự phát triển. Sự hợp tác có thể rất đa dạng, như thông qua các ấn phẩm xuất bản (sách, báo, tạp chí…) trên phạm vi toàn thế giới.

Dạng khác của xu thế hợp tác quốc tế chỉ mới xuất hiện gần đây một cách đều đặn đó là các hoạt động liên ngành, đặc biệt mối quan hệ hữu cơ giữa các trường đại học và khu vực công nghiệp ngày càng trở nên quan trọng. Ở Mỹ gần 40% các bài báo là đồng tác giả của cả các nhà công nghiệp trong khu vực tư nhân và của các trường đại học, các phòng thí nghiệm Chính phủ. Các nhà nghiên cứu đã chứng minh được việc nghiên cứu của các trường đại học quyết định đến khả năng của quốc gia về đổi mới và hoàn thiện nền kinh tế. Thực tế cho thấy, 73% các sáng chế hiện nay ra đời từ các nghiên cứu của các tổ chức công và tổ chức phi lợi nhuận. Chính các nhà khoa học của EU đã thừa nhận rằng ưu thế và sức mạnh kinh tế của Mỹ so với EU chính là nhờ mối quan hệ khăng khít, hữu cơ giữa các công ty và các trường Đại học. Ở EU, mối quan hệ này chưa được phát triển để có thể khai thác được tiềm năng to lớn của chúng. Chúng ta biết rằng các công nghệ mới được sinh ra và triển khai là do kết quả hoạt động của các cơ quan nghiên cứu và triển khai (R&D), đối với các quốc gia đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng thì mối liên kết giữa R&D với các khu vực sản xuất rất lỏng lẻo, các cơ quan R&D không nhận thức được nhu cầu thực sự của quốc gia do đó vai trò của R&D trong đổi mới công nghệ nói riêng và phát triển kinh tế của quốc gia nói chung là chưa được phát huy. Tuy nhiên ở Việt Nam trong thời gian gần đây nhờ vào những chính sách khuyến khích ứng dụng các đề tài khoa học vào thực tiễn sản xuất kinh doanh của Chính phủ thì mối quan hệ đó đang dần được cải thiện và trở nên hữu cơ hơn.

141

Mặt khác, chúng ta đã biết các công ty không hoạt động độc lập, họ hợp tác, buôn bán với nhau trong một số lĩnh vực và cạnh tranh trong một số lĩnh vực khác. Vì vậy, vai trò của các công ty khác là khá quan trọng trong đổi mới. Trước đây việc huy động các nguồn lực cần thiết để triển khai và thương mại hoá một sản phẩm dễ dàng hơn về nhiều mặt, chủ yếu là do các nguồn lực cần có là quá ít so với ngày nay, đồng thời quá trình chuyên môn hoá chuyên sâu (một xu thế tất yếu của cả thế giới) đã hạn chế nghiên cứu dàn trải trên diện rộng, các công ty đều mong muốn có được các lợi thế cạnh tranh bằng việc đi sâu vào một số lĩnh vực cụ thể, đặc biệt các công ty lớn.

Vào đầu thế kỷ XX hãng ICI được coi là đứng đầu thế giới trong ngành hoá chất nhưng ngày nay trong nhiều lĩnh vực họ đã bị nhiều đối thủ của họ vượt qua. Ở các trường Đại học, các khoa cũng chỉ tập trung nguồn lực của mình vào một vài lĩnh vực khoa học nhất định. Họ không thể nghiên cứu và giảng dạy trong mọi lĩnh vực bởi sự hạn chế của nguồn lực. Mà chúng ta đều biết việc nảy sinh, phát triển, triển khai và đạt được thành công về mặt thương mại cho đổi mới đòi hỏi nguồn nhân lực, vật chất rất lớn. Chính vì vậy nên đổi mới công nghệ phải là sự kết hợp của một tập hợp các đối tượng, ví dụ như các cá nhân, công ty và rõ ràng là đổi mới nói chung và đổi mới công nghệ nói riêng là một trò chơi tập thể.

b/ Xu thế thứ hai:

Liên quan đến bản chất của sản phẩm và quy trình, do thị trường toàn cầu ngày nay đòi hỏi đó là sự xuất hiện của những công nghệ phức tạp. Theo Dohald và Robert thì phần lớn những công nghệ thương mại thành công đã thay đổi theo một con đường cơ bản trong 1/4 thế kỷ qua đó là chúng trở nên phức tạp hơn. Họ đã phân tích 30 loại sản phẩm xuất khẩu có giá trị nhất trên thị trường thế giới trong những năm 1970 và 1990 và có được số liệu cho trong bảng 4.3. (đơn vị trong ngoặc tính bằng tỷ đô la).

Bảng phân tích sản phẩm xuất khẩu có giá trị nhất

142

Bảng trên cho thấy 1/4 thế kỷ trước đây gần 60% sản phẩm xuất khẩu hàng đầu thế giới là những sản phẩm đơn giản được sản xuất bởi các quy trình đơn giản. Ngày nay một tỷ lệ tương tự (60%) là những sản phẩm phức tạp được sản xuất bởi những quy trình phức tạp. Điều đó có thể được giải thích do sự phát triển với tốc độ khá cao của hệ thống kinh tế, xã hội của loài người nói chung và của hệ thống khoa học, công nghệ nói riêng trong thời gian qua. Rash và Rycroft cho rằng thành công kinh tế sẽ đến với những người thành công trong việc đổi mới các công nghệ phức tạp. Tức là tương lai sẽ thuộc về những người nhận thưc được tính phức tạp, có thể thống nhất được các kiến thức đa dạng khác nhau trong nhiều tổ chức khác nhau để tạo ra những gì chưa có trước đây. Đa dạng hoá đó là quy luật, đa dạng trong cách nhìn, cách tiếp cận và trong nền tảng cơ sở. Không thế thì chúng ta không thể vượt lên trên những giới hạn tầm nhìn của mỗi cá nhân, tổ chức. Để đạt được điều đó các doanh nghiệp phải không ngừng củng cố, mở rộng các kênh thông tin của mình, nâng cao chất lượng hoạt động cho hệ thống thông tin của mình.

c/ Xu thế thứ ba

Liên quan tới sự xuất hiện của một ngành công nghệ non trẻ (so với các công nghệ truyền thống) đó là công nghệ thông tin. Tất cả các lĩnh vực hoạt động của con người ngày nay đang chịu sự tác động rất lớn của công nghệ thông tin. Sự xuất hiện và phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin mà đặc biệt quan trọng là công nghệ máy tính, Internet và công nghệ mạng đang làm thay đổi tất cả các loại hình công nghệ của loài người, nó tạo ra các con đường phát triển hoàn toàn mới cho tất cả các công nghệ. Sẽ là điều ngạc nhiên nếu như hiện nay và trong tương lai tồn tại một thành công trong kinh tế và khoa học công nghệ mà lại không ứng dụng thành tựu của công nghệ thông tin.

2.3.2. Các giai đoạn đổi mới công nghệ

Đổi mới thông tin phải là một hoạt động độc lập mà là một quá trình tổng hợp bao gồm nhiều quá trình con có liên quan mật thiết với nhau. Nó không chỉ là sự ấp ủ, phát triển một ý tưởng mới hoặc phát sinh một thiết bị mới, phát triển một thị trường mới… mà nó bao gồm tất cả các công việc trên và thống nhất với nhau.

Thực chất quá trình đổi mới công nghệ là một hệ thống các hoạt động phức tạp nhằm chuyển đổi các ý tưởng và kiến thức khoa học thành thực tế vật chất và các ứng dụng trong thế giới hiện thực. Đó là một quá trình biến đổi tri thức thành các sản phẩm và dịch vụ hữu ích có tác động tới sự phát triển của nền kinh tế.

a/ Quá trình hình thành và ứng dụng các công nghệ mới.

Có 8 giai đoạn trong quá trình đổi mới công nghệ, cần lưu ý rằng một số các hoạt động trong mỗi giai đoạn có thể trùm sang giai đoạn khác.

- Nghiên cứu cơ bản: là những nghiên cứu nhằm tăng thêm hiểu biết chung về các quy luật của tự nhiên. Đây là quá trình tạo ra tri thức qua một thời gian dài. Nó có thể mang đến một ứng dụng cụ thể hoặc cũng có thể không.

- Nghiên cứu ứng dụng: loại nghiên cứu hướng trực tiếp vào việc giải quyết một hoặc những vấn đề xã hội đặt ra. Ví dụ, nghiên cứu phát triển một loại thuốc điều trị một căn bệnh nào đó. Nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng thúc đẩy tiến bộ khoa học bằng cách xây dựng tri thức một cách hệ thống trên cơ sở kiến thức hiện tại. Sự thành công của nghiên cứu ứng dụng dẫn đến sự ra đời của công nghệ mới.

- Triển khai công nghệ: Là những hoạt động của con người nhằm biến đổi tri thức và các ý tưởng thành phần cứng, phần mềm hoặc dịch vụ. Nó có thể bao gồm việc chứngminh tính khả thi của ý tưởng, xác định thiết kế hoặc tạo dựng, thử nghiệm một nguyên mẫu.

143

- Thực thi công nghệ: Đây là một loạt các hoạt động gắn với việc đưa một sản phẩm ra thị trường. Thực thi công nghệ có quan hệ với việc ứng dụng lần đầu tiên một ý tưởng hoặc một sản phẩm. Nó liên kết các hoạt động nhằm đảm bảo đưa một sản phẩm hoặc một dịch vụ ra thị trường một cách thành công về giá cả, tính an toàn và thoả mãn các khía cạnh về môi trường.

- Sản xuất: Đây là một loạt các hoạt động gắn với việc mở rộng loại sản phẩm hoặc dịch vụ cụ thể. Sản xuất bao gồm việc chế tạo, quản lý, cung cấp và phân phối.

- Marketing: Đây là một loạt các hoạt động đảm bảo cho người tiêu dùng tiếp nhận công nghệ. Nó bao gồm việc đánh giá thị trường, chiến lược phân phối, thúc đẩy bán hàng và xác định thói quen, tập quán khách hàng.

- Truyền bá: Đây là chiến lược và các hoạt động đảm bảo sự lan truyền và vị thế của công nghệ trên thị trường. Việc truyền bá phụ thuộc vào phương pháp công nghệ và phương pháp Marketing công nghệ.

- Mở rộng công nghệ: Đây là giai đoạn mà mục tiêu là duy trì ưu thế cạnh tranh của công nghệ. Nó bao gồm việc cải tiến công nghê, phát triển thế hệ mới hoặc ứng dụng công nghệ mới, cải tiến chất lượng, hạ giá thành sản phẩm cũng như đáp ứng được những yêu cầu đặc biệt của khách hàng. Mở rộng công nghệ kéo dài vòng đời công nghệ.

b/ Quá trình đổi mới công nghệ ở doanh nghiệp.

Với một doanh nghiệp, sơ đồ khối điển hình của quá trình đổi mới công nghệ được thể hiện ở hình sau, các bước trong sơ đồ có thể minh hoạ như sau.

- Nảy sinh ý đố: Ghi nhận nhu cầu, tìm cách đáp ứng nhu cầu đó; phân tích các giải pháp tốt nhất và tiêu chuẩn lựa chọn, đề đạt thực thi.

- Xác định khái niệm: Xác định khái niệm sản phẩm hay dịch vụ; định mục tiêu kỹ thuật và tiên; dự kiến kết quả thực hiện.

- Phân tích thị trường : Xác định thị trường - Phân tích nhu cầu hiện tại và tương lai, tìm hiểu khách hàng. Tìm hiểu đối thủ cạnh tranh, xác định cơ hội.

- Phân tích kỹ thuật : Các nguồn lực cần thiết, nguồn lực sẵn có, lịch trình triển khai.

- Kế hoạch kinh doanh : Phân tích ma trận SWOT, phân tích kinh tế, vốn, triển vọng, chiến lược.

- Phê chuẩn : Phê chuẩn của cấp quản lý cao nhất của công ty, các phê chuẩn khác.

- Triển khai : Sản xuất thử: Kiểm định, thử nghiệm

- Marketing: Kiểm định trên thị trường - Chiến lược giới thiệu ra thị trường; Marketing các đổi mới; xác định thời gian đưa ra thị trường. Đo lường sự phản ứng của thị trường.

- Sản xuất và thương mại hoá : Sản xuất đại trà: Hoàn thiện công nghệ, xây dựng hệ thống vận chuyển tới các đại lý, kho tàng…

144

- Loại bỏ: Do sự lỗi thời hay vấn đề môi trường.

Các bước điển hình đổi mới công nghệ ở doanh nghiệp

c/ Quá trình đổi mới công nghệ ở phạm vi quốc gia

Đối với hệ thống công nghệ quốc gia, theo kinh nghiệm của các nước đang phát triển đã trải qua quá trình công nghiệp hoá thành công thì quá trình đổi mới công nghệ thường phải trải qua các bước sau:

- Nhập công nghệ để thảo mãn các nhu cầu tối thiểu.

- Tổ chức cơ sở hạ tầng kinh tế ở mức tối thiểu để tiếp thu công nghệ nhập khẩu.

- Tạo nguồn công nghệ từ nước ngoài thông qua lắp ráp sản phẩm (SKD - Semi knock Down, CKD - Complete Knock Donw, OKD - Incomplete).

- Phát triển công nghệ thông qua mua linence

- Thích nghi, cải tiến công nghệ nhập khẩu. Tiến hành đổi mới công nghệ nhờ R&D.

- Khẳng định vị thế trên thị trường công nghệ thế giới dựa trên đầu tư cao cho nghiên cứu cơ bản.

2.3.3. Mô hình đổi mới công nghệ

Từ trước tới nay quan điểm về đổi mới chia thành hai trường phái chính. Trường phái thứ nhất có tên là xã hội quyết định. Trường phái này cho rằng mọi sự đổi mới là kết quả phối hợp của các nhân tố và ảnh hưởng của xã hội bên ngoài như những thay đổi về dân số, tác động kinh tế hoặc hệ thống chính trị. Họ cho rằng khi đã hội tụ đủ điều kiện thì đổi mới công nghệ sẽ xảy ra.

145

Trường phái thứ hai lại cho rằng đổi mới nói chung và đổi mới công nghệ nói riêng là kết quả của những hoạt động của các cá nhân thiên tài, họ nhấn mạnh vào tầm quan trọng của những khám phá bất ngờ. Thực ra sự tình cờ, bất ngờ rất hiếm khi xảy ra, các cá nhân có những đóng góp vào đổi mới phải là những người say mê một lĩnh vực khoa học - công nghệ nhất định, họ có được những kiến thức vượt bậc trong lĩnh vực đó trên cơ sở đó với những cố gưáng nỗ lực của họ mà đổi mới công nghệ ra đời. Hay nói như Louis Pasteur “Cơ hội chỉ đến với những trí óc đã được chuẩn bị”.

a/ Mô hình tuyến tính

Mô hình này ngự trị các chính sách công nghiệp và khoa học trong những năm trước thập kỷ 1890. Mô hình tuyến tính đơn giản nhất có tên sức đẩy của khoa học. Mô hình này dựa trên lôgic khoa học là cơ sở, tri thức, tiền đề tạo ra công nghệ. Thực tế cho thấy hầu hết các đột phá công nghệ gần đây đều được dữa trên những khám phá khoa học trước đó. Ví dụ: như các công nghệ năng lượng hạt nhân dựa vào cong trình của Einstein (mối quan hệ giữa khối lượng và năng lượng) hoặc công nghệ gen dựa trên các khám phá của Watson và Crick về cấu trúc AND… Có thể dễ dàng nhận thấy rằng các sự xuất hiện và phát triển của các công nghệ này đã làm bùng nổ các ngành công nghiệp và làm thay đổi toàn bộ thị trường, chúng là nguyên nhân của tăng trưởng kinh tế quan trọng.

Đến thập kỷ 1970, một số nghiên cứu mới xác nhận rằng thị trường có ảnh hưởng tới đổi mới. Mô hình tuyến tính thứ hai ra đời có tên là mô hình lực hút của thị trường (sức kéo của thị trường). Nó nhấn mạnh vai trò của thị trường là tác nhân khởi thuỷ các ý tưởng đổi mới. Các ý tưởng này có được thông qua quá trình tiếp xúc với khách hàng. Chính từ các ý tưởng đó các công nghệ mới sẽ xuất hiện. Điều này đặc biệt thấy rõ khi xã hội (thị trường) xuất hiện những bức xúc nào đó. Trong trường hợp đó sức kéo của thị trường có thể tạo ra những đột phá quan trọng.

Các mô hình đổi mới công nghệ tuyến tính

b/ Mô hình tương tác kết hợp

146

Mô hình tuyến tính mới chỉ tập trung vào vai trò của những tác nhân kích thích đổi mới đầu tiên. Trong mô hình tương tác kết hợp cho thấy kết quả của việc phối hợp đồng thời kiến thức của các bộ phận chức năng sẽ thúc đẩy đổi mới, nó gắn các mô hình tuyến tính với nhau và nhấn mạnh đổi mới công nghệ là kết quả của sự tương tác giữa thị trường, khoa học và năng lực của tổ chức. Bản chất của mô hình này là sự liên kết toàn hệ thống, lấy doanh nghiệp làm chủ thể, liên kết các yếu tố của hệ thống đổi mới. Trong hệ thống đổi mới, các doanh nghiệp chịu tác động của các nhân tố cạnh tranh: các đối thủ, các nguồn cung cấp ý tưởng đổi mới các khách hàng, các bạn hàng và đồng minh, các trường đại học, các patent, đồng thời tính đến các điều kiện để đổi mới, cơ sở hạ tàng, đầu tư tài sản, thiết bị….

Thực tế đổi mới công nghệ cho thấy mô hình tuyến tính chỉ có thể áp dụng cho một số rất ít các trường hợp đổi mới và trong một vài ngành nhất định. Ví dụ, mô hình sức đẩy của thị trường lại thường xuyên xảy ra trong ngành công nghiệp thực phẩm. Còn nói chung trong đại đa số các trường hợp ở các ngành công nghiệp, đổi mới công nghệ xảy ra trong mô hình tương tác kết hợp.

Mô hình đổi mới công nghệ tương tác và kết hợp

2.3.4. Áp dụng công nghệ mới

a/ Phân tích môi trường

Trước khi quyết định áp dụng một công nghệ mới, doanh nghiệp cần phân tích môi trường bên trong cũng như bên ngoài.

* Đối với môi trường bên trong, phân tích:

- Chiến lược công ty: công nghệ mới có giúp cho doanh nghiệp thực hiện được chiến lược hay không?

- Quá trình sản xuất: tính linh hoạt, chất lượng sản phẩm, chi phí lao động, nguyên vật liệu, những công nghệ sản xuất hiện có.

- Nguồn nhân lực: văn hoá công ty, thái độ của Ban quản trị, thái độ của người lao động và đoàn thể.

- Tài chính: đánh giá chi phí và lợi ích, xử lý thông tin, tài trợ và phân bổ vốn

- Marketing: chiến lược sản phẩn, chiến lược giá, kênh phân phối…

* Đối với môi trường bên ngoài, phân tích:

- Khách hàng: nhu cầu, sức mua

147

- Nhà cung cấp: năng lực, quan hệ với nhà cung cấp

- Đối thủ cạnh tranh: mối đe doạ từ đối thủ mới, sự sử dụng công nghệ mới của đối thủ cạnh tranh, lợi thế cạnh tranh, môi trường cạnh tranh

- Chính phủ: sự hỗ trợ, tài trợ vốn, ưu đãi về thuế…

- Để giúp cho việc phân tích môi trường, doanh nghiệp thường đặt ra các câu hỏi (5W và 1H)

- Vì sao phải áp dụng công nghệ mới

- Cần những công nghệ mới nào

- Tạo ra công nghệ hay mua công nghệ

- Khi nào tiếp nhận công nghệ mới?

- Công nghệ mới bố trí ở đâu

- Công nghệ mới được đưa vào doanh nghiệp như thế nào?

b/ Các giai đoạn trong quá trình áp dụng công nghệ mới

Giai đoạn 1: Hoạch định chiến lược

- Mục tiêu: Nhận dạng những lĩnh vực kinh doanh mà công nghệ mới sẽ tác động mạnh để ưu tiên cho lĩnh vực này

- Hành động:

+ Xem xét lại thực trạng marketing và tình hình cạnh tranh trong nước và quốc tế

+ Đánh giá các hoạt động chức năng, bao gồm thiết kế, kỹ thuật và sản xuất

+ Xem xét hệ thống sản xuất và phương pháp sản xuất hiện tại

+ Nhận dạng các yếu cầu về kỹ thuật của doanh nghiệp

Giai đoạn 2: Nghiên cứu khả thi

- Mục tiêu: Xem xét các đặc điểm của công nghệ

- Hành động:

+ Đánh giá tình hình tài chính

+ Xem xét lại sự thay đổi về tổ chức và đánh giá công nghệ về mặt kỹ thuật đào

tạo

+ Lựa chọn nhóm dự án

+ Đơn giản hoá sản phẩm và quá trình

+ Xem xét tính thích hợp của công nghệ đối với cơ sở hạ tầng

+ Đánh giá yếu tố chống lại sự thay đổi (Resistance to change) trong tổ chức.

Giai đoạn 3: Lựa chọn

148

- Mục tiêu:lựa chọn được công nghệ thích hợp nhất và nhà cung cấp đáng tin cậy nhất

- Hành động:

+ Lập danh sách các nhà cung cấp công nghệ

+ Chọn ra một số nhà cung cấp và yêu cầu họ định giá

+ Đánh giá chi tiết các bảng chiết tính giá của nhà cung cấp

+ Lựa chọn nàh cung cấp

Giai đoạn 4: Thực hiện

- Mục tiêu: tạo môi trường thuận lợi để áp dụng công nghệ

- Hành động:

+ Chuẩn bị kế hoạch chi tiết để thực hiện

+ Xác định rõ trách nhiệm cá nhân

+ Chú ý đặc biệt đến sự liên kết giữa công nghệ mới với phần còn lại của hệ thống

+ Chuẩn bị tài liệu hướng dẫn để mô tả các bước hoạt động của hệ thống mới

+ Kiểm tra tất cả các bộ phận của hệ thống mới

+ Đảm bảo việc đào tạo đã hoàn tất

2.4. Hiệu quả của quá trình đổi mới công nghệ

2.4.1. Tổng quan về hiệu quả đổi mới công nghệ

Như đã trình bày ở trên mọi công nghệ đều phục vụ một nhu cầu nào đó của xã hội. Đổi mới công nghệ nhằm phục vụ tốt hơn các nhu cầu của xã hội. Một đổi mới công nghệ được coi là thành công nếu như nó mang lại hiệu quả kinh tế cho người chủ sở hữu nó nói riêng và nền kinh tế nói chung. Với toàn bộ nền kinh tế các nhà khoa học đã chứng minh được rằng đổi mới công nghệ chính là động cơ của tăng trưởng kinh tế lâu dài.

Boskin và Lau (1992) đã tiến hành một công trình nghiên cứu và nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế dựa trên vốn, lao động và tiến bộ công nghệ ở các quốc gia phát triển: Anh, Mỹ, Đức, Pháp và Nhật Bản, thật ngạc nhiên họ đã chỉ ra rằng tiến bộ công nghệ là nguồn quan trọng nhất, chiếm hơn một nửa (ba phần tư với các nước châu Âu) thứ hai mới là vốn. Vốn và công nghệ chiếm 95% tăng trưởng kinh tế ở Anh, Đức, Nhật Bản và Pháp trong giai đoạn này. Hội đồng khoa học và công nghệ quốc gia Mỹ, trong báo cáo năm 1996 đã nhấn mạnh rằng công nghệ là động lực của tăng trưởng kinh tế. Điều này cũng được Ronert Solow (giải Nobel kinh tế năm 1987) khẳng định trong công trình thực nghiệm của ông về tăng trưởng kinh tế trong thời kỳ 1909 đến 1949.

149

Đổi mới công nghệ tạo ra các cơ hội kinh doanh đồng thời nó cũng tạo ra những cơ chế trong tăng trưởng kinh tế. Nó chính là cơ sở và là điểm khởi đầu cho một chu trình phát triển kinh tế được gọi là các chu trình sóng dài của các nền kinh tế. Theo Bele (1987) chu trình sóng dài của các nền kinh tế diễn ra như sau:

 Những phát hiện khoa học tạo cơ sở cho đổi mới công nghệ.

 Đổi mới công nghệ cơ bản và mạnh mẽ tạo ra các sản phẩm mới.

 Các sản phẩm mới này tạo ra các thị trường mới và các ngành công nghệ mới.

 Các ngành công nghiệp mới tiếp tục đổi mới về sản phẩm và quá trình mở rộng

thị trường.

 Lợi ích của sản phẩm và công nghệ thu hút nhiều đối thủ cạnh tranh bước vào

thị trường quốc tế có thể tạo ra năng lực sản xuất vượt mức.

 Cung vượt quá cầu làm giảm lợi nhuận và tăng thất bại kinh doanh.

 Hậu quả kinh tế rối loạn trong thị trường tài chính dẫn tới suy thoái.

 Khoa học mới và công nghệ mới dẫn đến tăng trưởng kinh tế mới.

Các chu trình sống dài đã được nhà kinh tế học Xô Viết Kondvatieff phát hiện ra vào năm 1930 đã được Gralam và Senge (1980) nhận xét là có nguồn gốc do đổi mới công nghệ mang tính cách mạng tạo ra.

Chúng ta sẽ chứng minh cho điều đó thông qua phân tích một số hiệu quả của đổi mới công nghê, đối với toàn bộ nền kinh tế cũng như đối với các doanh nghiệp.

2.4.2. Đối với nền kinh tế

a/ Mức độ dồi dào về hàng hoá của một nền kinh tế thể hiện mức độ phát triển của nền kinh tế đó. Mà hàng hoá - các sản phẩm, dịch vụ - là do công nghệ tạo ra. Nếu chúng ta chia hàng hoá trong nền kinh tế thành hai loại: Các sản phẩm công nghiệp và nông nghiệp thì đường giới hạn khả năng sản xuất của nền kinh tế được thể hiện như hình 4.9 dưới đây. (Trục tung thể hiện số lượng sản phẩm công nghiệp, trục hoành thể hiện số lượng sản phẩm nông nghiệp).

Tác động của đổi mới công nghệ trong các ngành kinh tế

150

Trường hợp nền kinh tế đó chỉ đầu tư đổi mới công nghệ trong nông nghiệp. Chúng ta thấy A0 sẽ dịch chuyển tới A1 (I0 thay đổi khá nhỏ so với A0) đường giới hạn khả năng sản xuất sẽ dịch chuyển từ đường 1 đến đường 2. Thực tế nền kinh tế Việt Nam đã chú trọng đầu tư cho nông nghiệp như cung cấp các dịch vụ, phân bón, thuốc trừ

sâu, các giống cây con có năng suất chất lượng cao cho nông dân đồng thời quy hoạch các vùng sản xuất, thay đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi,.. và đặc biệt đầu tư khá nhiều vào công nghệ sau thu hoạch. Chính các động thái đó của Chính phủ đã nâng nền nông nghiệp Việt Nam lên một tầm cao mới. Từ một quốc gia thiếu lương thực chúng ta nay đã trở thành một cường quốc xuất khẩu gạo trên thế giới. Không những thế các sản phẩm nông nghiệp khác như cao su, cà phê, chè, thuỷ, hải sản cũng có những đột biến trong việc gia tăng sản lượng sản xuất và xuất khẩu. Song song với quá trình đó chất lượng và tính cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp của chúng ta ngày càng cao, ví dụ trong năm 2002 gạo 5% tấm của chúng ta đã bán được bằng giá của Thái Lan và cao hơn so với Ấn Độ.

Hoàn toàn tương tự với trường hợp chỉ đầu tư cho công nghiệp. I0 sẽ dịch chuyển tới I1, đường giới hạn khả năng sản xuất sẽ dịch chuyển từ 1 - 3.

Tổng quát trong một nền kinh tế tuỳ thuộc vào quan điểm phát triển của Chính phủ ở từng thời kỳ mà có sự phân bổ nguồn lực khác nhau cho đổi mới công nghệ trong các ngành kinh tế. Điều đó tạo ra các động thái khác nhau cho đường giới hạn khả năng sản xuất nhưng chúng ta có thể khẳng định rằng đường giới hạn khả năng sản xuất sẽ mở rộng ra phía ngoài nhờ đổi mới công nghệ hình dưới. Tức là nhờ đổi mới công nghệ đã làm cho hàng hoá được sản xuất ra trong nền kinh tế đã trở nên dồi dào, đa dạng hơn.

Minh hoạ tác động chung của đổi mới công nghệ đối với giới hạn sản xuất của xã hội

b/ Mục tiêu của các nhà sản xuất là phục vụ người tiêu dùng. Đối tượng này sẽ chịu ảnh hưởng thế nào khi có đổi mới công nghệ? Trên hình 4.11 thời điểm khảo sát điểm cân bằng giá trị và sản lượng trên thị trường là điểm A (P0, Q0).

151

Như ta đã biết trong kinh tế học vi mô, nhờ đổi mới công nghệ đường cung dịch chuyển sang phải từ S -> S’. Do tác động thứ cấp của việc đường cung dịch chuyển làm cho đường cầu cũng dịch chuyển sang phải nhưng với sự thay đổi ít hơn. Do đó điểm cân bằng mới sẽ là B(Q0’; P0’) ta thấy:

Minh hoạ lợi ích của người tiêu dùng do đổi mới công nghệ

Điều đó có nghĩa là đối với người tiêu dùng họ sẽ đựơc lợi nhờ giá thị trường giảm và việc mua hàng hoá trở nên dễ dàng hơn do hàng hoá nhiều và sẵn hơn. Sự thay đổi về thị trường ở nước ta trong thời gian qua đã chứng minh cho điều này.

c/ Như chúng ta đã biết công nghệ có tính hai mặt nhưng công nghệ chỉ là một sản phẩm do con người tạo ra. Một trong những mặt trái của việc sử dụng công nghệ là về góc độ môi trường đặc biệt về vấn đề ô nhiễm. Chính do các tác động tiêu cực đó cho nên cùng với quá trình tạo ra của cải vật chất cho xã hội nó cũng tạo ra chi phí cho xã hội. Trên hình 4.12 đường ABC thể hiện lợi nhuận biên của việc sử dụng công nghệ tạo ra ứng với sản lượng tối ưu Q* . Đường MEC thể hiện chi phí biên của xã hội những ngoại ứng tiêu cực của công nghệ tạo ra cho xã hội. Với mô hình này thì phần diện tích ABEO thể hiện lợi ích ròng xã hội do công nghệ tạo ra. Một trong những mục tiêu quan trọng của đổi mới công nghệ là thân thiện hơn với môi trường tạo điều kiện phát triển bền vững cụ thể là giảm thiểu những tác động tiêu cực do công nghệ tạo ta cho môi trường và xã hội.

Minh hoạ lợi ích ròng xã hội do đổi mới công nghệ

152

Đây chính là một mục tiêu quan trọng của quản lý công nghệ tầm vĩ mô. Nhờ đổi mới công nghệ theo hướng này làm giảm cường độ tác động tiêu cực tới môi trường

cụ thể như giảm lượng chất thải độc hại vào môi trường, tiêu hao ít nhiên, nguyên vật liệu. Điều đó làm giảm độ dốc của đường MEC, đồng thời làm nó dịch chuyển sang phải (MEC’). Tác động này (giả thiết đường ABC không đổi) đã làm tăng lợi ích ròng xã hội. Sản lượng tối ưu tăng từ Q* -> Q*’, lợi ích ròng xã hội đã tăng lên một lượng được thể hiện bởi phần gạch chéo (BCDE) trên hình 5.8.

Tóm lại, đổi mới công nghệ mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế và là động lực quan trọng của phát triển kinh tế - xã hội, do đó cần quản lý nó một cách khoa học và khôn khéo nhằm khai thác tối đa các tác động tích cực của hệ thống công nghệ quốc gia đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước.

2.4.3. Đối với doanh nghiệp

Đánh giá đầy đủ kết quả của đổi mới công nghệ là một công việc khó khăn, do những lợi ích mà kết quả của đổi mới công nghệ rất đa dạng. Trong số đó, có những lợi ích không thể đánh giá một cách chính xác được.

a/ Hiệu quả đổi mới công nghệ.

Các nước trong khối ASEAN, khi đánh giá kết quả đổi mới công nghệ đã sử dụng chỉ tiêu hiệu quả đổi mới công nghệ đã sử dụng chỉ tiêu hiệu quả đổi mới công nghệ.

Trong đó lợi ích của đổi mới được đánh giá thông qua so sánh giá trị gia tăng của doanh nghiệp trước và sau khi đổi mới. Các chi phí cho đổi mới thể hiện ở các chi phí đầu tư cho 4 thành phần công nghệ.

Phương pháp này đơn giản, song không phản ánh được tác động của sự thay đổi các yếu tố đầu vào, trong kết quả của đổi mới.

b/ Hiệu quả tổng hợp của đổi mới công nghệ

Nhà sản xuất sẽ không tiến hành đổi mới nếu như điều đó không làm tăng lợi nhuận cho họ. Trên hình 4.11 chúng ta đã thấy Q0’ > Q0 tức là các nhà sản xuất sẽ bán được một lượng sản phẩm nhiều hơn nhờ đổi mới công nghệ. Điều đó tạo điều kiện cho hộ mở rộng quy mô và phát triển.

153

Không những thế đổi mới công nghệ còn làm tăng hiệu quả sản xuất, đây chính là nguyên nhân

của việc giảm giá P0 -> P0’ trên thị trường. Để thấy rõ điều đó chúng ta hãy quay lại mô hình đường đẳng lượng đã trình bày ở trên.

Đường đẳng lượng (Q = const) thực chất là một đường bàng quan với nhà sản xuất (đóng vai trò người tiêu dùng). Cần lưu ý rằng trong mô hình này chúng ta khảo sát đổi mới công nghệ trên quá trình phát triển của hệ thống công nghệ (đường đẳng lượng dịch chuyển) và không khảo sát thay đổi các yếu tố đầu vào (dịch chuyển trên đường đẳng lượng). Đổi mới hệ thống công nghệ trên thế giới trong khoảng 1/4 thế kỷ qua dưới tác động của công nghệ thông tin là một ví dụ về dịch chuyển đường đẳng lượng do đổi mới công nghệ.

Đổi mới công nghệ làm dịch chuyển đường đẳng lượng

Trên hình 4.13, ta thấy điểm A (LA, KA) là trạng thái công nghệ thích hợp ở thời điểm chưa đổi mới. Sau đổi mới công nghệ, trạng thái mới là điểm B(LB, KB) ta có:

Điều đó chứng tỏ trạng thái công nghệ sau đổi mới sẽ sử dụng một lượng đầu vào ít hơn so với trạng thái công nghệ chưa đổi mới. Hay nói một cách khác, nhờ đổi mới đã giảm các nhân tố đầu vào tức là đã làm giảm chi phí sản xuất do đó làm tăng hiệu quả cho sản xuất, mang lại lợi nhuận cao hơn cho nhà sản xuất.

Tuy nhiên, ở đây có một giả thuyết là tỷ số PK/PL là không đổi. Giả thiết này hoàn toàn có thể chấp nhận được trong hoàn cảnh của các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Nếu không có giả thiết này thì điểm biểu diễn trạng thái công nghệ sau đổi mới sẽ nằm bên trái điểm B trên hình 4.13

c/ Lượng hoá kế quả đổi mới công nghệ

154

Sẽ là hợp lý nếu chúng ta đặt vấn đề về việc lượng hoá tác động của công nghệ và đổi mới công nghệ vào các quá trình sản xuất và phát triển sản xuất. Để giải quyết vấn đề này, chúng ta quay về hàm sản xuất.

Ta có thể giảm số biến số xuống nếu coi tài nguyên thiên nhiên như một dạng của vốn và trình độ quản lý như một dạng của lao động. Ta sẽ có:

Trong kinh tế học đặc biệt khi khảo sát sự tăng trưởng thì hàm sản xuất do nhà toán học Charles Cobb và nhà kinh tế học Paul Douglas đưa ra được dùng phổ biến nhất. Hàm sản xuất Cobb - Douglas có dạng:

Chúng ta giả thiết α + β = 1 để biểu thị rằng lợi tức là không đổi theo quy mô, cạnh tranh là hoàn hảo và các yếu tố sản xuất đều mang lại sản phẩm biên của chúng.

Lấy lôgic tự nhiên của phương trình (*) ta có:

Lấy vi phân theo thời gian:

155

Phương trình (**) là một phương trình vi phân liên tục theo thời gian. Nếu lấy xấp xỉ không liên tục trong một khoảng thời gian Δt đủ lớn ví dụ tính bằng năm thì phương trình (**) trở thành phương trình (***)

Phương trình (***)thể hiện mối quan hệ giữa tỷ lệ tăng trưởng của sản lượng với tỷ lệ tăng trưởng của các biến số:

Căn cứ vào phương trình này ta thấy phần tăng của tỷ lệ tăng trưởng sản lượng mà không phải chỉ do việc tăng các yếu tố sản xuất (L,K) mà còn do sự đóng góp của đổi mới công nghệ tạo ra

Như vậy, trong ví dụ này đổi mới công nghệ đã đóng góp (0,5/5) 100% = 10% , trong tỷ lệ tăng trưởng kinh tế.

Tóm lại, đổi mới công nghệ thúc đẩy sự phát triển của loài người nói chung và từng quốc gia nói riêng. Nó tạo ra một nền kinh tế có hàng hoá phong phú, dồi dào hơn và ở đó cả nhà sản xuất lẫn người tiêu dùng đều có lợi.

2.5. Quản lý đổi mới công nghệ

2.5.1. Môi trường đổi mới

156

Đây là một yếu tố vô cùng quan trọng quyết định tới khả năng đổi mới công nghệ của một doanh nghiệp và do đó nó quyết định tới khả năng phát triển của doanh nghiệp đó. Ý thức được điều đó rất nhiều các doanh nghiệp đã đầu tư tiền của để phát triển một môi trường có lợi cho đổi mới nhằm tạo ra vòng xoắn tiến của đổi mới. Theo porter những doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh - nghĩa là có kết quả hoạt động trên mức trung bình trong ngành của mình - có thể tái đầu tư một phần lợi nhuận dôi ra vào những hoạt động mang lại lợi thế cạnh tranh. Do đó tạo ra vòng xoắn tiến của đổi mới công nghệ được mô tả ở hình 4.14

Vòng xoáy của đổi mới công nghệ

Danh tiếng của tổ chức: Phải mất một thời gian nhất định một công ty mới xây dựng được danh tiếng đổi mới công nghệ của mình. Danh tiếng đó được hình thành thông qua những thành tựu trong đổi mới công nghệ cũng như việc đưa các công nghệ mới ra thị trường.

Mặt khác, chính danh tiếng của công ty sẽ thu hút các cá nhân có trình độ và khả năng sáng tạo. Thực tế trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng cho thấy các sinh viên giỏi, các nhà khoa học hàng đầu có mong muốn tìm việc làm ở các công ty được coi là thành công trong sản xuất và kinh doanh hoặc có vị thế cao về khoa học - công nghệ.

Khuyến khích đổi mới. Rất nhiều tổ chức hô hào hỗ trợ sáng tạo nhưng lại không có một cơ cấu, kế hoạch hỗ trợ thích hợp. Sự sáng tạo phải được hỗ trợ bằng hành động và các nguồn lực.

Cần phải dành thời gian cho nhân viên sáng tạo, ví dụ ở Mỹ các công ty có thể dành tới 15% quỹ thời gian làm việc của các nhà khoa học dành cho các dự án cá nhân của họ. Bên cạnh đó cần cố gắng xây dựng một môi trường khoan thứ cho những lầm lẫn, sai lầm, điều đó sẽ khuyến khích các cá nhân thử nghiệm các ý tưởng mới và đề xuất các gợi ý, kết hợp với việc khen thưởng thích đáng với những thành công về cả vạt chất lẫn tinh thần. Ví dụ như khen thưởng công khai qua các bản tin nội bộ, thưởng tiền, ngày nghỉ hoặc thăng chức…. Một số công ty còn sử dụng các kỹ thuật nhằm phục hồi và kích thích sự sáng tạo như đưa nhân viên đi nghỉ mát cuối tuần để thảo luận một số vấn đề nào đó… Tất cả các hoạt động đó nhằm tạo ra một thông điệp rõ ràng: Công ty rất coi trọng đổi mới.

Triển khai các sản phẩm đổi mới. Nghĩa là triển khai các sản phẩm, công nghệ thực sự có tính mới so với sản phẩm, công nghệ hiện có. Những thành công trên thị trường thường dẫn đến những thành công tiếp theo. Việc sẵn sàng chấp nhận ý tưởng mới, ghi nhận ý tưởng mới và khen thưởng đối với các cá nhân có đóng góp và phát triển ý tưởng mới là chưa đủ, có thể nói điều quan trọn hơn cả là phải hoàn thiện nó, ứng dụng và khai thác nó một cách có hiệu quả.

Tăng động cơ thúc đẩy và giảm sự chán nản. Nếu các cá nhân trong công ty thấy những ý kiến và nỗ lực của họ góp phần vào thành công của công ty họ sẽ được cổ vũ để cố gắng thêm. Ngược lại, nếu các ý kiến hay, hữu dụng cứ liên tiếp bị bỏ qua thì sự chán nản sẽ tăng lên.

Tinh thần làm việc cao và giữ chân được những người có khả năng. Môi trường làm việc tốt và thú vị sẽ giữ chân những người có năng lực đặc biệt có khả năng sáng tạo. Những người này đến lượt họ sẽ lại củng cố tiềm lực đổi mới của doanh nghiệp.

157

Môi trường đổi mới ở các tổ chức đặc biệt ở các doanh nghiệp là vô cùng quan trọng đối với đổi mới chung và đổi mới công nghệ nói riêng. Vì vậy, phải chú ý giữ gìn và ngày càng hoàn thiện hơn thì mới đáp ứng được những yêu cầu của phát triển.

2.5.2. Vai trò của cá nhân trong đổi mới công nghệ

Đổi mới công nghệ là một quá trình đòi hỏi sự phối hợp nhịp nhàng đồng bộ giữa những cá nhân hoặc nhóm với những vị trí và vai trò khác nhau trong đổi mới. Sự thành công của đổi mới công nghệ được quyết định bởi chất lượng các hoạt động của họ và sự kết hợp giữa chúng.

Người đổi mới về kỹ thuật là những người thành thạo một vài lĩnh vực, tạo ra các ý tưởng và luôn tìm cách khác, mới lạ để thực hiện công việc, nhiều khi bị coi là “nhà khoa học điên rồ”.

Người rà soát kỹ thuật, thương mại là những cá nhân có vai trò nắm bắt một lượng thông tin lớn từ môi trường bên ngoài kể cả các thông tin kỹ thuật lẫn thông tin thương mại, ngày nay các thông tin này thường được lấy qua mạng.

“Người gác cổng” là người luôn nắm vững thông tin về các phát minh sáng chế có liên quan xảy ra ngoài tổ chức của mình thông qua các kênh thông tin khác nhau như hội nghị, hội thảo, báo chí… truyền đạt thông tin cho người khác hoạt động như một nguồn thông tin cho các thành viên khác của tổ chức.

“Nhà vô địch về sản phẩm” là những người “bán” các ý tưởng mới cho các thành viên khác trong tổ chức, cần nhiều nguồn lực, rất quyết liệt trong việc bảo vệ ý tưởng của mình và dám đương đầu với rủi ro.

Người lãnh đạo dự án là người lãnh đạo và thúc đẩy cả nhóm dự án lập kế hoạch và tổ chức dự án. Đảm bảo các yêu cầu cao về quản trị, tạo sự phối hợp cần thiết giữa các thành viên trong nhóm. Giám sát sự tiến triển của dự án đồng thời cân đối các mục tiêu của dự án và nhu cầu của tổ chức.

Người bảo trợ là một quan chức cao cấp trong tổ chức, tháo gỡ những hạn chế không cần thiết của tổ chức đối với nhóm dự án, giúp nhóm dự án có được các điều kiện cần thiết từ các bộ phận khác trong tổ chức, chính nhà bảo trợ mang lại tính hợp pháp, sự tin cậy của tổ chức cho nhóm dự án.

2.5.3. Yêu cầu đối với doanh nghiệp để đổi mới công nghệ

a/ Định hướng phát triển

Thực tế cho thấy mục tiêu phát triển không phải lúc nào cũng là mục tiêu cao nhất của các doanh nghiệp. Một số chỉ tập trung vào việc khai thác các cơ hội trước mắt hoặc duy trì quy mô hiện có vì ở quy mô đó họ có thẻ tự điều hành công việc mà không cần sử dụng thêm lao động và không phải đương đầu với những rủi ro có thể phát sinh nếu họ đầu tư để phát triển sản xuất.

158

Chúng ta có thể thấy rõ điều đó ở các doanh nghiệp gia đình những doanh nghiệp này đổi mới công nghệ một cách thụ động và khó khăn. Những doanh nghiệp dễ đổi mới là những doanh nghiệp luôn có mục tiêu mở rộng, phát triển doanh nghiệp của mình

họ luôn chủ động lập kế hoạch lâu dài. Nhiều công ty công khai các kế hoạch đó trong các báo cáo thường niên của họ, ví dụ ICI, Mercedes - Benz, BMW…

b/ Cảnh giác

Tính cảnh giác không chỉ cần thiết với các nhà lãnh đạo cao cấp của doanh nghiệp mà còn cần thiết với tất cả các thành viên khác của tổ chức. Cần thiết phải chính thức hoá một phần công việc này ví dụ bộ phận marketing phải thu thập những thông tin về thị trường và về đối thủ cạnh tranh như những thành tựu, kế hoạch phát triển của họ. Bộ phận R & D phải thường xuyên cập nhật những thành tựu khoa học trong ngành và các ngành có liên quan.

c/ Đầu tư cho phát triển công nghệ

Đầu tư cho đổi mới công nghệ đòi hỏi nguồn lực khá lớn kể cả nhân lực, lẫn vật lực và nó chứa đựng nhiều rủi ro. Nhưng các doanh nghiệp không thể không tận tâm với công nghệ thông qua đầu tư phát triển công nghệ điều đó sẽ khuyến khích khả năng sáng tạo của cá nhân trong công ty và thu hút được các chuyên gia giỏi các nhân viên có kinh nghiệm từ bên ngoài.

d/ Chấp nhận rủi ro

Chấp nhận rủi ro không có nghĩa là sẵn sàng chơi trò may rủi mà là sẵn sàng nghiên cứu kỹ lưỡng các cơ hội dễ bị rủi ro. Đặc biệt là khả năng đánh giá mức độ rủi ro, cân nhắc, chọn lọc các dự án đầu tư có hiệu quả.

e/ Hợp tác giữa các bộ phận

Các phòng ban trong một doanh nghiệp có những đặc điểm mang tính đặc thù. Sự bất đồng giữa các phòng ban là rào cản đối với đổi mới công nghệ nói riêng và đổi mới nói chung. Đặc biệt và được quan tâm nhiều là mối quan hệ giữa bộ phận R&D và bộ phận marketing vì hai bộ phận này có mối quan tâm rất khác nhau. Các nhà khoa học và các nhà công nghệ thường bị công nghệmới thu hút và đôi khi quên mất mục tiêu kinh doanh ngược lại bộ phận marketing lại thường ít quan tâm tới công nghệ.

Thực tế phải nhìn nhận rằng sự bất đồng giữa các bộ phận chức năng của một tổ chức là luôn tồn tại (đôi khi điều đó không phải là không tốt vì nó sẽ là động lực thúc đẩy phát triển). Vấn đề là khả năng điều khiển, phối hợp giữa các bộ phận chức năng để phục vụ cho tiến trình đổi mới công nghệ.

g/ Khả năng tiếp thu

Trước các xu thế của phát triển công nghệ nói riêng và của thế giới nói chung đặc biệt đối với doanh nghiệp của các quốc gia đang phát triển, phối hợp giữa các bộ phận chức năng để phục vụ cho tiến trình đổi mới công nghệ.

g/ Khả năng tiếp thu

159

Trước các xu thế của phát triển công nghệ nói riêng và của thế giới nói chung đặc biệt đối với doanh nghiệp của các quốc gia đang phát triển (nơi mà khả năng sản sinh công nghệ còn hạn chế) thì khả năng nhận biết, lựa chọn tiếp thu và khai thác một

cách có hiệu quả các công nghệ từ bên ngoài là yếu tố vô cùng quan trọng. Trong quá trình đó thậm chí cần phải liên minh, liên doanh với cả những đối thủ cạnh trạnh trên quan điểm các bên cùng có lợi. Ví dụ: Sự hợp tác giữa IBM và APPLE.

h/ Tính linh hoạt trong quản lý

Đặc điểm này là cần thiết để tạo dựng môi trường chủ động sáng tạo cho các thành viên trong tổ chức để họ có thể suy nghĩ, thử nghiệm, thảo luận và phát triển các ý tưởng các nhân, đó có thể là xuất phát điểm của vòng đổi mới công nghệ.

i/ Khả năng đa dạng

Chính do các xu thể phát triển công nghệ mà các tổ chức cần có sự kết hợp các kỹ năng và kiến thức chuyên môn trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Khả năng quản lý hiệu quả của các kỹ năng và kiến thức đa dạng là trọng tâm của quá trình đổi mới công nghệ. Điều đó có thể được thực hiện một cách có hiệu quả nhờ các nhà quản lý đa năng - những người được đào tạo cả về kỹ thuật và thương mại.

2.5.4. Quản lý bấp bênh trong đổi mới công nghệ

Xét trên tổng thể, các doanh nghiệp có hai nhu cầu cơ bản đó là nhu cầu ổn định và nhu cầu sáng tạo để đáp ứng các kế hoạch hiện tại cũng như chiến lược phát triển. Một mặt họ cần một trạng thái làm việc ổn định để hoàn thành công việc hiện tại một cách nhanh chóng và hiệu quả giúp công ty cạnh tranh thành công ở thời điểm hiện tại. Mặt khác, họ cần triển khai các ý tưởng mới để đảm bảo và nâng cao vị thế cạnh tranh của họ trong tương lai. Quá trình đó đòi hỏi sự quản lý khoa học trong đó quản lý sự không chắc chắn (bấp bênh) là quan trọng hơn cả. Để nhận thức và phân tích được tính bấp bệnh, Pearon đã xây dựng một bản đồ (hình 5.15) về tính bấp bênh, trên cơ sở sự không chắc chắn thể hiện ở hai khía cạnh.

+ Bấp bênh về mục đích

+ Bấp bênh về phương tiện

160

Trên thực tế, do rất nhiều các hạn chế khác nhau về thông tin, kiến thức hoặc về thời gian mà còn có nhiều các quyết định vẫn chứa đựng sự phán đoán của các nhà ra quyết định.

Ma trận bấp bênh của đổi mới công nghệ

Sơ đồ trên đề cập tới bản chất của bấp bênh và cách nó biến đổi theo thời gian.

Ô số 1: Thể hiện các hoạt động có tính bấp bênh cao cả về mục đích và phương tiện. Mục đích cuối cùng của chúng không được xác định rõ ràng và cách đạt mục đích đó cũng vậy. Nó được gọi là "nghiên cứu thăm dò" bởi đôi khi công việc đi quá xa thực tế và mọi người như đang làm việc trong đám mây mù. Hoạt động ở đây liên quan đến những công việc chưa được xác định cụ thể, sản phẩm và thị trường tiềm năng chưa xác định. Khu vực này chủ yếu là lĩnh vực của các phòng thí nghiệm nghiên cứu các trường đại học tổ chức thường không bị sức ép về thời gian và tiền bạc như ngành công nghiệp. Một số tổ chức khoa học cũng hỗ trợ cho các hoạt động này. Tuy nhiên, dễ thấy rằng ở đây nguồn lực yêu cầu lớn mà xác suất thành công không xác định, do đó thường chỉ có các công ty lớn mới có khả năng đầu tư cho các hoạt động này.

Ô số 2: Ở đây mục tiêu rõ ràng, ví dụ đã xác định được cơ hội thương mại nhưng phương tiện thực hiện chưa có. Công ty phải tiến hành các dự án công nghệ khác nhau để được sản phẩm mong muốn. Các khám phá bổ sung cũng có thể được khám phá trong chương trình này. Do đó

phương thức chính xác để đạt được mục tiêu là khá bấp bênh, loạt hoạt động này thường được coi là phát triển kỹ thuật và là các hoạt động liên tục của các công ty chế tạo. Các công ty này liên tục phải kiểm tra các quy trình sản xuất, tìm cách tăng hiệu suất và làm giảm chi phí.

Ô số 3 và 4: Thể hiện những tình huống chắc chắn hơn về phương tiện và mục đích cụ thể hơn là công ty làm việc với công nghệ quen thuộc.

Ô số 3: Thể hiện sự bấp bênh về mục đích thường gắn liền với việc nỗ lực tìm cách sử dụng công nghệ sao cho có hiệu quả nhất. Tên của các hoạt động này là ứng dụng công nghệ. Có quan điểm cho rằng nhiều loại vật liệu mới ra đời trong giai đoạn này.

161

Ô số 4: Bao gồm các hoạt động đổi mới có tính chắc chắn cao, trong tình huống này các hoạt động chủ yếu là cải tiến những sản phẩm vốn có hoặc tạo ra sản phẩm mới

thông qua sự kết hợp giữa cơ hội thị trường và năng lực công nghệ của tổ chức. Vì ổn định như vậy cho nên ta dễ thấy rằng các đối thủ cạnh tranh cũng có thể đang tiến hành các hoạt động tương tự, do đó tốc độ triển khai là yếu tố quyết định sự thành công. Cải tiến mẫu mã, mở rộng tính năng tác dụng của sản phẩm dựa trên công nghệ sẵn có điều chỉnh, cải tiến là ví dụ minh hoạ cho các hoạt động ở ô này.

Bản đồ về tính bấp bênh đã truyền đạt một cách đơn giản những thông điệp khá phức tạp cho phép chúng ta có thể nhận diện nhiều tổ chức khác nhau trong lĩnh vực quản lý tính bấp bênh của đổi mới, đồng thời có cung cấp cho chúng ta một thông điệp quan trọng, quản lý đổi mới sản phẩm khác với quản lý đổi mới quá trình. Đôi khi người ta hiểu rất rõ bản chất của thị trường, mục tiêu và các sản phẩm cần thiết, ngược lại đôi khi lại không biết gì hoặc biết rất ít về công nghệ cần phát triển và cách dùng công nghệ đó. Hầu hết các công ty đều nằm giữa hai thái cực này. Những môi trường và điều kiện khác nhau đòi hỏi những kỹ năng quản lý khác nhau.

Không những thế bản đồ này còn giúp các nhà quản lý tìm hiểu cách thức biến đổi các ý tưởng thành đổi mới và cung cấp cách xác định những kỹ năng quản lý nào cần thiết. Ở ô số 1 lưu ý tới một lĩnh vực hoạt động đổi mới, nơi mà các ý tưởng phát kiến không được nhận ngay ra là các sản phẩm thương mại tiềm tàng. Đã có nhiều ví dụ về những phát kiến công nghệ nảy sinh mà công ty chủ quản không thể nhận ra. Công nghệ phần mềm máy tính đầu tiên cho giao diện đồ hoạ máy tính đã được phát triển ở bộ phận nghiên cứu của hãng Xerox từ đầu thập kỷ 70. Nhưng Xerox không nhận thức được lợi ích tương lai của nghiên cứu này và do đó quyết định không phát triển nó thêm nữa. Những Apple computer và Microsoft đã nhìn thấy lợi ích của công nghệ này và đã tiến hành khai thác nó vào những năm 80 và như ta đã biết công nghệ này mang lại cho Apple và Microsoft những lợi nhuận rất lớn. Ví dụ đó đã đặt ra câu hỏi về việc đánh giá nghiên cứu trong lĩnh vực này. Các nhà công nghệ có thể có nhiều hơn thông tin về công nghệ nhưng các nhà quản lý thương mại lại có ưu thế về cơ hội thương mại. Do đó thảo luận liên tục kể cả chính thức và không chính thức là cách tốt nhất để khám phá đầy đủ mọi khả năng sao công ty có thể quyết định đúng đắn việc dự án nào cần phát triển còn dự án nào thì có thể bỏ qua.

Các hoạt động ở ô số 4: Chỉ dừng lại ở việc cải tiến công nghệ nhưng với các nhà quản lý thương mại lại rất hứng thú bởi vì dự án rất gần gũi với thị trường mà không cần đầu tư nhiều về công nghệ.

Còn ở ô số 3: Muốn khai thác công nghệ một cách có hiệu quả thì các hoạt động quan trọng nhất cần tập trung vào thị trường cần xâm nhập.

162

Đổi mới công nghệ là một quá trình phức tạp được tạo thành do rất nhiều các hoạt động có tác động tương hỗ với nhau. Quá trình đổi mới chứa đựng nhiều rủi ro và không chắc chắn. Do đó các nhà quản lý cần phải tập trung đối phó tính bấp bênh, họ cần phải có thông tin đầy đủ về thực trạng hệ thống công nghệ cũng như xu thế phát triển của hệ thống này. Điều đó có thể thực hiện được thông qua việc sử dụng kỹ thuật dự báo.

163

Trên đây là một số vấn đề cơ bản của đổi mới công nghệ. Nó giúp các nhà quản lý công nghệ ở cả cấp vĩ mô lẫn vi mô thấy rất rõ ý nghĩa, bản chất và các bài toàn của đổi mới công nghệ trên co sở đó phần nào giúp họ đưa ra quyết định phù hợp nhằm phát triển hệ thống công nghệ của họ một cách hợp lý nhất nhằm phát triển một cách vững chắc các doanh nghiệp nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung.

CHƯƠNG 6: CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ TRONG XÂY DỰNG

1. KHÁI NIỆM CHUNG

1.1. 1.1. Chuyển giao công nghệ là gì?

1.1.1. Các định nghĩa chuyển giao công nghệ

- Tổng quát: Chuyển giao công nghệ là việc đưa kiến thức kỹ thuật ra khỏi ranh giới nơi sản sinh ra nó.

- Theo quan điểm quản lý công nghệ: Chuyển giao công nghệ là tập thể tập hợp các hoạt động thương mại và pháp lý nhằm làm cho bên nhận công nghệ có được năng lực công nghệ như bên giao công nghệ trong khi sử dụng công nghệ đó vào một mục đích đã định.

- Nghị định 45/1998/NĐ-CP quan niệm: Chuyển giao công nghệ là hình thức mua và bán công nghệ trên cơ sở hợp đồng chuyển giao công nghệ đã được thoả thuận phù hợp với các quy định của pháp luật. Bên bán có nghĩa vụ chuyển giao các kiến thức tổng hợp của công nghệ hoặc cung cấp các máy móc, thiết bị, dịch vụ, đào tạo… kèm theo các kiến thức công nghệ cho bên mua và bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán để tiếp thu, sử dụng các kiến thức công nghệ đó theo các điều kiện đã thoả thuận và ghi nhận trong hợp đồng chuyển giao công nghệ.

1.1.2. Đối tượng chuyển giao công nghệ

Các đối tượng chuyển giao công nghệ bao gồm:

a/ Các đối tượng sở hữu công nghiệp có hoặc không kèm theo máy móc, thiết bị mà pháp luật cho phép chuyển giao.

Sở hữu công nghiệp bao gồm: Sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi xuất xứ hàng hoá và các đối tượng khác do luật định.

- Trong đó sáng chế là giải pháp kỹ thuật mới so với trình độ thế giới, có trình độ

sáng tạo, có khả năng áp dụng trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội.

- Giải pháp hữu ích là giải pháp kỹ thuật mới so với trình độ kỹ thuật trên thế

giới, có khả năng áp dụng trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội.

- Kiểu dáng công nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản phẩm, được thể hiện bằng đường nét, hình khối, màu sắc hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, có tính mới đối với thế giới và dùng làm mẫu để chế tạo sản phẩm công nghiệp hoặc thủ công nghiệp.

- Nhãn hiệu hàng hoá là những dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu hàng hoá có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc.

164

- Tên gọi xuất xứ hàng hoá là tên địa lý của nước, địa phương dùng để chỉ xuất xứ mặt hàng từ nước, địa phương đó với điều kiện những mặt hàng này có các

tính chất, chất lượng đặc thù dựa trên các điều kiện địa lý độc đáo và ưu việt, bao gồm yếu tố tự nhiên, con người hoặc kết hợp cả hai yếu tố đó.

- Quyền sở hữu đối với sở hữu công nghiệp có thể được xác lập theo văn bằng bảo hộ do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước cấp, nếu chủ sở hữu có nộp đơn yêu cầu.

b/ Bí quyết, kiến thức kỹ thuật về công nghệ dưới dạng phương án công nghệ, các giải pháp kỹ thuật, quy trình công nghệ, phần mềm máy tính, tài liệu thiết kế, công thức, thông số kỹ thuật, bản vẽ, sơ đồ kỹ thuật có hoặc không kèm theo máy móc, thiết bị.

Bí quyết là những kinh nghiệm, kiến thức, thông tin kỹ thuật quan trọng, mang tính chất bí mật được tích luỹ, khám phá trong quá trình nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh, có khả năng tạo ra những dịch vụ, sản phẩm có chất lượng cao, đem lạo hiệu quả kinh tế lớn, có khả năng tạo ra lợi thế cạnh tranh trên thị trường.

c/ Các giải pháp hợp lý hoá sản xuất, đổi mới công nghệ

d/ Các hình thức dịch vụ kỹ thuật hỗ trợ chuyển giao công nghệ như:

- Hỗ trợ lựa chọn công nghệ, hướng dẫn lắp đặt thiết bị, vận hành thử dây

chuyền…

- Tư vấn quản lý công nghệ, quản lý kinh doanh, hướng dẫn thực hiện quy trình

công nghệ được chuyển giao.

- Đào tạo, huấn luyện nâng cao trình độ chuyên môn và quản lý của công nhân, cán bộ kỹ thuật và cán bộ quản lý để nắm vững công nghệ được chuyển giao.

e/ Máy, thiết bị, phương tiện kỹ thuật kèm theo một hoặc một số trong 4 đối tượng nêu trên.

1.1.3. Hợp đồng chuyển giao công nghệ

Một chuyển giao công nghệ phải được lập thành văn bản hợp đồng.

a/ Hợp đồng chuyển giao công nghệ có thể bao gồm các nội dụng chủ yếu sau đây:

- Đối tượng hợp đồng, tên, nội dung, đặc điểm công nghệ, nội dung công nghệ, kết quả áp dụng công nghệ.

- Chất lượng công nghệ, nội dung và thời hạn bảo hành công nghệ.

- Địa điểm, thời hạn và tiến độ chuyển giao công nghệ

- Phạm vi, mức độ giữ bí mật công nghệ.

- Giá của công nghệ và phương thức thanh toán.

- Trách nhiệm của hai bên về bảo hộ công nghệ

- Cam kết về đào tạo liên quan đến công nghệ chuyển giao.

165

- Nghĩa vụ về hợp tác và thông tin của các bên.

- Điều kiện sửa đổi và huỷ hợp đồng.

- Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng và thủ tục giải quyết tranh chấp.

b/ Các nội dung khác trong hợp đồng.

- Chất lượng công nghệ được chuyển giao căn cứ.

 Mục đích sử dụng công nghệ.

 Chỉ tiêu về chất lượng và kinh tế - kỹ thuật của công nghệ.

 Các chỉ tiêu về chất lượng sản phẩm

 Các quy định về hình dáng sản phẩm

 Các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường.

- Nghĩa vụ giữ bí mật thông tin công nghệ được chuyển giao của bên nhận công nghệ.

- Đảm bảo công nghệ được chuyển giao không bị quyền của người thứ ba hạn chế trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam.

- Quyền phát triển công nghệ được chuyển giao của bên nhận công nghệ.

- Thời hạn hợp đồng chuyển giao công nghệ

c/ Hợp đồng chuyển giao công nghệ phải đăng ký hoặc được sự phê duyệt của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (Theo điều 32 Nghị định 45/1996/NĐ-CP).

d/ Những điều khoản không được đưa vào hợp đồng.

- Buộc bên nhận phải mua hoặc phải tiếp nhận từ bên giao hoặc từ bên thứ ba do bên giao chỉ định, những đối tượng như:

 Nguyên vật liệu: tư liệu sản xuất: Máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải.

 Sản phẩm trung gian: Lao động giản đơn, quyền sử dụng đối tượng sở hữu công

nghiệp.

- Buộc bên nhận phải chấp nhận một số hạn mức nhất định về:

 Quy mô sản xuất, số lượng sản phẩm (hay nhóm sản phẩm), giá bán sản phẩm.

 Chỉ định đại lý tiêu thụ sản phẩm cho bên nhận, cơ chế hoạt động và quan hệ

giữa bên nhận và các đại lý này.

- Hạn chế thị trường tiêu thụ sản phẩm, thị trường xuất khẩu, khối lượng và cơ cấu các nhóm sản phẩm được xuất khẩu của bên nhận.

- Quy định bên nhận không được tiếp tục nghiên cứu và phát triển công nghệ được chuyển giao hoặc không được tiếp nhận những công nghệ tương tự từ các nguồn khác.

166

- Buộc bên nhận chuyển giao vô đìều kiện cho bên giao quyền sử dụng các kết quả cải tiến, đổi mới công nghệ do bên nhận tạo ra từ công nghệ được chuyển giao, quyền

nộp đơn yêu cầu bảo hộ sở hữu công nghiệp, quyền sở hữu công nghiệp và các quyền khác của các cải tiến, đổi mới công nghệ đó.

- Miễn trừ trách nhiệm của bên giao đối với:

 Sai sót của bên giao trong chuyển giao công nghệ.

 Máy móc thiết bị do bên giao cung cấp không đảm bảo chất lượng như quy định

trong hợp đồng.

- Ngăn cấm bên nhận tiếp tục sử dụng công nghệ đã được chuyển giao sau khi hết hạn hợp đồng.

1.2. Phân loại chuyển giao công nghệ

Có nhiều cách phân loại chuyển giao công nghệ, dưới đây là một số cách phân loại thường gặp.

1.2.1. Căn cứ chủ thể tham gia chuyển giao

- Chuyển giao nội bộ công ty hay tổ chức (giữa cơ quan NC & TK) của công ty với các thành viên của nó ở trong một nước hay ở nhiều nước).

- Chuyển giao trong nước (Giữa các cơ quan NC&TK trong nước).

- Chuyển giao với nước ngoài (bên giao và bên nhận thuộc hai quốc gia khác nhau, hoặc qua ranh giới khu chế xuất).

1.2.2. Theo loại hình công nghệ chuyển giao

a/ Chuyển giao công nghệ sản phẩm (gồm công nghệ thiết kế sản phẩm và công nghệ sử dụng sản phẩm).

- Công nghệ thiết kế chủ yếu là phần mềm thiết kế bao gồm: thông tin cơ sở để thiết kế như: các khái niệm thiết kế, các kỹ thuật mô phỏng và trình tự phân tích đến dự đoán sự hoạt động của sản phẩm; các công cụ CAD; các nhu cầu của khách hàng; thông tin khác như; các số liệu để thiết kế sản phẩm (các bảng số liệu kỹ thuật và các tính toán thiết kế đã có.

- Công nghệ sử dụng chủ yếu là phần mềm sử dụng, bảo dưỡng sản phẩm như: trình tự thao tác, các phần mềm cần thiết để sử dụng sản phẩm; các sổ tay để bảo dưỡng, sửa chữa, liệt kê các sự cố có thể xảy ra, các thông tin nâng cao hiệu quả sử dụn như: Vận hành tối ưu, nâng cấp…

b/ Chuyển giao công nghệ quá trình (công nghệ để chế tạo sản phẩm đã được thiết kế).

- Công nghệ quá trình bao gồm bốn thành phần tương tác với nhau để thực hiện thiết kế, đó là phần kỹ thuật, phần con người, phần thông tin và phần tổ chức.

- Cũng có thể phân loại: Công nghệ sản xuất, công nghệ dịch vụ.

167

1.2.3. Theo hình thái công nghệ được chuyển giao

Căn cứ hình thái công nghệ được chuyển giao trong chu trình sống của nó: Nghiên cứu triển khai  truyền bá trên thị trường.

a/ Chuyển giao theo chiều dọc

Có hai quan niệm về chuyển giao công nghệ theo chiều dọc.

- Công nghệ chưa có trên thị trường: Chuyển giao công nghệ chưa được triển khai (công nghệ vẫn trong sự quản lý của pha nghiên cứu). Bên nhận có được công nghệ hoàn toàn mới nếu triển khai thành công.

- Công nghệ đã có trên thị trường. Chuyển giao từ Nghiên cứu  Triển khai  Sử dụng  thị trường

Bên nhận dễ dàng làm chủ công nghệ được chuyển giao.

Trong thực tế các chuyển giao công nghệ theo chiều dọc chỉ chiếm khoảng 5% tổng số chuyển giao công nghệ trên phạm vi thế giới do bên nhận công nghệ cần có năng lực triển khai công nghệ ở trình độ cao (trong trường hợp công nghệ chưa có trên thị trường) và chi phí chuyển giao cao (trường hợp thứ 2).

b/ Chuyển giao theo chiều ngang

- Công nghệ chuyển giao đã có trên thị trường, sản phẩm của nó đã được bán rộng rãi.

Phân biệt chuyển giao công nghệ dọc và ngang

1.3. Các nguyên nhân xuất hiện chuyển giao công nghệ

168

Quan sát các nước đã công nghiệp hoá, người ta thấy có hai cách mà các nước đã sử dụng để công nghiệp hoá, đó là: Một, dựa vào tài nguyên sẵn có như các loại khoáng sản quý hay vị trí địa lý thuận lợi; Hai là, dựa vào phát triển công nghệ. Lịch sử cho thấy số các quốc gia thuộc loại một là rất ít, trong số đó rất hiếm thấy các quốc gia này được coi là một nước phát triển. Đại đa số các quốc gia đi theo con đường thứ hai, trong số đó hầu hết các nước phát triển. Dựa vào công nghệ để công nghiệp hoá, các nước có thể tự tạo ra công nghệ như tất cả các nước đều "đi bằng hai chân - làm một số, mua một số" trong quá trình công nghiệp hoá.

Để hiểu rõ nguyên nhân xuất hiện chuyển giao công nghệ, ta xem xét sự hình thành, ưu, nhược điểm của công nghệ nội sinh, để phân biệt với công nghệ ngoại sinh và công nghệ do chuyển giao công nghệ.

1.3.1. Công nghệ nội sinh

a/ Sự hình thành một công nghệ nội sinh

Công nghệ nội sinh là công nghệ được tạo ra thông qua quá trình nghiên cứu và triển khai ở trong nước. Chu trình hình thành một công nghệ nội sinh trải qua các giai đoạn:

Tìm hiểu nhu cầu  Thiết kế  Chế tạo thử  Sản xuất  Truyền bá và đổi mới.

b/ Các ưu điểm của công nghệ nội sinh

- Công nghệ nội sinh thường thích hợp với điều kiện trong nước do được thiết kế từ các dữ liệu thu thập teo nhu cầu của địa phương.

- Người sử dụng dễ dàng làm củ được công nghệ vì nghiên cứu triển khai ở trong nước, do đó dễ phát huy được hiệu quả;

- Tiết kiệm ngoại tệ;

- Không phụ thuộc nhiều vào nước ngoài, đặc biệt về kỹ thuật;

- Tận dụng các nguồn lực sẵn có ở địa phương, do thiết kế ở trong nước thường dựa vào các nguồn lực sẵn có;

- Nếu trình độ NC&TK công nghệ đạt trình độ tiên tiến, có thể xuất khẩu công nghệ, mang lại nhiều lợi ích;

- Các cơ quan nghiên cứu - triển khai thông qua thực hành nghiên cứu sáng tạo công nghệ mới có điều kiện tích luỹ kinh nghiệm, nâng cao trình độ.

c/ Những nhược điểm

- Để có được một công nghệ cần nhiều thời gian, tiền của và nhân lực, do việc tạo công nghệ mới là hoạt động nghiên cứu - triển khai, do đó nếu chỉ dựa hoàn toàn vào công nghệ nội sinh thời gian công nghiệp hoá sẽ bị kéo dài;

- Nếu trình độ NC&TK không cao, công nghệ tạo ra sẽ ít giá trị, gây lãng phí do không thể sử dụng, nhất là trong điều kiện nền kinh tế hội nhập, công nghệ lạc hậu tạo ra sản phẩm không thể cạnh tranh trên thị trường ngay ở trong nước.

1.3.2. Công nghệ ngoại sinh

a/ Sự hình thành một công nghệ ngoại sinh.

Công nghệ ngoại sinh là công nghệ có được thông qua mua công nghệ do nước ngoài sản xuất. Quá trình có được một công nghệ ngoại sinh bao gồm:

Nhập  Thích nghi  Làm chủ

169

b/ Các hình thức nhập công nghệ.

Để nhập một công nghệ, có thể thông qua các hình thức sau:

- Mua thiết bị, nhà máy chìa khoá trao tay (bên bán bàn giao nhà máy hoàn chỉnh), hay sản phẩm trao tay (bên bán bàn giao nhà máy đã sản xuất ra được sản phẩm);

- Liên doanh, hợp tác kinh doanh với các công ty xuyên quốc gia trong đó phía nước ngoài chịu trách nhiệm cung cấp phần chủ yếu của công nghệ.

- Mua giấy phép bản quyền công nghệ (mua licence công nghệ) rồi xây dựng lên công nghệ.

c/ Sự hình thành các công nghệ ngoại sinh

Sự hình thành các công nghệ ngoại sinh tự phát đã có từ rất lâu thông qua việc di dân, qua các thương gia, người đi sứ… việc nhập công nghệ này thường có sự kiểm soát của Nhà nước. Trong số các công nghệ ngoại sinh, một số được coi là chuyển giao công nghệ.

d/ Chuyển giao công nghệ

Chuyển giao công nghệ ngày nay là mua bán công nghệ có tổ chức. Các động cơ của bên giao và bên nhận có ảnh hưởng lớn đến kết quả một CGCN. Có thể chia các nguyên nhân xuất hiện CGCN thành ba loại: Những nguyên nhân khách quan; những lý do xuất phát từ bên giao và những lý do xuất phát từ bên nhận.

1.3.3. Những nguyên nhân khách quan dẫn đến CGCN

- Không quốc gia nào trên thế giới có đủ mọi nguồn lực để làm ra tất cả các công nghệ cần thiết một cách kinh tế, do đó nhiều nước muốn có một công nghệ thường cân nhắc về phương diện kinh tế giữa mua và làm.

- Sự phát triển không đồng đều của các quốc gia trên thế giới về công nghệ (85% các sáng chế công nghệ nằm trong tay sáu nước), nhièu nước không có khả ănng tạo ra công nghệ mà mình cần, buộc phải mua để đáp ứng các nhu cầu cấp thiết.

- Xu thế ở rộng hợp tác, khuyến khích thương mại tạo thuận lợi cho mua, bán kể cả mua bán công nghệ.

- Các thành tựu của Khoa học - Công nghệ hiện đại làm rút ngắn tuổi thọ của các công nghệ, khiến nhu cầu đổi mới công nghệ tăng cao. Trong lĩnh vực công nghệ phát triển nhanh, chu trình sống của công nghệ rất ngắn, những người đi sau trong các lĩnh vực công nghệ này muốn có công nghệ đã xuất hiện trên thị trường thường thông qua chuyển giao thay vì bắt đầu từ NC & TK.

1.3.4. Những lý do khiến bên giao công nghệ muốn chuyển giao công nghệ

- Thu lợi nhuận cao hơn ở địa phương hay ở chính quốc (do giảm ch phí nguyên vật liệu, nhân công và các chi phí cao về cơ sở hạ tầng khác).

170

- Chấp nhận cạnh tranh về sản phẩm để nhanh chóng thu hồi vốn đầu tư, do đó có điều kiện đổi mới công nghệ.

- Thu được các lợi ích khác như: Bán nguyên vật liệu, linh kiện, phụ tùng thay thế; tận dụng nguồn chất xám ở địa phương; thâm nhập vào thị trường bên nhận công nghệ….

1.3.5. Những lý do khiến bên nhận muốn chuyển giao công nghệ

Đối với chuyển giao công nghệ từ nước ngoài, bên nhận kỳ vọng vào:

- Thông qua CGCN, tranh thủ vốn đầu tư của nước ngoài, tạo điều kiện đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế.

- Tận dụng nguồn lực sẵn có mà chưa khai thác được vì thiếu công nghệ cần thiết, đặc biệt tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động.

- Nhanh chóng đáp ứng các nhu cầu cấp bách; nhu cầu thiết yếu của xã hội, nhu cầu đổi mới công nghệ để đáp ứng sức ép của cạnh tranh

- Có điều kiện nhanh chóng nâng cao trình độ công nghệ, học tập các phương pháp quản lý tiên tiến.

- Tránh được rủi ro nếu phải tự làm nhờ mua giấy phép công nghệ.

- Nếu thành công có cơ hội rút ngắn thời gian công nghiệp hoá, đồng thời đi tắt vào các công nghệ hiện đại nhất, đạt được đồng thời hai mục tiêu; công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

1.4. Các yêu cầu đối với công nghệ trong chuyển giao công nghệ

Các công nghệ được coi là chuyển giao công nghệ thường được ưu đãi trong quá trình chuyển giao (ví dụ miễn giảm các loại thuế, ưu tiên trong thuê mướn đất đai..), vì thế công nghệ là chuyển giao công nghệ cần thoả mãn một số tiêu chuẩn nhất định. Ở Việt Nam quy định những công nghệ sau không được coi là chuyển giao công nghệ.

- Những công nghệ không đáp ứng các yêu cầu trong các quy định của Pháp luật Việt Nam về an toàn lao động, vệ sinh lao động, sức khoả con người, bảo vệ môi trường.

- Những công nghệ có tác động và gây hậu quả xấu đến văn hoá, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự và an toàn xã hội của Việt nam.

- Những công nghệ không đem lại hiệu quả kỹ thuật, kinh tế hoặc xã hội.

- Công nghệ phục vụ lĩnh vự an ninh, quốc phòng khi chưa được cơ quan có thẩm quyền cho phép.

2. CÁC Y ẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ.

2.1. Các yếu tố thuộc bên nhận và nước nhận

2.1.1. Tình hình chính trị

Nếu không ổn định về chính trị và mất an ninh về xã hội, cả bên nhận và bên giao sẽ gặp rủi ro nhiều hơn

171

2.1.2. Hệ thống hành chính, phá luật và việc chấp hành luật

Hệ thống hành chính có hoạt động đúng chức năng không? Có thực hiện đúng các quyền không?

Bên cung cấp công nghệ muốn biết họ được phép chuyển giao công nghệ theo những quy định nào. Do vậy những nước có quản lý hoạt động chuyển giao công nghệ phải ban hành những văn bản pháp qui rõ ràng và chi tiết (một số nước có luậ chuyển giao công nghệ).

Ba hệ thống hỗ trợ trong việc tiếp nhận công nghệ là: hệ thống pháp luật, hệ thông cơ quan hành pháp và hệ thống cơ quan tư pháp.

2.1.3. Vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ

Việc ngăn ngừa bên nhận sử dụng không thoả đáng công nghệ chuyển giao là mối quan tâm hàng đầu của luật dân sự nói chung là luật hợp đồng nói riêng.

Bốn cơ sở pháp luật để chống lại sự truyền bá không hợp lệ công nghệ gồm:

- Thiết lập hệ thống luật về sở hữu trí tuệ

- Hiện đại hoá hệ thống luật về sở hữu trí tuệ

- Thi hành và áp dụng luật nhanh chóng và đơn giản

- Tham gia vào các hiệp ước và công ước quốc tế

Hầu hết các nước đang phát triển đều có các quyền và cơ sở pháp lý thích hợp để chống lại những vi phạm hợp đồng và ngăn ngừa các hậu quả của nó. Nhưng vấn đề là sự chấp hành pháp luật.

2.1.4. Tình hình kinh tế

Sự thay đổi của lãi suất, tỉ giá, giá cả, các chính sách kinh tế(chính sách thay thế nhập khẩu, bảo hộ các ngành công nghiệp trong nước); tính ổn định của nền kinh tế…đều có ảnh hưởng đến chuyển giao công nghệ.

2.1.5. Cơ sở hạ tầng khoa học-công nghệ và nhân lực khoa học – công nghệ

Yếu tố này ảnh hưởng đến việc hấp thụ, sử dụng, thích nghi, cải tiến công nghệ nhập

2.1.6. Chính sách công nghệ và chuyển giao công nghệ

Các chính sách công nghệ và chuyển giao công nghệ phải được hoạch định và thực hiện đầy đủ để phổ cập công nghệ và thể hiện mong muốn có được những tiến bộ về công nghệ. Vấn đề này, ESCAP đã đề nghị các biện pháp như sau:

- Nâng cao nhận thức của nhân dân về lợi ích của công nghệ trong đời sống hàng

ngày bằng những phương tiện thông tin đại chúng

- Giới thiệu ích lợi của công nghệ qua các triển lãm và hội chợ

- Xuất bản các tạp chí công nghệ

172

- Khuyến khích đổi mới

2.2. Các yếu tố thuộc bên giao và nước giao

2.2.1. Kinh nghiệm

Bên giao có kinh nghiệm sẽ giải quyết được những vấn đề riêng của từng nước, đào tạo phù hợp với yêu cầu cụ thể, chuyển giao đúng thời hạn, trôi chảy.

2.2.2. Chính sách chuyển giao công nghệ

Nếu chuyển giao công nghệ đóng một vai trò quan trọng trong toàn bộ chính sách của bên giao thì mọi nỗ lực sẽ tập trung vào sự thành công của chuyển giao công nghệ.

2.2.3. Vị thế thương mại và công nghệ

- Bên giao là những tập đoàn lớn hay chỉ là Công ty nhỏ và vừa. Bên giao có đầy đủ nguồn lực, có uy tín không?

- Ngoài các yếu tố trên vai trò của tổ chức quốc tế cũng rất quan trọng đối với sự thành công của chuyển giao công nghệ. Một số tổ chức quốc tế hỗ trợ cho chuyển giao công nghệ như UNIDO, UNCTAD, WIPO, ESCAP, APCTT…

- Một vấn đề cũng cần chú ý là trước khi quyết định chuyển giao công nghệ, bên giao phân tích rất kỹ tình tình bên nhận bằng cách đặt ra nhiều câu hỏi liên quan đến bên nhận. Nếu thấy tình hình bên nhận không thuận lợi, bên giao có thể sẽ không chuyển giao công nghệ. Từ đó thấy được bên nhận cần phải làm gì để thu hút công nghệ nước ngoài.

3. SỞ HỮU TRÍ TUỆ VÀ CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ

3.1. Khái quát về sở hữu trí tuệ

Sở hữu trí tuệ gồm mọi đối tượng do trí tuệ con người tạo ra mà cá nhân được giao quyền sở hữu nó có thể sử dụng một cách hợp pháp mà không bị người khác can thiệp. Sở hữu trí tuệ là một loại tài sản đặc biệt. Nó liên quan đến những thông tin, kiến thức được thể hiện băng những vật thể hữu hình, có thể bị sao chép không hạn chết và bị bắt chước tràn lan tại bất kỳ nơi nào, tại cùng một thời điểm. Tuy nhiên, khía cạnh liên quan đến sở hữu ở đây không phải là các vật thể đó(các bản sao…) mà chính là những thông tin, kiến thức phản ánh trong các vật thể đó.

Các quan điểm về sở hữu trí tuệ

- Quan điểm về sở hữu trí tuệ được xác định với tư cách là một nhân quyền phổ quát: “Tất cả mọi người có quyền b ảo vệ các lợi ích về tinh thần và vật chất có được từ bất cứ một sản phẩm nào mang tính khoa học-văn học hay nghệ thuật mà người đó là tác giả”.

- Quan điểm của các nước phát triển :Các nước phát triển coi việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ như là một phần thưởng cho sự thúc đẩy hoạt động sáng tạo., hoạt động R&D, đổi mới sản phẩm

173

- Quan điểm của các nước đang phát triển : Nhiều nước đang phát triển xem sở hữu trí tuệ như là một loại sản phẩm công cộng (public product). Việc tiếp cận

dễ dàng sở hữu trí tuệ sẽ thúc đẩy đất nước phát triển, dễ dàng có được thông tin và công nghệ, không cần đầu tư cho R&D. Vì thế nên thường yếu kém trong việc bảo vệ sở hữu trí tuệ.

Mức độ bảo vệ sở hữu trí tuệ ở một số nước (từ 1 đến 10)

Bảo vệ sở hữu trí tuệ trở thành một yếu tố rất quan trọng trong hệ thống công nghệ thế giới vì những lý do sau:

- Đầu tư cho R&D lớn hơn.Nhiều công ty đã đầu tư cho R&D nhiều hơn là đầu tư cho tài sản cố định nên quyền lợi của họ trong việc bảo vệ các kết quả đầu tư này lớn hơn - Có nhiều đối thủ cạnh tranh chống lai jcá chủ sở hữu trí tuệ được bảo họ. Tính ưu việt của các công nghệ mới đã làm tăng số lượng người thâm nhập vào hệ thống công nghệthế giới. Đối với các công ty tư nhân, sự cạnh tranh quyết liệt tập trung vào kết quả của ba sự phát triển xảy ra đồng thời. Đó là:

+ Sự quốc tế hoá nền kinh tế có liên kết chặt chẽ với sự phát triển mạnh mẽ của những công nghệ mới. Do sự phát triển sản phẩm mới tốn nhiều chi phí và do chu kỳ sống của sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao bị rút ngắn, nên các công ty bắt buộc phải bán sản phẩm của mình trong thời gian sớm nhất tại các thị trường trên thế giới. Điều ày làm cho các công ty cần sự bảo vệ sở hữu trí tuệ ở nhiều nước hơn so với trước đây để tránh những đối thử cạnh tranh mới.

174

+ Ranh giới giữa các ngành công nghiệp không rõ nét. Các công nghệ mới như công nghệ gen và vi điện tử đã làm thay đổi sâu sắc quan hệ giữa các ngành kinh tế khác nhau, xoá nhoà dần (thậm chí loại bỏ) ranh giới giữa các ngành công nghiệp

khác nhau. Vì vậy các công ty độc quyền phải tìm đến những hình thức bảo vệ khác và tăng cường bảo vệ sở hữu trí tuệ có thể là một phần trong chiến lược mới của họ.

+ Số người tiến hành R&D tăng lên. Nhiều công ty và quốc gia trước kia không

tham gia hoạt động R&D nay cũng chiếm những vị trí quan trọng lãnh vực này.

- Việc bảo vệ tri thức ở giai đoạn đầu của chu kỳ sống công nghệ dường như quan trọng hơn giai đoạn cuối.

- Việc tổ chức hoạt động R & D đang có sự thay đổi mạnh mẽ do có sự hợp tác của nhiều cơ quan. Do cần đầu tư những khoản tiền lớn cho thế hệ công nghệ mới, nên các công ty đã tìm cách hợp tác với nhau trong quá trình nghiên cứu nhằm chia sẻ chi phí cũng như rủi ro. Các hình thức hợp tác bao gồm:

 Liên minh chiến lược

 Nghiên cứu theo hợp đồng

 Tăng cường hợp tác giữa công ty với trường đại học

 Hợp tác với bên cung cấp

 Các chương trình hợp tác quốc tế

Lĩnh vực sở hữu trí tuệ trong hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ có liên quan đến thương mại (Agreement on trade – related aspects of intellectual property rights – TSIPS) rộng hơn trong các công ước của WIPO,bao gồm thêm kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp, tín hiệu về tình trạng chương trình đã được mã hoá, thông tin bí mật (bí mật thương mại và kết quả thử nghiệm), các quyền đối với giống cây trồng mới cà các quyền theo quy định của pháp luật như các giấy phép và sự cho phép. Hiệp định TRIPS cũng qui định rằng các thành viên của WTO phải tuân thủ mọi qui định hiện hành của WIPO, cụ thể là của các Công ước Paris về quyền sở hữu công nghiệp và Công ước Berne về quyền tác giả. TRIPS còn bổ sung các qui định để bảo vệ các đối tượng không có trong lãnh vực của WIPO ràng buộc các tổ chức và cá nhân, TRIPS ràng buộc các quốc gia thành viên WTO trên lãnh vực sở hữu trí tuệ.

Những xu hướng về quyền sở hữu trí tuệ

- Kéo dào thời gian bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, thí dụ châu Âu và Hoa Kỳ kéo dài thời gian bảo hộ quyền tác giả

- Mở rộng phạm vi quyền sở hữu trí tuệ, thí dụ quyền sở hữu trí tuệ trong giáo dục và đào tạo trên mạng, quyền sở hữu trí tuệ trong lãnh vực phần mềm

175

- Sử dụng pháp lý để tư hữu hoá tài sản công. Thể hiện cho xu hướng này là Hiệp ước về cơ sở dữ liệu đã được đề xuất hình thành một quyền sở hữu trí tuệ mới, gọi là quyền Sui Generis. Quyền này qui định rằng khi nhận được hợp đồng, các công ty tư được quyền sở hữu các thông tin đã được xử lý mặc dù các thông tin chứa trong các cơ sở dữ liệu này là tài sản công.

- Thu hẹp các miễn trừ trong việc áp dụng quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt đối với lãnh vực giáo dục và nghiên cứu khoa học.

3.2. Vai trò của quyền sở hữu trí tuệ trong chuyển giao công nghệ

Vai trò của quyền sở hữu trí tuệ là khắc phục được tính không hiệu quả khi tài sản vô hình được bán trên thị trường thế giới. Nhờ có quyền sở hữu trí tuệ các nhà tạo ra công nghệ có thể bảo vệ được tài sản vô hình của mình, tránh được sự sử dụng trái phép. Nhờ vậy chuyển giao công nghệ được thuận lợi hơn.

Các quyền sở hữu trí tuệ có thể đảm bảo giá trị thu hồi do áp dụng công nghệ, nhờ vậy làm tăng giá trị của công nghệ. Điều này sẽ khuyến khích đầu tư phát triển công nghệ.

Trong chuyển giao công nghệ, nếu đối tượng chuyển giao được bảo hộ dưới dạng các đối tượng sở hữu công nghiệp thì trước khi chuyển giao phải tiến thành chuyển giao quyền sử dụng theo qui định của pháp luật.

4. QUÁ TRÌNH CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ

4.1. Phân tích và hoạch định

- Phân tích hoàn cảnh của bên nhận và hoạch định các nguồn lực cho sản xuất. Bên nhận đặt ra các câu hỏi liên quan đến mình nhằm chuẩn bị các điều kiện để tiếp nhận, hấp thụ công nghệ mới phục vụ cho hoạt động sản xuất.

- Phân tích tính khả dụng của công nghệ. Bên nhận đặt ra những câu hỏi liên quan đến bên cung cấp công nghệ để có thể tìm được những công nghệ thích hợp, hữu dụng đối với bên nhận.

- Phân tích kỹ thuật. Bên nhận đặt ra những câu hỏi liên quan đến công nghệ để xem xét khả năng sinh lợi của công nghệ, cách thức nhận công nghệ.

4.2. Tìm kiếm công nghệ

Có những cách sau đây để tìm kiếm công nghệ.

- Tìm kiếm nhờ hội chợ thương mại. UNIDO phát hành lịch hội nghị, hội chợ, triển lãm để tạo cơ hội cho các doanh nghiệp có được những thông tin cần thiết về công nghệ.

- Tìm kiếm nhờ tạp chí và chuyên gia. Để tìm kiếm xuất bản phẩm có thể dựa vào các tổ chức sau :

+ GATE (German Appropriate Technology Exchange)

+ LES (Licensing Excecutives Society)

+ TIES (Technology Information Exchange System)

+ UNIDO

- Tìm kiếm nhờ các tổ chức quốc tế, thí dụ như:

176

+ GTZ (Gesellschaft Fur Technische Zusammenarbeit)

+ TFTP (Technology For The People)

- Tìm kiếm nhờ vào hệ thống thông tin của chính phủ, thí dụ như Trung tâm thông tin khoa học – công nghệ quốc gia, các Trung tâm thông tin khoa học – công nghệ của Tỉnh, thành phố.

- Tìm kiếm qua đấu thầu cạnh tranh. Đối với những dự án lớn, chính phủ gọi thầu, nhà cung cấp công nghệ giới thiệu công nghệ, bên mua công nghệ sẽ lựa chọn.

4.3. Cơ chế chuyển giao công nghệ

4.3.1. Khái niệm

- Cơ chế CGCN là hệ thống các văn bản pháp lý (Luật; Chính sách; Nghị định…), cùng hệ thống các cơ quan từ Trung ương đến địa phương, liên quan đến quản lý hoạt động CGCN (Thẩm định, đánh giá, kiểm tra, cung cấp thông tin, tư vấn… chuyển giao công nghệ).

- Chuyển giao công nghệ khác với mua bán sản phẩm thông thường, đặc biệt trong trường hợp chuyển giao công nghệ quốc tế, có liên quan đến mối quan hệ giữa các quốc gia, vì vậy cần có những qui định riêng, nhằm tạo thuận lợi cho CGCN, thu hút đầu tư của nước ngoài, đồng thời ngăn ngừa những thiệt hại cho lợi ích quốc gia.

4.3.2. Những ví dụ về cơ chế CGCN từ đầu tư nước ngoài vào Việt Nam

- Các văn bản pháp lý liên quan đến CGCN:

Trước năm 1996 văn bản pháp lý chủ yếu về chuyển giao công nghệ ở Việt Nam là pháp lệnh chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam có hiệu lực từ tháng 12/1998. Pháp lệnh này hết hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 1996. Những quy định pháp lý về chuyển giao công nghệ trong nước và với nước ngoài được quy định trong bộ luật dân sự có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 1996. Trong bộ luật dân sự, các vấn đề liên quan đến chuyển giao công nghệ được quy định tại các phần sau: Phần thứ sáu: Quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ; Phần thứ bảy: Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài (các điều 836, 837 và 838);

- Các công cụ và thủ tục để tiến hành CGCN:

Để có thể thực hiện các quy định trong bộ luật dân sự, Chính phủ đã ban hành các Nghị định như:

 Nghị định 45/1998 NĐ-CP quy định chi tiết về chuyển giao công nghệ;

 Nghị định 16/2000 NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản

lý Nhà nước về chuyển giao công nghệ;

 Thông tư về quy trình hình thành, sàng lọc, thẩm định, giám sát quá trình

CGCN…

177

Bên cạnh các văn bản pháp lý liên quan đến chuyển giao công nghệ, các cơ quan tổ chức hỗ trợ cho CGCN cũng đã được thành lập và đi vào hoạt động.

 Các tổ chức tư vấn công nghệ và CGCN như Công ty nghiên cứu và tư vấn chuyển giao công nghệ và đầu tư (CONCETTI); Công ty sở hữu công nghiệp; Công ty tư vấn đầu tư nước ngoài về công nghiệp (FORINCONS)… ngoài ra có nhiều công ty, chi nhánh, văn phòng của nước ngoài về tư vấn công nghệ và chuyển giao công nghệ.

4.4. Trình tự tiến hành nhập công nghệ

4.4.1. Một mô hình thực hiện chuyển giao công nghệ thông qua nhập công nghệ

Nhập công nghệ là một hình thức chuyển giao công nghệ thông qua việc mua bán công nghệ từ nước ngoài. Việc nhập công nghệ có thể chialàm ba giai đoạn: Chuẩn bị, thực hiện, và sử dụng (hình 5.2).

Trình tự nhập công nghệ trong chuyển giao công nghệ

4.4.2. Giai đoạn chuẩn bị

178

Hai công việc chính của giai đoạn chuẩn bị là lập dự án nhập công nghệ và báo cáo tính khả thi của dự án.

a/ Nội dung của lập dự án nhập công nghệ bao gồm các bước:

- Xác định mục tiêu:

 Tính tất yếu của việc nhập công nghệ (nhu cầu cấp thiết; tạo sản phẩm thiết yếu; đáp ứng cạnh tranh; rút ngắn khoảng cách công nghệ với khu vực…);

 Các căn cứ (đường lối, quy hoạch, mục tiêu chiến lược của quốc gia…).

- Nghiên cứu và xác định các nguồn lực:

 Nguồn nguyên liệu, lao động sẵn có;

 Nguồn vốn (dự trù lượng vốn, phương án huy động và khả năng hoàn vốn).

- Sơ bộ phương án nhập:

 Quy mô, địa điểm;

 Diện tích, các công trình xây dựng.

- Nghiên cứu thị trường công nghệ nhập:

 Hiện trạng công nghệ liên quan trên thế giới;

 Đề xuất nguồn cung cấp công nghệ.

- Dự báo sơ bộ hiệu quả kinh tế - xã hội:

 Đề xuất các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả;

 Dự kiến sẽ đạt được

Dự án phải được cơ quan có thẩm quyền sơ thẩm về các mặt: sự phù hợp với quy hoạch dài hạn của ngành, của quốc gia; nhu cầu của thị trường đối với sản phẩm của dự án; sự phù hợp về địa điểm: đánh giá dự án về mặt tài chính, về hiệu quả kinh tế - xã hội.

b/ Báo cáo tính khả thi có thể bao gồm các nội dung sau:

- Quy mô công trình và các phương án sản phẩm;

- Các nguồn lực sẵn có: Nguyên, vật liệu, năng lượng, nhân lực và các công trình công cộng phụ trợ;

- Lựa chọn công nghệ cụ thể: Tên nước cung cấp công nghệ, phương thức nhập;

- Vấn đề bảo vệ môi trường;

- Lập lịch trình thực hiện;

- Phân tích hiệu quả kinh tế và các lợi ích xã hội.

Báo cáo tính khả thi phải được thẩm tra, nội dung thẩm tra công nghệ nhập bao gồm:

+ Công nghệ nhập có phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội và chính sách khoa học - công nghệ của đất nước hay không?

179

+ Công nghệ nhập có tác dụng nâng cao năng lực công nghệ của đất nước hay không;

+ Về lợi ích kinh tế và xã hội, công nghệ nhập có khả năng phát huy ưu thế của các nguồn lực sẵn có của địa phương (nguyên, vật liệu, nhân lực…) hay không; sản phẩm của nó có sức cạnh

tranh trên thị trường không;

+ Các biện pháp tiếp thu, đồng hoá, nâng cao (nếu có) có tính khả thi hay không.

4.4.3. Giai đoạn thực hiện

Giai đoạn thực hiện nhập công nghệ có hai việc chính: Đàm phán và ký kết hợp đồng; tổ chức thực hiện.

a/ Đàm phán và ký kết hợp đồng

Đàm phán là cơ sở cua ký kết; ký kết là kết quả của đàm phán. Hợp đồng nhập công nghệ là căn cứ để tổ chức thực hiện, nghiệm thu, giám định cũng như là cơ sở để có thể đạt được các mục tiêu của dự án hay không. Một hợp đồng nhập công nghệ có chuyển giao công nghệ phải tuân theo các quy định trong phần thứ sáu, chương III, mục 2 và phần VII của bộ luật dân sự.

Để đàm phán có kết quả cần: Tổ chức tốt đoàn đàm phán, thường phải bao gồm chuyên gia công nghệ, chuyên gia ngoại thương và chuyên gia pháp luật; nghiên cứu lựa chọn bên cung cấp công nghệ phù hợp; xác định rõ ràng mục tiêu, nguyên tắc, phương thức của việc nhập công nghệ. Việc đàm phán phải đạt được mục tiêu là ký kết được hợp đồng, vì vậy trong thảo luận, thương lượng các bên cần kiên trì, mềm dẻo.

Hợp đồng chuyển giao công nghệ phải được phê chuẩn mới có hiệu lực. Những truờng hợp sau thường không được chấp nhận:

- Công nghệ định nhập trong nước đã nắm được, sảnphẩm đã sản xuất ở trong nước đã thoả mãn nhu cầu về cơ bản;

- Công nghệ tương tự đã được nhập và đã được đồng hoá, nâng cao;

- Điều kiện trongnước không phù hợp: Về điều kiện lắp đặt, hoặc về tài nguyên ở địa phương không thích hợp.

b/ Tổ chức thực hiện

Sau khi hợp đồng được phê chuẩn, tổ chức việc tiếp nhận thiết bị, tài liệu kỹ thuật, đào tạo nhân lực…

4.4.4. Giai đoạn sử dụng

Giai đoạn sử dụng bao gồm: Nghiệm thu và sử dụng; cải tiến nâng cao công nghệ nhập.

180

a/ Nghiệm thu và sử dụng

Sau khi hoàn thành việc tiếp nhận và lắp đặt, phải chuẩn bị sản xuất thử. Thử nghiệm trang, thiết bị đã lắp đặt, xây dựng và hoàn chỉnh quy trình công nghệ, tổ chức lao động, xây dựng các tiêu chuẩn chất lượng.

Sản phẩm sản xuất thử phải được chuyển qua các cơ quan chuyên trách để thử nghiệm, giám định. Việc giám định nghiệm thu chỉ tiến hành sau khi có chứng nhận kiểm tra đạt tiêu chuẩn. Căn cứ vào tiêu chuẩn và phương pháp nghiệm thu trong hợp đồng nhập công nghệ để kết luận có thể đưa vào sản xuất chính thức hay không.

b/ Cải tiến nâng cao công nghệ nhập

Cải tiến nâng cao công nghệ nhập là nhằm tăng cường quá trình tiếp thu, nắm vững tiến tới đồng hoá công nghệ được chuyển giao. Đây là một quá trình đòi hỏi phải đảm bảo được các điều kiện không chỉ nhân lực có đủ trình độ, mà cả về tài chính. Thực tế cho thấy số vốn dùng cho việc tiếp thu và sáng tạo còn lớn hơn nhiều số vốn để nhập công nghệ. Một vài số liệu của Nhật Bản trong những năm 1971 đến 1975, về tỷ lệ kinh phí giữa nhập với tiếp thu, cải tiến:

5. KINH NGHIỆM CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ Ở CÁC NƯỚC ĐANG

PHÁT TRIỂN

5.1. Những thuận lợi, khó khăn trong CGCN ở các nước đang phát triển

a/ Những yếu tố thúc đẩy quá trình GCCN quốc tế

Trong hai thập kỷ vừa qua, quá trình chuyển giao công nghệ trên thị trường công nghệ thế giới diễn ra sâu rộng và mạnh mẽ. Những yếu tố tạo thuận lợi cho các hoạt động trên có thể tóm tắt như sau:

- Xu thế mở rộng hợp tác và khuyến khích ngoại thương của thế giới;

- Tiến bộ khoa học - công nghệ tạo ra những công cụ tiên tiến giúp CGCN dễ dàng;

- Các nước (cả bên giao và bên nhận) đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm sau hơn 20 năm tăng cường CGCN trên phạm vi toàn cầu;

- CGCN là một hoạt động mang lại lợi ích cho cả hai bên tham gia.

181

Một trong các yếu tố khác thúc đẩy các nước đang phát triển đẩy mạnh CGCN đó là sự hấp dẫn của CGCN quốc tế thông qua những trường hợp thành công của một số nước trên thế giới. Nước Nhật Bản bắt đầu công nghiệp hoá nhờ dựa vào CGCN từ phương Tây. Khởi đầu từ một cơ sở hạ tầng kinh tế yếu kém, nhưng chỉ 60 năm (1870 - 1930) nước Nhật Bản đạt các chỉ tiêu của một nước công nghiệp. Trong thập kỷ 80 của thế kỷ XX, 4 con rồng châu á gồm Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và Singapo, chỉ trong khoảng 20 năm cũng được coi là các nước công nghiệp với các khởi điểm rất thấp: Hàn Quốc, năm 1962 GDP/người/năm chỉ có 150 USD; Đài Loan

năm 1960 chỉ 150 USD/người/năm. Tiếp theo là sự thành công của một số quốc gia như Thái Lan, Malaysia, Brazil, Achentina, Mexico… tạo nên một nhóm các quốc gia thường được gọi là các nước công nghiệp mới (NIC’s).

b/ Những khó khăn, trở ngại làm thất bại nhiều CGCN ở các nước đang phát triển

* Về khách quan

- Bản thân công nghệ vốn phức tạp, công nghệ được coi là CGCN thường có trình độ cao hơn trình độ của bên nhận;

- Công nghệ là kiến thức, do đó chuyển giao công nghệ mang tính chất ẩn, CGCN mang tính chất bất định. Công nghệ không chỉ nằm trong máy móc, tài liệu kỹ thuật, người có công nghệ khó truyền đạt tất cả những gì họ có trong một thời gian ngắn;

- Những sự khác biệt về ngôn ngữ, nền vă hoá và khoảng cách về trình độ dẫn tới những khó khăn trong giao tiếp, truyền đạt, hoà hợp.

* Về phía bên giao

- Động cơ của bên giao công nghệ thường khó xác định (phụ thuộc định hướng phát triển, các mục tiêu ngắn hạn và dài hạn…), mục tiêu duy nhất và cao nhất của họ thường là thu được lợi nhuận nhiều hơn ở chính quốc. Để có lợi nhuận cao hơn họ thường giảm chi phí đào tạo, làm cho bên nhận gặp khó khăn trong việc có đủ nhân lực có thể làm chủ công nghệ.

- Trong quá trình chuyển giao, họ thường lo lắng về vấn đề sở hữu bản quyền công nghệ, do các nước nhận không có hệ thống pháp lý hoàn chỉnh và thường thiếu hiệu lực, lo ngại về khả năng thu hồi vốn đầu tư, do thị trường bên nhận nhỏ hẹp.

- Lo ngại về việc bên nhận trở thành đối thủ cạnh tranh (như trường hợp chuyển giao công nghệ sản xuất linh kiện điện tử của Nhật Bản cho Hàn Quốc và Đài Loan - hiệu ứng Boomerang - gậy ông đập lưng ông - do đó bên giao thường cố ý trì hoãn hoặc chỉ giao thông tin đủ để vận hành.

* Về phía bên nhận:

- Cơ sở hạ tậng kinh tế yếu kém (điện, cấp thoát nước, giao thông vận tải, thông tin liên lạc…) làm cho quá trình chuyển giao, thực hiện sử dụng công nghệ chuyển giao không đủ điều kiện kỹ thuật đòi hỏi.

- Cấu trúc hạ tầng công nghệ yếu kém (nhân lực, chính sách, văn hoá, đặc biệt năng lực nghiên cứu - triển khai nội bộ), dẫn tới không có khả năng đồng hoá, tiến tới làm chủ công nghệ nhập.

- Phải đốt cháy giai đoạn trong phát triển công nghệ do thúc ép của việc phải nhanh chóng công nghiệp hoá đi đổi với hiện đại hoá.

182

- Thực tế cho thấy, sau 20 năm tăng cường chuyển giao công nghệ, các nước đang phát triển nghèo hơn trước.

Theo Ngân hàng Thế giới (WB), đầu những năm 1970, 70 nước đang phát triển vay một khoản tiền là 1770 tỉ USD (1/2 tổng GDP của các nước này) để nhập công nghệ, khoản lãi của món nợ này là 180 tỷ USD/năm. Muốn có tiền dư để trả số tiền lãi, 70 nước này phải có tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 9%/năm. trên thực tế, thập kỷ 70 tốc độ tăng trưởng bình quân chỉ đạt 5,8%, sang thập kỷ 80 tăng trưởng bình quân chỉ còn 5%, 3 năm đầu thập kỷ 90 chỉ là 1%. So với thập kỷ 70 thế kỷ trước, nợ của các nước đang phát triển thập kỷ 80 tăng 8 lần; năm 1995 tăng 28 lần. Cán cân thương mại của các nước đang phát triển thập kỷ 80 là 25% thị trường thế giới; sang thập kỷ 90 chỉ còn 20%. Năm 1965 - 1980, số người sống dưới mức nghèo khổ ở các nước đang phát triển là 200 triệu người, năm 1993 tăng lên 1 tỷ, năm 2000 đã là tỷ người.

5.2. Điều kiện để CGCN thành công ở các nước đang phát triển

Trước thực tế nhiều nước đang phát triển không thành công trong mục tiêu rút ngắn thời gian công nghiệp hoá nhờ chuyển giao công nghệ, các tổ chức quốc tế và phát triển công nghệ đã tiến hành nhiều hoạt động nhằm đúc rút kinh nghiệm thành, bại của các nước này. Nhiều khuyến nghị đã được gửi tới các nước đang phát triển. Có thể chia các khuyến nghị này thành hai loại: Những vấn đề thuộc về nhận thức và những vấn đề về thực hành.

a/ Về nhận thức

- Chuyển giao công nghệ và đổi mới công nghệ vốn mang tính xáo trộn, xét trong ngắn hạn (Ví dụ: Thay đổi những quan niệm, thói quen cũ của người lao động; một số lao động không đáp ứng được yêu cầu mới bị loại khỏi dây chuyền; công nghệ mới giảm bớt nhân công do tự động hoá cao hơn…), do đó khi đánh giá kết quả CGCN cũng như đổi mới công nghệ phải xem xét trong dài hạn.

- Công nghệ nói chung, đặc biệt là các công nghệ mới, các sáng chế công nghệ đều có giá trị của nó, không có công nghệ cho không. Người nhận công nghệ phải trả giá cho công nghệ mà họ nhận được.

- Chuyển giao công nghệ với các ưu việt của nó tạo những cơ họi hết sức tốt đẹp cho các nước đang phát triển nếu hoàn thành được các chuyển giao đó theo nghĩa làm chủ được công nghệ nhập, cải tiến và đổi mới được nó. Thế nhưng chuyển giao công nghệ sẽ là một nguy cơ lớn nếu không thành công. Nó sẽ đẩy các quốc gia này vào tình trạng công nghiệp hoá giả dối: có nhiều công nghệ song kinh tế khôgn tăng trưởng tương ứng với mức đầu tư, nợ do vay để mua công nghệ khôgn trả được trong khi mức sống của đại đa số dân chúng khôn được nâng cao, xã hội tiềm ẩn những nguy cơ mất ổn định.

- Để chuyển giao công nghệ phải có những điều kiện tối thiểu như những điều kiện về nghiên cứu, triển khai, đó là nguồn lực về tài chính, nguồn nhân lực đủ trình độ và xây dựng được các mối liên kết cần thiết.

183

- Một chuyển giao công nghệ chỉ kết thúc (hay hoàn thành) khi người nhận nắm vững và sử dụng nó một cách hiệu quả, nếu khôgn CGCn bọ coi là chưa hoàn thành.

b/ Về thực hành

* Bất kỳ một chuyển giao công nghệ nào cũng liên quan đến 7 yếu tố (hình 5.3):

- Bên giao công nghệ

- Bên nhận

- Công nghệ được chuyển giao

- Hình thức chuyển giao

- Môi trường bên giao

- Môi trường bên nhận

- Môi trường chung giữa bên giao và bên nhận

Môi trường chuyển giao công nghệ

184

* Đối với môi trường bên nhận, để thực hành chuyển giao công nghệ, các nước nhạn phải xây dựng nền tảng của chuyển giao công nghệ. Có ba yếu tố tạo nên nền tảng của chuyển giao công nghệ. Đó là hệ thống giáo dục quốc gia. các hoạt động của nền kinh tế (đặc biệt là vai trò của ngành công nghiệp) và sự tham gia của Chính phủ (hình 5.4).

Nền tảng và cơ sở hạ tầng CGCN của quốc gia

Sự phối hợp giữa ba yếu tố nền tảng sẽ tạo ra cơ sở hạ tầng để tiến hành CGCN. Các thành phần của cơ sở hạ tầng của CGCN bao gồm: Các cơ chế, các nguồn lực và các công cụ. Trong các nguồn lực để CGCN vai trò của các cơ quan nghiên cứu triển khai có ý nghĩa quyết định trong sự thành công của chuyển giao công nghệ. Vai trò của cơ quan NC&TK bao trùm từ giai đoạn chuẩn bị dự sán sơ bộ cho CGCN cho đến giai đoạn sử dụng, nâng cao công nghệ nhập. Mười giai đoạn trong CGCN cần đến đóng góp của NC&TK:

1) Xác định nhu cầu

2) Xác định các phương án có thể có

3) Đánh giá các phương án

4) Quyết định làm hay nhập

5) Đàm phán

6) Tiếp nhận

7) Xây dựng

8) Sử dụng

185

9) Cải tiến

10) Đổi mới

Trong giai đoạn chuẩn bị, năng lực NC&TK quyết định khả năng lựa chọn công nghệ. Khả năng lựa chọn công nghệ thích hợp đòi hỏi.

- Đánh giá điều kiện kinh tế - xã hội - thị trường và công nghệ của địa phương.

- Đánh giá khoảng cách công nghệ giữa địa phương với công nghệ nhập, chọn khoảng cách công nghệ hợp lý. Khoảng cách công nghệ không nên quá lớn hoặc quá bé.

- Phân tích các phương án và chọn ra phương án thích hợp.

Trong giai đoạn đàm phán hợp đồng, năng lực NC&TK quyết định khả năng thương thảo hợp đồng CGCN, thông qua.

- Cung cấp thông tin đầy đủ

- Hỗ trợ về pháp lý.

Trong gia đoạn tiếp nhận, sử dụng, nâng cao: Nâng cao tiềm năng của con người thông qua các hoạt động đào tạo, huấn luyện, tăng cường khả năng làm chủ tiến tới đồng hoá và đổi mới dựa trên năng lực nội sinh.

* Khoảng cách công nghệ giữa bên giao và bên nhận không nên quá lớn hoặc quá nhỏ.

Thành công của một chuyển giao công nghệ phụ thuộc năng lực công nghệ bên giao và khoản cách công nghệ giữa bên giao và bên nhận. Tổng kết thực tế chuyển giao cho nhận xét sơ bộ về các trường hợp như trong hình 5.5

186

Khoảng cách công nghệ giữa bên giao và bên nhận trong CGCN

CHƯƠNG 7: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG NGHỆ TRONG XÂY DỰNG

1. NGUYÊN TẮC CHUNG TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG

NGHỆ

Theo cách tiếp cận hệ thống, mọi tổ chức (cơ quan quản lý Nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp...) đều có thể được xem như một hệ thống gồm hai phân hệ: chủ thể quản lý và đối tượng quản lý. Mỗi hệ thống bao giờ cũng hoạt động trong môi trường nhất định (khách thể quản lý).

Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý là đối tượng quản lý và khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực, các thời cơ của tổ chức để đạt mục tiêu đề ra trong điều kiện môi trường luôn biến động. Quan hệ quản lý là một mối quan hệ con người giữa chủ thể và đối tượng quản lý trong môi trường xác định. Chủ thể quản lý luôn là con người và có cơ cấu tổ chức phụ thuộc vào quy mô, độ phức tạp của đối tượng và khách thể quản lý. Với các tổ chức nhỏ, chủ thể quản lý thường chỉ là một cá nhân. Mọi tổ chức hoặc một lĩnh vực hoạt động rộng lớn như một ngành kinh tế kỹ thuật cơ bản của đời sống xã hội như: kinh tế, quốc phòng- an ninh, khoa học- công nghệ, giáo dục, y tế...hay một xã hội, đòi hỏi chủ thể quản lý của nó phải là một hệ thống tổ chức có sự phân công thành các cấp bậc, chức vị và chuyên môn- chuyên ngành quản lý khác nhau. Bản thân các chủ thể quản lý này lại là đối tượng chịu sự quản lý của người lãnh đạo tổ chức đó hoặc là của tổ chức khác theo quy định. Chủ thể phải thực hành việc tác động và phải biết tác động quản lý. Vì thế, đòi hỏi chủ thể phải biết tác động và điều khiển đối tượng một cách có hiệu quả. Chủ thể quản lý cần sử dụng nguồn lực nhất định và dựa vào các nguồn lực này để thực hiện các chức năng quản lý (quản trị): Hoạch định, tổ chức, lãnh đạo, kiểm tra, cũng như xác định mục tiêu quản lý.

Đối tượng quản lý chịu sự tác động điều khiển, tác động của chủ thể quản lý. Đối tượng quản lý là các tổ chức và cá nhân cũng như các nguồn lực của nó. Đối tượng quản lý có mối tác động phản hồi với chủ thể quản lý, làm cho các thông tin, tác động và quyết định quản lý phát ra từ chủ thể quản lý tăng thêm hiệu quả hoạt động và đạt mục tiêu của toàn hệ thống. Đối tượng quản lý rất đa dạng, phong phú và thường xuyên biến đổi theo môi trường (khách thể quản lý). Đây là vấn đề cốt lõi của hoạt động quản lý, do vậy cần có nhận thức đúng đắn và phù hợp với xu thế phát triển của xã hội và nhân loại.

Các nguyên lý cơ bản của quản lý nhà nước về KH&CN: Để quản lý nhà nước về KH&CN hợp lý và hiệu quả, cần tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau:

187

1. Nguyễn tắc về sự thống nhất giữa khoa học và kinh tế có định hướng của Nhà nước, bao trùm lên tất cả để gắn hoạt động KH&CN với các hoạt động kinh tế. (Phải thể hiện trên tất cả các mặt kế hoạch, đầu tư, tổ chức chỉ đạo thực hiện ). Điều đặc biệt quan trọng là văn bản quy phạm pháp luật phải được lồng ghép trong các văn

bản hành chính, pháp lý chung. Chính sách, pháp luật, kế hoạch, biện pháp, tổ chức, đầu tư đều phải gắn bó với kinh tế.

2. Nguyên tắc kết hợp với cơ chế tác động của thị trường: Các chủ trương, biện pháp quản lý KH&CN đề ra phải căn cứ vào nhu cầu của thị trường, bám sát thị trường. Thị trường có sức hút các kết quả nghiên cứu một cách mạnh mẽ. Mặt khác, sự chủ động và sáng tạo của nhà khoa học (và tập thể khoa học) có tác dụng đi trước thúc đẩy, gợi ý, mở đường cho sản xuất kinh doanh phát triển.

3. Nguyên tắc kết hợp tập trung- dân chủ: Đó là sự tập trung nguồn lực, nỗ lực vào một đích, là nhân tố quyết định thành công cho mọi hình thái hoạt động. Trong khi đó, giải quyết các bài toán kỹ thuật, công nghệ đòi hỏi tính sáng tạo linh hoạt cao độ. Cần phát huy sáng tạo của mọi thành viên, đa dạng hoá các phương án, biện pháp để lựa chọn phương án và biện pháp triển khai thực hiện tốt nhất.

4. Nguyên tắc phân công, phân cấp: Các tổ chức phải có sự phân công, phân cấp rành mạch để tập trung vào giải quyết hiệu quả và có sự phối hợp để phát huy thế mạnh từng thành viên tạo sức mạnh tổng hợp.

5. Nguyên tắc tham gia cộng đồng: Tiến bộ KH&CN về bản chất là một quá trình xã hội. Cần tạo lập cơ chế hút - đẩy. Xã hội hóa trong quản lý KH&CN có ý nghĩa to lớn đến sự phát triển KH&CN (bao gồm cả đầu tư).

6. Nguyên tắc kế thừa và phát triển: Sự phát triển của công nghệ luôn có sự kế thừa. Sự sáng tạo có kế thừa là sáng tạo gấp đôi, gấp ba cái đáng ra có thể làm được, do đó làm tăng hiệu quả trong việc nghiên cứu ra cái mới, sản phẩm mới. Trong quản lý KH&CN cần có biện pháp tránh trùng lặp, nhưng phải kế thừa được cái đã nghiên cứu, đã làm.

Quản lý phải trả lời các câu hỏi: “Phải đạt mục tiêu nào?”, “Phải đạt mục tiêu như thế nào và bằng cách nào?”, “Đạt được mục tiêu kết quả quản lý để làm gì?”

Quản lý hướng vào mục tiêu chung

188

Quản lý chính là sự kết hợp được nỗ lực chung của mọi người trong tổ chức và sử dụng tốt nhất các nguồn lực để đạt tới mục tiêu chung của tổ chức và mục tiêu riêng của mỗi người một cách khôn khéo và có hiệu quả nhất. Thực chất của quản lý là quản lý con người trong tổ chức, thông qua đó sử dụng có hiệu quả nhất mọi tiềm năng và cơ hội của tổ chức. Quản lý ra đời chính là để tạo ra hiệu quả hoạt động cao hơn hẳn so với việc làm của từng cá nhân riêng rẽ (Mô hình quản lý theo” Đàn sếu

bay” của Nhật Bản). Các vấn đề nêu trên và Quản lý KH&CN trong phạm vi một quốc gia là cơ sở lý luận quan trọng để xác định những nội dung chủ yếu của quản lý KH&CN ở nước ta. Con người sáng tạo ra mọi hệ thống quản lý, trực tiếp vận hành, đổi mới, hoàn thiện nó nhưng lại bị hệ thống quản lý chi phối trở lại. Hệ thống quản lý khoa học, dân chủ là sản phẩm của trí tuệ tập thể, có tác động khơi nguồn mọi động lực, khuyến khích mọi tài năng sáng tạo ra cái mới.

2. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

Hệ thống quản lý KH&CN của nước ta cho đến nay đã được củng cố và hoàn thiện đáng kể, từ Trung ương, địa phương đến cơ sở. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về KH&CN. Theo Luật Tổ chức Chính phủ, nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong lĩnh vực KH&CN là:

- Xây dựng và chỉ đạo thực hiện kế hoạch phát triển KH&CN.

- Quyết định chính sách về KH&CN, đầu tư và khuyến khích tài trợ cho khoa học, ưu tiên cho những hướng khoa học, công nghệ mũi nhọn.

- Quản lý và sử dụng có hiệu quả các tổ chức nghiên cứu KH&CN, thông tin khoa học.

- Quản lý tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng sản phẩm, sở hữu công nghiệp và chuyển giao công nghệ.

Hội đồng Chính sách KH&CN Quốc gia là cơ quan tư vấn của Thủ tướng Chính phủ về những vấn đề quan trọng liên quan đến phát triển KH&CN.

2.1. Quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ ở Trung ương

Ngày 19 tháng 5 năm 2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 54/2003/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) và ngày 16/01/2004, Chính phủ ban hành Nghị định số 28/2004/NĐ-CP bổ sung, sửa đổi một số điều của Nghị định số 54/2003/NĐ-CP. Đây là những văn bản pháp quy quan trọng, định hướng cho hoạt động KH&CN của nước ta trong những năm đầu của thế kỷ 21.

2.1.1. Nội dung Nghị định số 54/2003/NĐ-CP

Điều 1. Vị trí và chức năng

Bộ Khoa học và Công nghệ là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hoạt động khoa học và công nghệ, phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ; tiêu chuẩn đo lường chất lượng sản phẩm, sở hữu trí tuệ, năng lượng nguyên tử, an toàn bức xạ và hạt nhân; quản lý nhà nước các dịch vụ công trong lĩnh vực thuộc Bộ quản lý; thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước thuộc Bộ quản lýtheo quy định của pháp luật.

189

Điều 2. Nhiệm vụ và quyền hạn

Bộ Khoa học và Công nghệ có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Nghị định số 86/2002/NĐ-CP ngày 05 tháng 11 năm 2002 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ và những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể sau đây :

1. Xây dựng và trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các dự án luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật khác, chiến lược, quy hoạch phát triển, kế hoạch dài hạn, năm năm và hàng năm về các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ;

2. Ban hành theo thẩm quyền các quyết định, chỉ thị, thông tư và các văn bản khác thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ;

3. Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra và chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ sau khi được phê duyệt và các văn bản quy phạm pháp luật khác thuộc phạm vi quản lý của Bộ; tuyên truyền, giáo dục, phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật về các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ;

4. Về hoạt động khoa học và công nghệ :

a) Xây dựng và trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các đề án về phương hướng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, chuyển giao công nghệ, phát triển thị trường khoa học và công nghệ, thúc đẩy việc hình thành các ngành, lĩnh vực kinh tế - kỹ thuật trên cơ sở công nghệ mới và công nghệ cao;

b) Chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành và địa phương xây dựng và trình Chính phủ đề án về quy hoạch mạng lưới các tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trong phạm vi cả nước. Xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ về điều kiện thành lập và cơ chế hoạt động của các doanh nghiệp khoa học và công nghệ theo quy định của pháp luật, cơ chế đầu tư phát triển khoa học và công nghệ, biện pháp thực hiện chính sách xã hội hoá hoạt động khoa học và công nghệ, các nhiệm vụ khoa học và công nghệ trọng điểm của Nhà nước, sử dụng, phát triển nhân lực khoa học và công nghệ;

c) Phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng và trình Chính phủ dự toán ngân sách hàng năm cho lĩnh vực khoa học và công nghệ phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội và đặc thù riêng của hoạt động khoa học và công nghệ theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước;

d) Quy định việc đánh giá, nghiệm thu, ứng dụng và công bố kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ;

đ) Quy định cụ thể điều kiện thành lập đối với từng loại hình tổ chức nghiên cứu và phát triển, tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ. Thống nhất quản lý việc đăng ký hoạt động đối với các tổ chức nghiên cứu và phát triển, các tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ theo quy định của pháp luật;

190

e) Chỉ đạo và hướng dẫn hoạt động của các quỹ phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia theo quy định của Chính phủ;

f) Tổ chức thẩm định, giám định nhà nước về công nghệ đối với các dự án đầu tư nhóm A, các chương trình phát triển kinh tế - xã hội; thống nhất quản lý hoạt động đánh giá, thẩm định, giám định, tư vấn và chuyển giao công nghệ;

g) Chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác thống kê, thông tin khoa học và công nghệ;

h) Thường trực Hội đồng Chính sách khoa học và công nghệ Quốc gia; Hội đồng giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ.

5. Về tiêu chuẩn đo lường chất lượng sản phẩm :

a) Thống nhất quản lý nhà nướchệ thống tiêu chuẩn của Việt Nam theo quy định của pháp luật; hướng dẫn việc áp dụng tiêu chuẩn quốc tế và tiêu chuẩn nước ngoài ở Việt Nam;

b) Thống nhất quản lý nhà nước hệ thống chuẩn đo lường, chứng nhận mẫu chuẩn, quy định phép đo, phương pháp đo và phê duyệt mẫu phương tiện đo; tổ chức việc kiểm định phương tiện đo, công nhận khả năng kiểm định, ủy quyền kiểm định nhà nước;

c) Thống nhất quản lý nhà nướcvề chất lượng sản phẩm, quy định nguyên tắc, điều kiện, tiêu chí của các tổ chức công nhận và chứng nhận chất lượng; tổ chức việc công nhận và chứng nhận chất lượng; chủ trì và phối hợp với các bộ, ngành có liên quan ký kết và thực hiện các thoả thuận, điều ước quốc tế về việc thừa nhận lẫn nhau trong hoạt động công nhận và chứng nhận chất lượng sản phẩm;

6. Về sở hữu trí tuệ (không bao gồm quyền tác giả về văn học, nghệ thuật và nhãn hiệu hàng hóa) :

a) Tổ chức thực hiện xác lập quyền sở hữu trí tuệ;

b) Thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền lợi hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ;

c) Quy định và chỉ đạo hoạt động của hệ thống tổ chức quản lý hoạt động sở hữu trí tuệ; chỉ đạo về nghiệp vụ sở hữu trí tuệđối với các ngành, địa phương, doanh nghiệp và cơ sở;

7. Về năng lượng nguyên tử, an toàn bức xạ và hạt nhân :

a) Thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu về năng lượng nguyên tử và công nghệ hạt nhân;

b) Chỉ đạo, kiểm tra và tổ chức khai báo, đăng ký, cấp giấy phép về an toàn hạt nhân và an toàn bức xạ;

c) Thống nhất và chịu trách nhiệm quản lý về chất thải phóng xạ và quan trắc môi trường phóng xạ; kiểm soát và xử lý sự cố bức xạ;

191

8.Quản lý và tổ chức việc thực hiện các dự án đầu tư thuộc Bộ theo quy định của pháp luật về đầu tư và xây dựng;

9. Hướng dẫn, kiểm tra các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, ủy ban nhân dân địa phương về việc thực hiện chủ trương, chính sách, quy định của pháp luật và chuyên môn, nghiệp vụ trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ;

10. Thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ theo quy định của pháp luật;

11. Tổ chức và chỉ đạo thực hiện kế hoạch nghiên cứu khoa học, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ tại các đơn vị thuộc Bộ quản lý;

12. Xây dựng và trình Chính phủ ban hành cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển dịch vụ công trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ; quyết định các chủ trương, biện pháp cụ thể và chỉ đạo việc thực hiện cơ chế hoạt động của các tổ chức dịch vụ công theo quy định của pháp luật; quản lý và chỉ đạo hoạt động đối với các tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công thuộc Bộ;

13. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể về đại diện chủ sở hữu phần vốn của nhà nước tại doanh nghiệp có vốn của nhà nước thuộc Bộ quản lý theo quy định của pháp luật;

14. Quản lý nhà nước đối với các hoạt động của hội và tổ chức phi Chính phủ trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ theo quy định của pháp luật;

15. Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, chống tham nhũng, tiêu cực và xử lý các vi phạm pháp luật trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ;

16. Quyết định và chỉ đạo thực hiện chương trình cải cách hành chính của Bộ theo mục tiêu và nội dung chương trình cải cách hành chính nhà nước đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt;

17. Quản lý tổ chức bộ máy, biên chế, chỉ đạo thực hiện chế độ tiền lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức nhà nước thuộc phạm vi quản lý của Bộ; xây dựng và quy định tiêu chuẩn nghiệp vụ, đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ đối với cán bộ, công chức, viên chức trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ;

18. Quản lý tài chính, tài sản được giao và tổ chức thực hiện ngân sách được phân bổ theo quy định của pháp luật.

Điều 3. Cơ cấu tổ chức của Bộ

a) Các tổ chức giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước :

1. Vụ Khoa học xã hội và Tự nhiên;

2. Vụ Khoa học và Công nghệ các ngành kinh tế - kỹ thuật;

3. Vụ Đánh giá, thẩm định và Giám định công nghệ;

192

4. Vụ Công nghệ cao;

5. Vụ Kế hoạch - Tài chính;

6. Vụ Hợp tác Quốc tế;

7. Vụ Pháp chế;

8. Vụ Tổ chức cán bộ;

9. Thanh tra;

10. Văn phòng;

11. Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng;

12. Cục Sở hữu trí tuệ;

13. Cục Kiểm soát và An toàn bức xạ, hạt nhân;

14. Ban Quản lý Khu công nghệ cao Hoà Lạc.

b) Các tổ chức sự nghiệp thuộc Bộ :

1. Viện Chiến lược và Chính sách Khoa học và Công nghệ;

2. Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam;

3. Viện ứng dụng công nghệ;

4. Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia;

5. Trường Nghiệp vụ quản lý Khoa học và Công nghệ;

6. Trung tâm Tin học;

7. Báo Khoa học và Phát triển;

8. Tạp chí Hoạt động Khoa học;

9. Tạp chí Tia sáng.

Điều 4. Hiệu lực thi hành

Nghị định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo và thay thế Nghị định số 22/CP ngày 22 tháng 5 năm 1993 của Chính phủ về nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường và các quy định trước đây trái với Nghị định này.

193

Điều 5. Trách nhiệm thi hành

Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ và Chủ tịch ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này ./.

2.1.2. Nội dung Nghị định số 28/2004/NĐ-CP

Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 54/2003/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2003 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Khoa học và Công nghệ với nội dung cụ thể sau đây:

1. Điều 1 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 1. Vị trí và chức năng

Bộ Khoa học và Công nghệ là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hoạt động khoa học và công nghệ, phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ, tiêu chuẩn đo lường chất lượng sản phẩm, hàng hóa; sở hữu trí tuệ; năng lượng nguyên tử, an toàn bức xạ và hạt nhân; quản lý nhà nước các dịch vụ công trong lĩnh vực thuộc Bộ quản lý; thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước thuộc Bộ quản lý theo quy định của pháp luật.”

2. Điểm c khoản 5 Điều 2 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“c) Thống nhất quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa lưu thông trong nước và hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; quy định nguyên tắc, điều kiện, tiêu chí của các tổ chức công nhận và chứng nhận chất lượng sản phẩm, hàng hóa; chủ trì và phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan ký kết và thực hiện các thỏa thuận và điều ước quốc tế về việc thừa nhận lẫn nhau trong hoạt động công nhận và chứng nhận chất lượng sản phẩm; chủ trì tổ chức giải quyết các tranh chấp về chất lượng sản phẩm, hàng hóa theo quy định của pháp luật”.

3. Khoản 6 Điều 2 được sửa đổi, bổ sung như sau:

- Tên khoản 6 sửa đổi là: “6. Về sở hữu trí tuệ (không bao gồm quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật").

- Bổ sung điểm d vào khoản 6 Điều 2 của Nghị định số 54/2003/NĐ-CP:

"d) Chủ trì tổ chức giải quyết các tranh chấp về sở hữu công nghiệp và tranh chấp thương mại liên quan đến sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật".

Điều 2. Hiệu lực thi hành

Nghị định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.

Điều 3. Trách nhiệm thi hành

194

Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ và Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.

2.2. Quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ ở địa phương

Các cơ quan quản lý nhà nước về KH&CN ở địa phương bao gồm các Sở KH&CN và các phòng, ban ở các quận, huyện (dưới hình thức phòng KH&CN trực thuộc UBND quận/huyện hoặc một bộ phận nằm trong phòng kế hoạch hoặc văn phòng). Sở KH&CN là cơ quan của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi tắt là tỉnh) thực hiện chức năng quản lý nhà nước về KH&CN trong tỉnh theo pháp luật nhà nước.

Sở KH&CN chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Bộ KH&CN.

Hội đồng KH&CN của tỉnh là cơ quan tư vấn quan trọng đối với các cơ quan quyền lực tại địa phương về các vấn đề liên quan tới phát triển dựa trên KH&CN.

2.3. Quản lý khoa học và công nghệ ở cơ sở

Quản lý KH&CN ở cơ sở bao gồm các phòng quản lý khoa học ở các viện nghiên cứu khoa học và các trường đại học hoặc các phòng công nghệ/kỹ thuật ở các xí nghiệp lớn. Chức năng của các đơn vị này chủ yếu là tổ chức và quản lý các hoạt động NCPT của cơ sở. Nói chung, quản lý KH&CN ở cơ sở đang có xu hướng ngày càng phát triển.

Hội đồng khoa học tại các tổ chức NCPT là cơ quan tư vấn cho thủ trưởng cùng cấp về các vấn đề KH&CN hữu quan.

3. QUẢN LÝ CÁC CẤP ĐỐI VỚI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ XÂY

DỰNG

3.1. Bộ xây dựng

195

Bộ Xây dựng là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Quy hoạch xây dựng, kiến trúc; hoạt động đầu tư xây dựng; phát triển đô thị; hạ tầng kỹ thuật đô thị và khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao; nhà ở; công sở; thị trường bất động sản; vật liệu xây dựng; quản lý nhà nước các dịch vụ công trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ theo quy định của pháp luật. Bộ Xây dựng có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Nghị định số 36/2012/NĐ-CP ngày 18 tháng 4 năm 2012 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ và những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể

Cơ cấu tổ chức bộ xây dựng

Vụ khoa học công nghệ và môi trường

Vụ Khoa học Công nghệ và môi trường là tổ chức thuộc Bộ Xây dựng, thực hiện chức năng tham mưu giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về công tác khoa học, công nghệ và môi trường trong các nhiệm vụ quản lý nhà nước của Bộ, bao gồm: nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; ứng dụng tiến bộ kỹ thuật; chuyển giao công nghệ; tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản phẩm hàng hoá; sở hữu công nghiệp; rào cản kỹ thuật trong thương mại; bảo vệ môi trường; thông tin khoa học công nghệ và môi trường trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ.

Nhiệm vụ và quyền hạn:

1. Xây dựng các chủ trương, chính sách, định hướng, chiến lược, kế hoạch, chương trình, dự án, các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hướng dẫn về công tác khoa học, công nghệ, môi trường trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ, để Bộ trình cấp có thẩm quyền phê duyệt, ban hành hoặc Bộ phê duyệt, ban hành theo thẩm quyền; chỉ đạo và tổ chức thực hiện các chiến lược, kế hoạch, chương trình, dự án sau khi đã được phê duyệt.

196

2. Tổ chức xây dựng và quản lý hệ thống: các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia, quy trình, quy phạm kỹ thuật, định mức kinh tế - kỹ thuật, thiết kế điển hình, thiết kế mẫu trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ; hệ thống tiêu chuẩn đo

lường ngành Xây dựng; hướng dẫn áp dụng tiêu chuẩn kỹ thuật nước ngoài trong hoạt động xây dựng.

3. Quản lý các hoạt động đánh giá và chứng nhận hợp quy sản phẩm hàng hóa vật liệu xây dựng, bao gồm chỉ định các tổ chức đánh giá và chứng nhận hợp quy, hướng dẫn và kiểm tra các hoạt động đánh giá và chứng nhận hợp quy; quản lý việc thực hiện mã vạch, mã số đối với sản phẩm hàng hóa thuộc ngành Xây dựng theo quy định của pháp luật; tổ chức kiểm tra, đánh giá chất lượng sản phẩm, hàng hóa vật liệu xây dựng.

4. Tổ chức thẩm định và công nhận các phòng thí nghiệm chuyên ngành xây dựng; tổ chức quản lý và kiểm tra hoạt động của các phòng thí nghiệm chuyên ngành thuộc các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ.

5. Tổ chức thẩm định, đánh giá công nghệ xây dựng, công nghệ môi trường, sáng kiến, cải tiến kỹ thuật trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ để trình cấp có thẩm quyền quyết định công nhận và hướng dẫn áp dụng trên phạm vi cả nước.

6. Hướng dẫn việc lồng ghép các quy hoạch, kế hoạch, chương trình bảo vệ môi trường trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình phát triển các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ; hướng dẫn việc lập báo cáo đánh giá môi trường chiến lược, báo cáo đánh giá tác động môi trường trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ; tổ chức thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường thuộc thẩm quyền của Bộ Xây dựng.

7. Tổ chức quan trắc các tác động tới môi trường từ hoạt động của ngành Xây dựng, lập báo cáo tình hình tác động môi trường của ngành Xây dựng; quản lý và kiểm soát chất thải, tiếng ồn, độ rung, ánh sáng, bức xạ; phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường, khắc phục ô nhiễm môi trường, phục hồi môi trường trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.

8. Nghiên cứu, đề xuất việc ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung các quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn quốc gia về môi trường; xây dựng trình Bộ ban hành theo thẩm quyền các quy chuẩn kỹ thuật về chất lượng môi trường, chất thải môi trường trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ.

9. Thực hiện nhiệm vụ cơ quan Thông báo của Bộ Xây dựng về hàng rào kỹ thuật trong thương mại (cơ quan Thông báo TBT).

10. Tổ chức quản lý các nhiệm vụ của Bộ Xây dựng thuộc các chương trình mục tiêu Quốc gia, các chương trình trọng điểm của Nhà nước có liên quan đến phát triển khoa học và công nghệ, tiết kiệm năng lượng, ứng phó với biến đổi khí hậu, phát triển bền vững, tăng trưởng xanh.

11. Hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các nhiệm vụ của công tác khoa học, công nghệ, môi trường trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ.

197

12. Theo dõi, tổng hợp, đánh giá và báo cáo tình hình thực hiện công tác khoa học, công nghệ, môi trường trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ.

13. Phối hợp với các cơ quan, đơn vị và các địa phương để thực hiện chức năng quản lý nhà nước của Bộ về khoa học, công nghệ, môi trường trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ.

Cơ cấu tổ chức:

1. Vụ Khoa học công nghệ và môi trường có Vụ trưởng, một số Phó vụ trưởng và các công chức chuyên môn, nghiệp vụ với định biên phù hợp nhu cầu công tác của Vụ theo từng thời kỳ.

2. Vụ trưởng và Phó vụ trưởng do Bộ trưởng Bộ Xây dựng quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo quy định của Đảng và pháp luật.

3. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Vụ Khoa học công nghệ và môi trường, Vụ trưởng có trách nhiệm lập kế hoạch công tác cho từng giai đoạn, xác định nhu cầu biên chế của Vụ; xây dựng và ban hành quy chế làm việc của Vụ; phân công nhiệm vụ, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi cá nhân trong Vụ và báo cáo Bộ trưởng.

4. Vụ trưởng chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng và pháp luật về toàn bộ hoạt động của Vụ; Phó vụ trưởng chịu trách nhiệm trước Vụ trưởng và pháp luật về lĩnh vực công tác được phân công.

3.2. Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn

198

Cơ cấu tổ chức bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn

4. ĐỔI MỚI TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ

XÂY DỰNG

Như đã nêu trong chương trước, Nhà nước có vai trò quyết định đối với sự phát triển KH&CN quốc gia trên tất cả các phương diện như phát triển nguồn lực, hệ thống thể chế - tổ chức, kết quả và hiệu qủa hoạt động của nó cũng như mức độ và quy mô đóng góp của KH&CN cho sự phát triển kinh tế-xã hội đất nước. Vì không có một học thuyết quản lý và kinh tế chung cho mọi nền kinh tế, cho nên việc quản lý các hoạt động KH&CN của mỗi Nhà nước phải căn cứ vào đối tượng của mình, vào hệ thống tổ chức và môi trường kinh tế xã hội, văn hoá của nó. Quản lý Nhà nước đối với hoạt động KH&CN có những điểm riêng so với quản lý các ngành kinh tế, kỹ thuật hoặc văn hoá xã hội. Khoa học và công nghệ với tư cách là một ngành kinh tế, kỹ thuật đặc thù, đòi hỏi chủ thể quản lý Nhà nước cần có một phương thức quản lý phù hợp và đạt hiệu quả kinh tế-xã hội cao.

Trong Luật khoa học và công nghệ đã quy định các nội dung quản lý Nhà nước về khoa học và công nghệ do Bộ Khoa học và Công nghệ chịu trách nhiệm:

1. Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách, chiến lược, kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ, quy hoạch mạng lưới tổ chức khoa học và công nghệ công lập;

2. Xây dựng và phê duyệt phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ khoa học và công nghệ 05 năm và hằng năm;

3. Thống nhất quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ các cấp; hướng dẫn xây dựng và tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước các cấp, trực tiếp quản lý và tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia; xây dựng và tổ chức thực hiện nhiệm vụ trong chương trình, đề án khoa học và công nghệ đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt;

4. Quản lý, sử dụng hiệu quả ngân sách nhà nước đầu tư cho khoa học và công nghệ; xây dựng đề xuất cơ cấu, tỉ lệ chi ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ làm căn cứ cho việc giao dự toán ngân sách nhà nước hằng năm;

5. Thẩm định việc thành lập tổ chức khoa học và công nghệ công lập theo phân cấp của Chính phủ; cho phép thành lập tổ chức khoa học và công nghệ có vốn nước ngoài; đăng ký hoạt động khoa học và công nghệ theo thẩm quyền;

6. Xây dựng và quản lý hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia về khoa học và công nghệ; hệ thống thống kê khoa học và công nghệ và tiêu chí thống kê thống nhất trong cả nước; đẩy mạnh việc khai thác và sử dụng sáng chế; phát triển thị trường khoa học và công nghệ;

199

7. Tổ chức quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ về khoa học và công nghệ;

8. Tuyên truyền, phổ biến và tổ chức hướng dẫn thực hiện pháp luật về khoa học và công nghệ;

9. Hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ;

10. Thanh tra, kiểm tra hoặc phối hợp thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về khoa học và công nghệ; giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật về khoa học và công nghệ theo thẩm quyền; căn cứ kết quả kiểm tra và hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ của các cơ quan và tổ chức để đề xuất điều chỉnh việc phân bổ kinh phí cho giai đoạn tiếp theo;

11. Thực hiện nhiệm vụ khác được Chính phủ ủy quyền hoặc phân công.

Trong luật cũng đã quy định trách nhiệm của Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang bộ và của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh Môi trường hoạt động KH&CN của tổ chức luôn có sự biến đổi nhanh chóng. Những biến đổi nhanh chóng của môi trường thường tạo ra những cơ hội và nguy cơ bất ngờ. Quản lý giúp đỡ tổ chức thích nghi được với môi trường, nắm bắt và vận dụng tốt hơn các cơ hội và giảm bớt ảnh hưởng tiêu cực của các nguy cơ từ môi trường, đảm bảo sự phát triển ổn định và bền vững của tổ chức.

Qúa trình phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với quản lý, nhất là nội dung quản lý KH&CN cần phải thích ứng như:

• Sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, cả về quy mô cơ cấu và trình độ KH&CN làm tăng tính phức tạp của quản lý. Do vậy, đòi hỏi trình độ quản lý phải được nâng cao tương ứng với sự phát triển kinh tế.

• Cuộc cách mạng KH&CN đang diễn ra với tốc độ cao và quy mô rộng lớn trên phạm vi toàn cầu khiến cho quản lý có vai trò hết sức quan trọng và quyết định tới sự phát huy tác dụng của KH&CN đối với sản xuất và đời sống. Tuy nhiên, KH&CN không thể tự động xâm nhập vào sản xuất với hiệu quả mong muốn mà phải thông qua quản lý. Muốn phát triển KH&CN, kể cả việc tiếp nhận, chuyển giao từ nứơc ngoài vào và ứng dụng các thành tựu KH&CN vào sản xuất đời sống, Nhà nước và các tổ chức phải có chính sách và cơ chế quản lý phù hợp.

• Trình độ xã hội và các quan hệ xã hội ngày càng cao đòi hỏi quản lý phải thích ứng. Trình độ xã hội và các quan hệ xã hội thể hiện qua các mặt:

- Trình độ giáo dục và đào tạo, trình độ học vấn và trình độ văn hoá nói chung của mọi tầng lớp dân cư trong xã hội;

- Nhu cầu đòi hỏi về vật chất và tinh thần của xã hội ngày càng cao, càng đa dạng và phong phú;

- Yêu cầu dân chủ hoá đời sống kinh tế-xã hội, yêu cầu của người lao động được tham gia ngày càng nhiều hơn vào việc quyết định những vấn đề quan trọng trong xây dựng và phát triển đất nước cũng như các công việc của tổ chức;

200

- Hoạt động KH&CN là hoạt động sáng tạo, có tính đặc thù cao.

• Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế đang diễn ra nhanh chóng. Quá trình hội nhập kinh tế đòi hỏi Nhà nước và các tổ chức kinh tế, xã hội phải nâng cao trình độ quản lý và hình thành một cơ chế quản lý phù hợp để phát triển một cách hiệu quả và bền xững.

201

Trong chương trình đào tạo cao học ngành Quản lý KH&CN được cập nhật nhiều môn học như: Quản trị nguồn nhân lực, Quản trị tài chính, Quản trị chiến lược, Hành vi trong tổ chức, Quản lý chất lượng, Quản lý công nghệ, Cơ sở chính sách KH&CN, Sở hữu trí tuệ, Quản lý tri thức, Hệ thống thông tin trong quản lý, Văn hoá trong quản lý,Xây dựng và Quản lý dự án, Kinh tế và Quản lý môi trường, Quản trị tiếp thị, Quản lý hành chính Nhà nước, Logistics, Pháp luật ...