
quy chế hoạt động của bộ máy hành chính các cấp; định rõ thứ bậc và quan
hệ thứ bậc trong bộ máy hành chính, xác định rõ vị trí, vai trò từng cấp
chính quyền; kiện toàn bộ máy chính quyền cơ sở.
Liên quan tới vấn đề thứ ba, việc ban hành quy chế về chế độ công vụ
và công chức là rất cần thiết: định rõ nghĩa vụ, trách nhiệm, thẩm quyền,
quyền lợi và kỷ luật hành chính: quy định chế độ đào tạo, tuyển dụng và
sàng lọc công chức; xây dựng đội ngũ công chức có chuyên môn, kỹ năng
nghiệp vụ cao, giác ngộ về chính trị, có tinh thần trách nhiệm, sự công tâm
và tận tuỵ với công việc.
Để phát huy quyền dân chủ của nhân dân. Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị – xã hội của nhân dân cũng cần được đổi mới theo
hướng:
- Đoàn kết tất cả mọi người thuộc các giai cấp, các tầng lớp, các dân
tộc, các tôn giáo, người Việt Nam ở trong nước và định cư ở nước ngoài...
Xoá bỏ mọi định kiến, mọi mặc cảm, lấy sự tương đồng vì lợi ích của sự
phát triển đất nước theo mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh” làm trọng.
- Mặt trận vận động, tổ chức nhân dân, xây dựng, củng cố, bảo vệ
chính quyền; thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc ngay trong tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước.
- Mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc bằng các hình thức đa dạng, thích
hợp với từng người, từng thành phần xã hội, từng địa phương, cơ sở.
Để mở rộng Mặt trận có tác dụng tích cực nhằm thực hiện tốt việc bảo
đảm quyền lực của nhân dân, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng củng cố
khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí
thức, làm cho nó thực sự là nền tảng của Mặt trận.
Để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, việc đổi mới hệ thống chính trị
không dừng ở việc đổi mới từng yếu tố cấu thành, mà còn đòi hỏi phải đổi
mới mối quan hệ qua lại giữa các yếu tố đó. Liên quan tới vấn đề này, cần
đổi mới mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước: Đảng lãnh đạo Nhà nước;
Nhà nước có nghĩa vụ thể chế hoá và tổ chức thực hiện nghiêm túc đường
lối và các nghị quyết của Đảng.
Để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa cần hoàn thiện hình thức dân
chủ đại diện, mở rộng dân chủ trực tiếp của nhân dân. Khi đề cập vấn đề
này, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII đã nhấn
mạnh: “Tiếp tục phát huy tốt hơn và nhiều hơn quyền làm chủ của nhân
dân qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp để nhân dân
104

tham gia xây dựng và bảo vệ Nhà nước, nhất là việc giám sát, kiểm tra của
nhân dân đối với hoạt động của cơ quan và cán bộ, công chức nhà nước”1.
Muốn hoàn thiện dân chủ đại diện, một vấn đề bức bách là nâng cao
chất lượng của các tổ chức quần chúng, làm cho các tổ chức đó thật sự có
được sự quan tâm thiết thân của các thành viên của mình, gần gũi với họ.
Chỉ khi đó, một mặt, tổ chức ấy mới nắm vững và nhanh nhạy mọi nhu cầu
bức xúc của các thành viên và phản ánh kịp thời với các cơ quan chức năng
thuộc bộ máy Đảng và Nhà nước; mặt khác cũng chỉ khi đó, quần chúng
thành viên mới thông qua tổ chức của mình mà tham gia tích cực vào hoạt
động của mọi cơ quan thuộc hệ thống chính trị.
Việc mở rộng dân chủ trực tiếp nhằm phát huy dân chủ nhân quyền
đòi hỏi:
- Lãnh đạo cơ quan và địa phương xác định rõ vấn đề cần có sự tham
gia trực tiếp của nhân dân ở lĩnh vực, địa bàn tương ứng trước khi cấp có
thẩm quyền quyết định; nâng cao chất lượng đóng góp của nhân dân vào
việc hình thành các quyết định đó.
- Xác định rõ những vấn đề mà cơ quan lãnh đạo, người lãnh đạo phải
có trách nhiệm báo cáo trước nhân dân ở lĩnh vực và trên địa bàn tương
ứng.
- Xây dựng những thiết chế dân chủ ở cơ sở phù hợp với lĩnh vực và
trình độ của đối tượng tương ứng.
- Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ cơ sở, làm cho họ biết nghe,
biết xử lý những ý kiến được nhân dân nêu ra. Hết sức tránh thái độ thụ
động, “theo đuôi” quần chúng...
Gắn liền với việc mở rộng dân chủ trực tiếp đến người dân, Đại hội
đại biểu toàn quốc IX của Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương: “Phân
công, phân cấp, nâng cao tính chủ động của chính quyền địa phương..., tổ
chức hợp lý Hội đồng nhân dân; kiện toàn các cơ quan chuyên môn của Uỷ
ban nhân dân và bộ máy chính quyền cấp xã, phường, thị trấn”1.
Bằng việc thực hiện có kết quả những vấn đề vừa nêu, Nhà nước xã
hội chủ nghĩa của chúng ta sẽ được củng cố, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
sẽ không ngừng được phát triển. Đó là những nhân tố có ý nghĩa quan
trọng đối với quá trình phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1997, tr. 41.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001, tr.133.
105

nghĩa.
Câu hỏi thảo luận và ôn tập
1. Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về dân chủ, về bản
chất dân chủ xã hội chủ nghĩa?
2. Phân tích rõ cơ cấu hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa và vai trò
của các tổ chức trong hệ thống đó; đặc biệt là của nhà nước xã hội chủ
nghĩa?
3. Phân tích phương hướng đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động của Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay?
106

Chương VIII
Cơ cấu xã hội - giai cấp và Liên minh giữa
công nhân với nông dân và trí thức trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
Quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa là quá trình từng bước xoá bỏ
cơ bản các quan hệ đối kháng giai cấp, hình thành một cơ cấu xã hội - giai
cấp mới, trong đó liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và trí
thức là nền tảng của xã hội mới, chế độ mới. Trước khi xem xét vấn đề liên
minh giai cấp, chúng ta cần phải nghiên cứu vấn đề rộng hơn, có tính chất
hệ thống bao trùm hơn, đó là cơ cấu xã hội - giai cấp.
I. Cơ cấu xã hội - giai cấp trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội
1. Quan niệm về cơ cấu xã hội - giai cấp
a) Cơ cấu xã hội và cơ cấu xã hội - giai cấp
- Mỗi con người đều tồn tại trong mối quan hệ lệ thuộc, tác động lẫn
nhau và sự tác động này không chỉ mang tính cá nhân mà còn mang tính
cộng đồng. Cộng đồng xã hội là một bộ phận người có chung một số dấu
hiệu, nguyên tắc. Tuỳ theo cách xác định các dấu hiệu, nguyên tắc mà
người ta có thể xác định những cộng đồng với các tên gọi khác nhau (dân
tộc, giai cấp, tập thể, đơn vị, nhóm hoạt động,...). Có hai loại cộng đồng:
cộng đồng khách quan được hình thành một cách tự nhiên, không phụ
thuộc vào ý muốn con người và cộng đồng chủ quan được hình thành từ ý
đồ, mục đích của con người.
- Cơ cấu xã hội là tất cả những cộng đồng người và toàn bộ các quan
hệ xã hội do sự tác động lẫn nhau của các cộng đồng ấy tạo nên. Cơ cấu xã
hội đề cập chủ yếu đến các cộng đồng được hình thành một cách khách
quan, dựa trên các dấu hiệu tự nhiên như giai cấp, dân số, dân cư, nghề
nghiệp, dân tộc, tôn giáo,... Từ đó, người ta có thể xem xét các loại hình cơ
cấu xã hội tương ứng: cơ cấu xã hội - giai cấp, cơ cấu xã hội - dân số (với
dấu hiệu nhân khẩu), cơ cấu xã hội - dân cư (với dấu hiệu cùng cư trú theo
107

địa lý), cơ cấu xã hội - nghề nghiệp, cơ cấu xã hội - dân tộc, cơ cấu xã hội -
tôn giáo,... Dưới góc độ chính trị - xã hội, môn học chủ nghĩa xã hội khoa
học ở đây chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề cơ cấu xã hội - giai cấp.
Cơ cấu xã hội - giai cấp là hệ thống các giai cấp, tầng lớp xã hội và
các mối quan hệ giữa chúng. Đó là các mối quan hệ về sở hữu, quản lý, địa
vị chính trị - xã hội,... Cơ cấu xã hội - giai cấp vừa phản ánh sự tồn tại xã
hội và vừa tác động lại sự phát triển của xã hội. C. Mác đã từng nói rằng:
"lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước tới nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai
cấp" và V.I. Lênin cũng nói: kết cấu xã hội và chính quyền có nhiều biến
đổi, nếu không tìm hiểu những biến đổi này thì không thể tiến được một
bước trong bất kỳ lĩnh vực hoạt động nào.
b) Vị trí của cơ cấu xã hội - giai cấp trong cơ cấu xã hội
- Cùng một con người sẽ thuộc về nhiều cộng đồng người khác nhau
theo các hình thức phân chia khác nhau (thuộc về một giai cấp, tầng lớp,
một nhóm nghề nghiệp, một địa bàn cư trú, một tôn giáo hoặc không theo
tôn giáo nào,...). Các loại hình của cơ cấu xã hội có mối quan hệ với nhau
và tác động qua lại lẫn nhau.
- Trong xã hội có giai cấp, thì cơ cấu xã hội - giai cấp là loại hình cơ
bản và có vị trí quyết định nhất, chi phối các loại hình cơ cấu xã hội khác,
vì trong quan hệ về mặt giai cấp của một xã hội quy định sự khác nhau về
địa vị kinh tế, về quyền sở hữu tư liệu sản xuất, mối quan hệ xã hội giữa
người với người trong hệ thống sản xuất, tổ chức lao động và phân phối thu
nhập. ở các loại hình cơ cấu xã hội khác không có được các mối quan hệ
quan trọng và quyết định trên đây. Từ đó cho thấy cơ cấu xã hội - giai cấp
có liên quan trực tiếp đến quyền lực chính trị và nó quyết định đến bản chất
và xu hướng vận động của các loại hình cơ cấu xã hội khác. Mỗi xã hội có
phân chia giai cấp đều có cơ cấu xã hội - giai cấp đặc trưng của mình, nó thể
hiện cho sự khác nhau về chất giữa cơ cấu xã hội này với cơ cấu xã hội
khác.
- Xuất phát từ cơ cấu xã hội - giai cấp mà người ta xây dựng các chính
sách phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá của mỗi xã hội trong từng giai đoạn
cụ thể. Vị trí của cơ cấu xã hội - giai cấp là có ý nghĩa quan trọng, song
không được tuyệt đối hoá, tức là chỉ thấy và dựa vào cơ cấu xã
hội - giai cấp, coi nhẹ các loại cơ cấu xã hội khác; cũng không thể tuỳ tiện
xoá bỏ nhanh chóng các giai cấp, tầng lớp xã hội bằng biện pháp giản đơn
theo ý muốn chủ quan.
108