intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

BÀN VỀ KHÁI NIỆM QUYỀN VĂN HOÁ

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:4

104
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Từ lâu nay, chúng ta đã khá quen thuộc với thuật ngữ quyền con người, tuy nhiên, có một thuật ngữ nữa rất đáng lưu tâm, đặc biệt đối với những người nghiên cứu, quản lý trong lĩnh vực văn hoá, đó là khái niệm Quyền Văn hoá.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: BÀN VỀ KHÁI NIỆM QUYỀN VĂN HOÁ

  1. BÀN VỀ KHÁI NIỆM QUYỀN VĂN HOÁ Bùi Hoài Sơn Viện Văn hoá Nghệ thuật Việt Nam Từ lâu nay, chúng ta đã khá quen thuộc với thuật ngữ quyền con người, tuy nhiên, có một thuật ngữ nữa rất đáng lưu tâm, đặc biệt đối với những người nghiên cứu, quản lý trong lĩnh vực văn hoá, đó là khái niệm Quyền Văn hoá. Trước hết, phải khẳng định rằng, khái niệm quyền văn hoá là một bộ phận của quyền con người, nhưng do khái niệm quyền con người rộng, nhiều lĩnh vực, nên việc định hình một khái niệm về quyền văn hoá có ý nghĩa thao tác hơn và có ích nhiều hơn đối với những người làm việc trong môi trường văn hoá - nghệ thuật. Như vậy, thực sự, quyền văn hoá bao hàm nh ững gì? Việc hiểu biết về quyền văn hoá giúp gì cho những người hoạt động trong lĩnh vực văn hoá - nghệ thuật? Thứ nhất, quyền văn hoá bao gồm quyền được hưởng thụ văn hoá hay nói một cách ngắn gọn, người dân và cộng đồng có quyền đỏi hỏi được hưởng thụ các sinh hoạt văn hoá. Văn hoá là sáng tạo và thành tựu của con người trong quá trình lịch sử và chung sống. Những sáng tạo và thành tựu ấy của con người cần được truyền bá cho mọi người. Đó là lý do tại sao, người ta phải chiếu đi chiếu lại những bộ phim nổi tiếng, phải dịch những cuốn sách hay ra nhiều thứ ngôn ngữ, phải đưa các đoàn văn hoá - nghệ thuật đi lưu diễn ở nhiều nơi v.v. Mỗi cộng đồng, mỗi cá nhân đều có quyền được hướng thụ văn hoá, và Nhà nước, với tư cách là
  2. một chính thể, cần đáp ứng những nhu cầu ấy của cộng đồng và người dân. Chính vì quyền văn hoá này, các hàng hoá văn hoá cần có những lôgíc đi riêng, không tuân theo hoàn toàn với các lôgíc hàng hoá thông thường khác. Lấy ví dụ, Dàn Nhạc Giao Hưởng Việt Nam hay các nhà hát sân khấu truyền thống - kịch hát dân tộc sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc tự vận động trong cơ chế thị trường, nhưng nếu chúng ta xác định rằng, Nhà nước phải đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hoá của người dân – vì đó là quyền của họ - thì chủ trương bảo hộ, trợ giúp các loại hình nghệ thuật này có lý do lôgíc để tồn tại. Tất cả các loại hình văn hoá nghệ thuật có khán giả của nó, dù ít dù nhiều, nhất thiết phải được tạo điều kiện tồn tại để đáp ứng quyền được hưởng thụ văn hoá của người dân này. Tất nhiên, có một nghịch lý ở đây là: có những nghệ thuật có rất ít khán giả thì liệu nó có xứng đáng nhận sự hỗ trợ của Nhà nước để tồn tại hay không? Câu hỏi này thường được đặt ra đối với các loại hình nghệ thuật truyền thống (khi không gian diễn xướng và các chức năng xã hội của nó không còn hoặc không như xưa nữa) hoặc các loại hình nghệ thuật tiên phong, mới. Câu trả lời dường như rất phức tạp, nhưng chúng ta có thể có một gợi ý ở đây là điều này phụ thuộc vào ý chí và đánh giá từ phía các nhà lãnh đạo đối với các loại hình nghệ thuật này, và đánh giá đó không chỉ đơn thuần từ góc độ văn hoá mà nó là sự kết hợp từ những đánh giá từ nhiều lợi ích khác nhau như kinh tế, chính trị, xã hội v.v. Như vậy, nói tóm lại, với quyền được hưởng thụ văn hoá, Nhà nước phải trở thành nhà bảo trợ quan trọng đối với văn hoá - nghệ thuật để đảm bảo quyền văn hoá cho người dân của mình. Nhà nước cần tạo ra những sinh hoạt văn hoá cho người dân; phổ biến những tinh hoa văn hoá của đất nước và thế giới cho người dân. Đây là nhiệm vụ trọng tâm, căn bản của Nhà nước và các cơ quan văn hoá - nghệ thuật, mà ở Việt Nam, đó là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của ngành văn hoá.
  3. Thứ hai, quyền văn hoá là quyền được thể hiện và thực hành văn hoá hay nói cách khác các cá nhân và cộng đồng có quyền được bày tỏ, thể hiện những sáng tạo mang tính riêng, cá nhân của mình. Đây là một quyền đang được rất nhiều quốc gia, tổ chức và các nhà nghiên cứu quan tâm đến, đặc biệt trong bối cảnh thế giới đề cao tính đa dạng của văn hoá lẫn sự lên ngôi của học thuyết hậu hiện đại. Trong một xã hội đa dạng, tiếng nói hay sự thể hiện của mỗi cá nhân và các cộng đồng, dù quan trọng hay ít quan trọng, dù lớn hay nhỏ, cần được lắng nghe và tôn trọng. Đây là một bài học mà thế giới đã phải trả giá rất nhiều cho việc áp đặt những tư tưởng, ý kiến của nhóm đa số, tầng lớp thống trị xã hội cho những nhóm nhỏ hơn. Canada và Australia là hai trong số nhiều nước, trong thực hành chính sách văn hoá, luôn luôn chú trọng đến tính đa dạng trong văn hoá, và cố gắng phát huy cao nhất khả năng sáng tạo của công dân nước mình. Một trong những tiêu chí quan trọng nhất mà các Hội đồng nghệ thuật của hai nước này đánh giá cao khi xét duyệt các dự án là khả năng kích thích tính sáng tạo của cá nhân các nghệ sỹ và cộng đồng. Quyền được thể hiện và thực hành văn hoá giúp kích thích tính sáng tạo của các cá nhân và cộng đồng. Ở trường hợp Việt Nam, các lễ hội truyền thống ở các làng quê thể hiện rất rõ tính sáng tạo của các cá nhân và cộng đồng. Các cá nhân và bản thân cộng đồng tự sáng tạo ra các hoạt động văn hoá cho chính mình (và bản thân họ cũng là người hưởng thụ văn hoá ấy). Trong trường hợp như vậy, họ có quyền được thể hiện văn hoá của mình, và Nhà nước cần tạo điều kiện cho họ thể hiện tính sáng tạo đó. Tóm lại, Nhà nước cần phải tạo điều kiện tối đa cho các cá nhân, cộng đồng, tổ chức được thể hiện văn hoá hay tính sáng tạo của mình. Kích thích tính sáng tạo của mỗi cá nhân, cộng đồng và cả xã hội cũng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành văn hoá.
  4. Thứ ba, quyền văn hoá là quyền được tôn trọng và thừa nhận các phong tục, tập quán, lịch sử, hay những sự khác biệt về văn hoá. Do văn hoá được hình thành qua lịch sử và sự thích nghi của con người nên nhiều người cho rằng không có văn hoá cao và văn hoá thấp. Sự tôn trọng đối với văn hoá của mỗi tộc người, nhóm người nói chung và mỗi cá nhân nói riêng cũng là một phần của quyền văn hoá. Mỗi cá nhân có quyền theo hoặc không theo tôn giáo nào, có quyền theo hoặc không theo một phong tục nào, có quyền được thừa nhận về sở thích văn hoá của mình một cách không bị phân biệt đối xử. Trên thực tế cho thấy, không phải lúc nào và ở đâu, điều kiện trên cũng được tôn trọng và thừa nhận. Nhiều người vì thích nghe loại nhạc này, xem loại chương trình truyền hình này… bị xem là kém văn hoá hay bị phân hạng xã hội theo dạng này hay dạng khác. Cũng như vậy, đâu đó, vẫn tồn tại cách nhìn nhận đối với văn hoá của một số các tộc người thiểu số là dã man, thiếu văn minh… Điều đó nhất thiết cần phải xem xét lại. Khi chúng ta tôn trọng sự khác biệt về văn hoá, chúng ta đã tạo điều kiện cho sự phát triển đa dạng về văn hoá. Để tôn trọng quyền văn hoá này, Nhà nước cần có những chính sách để bảo tồn và phát huy giá trị của các nền văn hoá khác nhau, hay những chính sách chống phân biệt đối xử trong các sinh hoạt văn hoá và xã hội. Đây cũng là những nhiệm vụ trọng tâm của ngành văn hoá. Như vậy, hiểu khái niệm về quyền văn hoá sẽ giúp chúng ta có những chính sách văn hoá thích hợp trong bối cảnh hiện nay. Chúng ta sẽ hiểu thêm về những gì người dân cần ở các nhà làm công tác quản lý văn hoá, và từ đó, có những chính sách phù hợp với những yêu cầu văn hoá đó của người dân.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2