Báo cáo CEDAW lần 5&6 Những vấn đề chung

Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Báo cáo quốc gia lần thứ 5 và 6 về tình hình thực hiện Công ước Liên hiệp quốc Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) Hà nội - 2006

Báo cáo CEDAW lần 5&6 Những vấn đề chung

Lời mở đầu

Trên cơ sở quy định tại Điều 18 của Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (Công ước CEDAW) và các văn bản hướng dẫn của Uỷ ban CEDAW, Việt Nam đã hoàn thành các Báo cáo định kỳ (từ lần đầu đến lần thứ 4) và đã được Uỷ ban thông qua.

Được sự đồng ý của Uỷ ban CEDAW, Việt Nam chuẩn bị bản Báo cáo ghép lần thứ 5 và thứ 6 về tình hình thực hiện Công ước tại Việt Nam giai đoạn 2000-2003. Đặc điểm của giai đoạn này là Việt Nam vẫn đang trong thời kỳ đổi mới nền kinh tế, phải đương đầu với những thách thức to lớn do tác động của thiên tai, lũ lụt, hạn hán ở khắp các vùng trên cả nước, của các vấn đề về xã hội và môi trường cũng như của quá trình hội nhập kinh tế và cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế. Kinh tế khu vực vẫn chưa được phục hồi mạnh sau khủng hoảng tài chính tiền tệ, cộng thêm tác động của sự kiện ngày 11/9/2001 ở Mỹ và đặc biệt là đầu năm 2003, dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp (SARS) và chiến tranh Irắc đã ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của Việt Nam trong ba n ăm qua, làm hạn chế nhịp độ tăng trưởng kinh tế của đất nước.

Tiếp theo Báo cáo ghép lần thứ 3 và 4, Báo cáo này sẽ tiếp tục cập nhật tình hình phát • triển kinh tế - xã hội của đất nước, con người Việt Nam, những đổi mới về hệ thống chính trị, hệ thống pháp luật, chính sách, tình hình thực hiện pháp luật, chính sách, những tồn tại và phương hướng khắc phục theo từng điều khoản cụ thể của Công ước trong 4 năm qua tại Việt Nam. Báo cáo cũng thể hiện những thành tựu mà Nhà n ước và nhân dân Việt Nam đã nỗ lực phấn đấu trong thực hiện Cương lĩnh Bắc Kinh, thực hiện n hững cam kết của Hội nghị Bắc Kinh +5 trên cơ sở tiếp thu nghiêm túc các Khuyến nghị của Uỷ ban CEDAW khi Việt Nam trình bày báo cáo năm 2001.

Báo cáo gồm các phần chính như sau:

- Lời mở đầu.

- Phần I: Những vấn đề chung.

- Phần II: Tình hình thực hiện Công ước.

- Kết luận.

- Các phụ lục.

• Để hoàn thành bản Báo cáo này, Việt Nam đã thành lập Ban soạn thảo gồm 22 thành viên là đại diện của các Bộ, ngành và một số tổ chức có liên quan do Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, kiêm Phó Chủ tịch Uỷ ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam làm Trưởng ban.

• Trong quá trình làm việc, Ban soạn thảo đã thu thập thông tin, phân tích các số liệu thống kê và tổ chức lấy ý kiến các cơ quan của Chính phủ, các tổ chức chính trị -xã hội, đại diện của các tầng lớp phụ nữ, các học giả, những người làm công tác xã hội để bổ sung, hoàn thiện nội dung của Báo cáo. Với những quan điểm đã nêu trong các Báo cáo trước đây, lần này Nhà nước Việt Nam vẫn chủ trương tiếp tục bảo lưu Khoản 1, Điều 29 của Công ước. Việc bỏ điều khoản bảo lưu

Báo cáo CEDAW lần 5&6 Những vấn đề chung

này vào thời điểm thích hợp đang được tiếp tục xem xét. Nhà nước Việt Nam cũng đang tiến hành nghiên cứu việc ký Nghị định thư lựa chọn của Công ước.

Báo cáo CEDAW lần 5&6 Những vấn đề chung

Phần I

Những vấn đề chung

Giới thiệu về đất nước và con người:

Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nước nằm trong khu vực Đông Nam châu á, có

 diện tích trên 331 ngàn km 2.

Việt Nam có 54 dân tộc khác nhau, trong đó dân tộc Kinh (Việt) là chủ yếu (chiếm

86,8% dân số). Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức.

Hà Nội là thủ đô nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

 Dân số Việt Nam tăng từ 76,597 triệu người năm 1999 lên 80,902 triệu người năm 2003, trong đó phụ nữ chiếm 50,8%. Năm 2003, mật độ dân số ở mức 245 người/km2 và dân số thành thị chiếm 25,7%. Năm 2002, tỷ lệ dân số d ưới 15 tuổi giảm còn 30% và trên 65 tuổi t ăng lên 6,3%. Trong giai đoạn 2000-2002, tỷ lệ phát triển dân số giảm chậm (năm 2000 đạt 1,36%, năm 2001 đạt 1,35%, năm 2002 đạt 1,32%). Năm 2003, tỷ lệ phát triển dân số đã tăng lên mức 1,47%. Năm 2003, tỷ lệ tử vong của trẻ em d ưới 1 tuổi là 21%o và dưới 5 tuổi là 42%o, tỷ lệ chết mẹ là 0,85%o.

Năm 2003, tỷ lệ hộ gia đình do nữ làm chủ hộ tăng và chiếm gần 27%.

Năm 2002, lực lượng lao động trong độ tuổi quy định có khả năng tham gia lao động là 44,73 triệu người (chiếm trên 56,1% dân số) và lao động nữ chiếm 50,6%. Số lao động đang hoạt động trong các ngành kinh tế quốc dân tăng từ 36,7 triệu năm 2000 lên trên 38,7 triệu n ăm 2002, 41,2 năm 2003 và 50,9 năm 2004, trong đó nữ chiếm trên 50%.

Năm 2002, tuổi thọ trung bình là 71, trong đó nữ là 73.

Năm 2003, GDP bình quân đầu người là trên 485 USD.

Năm 2003, tỷ lệ lạm phát là 3,0%.

Năm 2003, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị là 5,78%, trong đó nữ chiếm 7,22%

• Bốn năm qua, Việt Nam vẫn tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam đề xướng từ 1986. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001-2010 đã được công bố với mục tiêu tổng quát là “Đưa Việt Nam ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản, vị thế của Việt Nam trên thị trường quốc tế được nâng cao. Đưa GDP tăng ít nhất gấp đôi so với năm 2000, cải thiện đáng kể chỉ số phát triển con người (HDI), xóa đói, giảm nhanh hộ nghèo, tăng tuổi thọ và phổ cập giáo dục trung học cơ sở, giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng xuống khoảng 20%, tăng tuổi thọ trung bình lên 71 tuổi. Chất lượng đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần được nâng lên rõ rệt trong môi trường an toàn, lành mạnh; môi trường tự nhiên được bảo vệ và cải thiện". Chiến lược đã chú trọng việc xây dựng và nâng cao n ăng lực của con

Báo cáo CEDAW lần 5&6 Những vấn đề chung

người cũng như phát huy hiệu quả nguồn nhân lực vào công cuộc phát triển đất nước vì mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Thực hiện Chiến lược cũng chính là tạo điều kiện thuận lợi để Chính phủ Việt Nam thực hiện có hiệu quả những cam kết của mình đối với Công ước CEDAW.

• Mặc dù gặp nhiều khó khăn như đã đề cập ở Lời mở đầu, trong thời gian qua, Việt Nam đã đề ra các biện pháp phù hợp để ổn định chính trị và phát triển kinh tế - xã hội. Chính phủ cũng như các ngành, các cấp có sự đổi mới trong công tác chỉ đạo, điều hành. Luật pháp và chính sách tiếp tục được đồng bộ hoá, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới đất nước.

Trong giai đoạn 2000-2003, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt được mức khá cao so với những năm trước đây (6,8% năm 2000, 6,9% năm 2001, 7,08% năm 2002 và 7,26% năm 2003). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các ngành đều có bước phát triển. Năm 2003, tỷ trọng nông- lâm- thuỷ sản trong GDP là 21,83% (năm 2000 là 24,5%), tỷ trọng công nghiệp và Xây dựng trong GDP là 39,5% (năm 2000 là 36,7%); tỷ trọng các ngành dịch vụ trong GDP là 38,22% (năm 2002 là 38,74%). Giá trị sản xuất công nghiệp n ăm 2003 là 302,990 tỷ đồng, tăng 16% so với n ăm 2002; kim ngạch xuất khẩu n ăm 2003 là 20,176 tỷ đồng; sản lượng lương thực có hạt năm 2003 đạt 37,4 triệu tấn, tăng 01 triệu tấn (3%) so với năm 2002 và đạt mức cao nhất từ trước tới nay.

Cùng với những kết quả về kin h tế, Việt Nam cũng đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ về phát triển xã hội, nổi bật là chỉ số phát triển con người cao hơn chỉ số phát triển kinh tế. Theo Báo cáo về phát triển con người năm 2003 của Chương trình phát triển Liên hợp quốc, trong số 175 nước, Việt Nam có chỉ số phát triển con người (HDI) là 0,688 (xếp thứ 109), trong khi thu nhập bình quân đầu người xếp thứ 128. Chỉ số phát triển giới (GDI) của Việt Nam là 0,687 (xếp thứ 89/144 nước), thuộc nhóm có thành tựu tốt nhất khu vực Đông Nam á-Thái Bình Dương. Việt Nam hầu như không có chênh lệch giữa chỉ số phát triển con người và chỉ số phát triển giới. Bên cạnh đó, Việt Nam liên tục dẫn đầu các nước đang phát triển về thành tích xoá đói, giảm nghèo và đạt được những kết quả đáng khích lệ tr ong các lĩnh vực giải quyết việc làm, giáo dục và đào tạo, dân số và kế hoạch hoá gia đình, chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Bình quân mỗi năm, Chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo và việc làm đã giúp 30 vạn hộ dân thoát khỏi đói nghèo và đưa tỷ lệ hộ nghèo đến năm 2003 xuống còn 11,8% tổng số hộ dân cả n ước. Trong 4 năm qua, số lao động được giải quyết việc làm khoảng 4,3 triệu người, trong đó.một nửa là phụ nữ. Năm 2002, tỷ lệ dân số biết chữ đạt 94%, trong đó phụ nữ đạt 92%. Năm 2003, có 19 tỉnh thành đạt chuẩn quốc gia về phổ cập trung học cơ sở. Từ năm 2001-2003, công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân, nhất là ch ăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em ngày càng được cải thiện. Tổng tỷ xuất sinh tiếp tục giảm từ 2,3 con năm 1999 xuống còn 2,13 con n ăm 2003. Năm 2002, trên 90% số xã, ph ường trong cả nước xây dựng trạm y tế, có quỹ thuốc thiết yếu phục vụ nhu cầu khám, chữa bệnh. Hàng năm, đầu tư của Nhà nước cho các lĩnh vực xã hội ngày càng tăng, chiếm trên 25% tổng chi ngân sách Nhà nước.

Tuy nhiên, tình trạng đói nghèo và chênh lệch về mức sống giữa các cộng đồng dân cư đang là một trong những trở ngại đối với việc thực hiện Công ước CEDAW. Những thách thức chính hiện nay là: Tỷ lệ hộ nghèo còn cao, tập trung ở nông thôn và những vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó kh ăn, đặc biệt vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Phụ nữ nông dân ở vùng sâu, vùng xa, nhất là nữ chủ hộ độc thân, phụ nữ cao tuổi là những nhóm người dễ bị tổn thương nhất. Phụ nữ nghèo phải lao động nhiều thời gian hơn, thu nhập ít h ơn, ít có quyền quyết định trong gia đình và cộng đồng, do đó họ cũng có ít cơ hội tiếp cận các nguồn lực và lợi ích do chính sách công mang lại.

Báo cáo CEDAW lần 5&6 Những vấn đề chung

Tóm lại, trong 4 năm qua, mặc dù phải trải qua nhiều thử thách gay gắt, Chính phủ Việt Nam vẫn tiếp tục thực hiện sự nghiệp đổi mới đất nước và đã đạt được những thành tựu đáng kể về tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, chính trị ổn định, an ninh được giữ vững. Những thành tựu đã đạt được là những điều kiện quan trọng cho phụ nữ tiếp tục tham gia và hưởng lợi một cách bình đẳng trong quá trình phát triển đất nước.

Cơ cấu chính trị chung

Chế độ chính trị ở Việt Nam trong những năm qua tiếp tục ổn định (xem báo cáo trước). Hệ thống các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến các địa phương tiếp tục được hoàn thiện cả về cơ cấu tổ chức và chức năng nhiệm vụ, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.

Ngày 25/12/2001, Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10 đã thông qua Nghị quyết số

51/2001/QH10 về v iệc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992. Hiến pháp đã được sửa đổi, bổ sung về chức năng, nhiệm vụ của bộ máy nhà nước, về nền kinh tế thị trường, về hội nhập kinh tế quốc tế... Việc sửa đổi Hiến pháp lần này đã phát huy được sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, tiếp tục loại bỏ các nhân tố không còn phù hợp, mở đường cho công cuộc cải cách kinh tế, văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ phát triển, trên c ơ sở phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan thực hiện chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền thực sự của dân, do dân và vì dân. Điều 2 của Hiến pháp 1992 đã được sửa đổi, bổ sung quy định Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trong đó, mọi công dân, không phân biệt giới tính, dân tộc, thành phần xã hội đều bình đẳng trước pháp luật; quyền phụ nữ không bị phân biệt đối xử dưới mọi hình thức tiếp tục được đề cao và được pháp luật bảo vệ. Với việc sửa đổi Hiến pháp lần này, vai trò của Quốc hội với tư cách cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân được nâng cao trong các lĩnh vực lập hiến, lập pháp và giám sát tối cao, góp phần đảm bảo tốt hơn các quyền cơ bản của con người, trong đó có các quyền của phụ nữ. Các chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, Thủ t ướng Chính phủ và Viện Kiểm sát nhân dân được điều chỉnh phù hợp hơn nhằm làm cho bộ máy vận hành hiệu quả, khắc phụ tình trạng quan liêu, tham nhũng, giảm bớt các thủ tục hành chính gây phiền hà cho nhân dân. Điều 9 của Hiến pháp 1992 đã được sửa đổi, bổ sung quy định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội (trong đó có Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam), tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên hoạt động có hiệu quả. Phụ nữ có thể thông qua tổ chức của mình yêu cầu bảo vệ các quyền lợi hợp pháp và chính đáng khi bị vi phạm.

Khuôn khổ pháp luật chung trong đó quyền con người được bảo vệ

Khuôn khổ pháp luật, các c ơ quan có chức n ăng bảo vệ quyền con ng ười như đã nêu

trong các Báo cáo trước đây vẫn tiếp tục được duy trì.

Trong nhiệm kỳ khoá X (1997-2002), Quốc hội đã thông qua 35 luật, 01 Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992, 06 Nghị quyết về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua 44 pháp lệnh. Từ đầu nhiệm kỳ khoá XI (2002-2007) đến năm 2003, Quốc hội đã thông qua 20 luật và Uỷ ban Th ường vụ Quốc hội thông qua 16 pháp lệnh, trong đó có các luật, pháp lệnh liên quan đến quyền bình đẳng của phụ

Báo cáo CEDAW lần 5&6 Những vấn đề chung

nữ (xem Phụ lục 2). Luật Tổ chức Chính phủ đã được sửa đổi, làm cơ sở cho việc phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và cơ cấu tổ chức của Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ. Bộ Luật Tố tụng Hình sự đã được Quốc hội thông qua với nhiều chế định nhằm đảm bảo tốt hơn các quyền con người, trong đó có quyền của phụ nữ. Nhìn chung, các văn bản pháp luật này đã tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo đảm tốt hơn các quyền con ng ười nói chung và quyền bình đẳng của phụ nữ nói riêng.

Trong nhiệm kỳ mới của Chính phủ (2002 -2007), đã có một số thay đổi về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm quản lý nhà nước của Bộ, cơ quan ngang Bộ theo h ướng phân định rành mạch chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của từng Bộ, cơ quan ngang Bộ, tránh chồng chéo, trùng lắp, giảm đầu mối, tầng nấc trung gian, làm rõ thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể và cá nhân, nhất là thẩm quyền của Bộ tr ưởng quản lý ngành, lĩnh vực trong phạm vi cả nước, đẩy mạnh phân công, phân cấp; nhiều cơ quan thuộc Chính phủ đã được sáp nhập lại. Hiện nay, Chính phủ có 20 Bộ, 06 cơ quan ngang Bộ và 14 cơ quan thuộc Chính phủ (trước đây có 17 Bộ, 06 cơ quan ngang Bộ và 25 cơ quan thuộc Chính phủ). Chính phủ đã và đang bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trong các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân; thi hành những biện pháp bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tạo điều kiện cho công dân sử dụng quyền và làm tròn nghĩa vụ của mình; thực hiện chính sách xã hội, chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo; tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên của Mặt trận (trong đó có Hội Liên hiệp phụ nữ VN) hoạt động có hiệu quả. Chính vì vậy, đã tạo bước tiến mới về phát triển con người một cách toàn diện, trong đó có phụ nữ. Hệ thống các cơ quan Nhà nước thực hiện chức năng bảo vệ pháp luật tiếp tục được củng cố và hoàn thiện. Cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của các Toà án, Viện Kiểm sát và các cơ quan bảo vệ pháp luật khác được tăng cường và xác định rõ ràng hơn, nhằm nâng cao khả năng tiếp cận công lý cho nhân dân, bảo đảm xét xử theo luật, công khai và phát huy tính hiệu quả trong việc bảo vệ quyền con người. Điều 137 của Hiến pháp đã được sửa đổi, bổ sung quy định Viện Kiểm sát nhân dân tối cao thực hiện quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác bảo vệ pháp luật cũng được tăng cường cả về số lượng và chất lượng. Đến nay, cán bộ, công chức và những người làm việc trong lĩnh vực bảo vệ pháp luật hầu hết đều có trình độ đại học. Số lượng cán bộ, công chức làm việc trong lĩnh vực này có trình độ trên đại học ngày càng gia tăng. Trình độ, năng lực của các Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân của Toà án nhân dân các cấp, Kiểm sát viên của Viện Kiểm sát nhân dân các cấ p được nâng cao, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhiệm vụ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cũng như quyền bình đẳng của phụ nữ. Các Đoàn Luật sư, Phòng Công chứng Nhà nước, các cơ quan Giám định, Thi hành án, Trợ giúp pháp lý cho ng ười nghèo - là những cơ quan thực hiện chức n ăng hỗ trợ tư pháp, bảo vệ quyền lợi của công dân nói chung ở tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, trong 4 năm qua cũng được kiện toàn một bước. Thông tin tuyên truyền về pháp luật

Việc giới thiệu, phổ biến những nội dung cơ bản về quyền con người, quyền của phụ nữ tiếp tục được đẩy mạnh trong 4 năm qua. Chính phủ Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc tuyên truyền, vận động nhằm thay đổi nhận thức của người dân về bình đẳng giới và quyền của phụ nữ. Thủ tướng Chính Phủ đã ban hành Quyết định số 13/2003/QĐ-TTg phê duyệt Ch ương trình phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2003-2007, trong đó quy định : Phụ nữ là một trong

Báo cáo CEDAW lần 5&6 Những vấn đề chung

những đối tượng cụ thể cần được phổ biến, giáo dục pháp luật; một trong những nội dung giáo dục là tập trung vào các quy định liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của phụ nữ thuộc các lĩnh vực hôn nhân và gia đình, bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em; quyền bình đẳng nam, nữ trong hoạt động chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình. Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân Tối cao đã ban hành chỉ thị trong toàn ngành về việc t ăng cường hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ, trong đó việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật có quán triệt đầy đủ, sâu sắc quan điểm bình đẳng giới.

Bên cạnh hình thức tuyên truyền bằng tờ rơi, ấn phẩm được in ấn hàng năm, nhiều cuộc hội thảo, tập huấn về bình đẳng giới và quyền của phụ nữ đã được các cơ quan, tổ chức Việt Nam tiến hành trong thời gian qua. Trong thời gian qua, Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của Phụ nữ Việt Nam đã phát hành bằng tiếng Việt và tiếng Anh 1 vạn bản Chiến l ược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010 và 7000 bản Kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của Phụ nữ Việt Nam đến năm 2005; 5000 tờ rơi có nội dung tìm hiểu về Công ước CEDAW; 1 vạn tờ rơi số liệu thống kê về giới ở Việt Nam. Các tờ rơi và ấn phẩm này đều được phát hành rộng rãi tới các địa phương trong toàn quốc. Đặc biệt, để tuyên truyền kết quả báo cáo ghép 3 và 4 về tình hình thực hiện công ước CEDAW, Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của Phụ nữ Việt Nam đã tổ chức hội nghị công bố, phân phát hàng ngàn báo cáo cho đại biểu đến dự. Những nội dung về Công ước CEDAW và tình hình thực hiện Công ước này tiếp tục được giới thiệu trên các phương tiện thông tin đại chúng. Các khuyến nghị Việt Nam của Uỷ ban CEDAW tại khoá họp lần thứ 25 đã được Việt Nam dịch sang tiếng Việt và gửi tới các cơ quan chức năng xem xét để có các biện pháp khắc phục.

Về hoạt động trợ giúp pháp lý: Trong thời gian qua, Nhà nước Việt Nam đã quan tâm đẩy mạnh hoạt động trợ giúp pháp lý cho người dân, nhất là cho những người nghèo, đối tượng chính sách và phụ nữ. Trong n ăm 2002, Bộ Tư pháp và Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã ký chương trình phối hợp phổ biến giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý cho phụ nữ. Hiện nay, có 02 trung tâm hoạt động hỗ trợ pháp lý cho phụ nữ là Trung tâm hỗ trợ pháp lý cho phụ nữ (thuộc Cục trợ giúp pháp lý, Bộ Tư pháp) và Phòng tư vấn pháp luật về bình đẳng giới (thuộc Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam). Từ năm 2000 đến hết năm 2002, các tổ chức trợ giúp pháp lý đã tiến hành hỗ trợ pháp lý cho 23% đối tượng là đồng bào dân tộc thiểu số và cho 42,9% đối tượng là phụ nữ. Tuy nhiên, phạm vi hoạt động của các cơ sở trợ giúp pháp lý này mới chỉ tập trung nhiều ở khu vực thành thị nên chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân.

Điều 2

Báo cáo CEDAW lần 5&6

Phần II Tình hình thực hiện các điều khoản của công ước

Điều 1

Khái niệm “phân biệt đối xử với phụ nữ”

ở Việt Nam, trong những năm vừa qua, khái niệm "phân biệt đối xử với phụ nữ" như đã nêu trong các Báo cáo trước không có gì thay đổi. Hơn nữa, việc nhận thức về vấn đề này ở cấp hoạch định chính sách, ban hành pháp luật cũng như trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, trong cộng đồng dân cư, gia đình và mỗi cá nhân ngày một sâu sắc, đầy đủ và toàn diện hơn.

Có được nhận thức như vậy là nhờ Nhà nước Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, luôn ý thức rằng, thực thi quyền bình đẳng nam nữ là một công việc vô cùng khó khăn, phức tạp, "vì trọng trai, khinh gái là một thói quen mấy nghìn năm để lại và đã ăn sâu trong đầu óc của mọi người, mọi gia đình, mọi tầng lớp xã hội"1. Việc xóa bỏ thói quen ngàn đời đó thực sự "là một cuộc cách mạng khá to và khó" vì không thể dùng vũ lực mà tranh đấu, vì vũ lực của cuộc cách mạng này chính là sự tiến bộ về chính trị, kinh tế, văn hoá, pháp luật của cả quốc gia và "phải cách mạng từng người, trong gia đình, đến toàn dân". Trên cơ sở Hiến pháp và luật, các quyền của phụ nữ tiếp tục được tôn trọng và bảo vệ như đã nêu trong các Báo cáo trước. Hơn nửa thế kỷ qua, cuộc cách mạn g vì mục tiêu "nam nữ bình quyền", xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ đã được Nhà nước và nhân dân Việt Nam kiên trì thực hiện.

Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định: "Đối với phụ nữ, thực hiện tốt luật pháp và chính sách bình đẳng giới, bồi dưỡng, đào tạo nghề nghiệp, nâng cao học vấn; có cơ chế chính sách để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp, các ngành; chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ bà mẹ và trẻ em; tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt thiên chức người mẹ; xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc". Quan điểm cơ bản này đã và đang được Nhà nước Việt Nam thể chế hoá thành các chủ tr ương, chính sách cụ thể. Một lần nữa, Việt Nam khẳng định sự nhận thức đúng đắn và thái độ kiên quyết trong việc thực hiện các cam kết quốc tế của quốc gia thành viên CEDAW, nhằm bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ.

Điều 2 áp dụng các biện pháp nhằm loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ

2.1. Tiếp tục cụ thể hoá nguyên tắc bình đẳng nam nữ

Các biện pháp nhằm loại bỏ mọi sự phân biệt đối xử với phụ nữ, bao gồm biện pháp lập pháp, hành pháp và tư pháp, đã được nêu trong các Báo cáo trước đây, vẫn tiếp tục được quan tâm và thực hiện tại Việt Nam trong thời gian qua. Nguyên 1 Hồ Chủ Tịch với vấn đề phụ nữ- Nxb Phụ nữ 1960, trang 23.

Điều 6

Báo cáo CEDAW lần 5-6 tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa nam và nữ tiếp tục được tôn trọng và khẳng định trong các văn bản pháp luật mới được ban hành trong 4 năm qua như: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội năm 2001; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động năm 2002; Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2002; Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003; Luật Đất đai (sửa đổi) năm 2003; Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính n ăm 2002; Pháp lệnh phòng, chống tệ nạn mại dâm năm 2003; Pháp lệnh Dân số n ăm 2003; Nghị định 02/2001/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Bộ Luật Lao động và Luật Giáo dục về dạy nghề; Nghị định 01/2003/NĐ-CP của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Điều lệ Bảo hiểm xã hội; Nghị định 19/2003/NĐ-CP của Chính phủ quy định trách nhiệm của cơ quan hành chính Nhà nước các cấp trong việc bảo đảm cho các cấp Hội phụ nữ tham gia quản lý Nhà nước. Nổi bật là việc sửa Luật Đất đai và Điều lệ Bảo hiểm xã hội đã giải quyết về cơ bản quyền tiếp cận của phụ nữ với đất đai (vợ và chồng cùng đứng tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) và quyền bình đẳng trong việc hưởng chế độ bảo hiểm xã hội (lao động nữ đủ 55 tuổi và 25 năm đóng bảo hiểm xã hội được hưởng cùng tỷ lệ lương hưu như lao động nam đủ 60 tuổi và 30 năm đóng bảo hiểm xã hội). Trong hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan xét xử và thi hành pháp luật, những biện pháp ng ăn ngừa, xử lý nghiêm hành vi vi phạm quyền bình đẳng của phụ nữ, phạm tội đối với phụ nữ, tiếp tục được thực hiện.

2.2. Thực thi các biện pháp cụ thể nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ

Về biện pháp hành chính, thực hiện Luật Khiếu nại, tố cáo, người có trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo mà không giải quyết hoặc cố tình giải quyết trái pháp luật thì sẽ bị xử lý nghiêm minh, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường. Thông qua biện pháp này, phụ nữ có cơ hội thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo khi các quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm, đặc biệt khi sự vi phạm đó dựa trên cơ sở phân biệt đối xử về giới tính. Tuy nhiên, trong thời gian qua, số vụ án hành chính do phụ nữ khởi kiện ra Toà hành chính vì lý do phân biệt đối xử trên cơ sở giới tính hầu như không có.

Luật pháp cho phép mọi công dân, trong đó bao gồm cả phụ nữ có quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền, lợi ích của mình về các lĩnh vực dân sự, kinh tế, lao động. Các cơ quan chức n ăng như Toà án và các cơ quan tư pháp cũng phải áp dụng các biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với những hành vi vi phạm. Có thể thấy các cơ quan thực thi pháp luật đã áp dụng những hình phạt nghiêm khắc và đúng tội đối với những kẻ phạm tội phân biệt đối xử, gây tổn hại lớn về sức khoẻ, nhân phẩm và danh dự của phụ nữ (xem thêm phần báo cáo thực hiện Điều 6 về công tác xét xử các vụ án về mạ i dâm, buôn bán phụ nữ). Bộ luật Hình sự sửa đổi (có hiệu lực từ ngày 01/7/2000) có nhiều quy định nhằm đảm bảo sức khoẻ và tính mạng cho bị cáo là phụ nữ. Nguyên tắc tiến hành tố tụng có lợi cho phụ nữ là một nguyên tắc nhân đạo và không bị coi là phân bi ệt đối xử với nam giới đã và đang được tổ chức thực thi nghiêm túc.

Điều 6

Báo cáo CEDAW lần 5-6

Nghị định 32/2002/NĐ-CP quy định việc áp dụng Luật Hôn nhân và Gia đình đối với các dân tộc thiểu số đã giải quyết được tình trạng phân biệt đối xử với phụ nữ ở một số vùng sâu, vùng xa của Việt Nam do bị chi phối bởi các phong tục, tập quán. Nghị định nghiêm cấm chế độ hôn nhân đa thê, việc thách cưới, tục cướp vợ, phong tục nối dây (người vợ goá, chồng góa bị ép buộc kết hôn với người khác trong gia đình chồng cũ, vợ cũ). Nghị định đã quy định các biện pháp thực hiện nhằm xoá bỏ dần những phong tục, tập quán lạc hậu không có lợi cho những người phụ nữ ở các vùng này. 2.3 Các vấn đề tồn tại và hướng khắc phục

Nhà nước và nhân dân Việt Nam lên án sự phân biệt đối xử trên cơ sở giới và đang nỗ lực loại trừ sự phân biệt đối xử với phụ nữ bằng nhiều biện pháp. Tuy nhiên, trong đời sống xã hội, vẫn còn các hành vi đối xử bất công với phụ nữ, đặc biệt là ở các công ty, xí nghiệp t ư nhân, liên doanh nước ngoài v.v.. Các cơ quan chức năng của Nhà nước sẽ thực hiện các biện pháp triệt để hơn nữa nhằm bảo đảm cho phụ nữ quyền bình đẳng, không bị phân biệt đối xử như pháp luật đã quy định. Các tổ chức công đoàn, nữ công và hội phụ nữ cơ sở chủ động, tích cực trong vai trò người giám sát việc thực thi pháp luật và bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của lao động nữ. Công tác tuyên truyền giáo dục sẽ tiếp tục được đẩy mạnh để mọi người dân, đặc biệt là phụ nữ có thể hiểu rõ và tự bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Điều 6

Báo cáo CEDAW lần 5-6

Điều 3 bảo đảm sự phát triển và tiến bộ đầy đủ của phụ nữ

3.1. Các chủ trương và luật pháp, chính sách

Từ năm 2000 đến nay, các quy định pháp luật, cũng như các biện pháp tích cực của Nhà nước Việt Nam nhằm bảo đảm sự phát triển và tiến bộ của phụ nữ trên tất cả các mặt như đã đề cập trong Báo cáo ghép 3 và 4 vẫn tiếp tục được duy trì và thực hiện bằng nhiều hình thức. Nhiều nghị quyết và văn bản quy phạm pháp luật (xem Phụ lục 2) quy định trực tiếp việc bảo đảm các quyền bình đẳng và lợi ích của phụ nữ trong các lĩnh vực dân sự - chính trị và kinh tế - văn hoá - xã hội, đặc biệt là các văn bản sau đây :

- Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành TW Đảng về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh đã đề cập quan điểm về công tác phụ nữ và giới là “Tiếp tục nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội về công tác phụ nữ và vấn đề bình đẳng giới. Khẩn trương thể chế hoá các quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác phụ nữ và công tác cán bộ nữ trong tình hình mới; lồng ghép giới trong quá trình thực hiện các ch ương trình, kế hoạch chung. Coi trọng các chính sách xã hội, các chính sách về giới để giảm nhẹ lao động nặng nhọc cho phụ nữ. Nâng cao trình độ học vấn và kỹ năng nghề nghiệp cho phụ nữ. Chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em. Tạo điều kiện để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan lãnh đạo và quản lý các cấp”.

- Quyết định số 71/2001/QĐ-TTg ngày 04/5/2001 của Thủ t ướng Chính phủ về các Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2001-2005 (Xóa đói giảm nghèo và Việc làm, Nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, Dân số và KHHGĐ, Phòng, chống một số bệnh xã hội và các bệnh dịch nguy hiểm và HIV/AIDS, Văn hóa, Giáo dục và Đào tạo) nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trong đó có phụ nữ.

- Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010 (đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 19/2002/QĐ-TTg ngày 21/1/2002), trong đó quy định mục tiêu tổng quát là "Nâng cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần của phụ nữ. Tạo mọi điều kiện để thực hiện có hiệu quả các quyền cơ bản và phát huy vai trò của phụ nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội". Chiến lược đã đề ra 5 mục tiêu cụ thể nhằm xoá bỏ mọi sự phân biệt đối xử với phụ nữ, thực hiện các quyền bình đẳng của phụ nữ trong các lĩnh vực lao động, việc làm, giáo dục; chăm sóc sức khoẻ, nâng cao chất l ượng và hiệu quả hoạt động của phụ nữ trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội và bộ máy lãnh đạo các cấp, các ngành, tăng cường năng lực hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ. Căn cứ Quyết định này, ngày 18/3/2002, Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của Phụ nữ Việt Nam đã thông qua Kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của Phụ nữ Việt Nam đến năm 2005 - giai đoạn I của Chiến lược 10 năm. Kế hoạch này là bộ

Điều 6

Báo cáo CEDAW lần 5-6 phận cấu thành của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong 5 năm đầu thế kỷ 2.

- Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và giảm nghèo (CPRGS) (đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào tháng 5/2002) đã xác định mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội nhằm nâng cao điều kiện và chất lượng cuộc sống của mọi tầng lớp dân cư, khuyến khích phát triển con người và bình đẳng giới.

- Nghị định số 19/2003/NĐ-CP ngày 07/3/2003 của Chính phủ quy định trách nhiệm của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, c ơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp trong việc phối hợp và tạo điều kiện thuận lợi cho các cấp Hội phụ nữ tham gia vào các hoạt động quản lý Nhà nước theo quy định của pháp luật về các vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích của phụ nữ, trẻ em.

Các chủ trương, chính sách nêu trên đã và đang được phổ biến rộng rãi, quán triệt sâu sắc trong các ngành, các cấp, được từng bước được cụ thể hoá và triển khai thực hiện bằng các chương trình hành động cụ thể. Đã có 40/40 Bộ, ngành ở TW và 64/64 tỉnh, thành phố trực thuộc TW phê duyệt và triển khai thực hiện Kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ đến năm 2005 của ngành hoặc địa phương mình. Nhiều cấp chính quyền cơ sở và các đơn vị trực thuộc các Bộ, ngành, các nhà trường, các doanh nghiệp lớn cũng đã có Kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ của đơn vị mình. Điều này thể hiện nỗ lực rất lớn của Nhà nước và nhân dân Việt Nam phấn đấu ínhự bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ.

3.2 . Phát triển các tổ chức và hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ

Trong 4 năm qua, Nhà nước đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các tổ chức hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam phát huy vai trò trên nhiều lĩnh vực.

Bộ máy quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam được củng cố và phát triển xuống cơ sở, xác định rõ trách nhiệm giới của các ngành, các cấp, các đoàn thể, đặc biệt có sự tham gia tích cực của nhiều nhà lãnh đạo là nam giới. Ngày 11/6/2001, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 92/2001/QĐ -TTg nhằm kiện toàn Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam, quy định rõ 4 nhiệm vụ gồm: Tham mưu cho Thủ t ướng chính phủ trong việc xây dựng luật pháp, chính sách liên quan đến phụ nữ; phối hợp với các cơ quan liên quan theo dõi, đôn đốc và kiểm tra tình hình thực hiện luật pháp, chính sách đối với phụ nữ; phối hợp với các cơ quan liên quan tuyên truyền, phổ biến và vận động thực hiện luật pháp, chính sách liên quan đến phụ nữ và Công ước CEDAW, chủ trì soạn thảo báo cáo quốc gia về thực hiện Công ước CEDAW; đầu mối trong lĩnh vực hợp tác quốc tế về bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ. Trên cơ sở đó, Chủ tịch Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đã thành lập Văn phòng Uỷ ban qu ốc gia với nhiệm vụ tham mưu cho Uỷ ban quốc gia triển khai các mặt hoạt động. Hệ thống các Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ tiếp tục được củng cố ở các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các đoàn thể nhân dân, 64/64 tỉnh, thành phố trực thuộc TW. Hiện nay, hệ thống này đang được phát triển tại các sở, ngành, quận/huyện và xã/phường. Các nguồn lực và

Điều 6

Báo cáo CEDAW lần 5-6 điều kiện hoạt động cho Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam cũng như các Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ ở c ơ sở đã được cải thiện thêm một bước so với Báo cáo trước đây. Mạng lưới quốc gia về giới và phát triển đã được hình thành trên một số lĩnh vực, điển hình như mạng lưới quốc gia về giới và phát triển năng lượng và mạng lưới cán bộ tham mưu lồng ghép giới ra đời năm 2003.

Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tiếp tục được Nhà nước quan tâm và tạo điều kiện về mọi mặt để thực hiện có hiệu quả các phong trào và chương trình hoạt động trọng tâm vì sự phát triển và tiến bộ của phụ nữ. Đại hội phụ nữ các cấp và Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ IX đã kiện toàn bộ máy các cấp Hội phụ nữ và bổ sung chương trình hoạt động trọng tâm nhiệm kỳ 2002 - 2007 là hoạt động hữu nghị và hợp tác với phụ nữ các nước vì Bình đẳng, Phát triển và Hoà bình. Đại hội đã phát động rộng rãi trong các tầng lớp phụ nữ phong trào “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”, đồng thời làm rõ chương trình hoạt động trọng tâm là tham gia xây dựng và giám sát việc thực hiện luật pháp, chính sách về bình đẳng nam nữ. Hoạt động nổi bật của Hội trong nhiều năm qua là các chương trình tín dụng, tiết kiệm dành cho phụ nữ nghèo - mô hình hiệu quả được nhiều tổ chức trong và ngoài nước công nhận. Bên cạnh đó, Hội có nhiều hình thức biểu dương tập thể, cá nhân phụ nữ tiêu biểu, các loại hình giáo dục, nâng cao năng lực mọi mặt cho phụ nữ rất có thiết thực và hiệu quả.

Nhà nước đã quyết định đầu tư ngân sách để xây dựng Trung tâm phụ nữ và phát triển trực thuộc Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.

Hệ thống Ban nữ công thuộc Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam cũng đã và được tiếp tục củng cố và phát triển trong các cơ quan hành chính, sự nghiệp, các doanh nghiệp... để tăng cường năng lực bảo vệ quyền bình đẳng và lợi ích của lao động nữ.

Sự ra đời của Hội đồng doanh nhân nữ (VWEC) thuộc Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam là một sự kiện quan trọng nhằm hỗ trợ và bảo vệ quyền lợi của các doanh nhân nữ trong các quan hệ trong nước và quốc tế cũng như xúc tiến các hoạt động thương mại, đầu tư chuyển giao công nghệ ở Việt Nam và nước ngoài.

Quỹ hỗ trợ phụ nữ tiếp tục được thành lập ở một số Bộ, ngành, đơn vị nhằm tạo điều kiện cho phụ nữ phát huy năng lực và trí tuệ trên nhiều lĩnh vực, điển hình là Quỹ vì sự tiến bộ phụ nữ của Thành phố Hồ Chí Minh, quỹ hỗ trợ tài năng nữ của Trung tâm khoa học xã hội và nhân v ăn quốc gia . Bên cạnh giải th ưởng Kovalepxkaia, năm 2002, Thủ t ướng Chính phủ đã đồng ý Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thành lập Quỹ giải thưởng phụ nữ Việt Nam để khen thưởng các tập thể, cá nhân nữ tiêu biểu có nhiều thành tích xuất sắc trên các lĩnh vực phát triển. Năm tập thể và cá nhân đầu tiên đã được trao Giải thưởng phụ nữ Việt Nam năm 2003.

3.3 . Lồng ghép giới vào công tác hoạch định và thực thi chính sách

Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của Phụ nữ Việt Nam đến năm 2010 đã xác định việc lồng ghép giới trong chính sách công là một trong các giải pháp thực hiện chủ yếu. Từ năm 2000 đến nay, phương pháp tiếp cận lồng ghép giới được nghiên cứu và từng bước áp dụng trong các khâu của quá trình xây dựng chính sách. Lần

Điều 6

Báo cáo CEDAW lần 5-6 đầu tiên, Tài liệu “Hướng dẫn lồng ghép giới trong hoạch định và thực thi chính sách” được Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của Phụ nữ Việt Nam biên soạn và xuất bản. Cùng với giáo trình về lồng ghép giới, 150 giảng viên đã được đào tạo để phổ biến rộng rãi kiến thức và kỹ năng lồng ghép giới. Trong 2 năm 2002-2003, Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của Phụ nữ Việt Nam đã bồi dưỡng về lồng ghép giới cho 2855 cán bộ lãnh đạo các cơ quan trung ương và các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Trách nhiệm giới của các ngành, các cấp nhờ đó đã được nâng cao. Vấn đề giới đã được đề cập ngày càng sâu đậm trong các văn bản chính sách của Chính phủ và các ngành, các cấp. Đặc biệt, năm 2002, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và giảm nghèo. Năm 2003, đi tiên phong trong việc áp dụng lồng ghép giới, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã xây dựng và triển khai “Chiến l ược lồng ghép giới trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn”.

Trong 4 năm qua, quốc tế đã tài trợ cho Việt Nam nhiều chương trình, dự án hỗ trợ cho phụ nữ và về lĩnh vực bình đẳng giới, nổi bật là dự án tín dụng Việt - Bỉ, dự án phát triển doanh nghiệp nữ do Chính phủ Hà Lan tài trợ, dự án giới trong chính sách công do UNDP và Chính phủ Hà Lan tài trợ. Có thể nói rằng, sự ủng hộ của quốc tế về tinh thần, vật chất và kỹ thuật đã có tác động thiết thực, góp phần giúp Việt Nam nâng cao chất lượng cuộc sống cho phụ nữ và thu hẹp khoảng cách về giới. 3.4. Công tác nghiên cứu về phụ nữ và bình đẳng giới

Các Trung tâm nghiên cứu và đào tạo về giới tiếp tục hoạt động, đã và đang tập trung nghiên cứu về vai trò của nam và nữ trong sản xuất; vai trò và địa vị của phụ nữ trong gia đình; sự biến đổi vai trò giới dưới tác động của sự phát triển kinh tế- xã hội; quá trình đô thị hoá và chuyển dịch lao động từ khu vực nông thôn đến đô thị; bạo lực trong gia đình; buôn bán phụ nữ; c ơ sở lý luận và thực tiễn của công tác trợ giúp pháp lý cho phụ nữ... Một số kết quả nghiên cứu nói trên đã được sử dụng trong quá trình xây dựng và ban hành các v ăn bản quy phạm pháp luật liên quan đến phụ nữ và bình đẳng giới.

Một số trung tâm nghiên cứu mới được thành lập hoặc được bổ sung chức năng, nhiệm vụ, không chỉ nghiên cứu những vấn đề về phụ nữ, mà còn chú trọng nghiên cứu về giới, điển hình là Trung tâm nghiên cứu khoa học lao động nữ thuộc Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã được đổi tên thành Trung tâm nghiên cứu lao động nữ và giới. Trung tâm nghiên cứu Giới và phát triển thuộc Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn thuộc Đại học quốc gia Hà Nội đã được thành lập với chức năng nghiên cứu và giảng dạy về những vấn đề lý luận và thực tiễn nhằm từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống lý thuyết khoa học về giới phù hợp với hoàn cảnh của Việt Nam và chiến lược phát triển đất nước. Đầu năm 2003, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã thành lập Hội đồng nghiên cứu khoa học. Hàng năm, Hội đồng này được Nhà nước đầu tư kinh phí để tổ chức các đề tài nghiên cứu về giới, phụ nữ và công tác Hội. 3.5. Khó khăn, hạn chế và hướng khắc phục

Điều 6

Báo cáo CEDAW lần 5-6 Công tác lồng ghép giới mới được triển khai, đa phần áp dụng ở cấp độ dự án, thiếu các chế định cụ thể, kinh nghiệm, nguồn lực. Trong thời gian tới, để thực hiện Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của Phụ nữ Việt Nam đến năm 2010, các cơ quan của Chính phủ sẽ thực hiện lồng ghép nội dung bình đẳng giới vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng n ăm, 5 năm của cả n ước và của từng Bộ ngành, địa phương.

Trong thời gian qua, t ư tưởng trọng nam hơn nữ vẫn còn trong suy nghĩ và hành động của không ít người; một số Bộ, ngành và địa phương chưa thật sự coi trọng và tạo điều kiện cho hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ; bộ máy vì sự tiến bộ của phụ nữ còn hạn chế về hiệu lực và hoạt động chưa hiệu quả; nhiều phụ nữ còn có tâm lý tự ti, an phận.

Để từng bước khắc phục tồn tại nói trên, năm 2004, Thủ t ướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị về tăng cường hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ ở các Bộ, cơ quan ngang Bộ, c ơ quan thuộc Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Tại Chỉ thị này, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu các Bộ, cơ quan ngang Bộ, c ơ quan thuộc Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần phải: Quán triệt và thực hiện đầy đủ quan điểm bình đẳng giới trong công tác; xây dựng và triển khai thực hiện có hiệu quả kế hoạch hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ trong phạm vi cơ quan, địa phương; thường xuyên theo dõi, đôn đốc và kiểm tra tình hình thực hiện chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước đối với phụ nữ tại cơ quan, địa phương; tuyên truyền và phổ biến kịp thời mọi chủ trương của Đảng, luật pháp của Nhà nước đối với phụ nữ và Công ước của Liên hợp quốc về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) tại cơ quan, địa phương; thành lập Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ ở các Bộ, c ơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố t rực thuộc Trung ương giúp Bộ tr ưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ tr ưởng cơ quan thuộc Chính phủ và Chủ tịch ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện những nhiệm vụ quy định nói trên; kinh phí hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ ở các Bộ, cơ quan ngang Bộ, c ơ quan thuộc Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do ngân sách nhà nước cấp, được bố trí trong dự toán ngân sách nhà n ước hàng năm của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, c ơ quan thuộc Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước. Hiện nay, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đang tích cực triển khai thực hiện Chỉ thị này. Hiện nay, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đang xây dựng Đề án thành lập Học viện Phụ nữ (trên cơ sở Trường Cán bộ Phụ nữ) với mục đích nâng cao trình độ mọi mặt cho phụ nữ và đào tạo đội ngũ cán bộ nữ. Dự kiến, đầu năm 2005, Hội Liên hiệp PHụ nữ Việt Nam sẽ hoàn tất Đề án để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét và quyết định.

Điều 6

Báo cáo CEDAW lần 5-6

Nhằm phát triển bền vững đất nước trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường, vào tháng 8 năm 2004, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định về Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam - Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam. Định hướng là một chiến lược khung, bao gồm những định hướng lớn làm cơ sở pháp lý để các Bộ, ngành, địa phương, các tổ chức và cá nhân có liên quan triển khai thực hiện, đồng thời thể hiện sự cam kết của Việt Nam với quốc tế. Mục tiêu tổng quát của phát triển bền vững là đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự giàu có về tinh thần và văn hóa, sự bình đẳng của các công dân và sự đồng thuận của xã hội, sự hài hòa giữa con người và tự nhiên; phát triển phải kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà được ba mặt là phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Định hướng đã đưa ra mục tiêu phát triển bền vững về kinh tế, về x ã hội và về môi tr ường. Trong mục tiêu phát triển bền vững về xã hội, có mục tiêu đạt được kết quả cao trong việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Định hướng này cũng đã xác định phụ nữ là 1 trong 7 nhóm xã hội chính nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững ở Việt Nam.

Hiện nay, Bộ Kế hoạch và Đầu đang tổ chức và h ướng dẫn thực hiện Định hướng chiến lược này. Căn cứ vào Định hướng chiến lược này, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ tr ưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đang khẩn trương xây dựng và thực hiện Định hướng chiến lược phát triển bền vững của Bộ, ngành và địa phương mình.

Điều 6

Báo cáo CEDAW lần 5-6

Điều 4 các biện pháp đặc biệt nhằm thúc đẩy bình đẳng nam nữ

Bổ sung một số biện pháp đặc biệt nhằm thúc đẩy bình đẳng nam nữ Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả các quy định của pháp luật về bình đẳng giữa nam và nữ, Nhà nước Việt Nam tiếp tục thực hiện một số biện pháp đặc biệt tạm thời sau đây. 4.1.

Chính phủ đã ban hành một số v ăn bản quy phạm pháp luật nh ư : Nghị định số 61/2001/NĐ-CP ngày 7/9/2001 về việc quy định tuổi nghỉ hưu của người lao động khai thác than trong hầm lò; Nghị định 98/2002/NĐ-CP ngày 27/12/2002 về tạm giữ, tạm giam; Nghị định số 114/2002/NĐ-CP ngày 31/12/2002 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về tiền lương; Nghị định số 12/2003/NĐ-CP của Chính phủ ngày 12/02/2003 về sinh con theo phương pháp khoa học. Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 07/2003/TT- BLĐTBXH ngày 12/3/2003 hướng dẫn thi hành một số điều bổ sung của Điều lệ Bảo hiểm xã hội.

Các văn bản nói trên đã quy định:

- Lao động nữ đủ 55 tuổi và đủ 25 năm đóng bảo hiểm xã hội, lao động nam đủ 60 tuổi và đủ 30 năm đóng bảo hiểm xã hội được hưởng cùng tỷ lệ lương hưu hàng tháng tối đa do Chính phủ quy định.

- Tuổi nghỉ hưu của cả nam và nữ làm công việc khai thác than trong hầm lò được quy định là 50 tuổi nếu có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội, trong đó có ít nhất 15 năm làm công việc này.

- Mức lương hưu đối với lao động nữ có thời gian đóng bảo hiểm xã hội đủ 15 năm được tính bằng 45% mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội như lao động nam giới và từ năm thứ 16 trở đi, cứ thêm mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội được tính thêm 3%, còn lao động nam mỗi năm chỉ được tính 2% để mức lương hưu hàng tháng tối đa của cả lao động nam và nữ đều bằng 75% mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội.

- Mức trợ cấp một lần khi nghỉ hưu của lao động nữ có thời gian đóng bảo hiểm xã hội trên 25 năm, thì từ n ăm thứ 26 trở đi được tính như năm thứ 31 của lao động nam, cứ mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội được nhận một nửa (1/2) tháng mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội, tối đa không quá 5 tháng.

- Lao động nữ có thai, sinh con (không phân biệt số lần sinh) khi nghỉ sinh con được hưởng trợ cấp thai sản.

- Phụ nữ độc thân có quyền sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa.

Điều 6

Báo cáo CEDAW lần 5-6

- Phụ nữ cô đơn không nơi nương tựa, không có nguồn thu nhập, từ đủ 55 tuổi trở lên, nếu đang được hưởng trợ cấp cứu trợ xã hội thì sẽ tiếp tục được hưởng khoản trợ cấp này.

- Trước khi ra quyết định và tổ chức thi hành án tử hình đối với người bị kết án là phụ nữ, phải tổ chức kiểm tra các điều kiện không áp dụng hình phạt tử hình được quy định tại Bộ luật Hình sự để xem xét chuyển từ hình phạt tử hình thành hình phạt tù chung thân cho người bị kết án.

- Phụ nữ trong thời gian bị tạm giam vi phạm nội quy mà bị phạt giam riêng ở buồng kỷ luật thì không bị cùm chân như các đối tượng khác

Để hỗ trợ và tạo điều kiện cho phụ nữ được học tập nâng cao trình độ, nhiều cơ quan trung ương và địa phương đã thực hiện chế độ trợ cấp bổ sung cho phụ nữ cao hơn nam giới trong thời gian tham gia đào tạo. Trên thực tế, chính sách này đã phát huy tác dụng thiết thực, góp phần động viên, khuyến khích phụ nữ vượt khó khăn để nâng cao trình độ về mọi mặt.

Biện pháp xác định tỷ lệ nữ tham gia lãnh đạo các cấp, tỷ lệ tuyển học viên nữ trong các chương trình đào tạo – như đã nêu trong Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của Phụ nữ Việt Nam đến năm 2010 và Kế hoạch hành động quốc gia vì sự tiến bộ của Phụ nữ Việt Nam đến năm 2005 đã và đang được triển khai rộng rãi.

Đặc biệt, được sự quan tâm của chính quyền và đoàn thể các cấp, nhiều biện pháp động viên, khuyến khích khen thưởng phụ nữ bằng nhiều hình thức khác nhau đã được áp dụng.

4.2. Một số biện pháp đặc biệt nhằm bảo vệ người mẹ.

Nhà nước đã ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật như sau : Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng Hình sự (năm 2000); Nghị định số 81/2000/NĐ-CP ngày 29/12/2000 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Nghĩa vụ lao động công ích; Nghị định số 02/2001/NĐ-CP ngày 09/01/2001 quy định chi tiết thi hành Bộ Luật Lao động và Luật Giáo dục về dạy nghề; Nghị định số 19/2001/NĐ-CP ngày 11/5/2001 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an toàn và kiểm soát bức xạ; Thông t ư liên tịch của Ban tổ chức - Cán bộ Chính phủ - Bộ Tài chính số 73/2000/TTLT-BTCCBCP-BTC ngày 28/12/2000 hướng dẫn thực hiện chính sách tinh giản biên chế trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp.

Các văn bản nói trên đã quy định:

- Bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang trong thời kỳ nuôi con d ưới 36 tháng tuổi có nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ trường hợp đặc biệt.

- Phụ nữ có thai, phụ nữ trong thời gian nghỉ do sẩy thai, do thai chết lưu, do con chết sau khi sinh, hoặc đang nuôi con nhỏ d ưới 36 tháng tuổi được tạm miễn thực hiện nghĩa vụ lao động công ích hàng năm. Phụ nữ đang mang thai hoặc đang nuôi con nhỏ d ưới 12 tháng tuổi là đối tượng chưa giải quyết tinh giản biên chế. Không được xử lý kỷ luật lao động đối với lao động nữ có thai, nghỉ thai sản, nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi.

Điều 6

Báo cáo CEDAW lần 5-6

- Người học nghề là nữ, trong quá trình thực hiện hợp đồng học nghề mà có thai, nếu có giấy chứng nhận của y tế cấp huyện trở lên về việc thực hiện hợp đồng học nghề sẽ ảnh hưởng xấu đến thai nhi, có quyền chấm dứt hợp đồng học nghề không phải bồi thường phí dạy nghề, sau thời gian nghỉ thai sản, nếu có nguyện vọng và đủ điều kiện, thì được tiếp tục theo học. Các doanh nghiệp, các tổ chức đã bố trí phụ nữ có thai hoặc đang trong thời gian cho con bú làm các công việc có ảnh hưởng của bức xạ phải bố trí công việc khác phù hợp cho họ.

- Lao động nữ có thai phải nghỉ việc theo chỉ định của thầy thuốc được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng trước thời hạn.Trong thời gian có thai, nghỉ thai sản, nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi, lao động nữ được tạm hoãn việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, kéo dài thời hiệu xem xét xử lý kỷ luật lao động, trừ trường hợp doanh nghiệp chấm dứt hoạt động. Trong thời gian nghỉ thai sản theo quy định, lao động nữ đã đóng bảo hiểm xã hội được trợ cấp bảo hiểm xã hội bằng 100% tiền lương, được trợ cấp thêm một tháng lương và các chế độ khác theo quy định của Bộ luật Lao động.

Ngoài ra các văn bản nói trên, còn nhiều văn bản của các ngành quy định về chế độ bảo vệ người mẹ như : Chương trình Làm mẹ an toàn, chế độ tiêm phòng uốn ván và uống viên sắt đối với phụ nữ có thai, quy định các biện pháp bảo vệ sản phụ đến kỳ sinh nở trong hoàn cảnh thiên tai, lũ lụt...

4.3. Tình hình thực hiện và phương hướng trong thời gian tới Hiện nay, các cơ quan có liên quan đã và đang tổ chức thực hiện nghiêm các quy định như đã nêu ở các phần trên. Vì vậy, một số tồn tại nh ư đã nêu trong Báo cáo trước đã và đang được khắc phục.

Năm 2002, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã tiến hành điều tra tình hình thực hiện chế độ, chính sách đối với lao động nữ ở nông thôn. Kết quả điều tra cho thấy: mặc dù có quy định miễn lao động công ích cho phụ nữ đang nuôi con nhỏ, nhưng trên thực tế nhiều người lại chưa sử dụng đầy đủ quyền này. Lý do : lao động công ích phân theo hộ gia đình, vì trách nhiệm với gia đình nên người phụ nữ đang nuôi con nhỏ vẫn phải tham gia lao động công ích; mặt khác, ở một số địa phương, sau thời gian thu hoạch, nam giới th ường rời địa phương đi làm thuê, nên chỉ còn phụ nữ tham gia lao động công ích.

Một số chính sách như lao động nữ nghỉ hưu ở tuổi 55, quy định danh mục các ngành nghề cấm và hạn chế đối với lao động nữ đã gây thiệt thòi cho một bộ phận lao động nữ.

Để khắc phục các tồn tại nên trên, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và các cơ quan chức n ăng đang nghiên cứu để đề xuất với Nhà nước về các biện pháp khắc phục trong thời gian tới. Riêng về tuổi nghỉ hưu của lao động nữ, Chính phủ đã giao Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội nghiên cứu và đề xuất cụ thể để Chính phủ trình Quốc hội. Hiện nay, Quốc hội đã giao Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng và trình Quốc hội dự án Luật Bình đẳng giới.

Điều 6

Báo cáo CEDAW lần 5-6

Điều 5 vai trò và sự thiên kiến giới

Các hoạt động nhằm loại bỏ sự phân biệt, định kiến giới, đã được đề cập trong các Báo cáo trước, tiếp tục được thực hiện và phát huy.

Nhà nước chủ trương kiên quyết loại bỏ sự phân biệt đối xử giữa nam và nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong những năm gần đây, vị trí và vai trò của gia đình trong nuôi dạy và phát triển các thế hệ ng ười Việt Nam tương lai được đặc biệt chú trọng. Chủ trương đó đã được thể hiện trong một số văn bản quan trọng như sau:

5.1. Các chủ trương, chính sách

Hiến pháp 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều (năm 2001) quy định gia đình là tế bào của xã hội và không thừa nhận việc phân biệt đối xử giữa các con (Điều 64). Luật Hôn nhân và Gia đình (năm 2000). Pháp Lệnh Dân số (n ăm 2003). Tháng 8/2002, Quốc hội đã quyết định thành lập Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em trên cơ sở hợp nhất Uỷ ban Bảo vệ và Chăm sóc Trẻ em Việt Nam và Uỷ ban quốc gia Dân số & KHHG Đ. ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em là một c ơ quan ngang Bộ, có chức năng quản lý nhà nước về công tác dân số, gia đình và trẻ em.

Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình đã quy định rõ trách nhiệm của Nhà n ước và các cơ quan, các tổ chức xã hội trong việc hỗ trợ các gia đình phát triển kinh tế, xây dựng gia đình hạnh phúc, nuôi con tốt; giải quyết các bất hoà trong gia đình và cộng đồng, ngăn chặn hành vi bạo lực, thiếu văn hoá, nhất là với người già, phụ nữ và trẻ em; trang bị các kỹ n ăng ứng xử tiến bộ, lành mạnh cho các thành viên trong gia đình; phát hiện và động viên các gia đình kiểu mẫu và phê phán các gia đình thiếu trách nhiệm đối với các thành viên trong gia đình và xã hội. Nghị định số 32/2002/NĐ-CP ngày 27/3/2002 quy định việc áp dụng Luật Hôn nhân và Gia đình đối với các dân tộc thiểu số, trong đó đề cập khá chi tiết các biện pháp loại bỏ những phong tục, tập quán xấu trong hôn nhân, gia đình. Nghị định 104//2003/NĐ-CP ngày 16/9/2003 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Dân số quy định nghiêm cấm các hành vi lựa chọn giới tính thai nhi (Điều 10).

Tháng 5/2001, Thủ t ướng Chính phủ đã ký quyết định lấy ngày 28/6 hàng năm làm “Ngày Gia đình Việt N am”. Tháng 01/2002, Thủ t ướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010 với quy định về những giải pháp chủ yếu, trong đó có giải pháp tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục và vận động xã hội nhằm nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức, gia đình và mọi công dân về công tác bình đẳng giới.

5.2. Công tác tuyên truyền, giáo dục nhận thức về giới

Điều 6

Báo cáo CEDAW lần 5-6

Trong 4 năm qua, các cơ quan chức n ăng vẫn tiếp tục đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền vận động nhằm xoá bỏ thiên kiến giới trong xã hội, nâng cao nhận thức giới của cán bộ và nhân dân. Bộ máy vì sự tiến bộ của phụ nữ đã triển khai ở các ngành, các cấp ch ương trình bồi d ưỡng về kiến thức giới và lồng ghép giới trong hoạt động chính sách. Các đoàn thể quần chúng, đặc biệt là Hội phụ nữ, Mặt trận Tổ quốc, Liên đoàn lao động đã phát huy thế mạnh của mình trong công tác giáo dục, tuyên truyền vận động về bình đẳng nam nữ, xây dựng đời sống văn hoá và gia đình theo chuẩn mực “No ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thực hiện các biện pháp cụ thể để từng bước xoá bỏ các thiên kiến giới trong sách giáo khoa các cấp (xem thêm tình hình thực hiện Điều 10). Các cơ quan thông tin đại chúng, trong đó có Đài truyền hình Việth Na m và Đài tiếng nói Việt Nam, đã phát sóng nhiều chương trình về bình đẳng nam nữ, nêu các tấm gương phụ nữ tiêu biểu trên các lĩnh vực, góp phần chuyển biến nhận thức xã hội về vị trí, vai trò của phụ nữ. Kiến thức giới cũng đã được lồng vào một số chương trình huấn luyện chuyên môn của các ngành y tế, nông nghiệp, dân số... Các hội thi tìm hiểu về bình đẳng giới, về gia đình đã được nhiều địa phương tổ chức với các hình thức hấp dẫn nhằm nâng cao nhận thức và trách nhiệm của nam giới trong chăm lo cho phụ nữ và chia sẻ công việc nội trợ, ch ăm sóc con cái trong gia đình. Rất nhiều ấn phẩm, sách báo, tranh ảnh được xuất bản trong thời gian qua đã giúp nhân dân có thêm những nhận thức mới về bình đẳng giới (xem thêm tình hình thực hiện Điều 16).

5.3. Khó khăn và phương hướng khác phục

Việc loại bỏ thiên kiến giới, thay đổi cách nhìn nhận về vai trò truyền thống của phụ nữ và nam giới chưa được thực hiện triệt để và đồng đều ở các lĩnh vực, các vùng, miền. Nguyên nhân sâu xa là do chưa có các biện pháp giải quyết t ận gốc tư tưởng trọng nam, coi thường nữ đã hàng ngàn năm ăn sâu vào nếp nghĩ, hành vi của người dân. Pháp luật Việt Nam luôn quy định rõ ràng rằng trong gia đình, vợ chồng đều bình đẳng với nhau về mọi mặt, cùng nhau bàn bạc, quyết định mọi vấn đề chung, cùng chia sẻ mọi công việc cũng nh ư chăm lo cho con cái, cha mẹ... nh ưng trên thực tế, nam giới vẫn được coi là trụ cột gia đình, có quyền quyết định các vấn đề lớn và là người đại diện ngoài cộng đồng. Còn các công việc nội trợ, chăm sóc các thành viên trong gia đình thường được coi là “thiên chức” của phụ nữ. Tính chất bảo thủ của sự phân công lao động truyền thống theo giới ở các mức độ khác nhau vẫn còn được bảo lưu trong một bộ phận gia đình Việt Nam đã làm hạn chế các cơ hội học hành của trẻ em gái, cản trở phụ nữ tham gia vào các hoạt động xã hội và có địa vị, thu nhập bình đẳng như nam giới. Tình hình ngược đãi phụ nữ còn tồn tại ở một số nơi cũng có nguyên nhân chính là tư tưởng trọng nam, coi thường nữ. Bên cạnh đó, ở một số vùng, trong cộng đồng một số dân tộc thiểu số còn tồn tại khá nhiều phong tục tập quán lạc hậu, trong đó có tục kết hôn sớm, chưa dễ dàng thay đổi- đã và đang làm cản trở sự tiến bộ của phụ nữ.

Để khắc phục các tồn tại trên, trong thời gian tới, các ngành, các cấp sẽ tăng cường thực hiện pháp luật, chính sách của Nhà nước về bình đẳng nam nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình. Các cấp Mặt trận, Hội phụ nữ và các tổ

Điều 6

Báo cáo CEDAW lần 5-6 chức chính trị – xã hội khác tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nếp sống mới ở khu dân cư” và phong trào xây dựng gia đình văn hoá theo chuẩn mực “No ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”; tăng cường công tác tuyên truyền vận động các tầng lớp nhân dân xoá bỏ định kiến giới và các tập tục có hại cho phụ nữ và trẻ em gái. Bộ Nội vụ sẽ tiến hành nghiên cứu để đưa nội dung giảng dạy về giới vào các chương trình đào tạo cán bộ. Các cơ quan truyền thông đại chúng, nhất là c ơ quan phát thanh và truyền hình, sẽ t ăng cường truyền thông về bình đẳng giới, góp phần làm thay đổi quan niệm truyền thống trong xã hội về vai trò giới cũng như nâng cao ý thức trách nhiệm của nam giới trong công việc nội trợ gia đình và chăm sóc con cái.

Điều 6

Báo cáo CEDAW lần 5-6

Điều 6 phòng, Chống mua bán phụ nữ, bóc lột phụ nữ làm mại dâm

Formatted: Bullets and Numbering

Tình trạng mua bán phụ nữ, bóc lột phụ nữ làm mại dâm vẫn đang là một vấn đề bức xúc và thu hút sự quan tâm của toàn xã hội. Nhà nước Việt Nam tiếp tục khẳng định quan điểm kiên quyết loại bỏ tình trạng này ra khỏi cộng đồng, đồng thời yêu cầu các ngành, các cấp phải đặt công tác phòng chống mua bán phụ nữ, phòng chống bóc lột phụ nữ làm mại dâm là nhiệm vụ chính trị quan trọng thường xuyên, nhằm bảo vệ sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm của phụ nữ, tiến tới xây dựng xã hội tiến bộ, công bằng và văn minh. 6.1. Công tác xây dựng pháp luật Những văn bản mới được ban hành:

- Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính số 44/2002/PL -UBTVQH10, ngày 2/7/2002 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, có hiệu lực ngày 01/10/2002 quy định đối tượng mại dâm từ 15 tuổi đến 55 tuổi sẽ được đưa vào cơ sở chữa bệnh từ 3 tháng đến 18 tháng.

- Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm số 10/2003/PL -UBTVQH11, ngày 17/03/2003 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, có hiệu lực thi hành 01/07/2003. Đây là văn bản chuyên biệt đầu tiên được ban hành về phòng chống mại dâm, trong đó nêu rõ quan điểm nghiêm cấm tệ nạn này trong đời sống xã hội. Pháp lệnh quy định những biện pháp kinh tế- xã hội trong phòng chống mại dâm, xử lý nghiêm người mua dâm, người môi giới và tổ chức mại dâm. Người bán dâm được coi là nạn nhân và Nhà nước có các chương trình chữa bệ nh, dạy nghề, tạo việc làm và tái hoà nhập cộng đồng để giúp đỡ người bán dâm hoàn lương.

- Nghị định 68/2002/NĐ-CP của Chính phủ ngày 10/7/2002 về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố n ước ngoài quy định: Nghiêm cấm lợi dụng việc kết hôn, nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi nhằm mục đích mua bán, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục đối với phụ nữ và trẻ em vì mục đích trục lợi khác.

- Quyết định số 151/2000/QĐ-TTg ngày 28/12/2000 của Thủ t ướng Chính phủ phê duyệt Ch ương trình hành động phòng, chống tệ nạn mại dâm giai đoạn 2001- 2005. Mục tiêu là phòng ngừa, ngăn chặn và từng bước đẩy lùi tệ nạn mại dâm; đối với những địa bàn chưa có tệ nạn mại dâm thì không để phát sinh; đối với những địa bàn có tệ nạn mại dâm nh ưng chưa nghiêm trọng thì tích cực đấu tranh xoá bỏ; đối với những địa bàn có tệ nạn mại dâm nghiêm trọng thì kiên quyết đấu tranh để giảm cơ bản tệ nạn này.

- Chỉ thị số 25/2003/CT-TTg của Thủ t ướng Chính phủ ngày 21/11/2003 về việc tổ chức triển khai thi hành Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm, trong đó giao trách nhiệm cụ thể cho các ngành các cấp và phát động “Tháng hành động triển khai Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm” vào tháng 12 năm 2003.

6.2. Tình hình thực hiện

Điều 6

Báo cáo CEDAW lần 5-6

Chính phủ đã và đang tập trung chỉ đạo công tác phòng, chống tội phạm, trong đó có phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ và trẻ em. Bộ Công an chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan đã triển khai Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm, trong đó có đề án phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ và trẻ em. Tháng 9/2003, Chính phủ đã tổ chức Hội nghị toàn quốc về phòng, chống buôn bán phụ nữ và trẻ em để bàn và thống nhất triển khai các biện pháp tích cực và hiệu quả nhằm ngăn chặn tội phạm này đồng thời hỗ trợ cho các nạn nhân. Từ sau Hội nghị này đến nay, việc đấu tranh chống tội phạm buôn bán phụ nữ và trẻ em đã đạt được một số kết quả tích cực. Với sự cố gắng của các Bộ, ngành, địa phương, trong đó lực lượng Công an là chủ lực, hiện nay đã hạn chế được sự gia tăng của tội phạm này.

Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội đã và đang chỉ đạo triển khai Chương trình hành động phòng, chống tệ nạn mại dâm giai đoạn 2001-2005; phối hợp với các Bộ Công an, Văn hóa - Thông tin, Nội vụ, Y tế ban hành nhiều v ăn bản hướng dẫn có liên quan; phối hợp với các tổ chức đoàn thể (nh ư Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội LIên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam) phát động phong trào quần chúng tham gia phòng, chống tệ nạn xã hội, trong đó có tệ mại dâm, phòng, chống mua bán phụ nữ và trẻ em. Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội đã tiến hành đánh giá 3 năm thực hiện Chương trình hành động này, với kết quả như sau:

- Tuyên truyền, giáo dục được xác định là một trong những nhiệm vụ quan trọng, tạo ra chuyển biến nhận thức, nâng cao ý thức trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân trong công tác phòng ngừa và tham gia chống tệ nạn này. Thời gian qua, các phương tiện thông tin đại chúng, các đoàn thể xã hội ở Trung ương và địa phương đã huy động lực lượng, giành nhiều thời gian, công sức, bằng nhiều hình thức (như báo viết, báo hình, báo nói, hội thảo tập huấn) để truyền tải chủ trương của Nhà nước về phòng chống mại dâm, gây công luận mạnh mẽ đối với các vi phạm nhằm xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, đồng thời biểu dương cổ vũ những điển hình tiên tiến, những bài học kinh nghiệm hay. Với vai trò của mình, Hội phụ nữ các cấp tích cực tuyên truyền làm rõ việc bán dâm, mua dâm hay môi giới mại dâm thì phụ nữ vẫn là nạn nhân và là đối tượng chịu nhiều thiệt thòi nhất - điều này cản trở việc thực hiện mục tiêu bình đẳng giới cũng như các mục tiêu về phát triển kinh tế- xã hội. Hội phụ nữ cơ sở đã tập trung tuyên truyền cho phụ nữ nhận biết rõ các âm mưu, thủ đoạn buôn bán phụ nữ làm mại dâm, phối hợp cùng các thành viên trong xã hội chủ động phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời. Tại các địa phương trên cả nước, phong trào thi đua xây dựng xã, ph ường, cụm dân cư không có các tệ nạn mại dâm, ma tuý đã và đang được triển khai sâu rộng, góp phần đáng kể ngăn chặn tệ nạn mại dâm.

- Công tác thụ lý và xét xử tội mại dâm: Theo báo cáo của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Toà án nhân dân tối cao, trong giai đoạn 2000 - 2002, đã thụ lý và xét xử các vụ án liên quan đến mại dâm như sau:

Điều 6

Báo cáo CEDAW lần 5-6 + Tội chứa mại dâm: đã xét xử 2.470/2.932 vụ với 3.224 bị cáo, trong đó áp dụng hình phạt tù trên 10 năm đối với 146 bị cáo, từ 7 năm đến 10 năm đối với 313 bị cáo, dưới 7 năm đối với 2468 bị cáo và tù cho hưởng án treo đối với 292 bị cáo.

+ Tội môi giới mại dâm: đã xét xử 358/437 vụ với 483 bị cáo.

Khung hình phạt đối với các tội danh liên quan đến mại dâm đã được tăng lên. Cho đến nay, Việt Nam đã và đang tiếp tục củng cố các công cụ pháp lý để đánh giá và phát hiện thực trạng này. Theo luật pháp Việt Nam, mọi hành vi liên quan đến hoạt động mại dâm đều bị nghiêm cấm, người vi phạm bị xử lý theo quy định tuỳ theo đối tượng, tính chất và mức độ vi phạm. Còn trong trường hợp đối tượng bị cưỡng bức làm mại dâm thì họ vẫn được pháp luật bảo vệ, đồng thời xử lý người cưỡng bức họ phải bán dâm theo hình thức truy cứu trách nhiệm hình sự.

- Công tác giáo dục, chữa trị, giúp đỡ tái hoà nhập cộng đồng: Kể từ năm 2001 đến hết tháng 12 năm 2003, ngành Lao động- Thương binh và xã hội đã giáo dục, chữa trị cho 14.839 lượt gái mại dâm và dạy nghề, tạo việc làm cho 8.000 lượt đối tượng. Ngoài việc học tập văn hoá, các đối tượng bán dâm còn được tổ chức khám, chữa các bệnh lây truyền qua đường tình dục và các bệnh thông thường, được tư vấn phòng ngừa lây nhiễm HIV/AIDS. Việc dạy nghề cho gái mại dâm đã được các Trung tâm giáo dục lao động - xã hội chú ý tới các yếu tố về trình độ, đặc điểm và nguyện vọng, giúp họ nhanh chóng hoà nhập cộng đồng và có khả năng tìm được việc làm, ổn định cuộc sống. Đặc biệt, khi hết thời hạn cải tạo, trở về địa phương, các đối tượng này còn được Nhà nước hỗ trợ một khoản tiền là 400.000đ/người. Số tiền này tuy nhỏ nhưng đã thể hiện sự quan tâm của chính quyền, khuyến khích họ xây dựng cuộc sống ổn định, lành mạnh. Hội phụ nữ có trách nhiệm đón nhận những đối tượng này quay trở về địa phương, tạo điều kiện thuận lợi để họ được vay vốn làm kinh tế, hướng dẫn họ tham gia sinh hoạt Hội. Tại cộng đồng, các đối tượng được đối xử bình đẳng về mọi mặt như những công dân khác. Các cấp chính quyền, đoàn thể xã hội ở nhiều địa phương đã vận động các cơ quan, doanh nghiệp nhận đối tượng vào làm việc, đào tạo nghề, hỗ trợ vốn, tạo việc làm để họ kiếm sống một cách chân chính. Các câu lạc bộ phòng, chống tệ nạn xã hội của Hội phụ nữ cũng là nơi thu hút những đối tượng này tham gia, góp phần nâng cao kiến thức về phòng, chống các tệ nạn, kiến thức xã hội, chăm sóc sức khoẻ, phát triển kinh tế gia đình, tiến đến xoá đói giảm nghèo.

- Hoạt động hợp tác quốc tế: Các hoạt động hợp tác quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh nhằm ngăn chặn sự gia tăng của tệ mại dâm, buôn bán phụ nữ. Trong 4 năm qua, Việt Nam đã tham gia một số dự án quốc tế, trong đó có 2 dự án khu vực (dự án Phòng, chống buôn bán phụ nữ và trẻ em trong tiểu vùng sông Mêkông và dự án ILO/IPEC về ưu tiên nâng cao năng lực bộ máy quản lý, nâng cao nhận thức, tạo việc làm cho phụ nữ, trẻ em tạo cộng đồng). Các dự án trên đã có tác dụng hỗ trợ cho việc phối hợp hiệu quả trong phòng, chống buôn bán phụ nữ và trẻ em giữa các quốc gia có liên quan.

6.3. Các vấn đề tồn tại và phương hướng khắc phục

Điều 6

Báo cáo CEDAW lần 5-6

Có thể thấy, công tác phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ và trẻ em và phòng, chống tệ nạn mại dâm vẫn đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn.

Số vụ buôn bán phụ nữ và trẻ em được phát hiện, điều tra còn thấp so với thực tế; nhận thức. Tình hình tội phạm buôn bán phụ nữ và trẻ em ra nước ngoài vẫn diễn ra phức tạp và nghiêm trọng, các nạn nhân chưa được giáo dục, tuyên truyền để nâng cao ý thức tự bảo vệ mình tr ước thủ đoạn tinh vi của bọn tội phạm. Việc tiếp nhận những người bị buôn bán trở về với cộng đồng chưa đồng bộ.

Công tác phòng, chống tệ nạn mại dâm vẫn đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn do : Đối tượng tổ chức cũng như hành nghề mại dâm ngày càng có nhiều thủ đoạn tinh vi và phức tạp hơn; sự chênh lệch mức sống giữa các vùng miền; tình trạng thiếu việc làm; do lối sống buông thả của một bộ phận nhỏ người dân trong xã hội.

Tháng 7/2004, Thủ t ướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 130/2004/QĐ- TTg phê duyệt Chương trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em từ năm 2004 đến năm 2010 với mục tiêu : Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động trong các cấp, các ngành, đoàn thể và toàn xã hội về công tác phòng, chống buôn bán phụ nữ, trẻ em nhằm phòng ngừa, ngăn chặn và giảm cơ bản vào năm 2010 tình trạng phụ nữ và trẻ em bị buôn bán. Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Công an chủ trì, phối hợp với các Bộ, Ban, ngành, đoàn thể ở Trung ương và ủy ban nhân dân các tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện Chương trình này. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định thành lập Ban Chỉ đạo Chương trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em do 01 Phó Thủ tướng Chính phủ làm Tr ưởng ban. Tại các địa phương, sẽ thành lập tiểu ban thực hiện Chương trình ở cấp tỉnh, thành phố. Tháng 12/2004, Chính phủ đã tổ chức Hội nghị toàn quốc triển khai thực hiện Chương trình hành động này. Hiện nay, các Bộ, ngành, địa phương đang tích cực triển khai thực hiện các nhiệm vụ đã được Thủ tướng Chính phủ giao nhằm phòng, chống có hiệu quả tội phạm này.

Để công tác phòng, chống tệ nạn mại dâm có hiệu quả, trong thời gian tới, các cơ quan hữu quan sẽ tiếp tục tổ chức thực hiện có hiệu quả Pháp lệnh phòng, chống tệ nạn mại dâm; tăng cường trách nhiệm của các cơ quan liên quan và chỉ đạo đồng bộ các biện pháp phòng ngừa ở các cấp; tăng cường kiểm tra, giám sát cơ sở, xử lý kịp thời, nghiêm minh người vi phạm; đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục, tư vấn tại cộng đồng, xây dựng xã phường không có tệ nạn xã hội; thúc đẩy chính sách tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo cho nhóm đối tượng dễ bị tổn thương. Tiếp tục đẩy mạnh việc tổ chức tổng kết đánh giá, rút kinh nghiệm, nhân rộng các mô hình có hiệu quả về phòng chống tệ nạn mại dâm theo tinh thần Chỉ thị 25/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phổ biến rộng rãi Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm tới mọi tầng lớp dân cư, huy động sự tham gia tích cực của các tổ chức quần chúng và vận động toàn dân lên án, phát hiện, tố giác những tội phạm liên quan tới mại dâm.

Kết luận

Báo cáo CEDAW lần 5-6

Điều 7 Thực hiện quyền bình đẳng trong đời sống chính trị và cộng đồng

7.1. Bảo đảm quyền bầu cử và ứng cử của phụ nữ Điều 126 của Bộ luật Hình sự (năm 1999) quy định biện pháp chế tài đối với tội xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân như sau: Người nào lừa gạt, mua chuộc, cưỡng ép hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở việc thực hiện quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm.

Điều 10 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội (năm 2001) đã quy định: Số đại biểu Quốc hội là nữ do Uỷ ban thường vụ Quốc hội dự kiến trên cơ sở đề nghị của Đoàn Chủ tịch Ban Chấp hành TW Hội LIên hiệp Phụ nữ Việt Nam, bảo đảm để phụ nữ có số đại biểu thích đáng.

Diều 14 của Luật Bầu cử Đại biểu Hội đồng Nhân dân (năm 2003) quy định: Thường trực HĐND cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã dự kiến c ơ cấu, thành phần, số lượng đại biểu HĐND, trong đó đảm bảo số lượng thích đáng đại biểu HĐND là phụ nữ.

Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của Phụ nữ Việt Nam đến 2010 đã quy định về chỉ tiêu phấn đấu đạt tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khoá XI (2002- 2007) là 30% và nhiệm kỳ tiếp theo là 33% trở lên; nữ đại biểu HĐND nhiệm kỳ 2004- 2009 cấp tỉnh thành là 28% và nhiệm kỳ tiếp theo là 30%, cấp quận huyện 23% và nhiệm kỳ tiếp theo là 25%; cấp xã phường 18% và nhiệm kỳ tiếp theo là 20%.

Thực hiện các quy định nói trên, một loạt các biện pháp cụ thể đã được triển khai ở các cấp nhằm tăng tỷ lệ nữ tham gia Quốc hội khoá XI, trong đó có hoạt động tuyên truyền, vận động cử tri, phân phát tờ gấp cổ vũ cho phụ nữ tham gia lãnh đạo và Quốc hội, tổ chức tiếp xúc cử tri cho nữ ứng cử viên. Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của Phụ nữ Việt Nam đã tổ chức 6 lớp bồi dưỡng dành cho 216 nữ ứng cử viên Quốc hội khoá XI, nhằm trang bị thêm cho những nữ ứng cử viên này những kiến thức và kỹ năng cần thiết, giúp họ tự tin hơn để có thể tranh cử thành công.

Kết quả, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khoá XI đạt 27,31% - cao hơn so với các khoá trước (khoá IX là 18,5%, khoá X là 26,22%) và Việt Nam tiếp tục khẳng định vị trí đứng thứ nhất trong khu vực Châu á về tỷ lệ nữ tham gia Quốc hội. Bên cạnh đó, tỷ lệ phụ nữ tham gia bầu cử Quốc hội khoá XI đạt 99,76% - tăng so với kỳ bầu cử trước (tỷ lệ phụ nữ tham gia bầu cử Quốc hội khoá X đạt 99,09%).

So với các giai đoạn trước, phụ nữ tham gia Quốc hội không chỉ tăng lên về số lượng mà còn tăng cả về chất lượng. Cụ thể, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội có học vấn từ đại học trở lên khoá IX là 58,9%, khoá X là 87,28% và khoá XI là 90,44%. Sự chuyển biến cả về lượng và chất này cho thấy phụ nữ đã thể hiện rõ hơn năng lực của mình và có cống hiến tích cực trong đời sống chính trị của đất nước.

65

Kết luận

Báo cáo CEDAW lần 5-6

Như vậy, về cơ bản, quyền bầu cử và ứng cử của phụ nữ Việt Nam đã được đảm bảo. Tuy nhiên, tồn tại hiện nay là : Nhận thức của xã hội về tầm quan trọng của việc đưa phụ nữ tham gia vào đời sống chính trị và cộng đồng còn hạn chế; thiếu các cơ chế và điều kiện thuận lợi để phụ nữ thực hiện được đầy đủ quyền bầu cử, ứng cử của mình; bản thân phụ nữ, nhất là phụ nữ ở các vùng nông thôn, dân tộc thiểu số, còn thiếu tự tin và ít được gia đình ủng hội tham gia ứng cử. Vì vậy, trong thời gian tới, các cơ quan chức n ăng sẽ thực hiện các giải pháp đồng bộ và tích cực để tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các cơ quan dân cử trong các khoá tới đây. 7.2. Quyền của phụ nữ trong việc tham gia quản lý Nhà nước, kinh tế và xã hội Pháp lệnh cán bộ, công chức ban (năm 1998) và Pháp lệnh sửa đổi, bổ xung một số điều của Pháp lệnh cán bộ, công chức (năm 2003) quy định về sự không phân biệt đối xử trong việc tuyển dụng, sử dụng, bổ nhiệm, nâng ngạch, khen thưởng và chế độ đối với cán bộ, công chức nữ và nam trong các cơ quan quản lý Nhà nước các cấp, các đơn vị sự nghiệp. Để hướng dẫn thi hành Pháp lệnh này, ngày 12/10/2000, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 56/2000/NĐ-CP sửa đổi khoản 2, điều 6 Nghị định số 95/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức, trong đó quy định tuổi dự tuyển đối với cả nam và nữ là như nhau từ đủ 18 đến 40 tuổi (trước đây quy định đối với nữ là từ 18 đến 35 tuổi). Việc sửa đổi này đã xoá bỏ sự phân biệt về tuổi tuyển dụng giữa nam và nữ. Trên thực tế, nữ đang chiếm 68,7% tổng số cán bộ, công chức Nhà nước.

Ngày 19/02/2003, Thủ t ướng Chính phủ đã ký Quyết định số 27/2003/QĐ- TTg về việc ban hành Quy chế bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân chuyển, từ chức, miễn nhiệm cán bộ, công chức lãnh đạo. Theo quy định tại Quyết định này thì tuổi bổ nhiệm lần đầu của cán bộ, công chức không quá 55 tuổi đối với nam và không quá 50 tuổi đối với nữ, riêng các chức vụ trưởng, phó phòng cấp quận, huyện và tương đương đối với nam và nữ đều như nhau là không quá 45 tuổi.

Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 69/2003/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình xây dựng, nâng cao chất l ượng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước giai đoạn I (2003-2005). Mục đích của Ch ương trình là xây dựng đội ngũ cán bộ công chức hành chính có số lượng, cơ cấu phù hợp với yêu cầu thực tiễn, từng bước tiến tới chuyên nghiệp, hiện đại; có phẩm chất đạo đức tốt và năng lực thi hành công vụ, tận tụy phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước và phục vụ nhân dân.

Để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức thành thạo về chuyên môn nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu quả của bộ máy Nhà nước, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 161/2003/QĐ-TTg ngày 04/8/2003 về việc ban hành Quy chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức để trang bị kiến thức về lý luận chính trị, kỹ năng quản lý nhà n ước, chuyên môn nghiệp vụ cũng như các kiến thức bổ trợ khác.

Hiện nay, các quy định này đã và đang được triển khai thực hiện ở các ngành, các cấp.

66

Kết luận

Báo cáo CEDAW lần 5-6

Việc triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường và Quy chế dân chủ trong cơ quan như đã nêu trong các Báo cáo trước vẫn tiếp tục được đẩy mạnh, tạo điều kiện cho phụ nữ được tham gia bình đẳng, dân chủ bàn bạc và quyết định một số vấn đề về phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, cơ sở cũng như quyền lợi của người lao động.

Năm 2001, Chính phủ đã chỉ đạo việc tổ chức tổng kết tình hình thực hiện Quyết định số 163/HĐBT-QĐ ngày 19/10/1988 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về quy định trách nhiệm của các cấp chính quyền trong việc bảo đảm cho các cấp Hội Liên hiệp PHụ nữ tham gia quản lý Nhà nước. Kết quả cho thấy, đã có sự chuyển biến quan trọng về nhận thức, quan điểm, trách nhiệm cũng như hành động của các cấp chính quyền về vai trò, vị trí, của Hội phụ nữ, về năng lực đóng góp của phụ nữ vào quá trình đổi mới của đất nước. Phụ nữ được tạo điều kiện tham gia các hoạt động xã hội và phát huy tốt vai trò tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội. Các cấp Hội phụ nữ đã chủ động, tích cực phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương trong việc tham gia xây dựng luật pháp, chính sách, kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội, thực hiện tốt chức năng giám sát việc thực hiện chính sách liên quan tới phụ nữ.

Để phát huy các kết quả nêu trên và tiếp tục khẳng định vai trò, vị trí của Hội trong việc tham gia quản lý Nhà nước, ngày 07/3/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 19/2003/NĐ-CP (thay thế Quyết định số 163/QĐ-HĐBT), trong đó quy định cụ thể hơn trách nhiệm của c ơ quan hành chính Nhà nước các cấp tạo điều kiện cho các cấp Hội phụ nữ hoạt động và tham gia quản lý Nhà nước. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện Nghị định này trong toàn hệ thống Hội, đồng thời chuẩn bị xây dựng quy chế làm việc giữa Chính phủ và TW Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.

Có thể nói, Chính phủ và các cơ quan chức năng đã có nhiều nỗ lực nhằm thu hẹp sự cách biệt giữa nam và nữ trong tham gia quản lý, lãnh đạo. Tuy nhiên, trên thực tế tỷ lệ nam và nữ nắm giữ các vị trí ra quyết định vẫn còn rất mất cân đối. So sánh tỷ lệ cán bộ nữ chủ chốt ở Trung ương và tỉnh thành từ năm 1997 tới năm 2003 cho thấy: Bộ trưởng và tương đương từ 7,9% tăng lên 11,9%; Thứ tr ưởng và tương đương từ 9,1% giảm xuống 8,1%; Chủ tịch UBND tỉnh thành từ 3,3% và giảm xuống còn 1,6%; Phó chủ tịch UBND tỉnh thành từ 10,1% và t ăng lên 11,7%. Như vậy, qua hơn 6 năm, chỉ có tỷ lệ nữ Bộ tr ưởng và tương đương là tăng lên rõ rệt, song vẫn còn thấp. Riêng tỷ lệ nữ Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố đã giảm đáng kể và chiếm tỷ lệ quá thấp so với nam giới. 7.3. Quyền của phụ nữ tham gia các tổ chức chính trị- xã hội

So với Báo cáo ghép lần thứ 3 và 4, có thể khẳng định rằng, quyền tham gia vào các tổ chức chính trị- xã hội của phụ nữ vẫn tiếp tục được phát huy. Sự tham gia tích cực của phụ nữ trong các tổ chức chính trị- xã hội đã góp phần không nhỏ vào công cuộc phát triển đất nước. Tỷ lệ phụ nữ tham gia Ban lãnh đạo các đoàn thể hiện nay chưa cao, song đã có bước chuyển biến, cụ thể : ở Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh có 25 nữ/134 (chiếm 18,65%); ở Hội Nông dân Việt Nam có

67

Kết luận

Báo cáo CEDAW lần 5-6 15 nữ/86 (chiếm 17,2%); ở Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có 34nữ/198 (chiếm 17%); ở Hội chữ thập đỏ có 28 nữ/105 (chiếm 26,6%).

7.4. Phương hướng tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong đời sống chính trị và cộng đồng

Trên thực tế, sự tham gia của phụ nữ Việt Nam trong đời sống chính trị của đất nước chưa tương xứng với khả n ăng của họ và ch ưa đáp ứng với yêu cầu của công cuộc đổi mới. Chính vì vậy, các giải pháp tích cực sẽ tiếp tục được thực hiện để khắc phục những tồn tại được nêu. Theo sự chỉ đạo của Ban chấp hành TW Đảng, các cơ quan trung ương và địa phương đã tổ chức tổng kết Chỉ thị số 37-CT/TW năm 1994 về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới trong phạm vi cơ quan, đơn vị. Đầu năm 2004, việc tổng kết Chỉ thị này trên phạm vi toàn quốc đã được tổ chức. Đây là một dịp quan trọng để các cấp, các ngành đánh giá những kết quả đạt được, các vấn đề tồn tại, chỉ ra nguyên nhân và bài học kinh nghiệm, đồng thời đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm tăng cường quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ nữ. Việc tổng kết Chỉ thị đã góp phần tạo sự chuyển biến về nhận thức và hành động của các cấp, các ngành đối với công tác cán bộ nữ- một bộ phận quan trọng của chiến lược cán bộ. Dự kiến, Hội LIên hiệp Phụ nữ Việt Nam sẽ trình Ban chấp hành TW Đảng dự thảo Nghị quyết mới, nhằm tăng cường hơn nữa công tác vận động phụ nữ và cán bộ nữ trong tình hình mới.

68

Kết luận

Báo cáo CEDAW lần 5-6

Điều 8 Phụ nữ tham gia các hoạt động quốc tế

Như đã nêu trong các báo cáo trước, luật pháp và chính sách của Nhà n ước bảo đảm cho phụ nữ Việt Nam có quyền tham gia vào các hoạt động quốc tế bình đẳng như nam giới. Đặc biệt, theo chủ trương chung về mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế, phụ nữ Việt Nam càng có thêm điều kiện tham gia và đóng góp có hiệu quả vào các hoạt động quốc tế.

8.1. Phụ nữ trong ngành ngoại giao

Là cơ quan quản lý nhà nước về đối ngoại, Bộ Ngoại giao luôn quan tâm, chú ý tới việc bảo đảm quyền bình đẳng nam nữ trong tham gia các hoạt động quốc tế cũng như xây dựng và đào tạo đội ngũ cán bộ ngoại giao các cấp. Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ ngành Ngoại giao đã được thành lập và đi vào hoạt động dưới sự lãnh đạo của một Thứ trưởng Bộ Ngoại giao làm Trưởng ban. Bộ Ngoại giao đã thông qua Kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ giai đoạn 2000-2005, trong đó xác định các chỉ tiêu cụ thể như: đảm bảo tỷ lệ lao động nữ trong toàn ngành đạt 30%; nâng tỷ lệ cán bộ quản lý các cấp từ 11% đến 20%; tỷ lệ trưởng các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài là nữ lên 20%; bồi dưỡng 1 nữ trợ lý Bộ trưởng.

Hiện tại, số cán bộ nữ ngành ngoại giao chiếm 28%, trong đó có 28% đang công tác tại n ước ngoài. Số phụ nữ trong tổng số cán bộ có trình độ sau đại học là 14/64, thạc sỹ là 80/227 và tiến sỹ là 5/41. Trong giai đoạn 2000 - 2003, số cán bộ, công chức nữ được đề bạt lãnh đạo cấp vụ tăng từ 10 lên 15 người và 11 nữ lãnh đạo cấp phòng. Hiện nay, Bộ Ngoại giao có 1 trong số 22 vụ trưởng là nữ, 5 nữ trong số 57 phó vụ trưởng, 2 nữ trong số 22 trưởng phòng và 9 nữ trong số 32 phó phòng.

Công tác đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ nữ của ngành Ngoại giao luôn được quan tâm. Cụ thể, trong năm 2002, cán bộ là nữ chiếm 38% trong tổng số người được cử đi đào tạo sau đại học ở nước ngoài và chiếm 32% đào tạo trong nước. Đáng chú ý, số lượng nữ sinh trúng tuyển vào Học viện Quan hệ Quốc tế ngày càng cao. Số lượng nữ sinh/ nam sinh Khoá 26 (năm 2000) là 137/ 55, Khoá 27 (năm 2001) là 129/ 66, Khoá 28 (năm 2002) là 154/ 68 và khoá 29 (năm 2003) là 169/ 60.

Đối với các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài, cán bộ công chức nữ được bảo đảm quyền bình đẳng với nam giới về công việc, nhiệm kỳ, hàm vị công tác và mức l ương. Trong giai đoạn 2000-2003, đã bổ nhiệm 19 Đại sứ Việt Nam ở nước ngoài, trong đó có 3 Đại sứ nữ. Số cán bộ nữ công tác dài hạn tại các cơ quan đại diện nước ngoài ngày càng tăng và hiện có 143/571 ng ười, chiếm tỷ lệ 30%.

8.2. Phụ nữ tham gia các hoạt động quốc tế

Với chính sách mở cửa hiện nay, tỷ lệ phụ nữ làm việc trong các tổ chức quốc tế khá cao, trung bình trên 50% và có xu hướng ngày càng tăng: Năm 2002 là 56% 69

Kết luận

Báo cáo CEDAW lần 5-6 và năm 2003 là 56,55%. Phụ nữ tham gia các công việc với chức danh là cán bộ chương trình hay trợ lý chiếm tỷ lệ trên d ưới 40%, riêng năm 2002 là 50,86%. Với các chức danh khác như thư ký, phiên dịch, tỷ lệ phụ nữ chiếm trên 35%, riêng năm 2000 chiếm tỷ lệ khá cao là 45% nh ưng sau đó có xu hướng giảm dần. Số nữ làm công việc nhân viên phục vụ văn phòng có tỷ lệ thấp h ơn, trung bình là 17% và có xu hướng giảm dần.

Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, cán bộ nữ công tác trong các cơ quan chính phủ, các tổ chức hữu nghị, xã hội, nghề nghiệp, tổ chức quần chúng đều có cơ hội đại diện cho Chính phủ Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế và tham gia vào các hoạt động quốc tế. Có thể nói, số lượng và chất lượng tham gia của phụ nữ trong ngoại giao song phương và đa phương ngày càng tăng. Tuỳ thuộc vào tính chất của từng hoạt động, tỷ lệ nữ tham gia tăng so với những năm trước từ 40 đến 50%. Nhiều phụ nữ đã được tín nhiệm cử tham gia các chuyến thăm và làm việc của lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Chính phủ tại các nước và các hội nghị quốc tế; tham gia và giữ cương vị quan trọng trong các đoàn đàm phán đa phương và song phương, kể cả các cuộc đàm phán chuẩn bị cho Việt Nam gia nhập WTO. Đặc biệt, để tăng cường sự tham gia đóng góp và thụ hưởng của phụ nữ trong các hoạt động hội nhập kinh tế, Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của Phụ nữ Việt Nam đã xây dựng bản Hướng dẫn thực hiện Khuôn khổ hội nhập phụ nữ trong APEC và 7 bộ ngành đầu mối APEC đã xây dựng Kế hoạch hành động về hội nhập phụ nữ trong APEC. Hoạt động của Việt Nam trong Uỷ ban Phụ nữ ASEAN cũng rất chủ động và tích cực.

Trong hoạt động đối ngoại nhân dân, sự tham gia của phụ nữ và Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã được đánh giá cao. Phụ nữ chiếm 50% trong hàng triệu l ượt người tham gia các hoạt động hoà bình, đoàn kết và hữu nghị trong 5 n ăm qua. Thông qua mối quan hệ với 70 nước và 350 tổ chức, Hội LIên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã thúc đẩy sự hợp tác giữa phụ nữ Việt Nam với phụ nữ và nhân dân các nước vì các mục tiêu chung l à bình đẳng giới, phát triển và hoà bình, đồng thời tranh thủ được sự ủng hộ về nhiều mặt cho phụ nữ và trẻ em Việt Nam.

Tài năng và sự đóng góp của phụ nữ Việt Nam đã góp phần nâng cao uy tín và vị trí của phụ nữ Việt Nam trong các quan hệ quốc tế và được đánh giá cao không chỉ trong nước mà cả trên thế giới. Điều đó được thể hiện thông qua việc phụ nữ Việt Nam được cử làm đại diện tổ chức quốc tế tại khu vực cũng như nhận các giải thưởng khu vực và quốc tế.

Tuy nhiên, tỷ lệ phụ nữ tham gia các hoạt động quốc tế còn thấp. Chỉ tính riêng hoạt động khu vực ASEAN, tỷ lệ nữ tham gia chỉ khoảng 30%. Một trong những trở ngại đối với phụ nữ đó là trình độ ngoại ngữ. Trong thời gian tới, các cơ quan Nhà nước sẽ tiếp tục quan tâm đ ầu tư hơn nữa đối với công tác đào tạo, bổ nhiệm cán bộ ngoại giao nữ.

70

Kết luận

Báo cáo CEDAW lần 5-6

Điều 9 Vấn đề quốc tịch

Luật pháp và các quy định của Việt Nam đã được ban hành, trong đó có Luật Quốc tịch Việt Nam (năm 1998) như đã nêu trong Báo cáo trước, luôn nhất quán, đảm bảo quyền bình đẳng nam nữ trong vấn đề quốc tịch.

Thời gian qua, Nhà nước Việt Nam đã tổ chức thực hiện nghiêm túc và hiệu quả các quy định của Luật và trên thực tế đã bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ và nam giới trong việc nhập, thay đổi hoặc giữ quốc tịch, không có bất cứ sự phân biệt đối xử với phụ nữ. Công dân Việt Nam, nam hay nữ khi kết hôn, ly hôn và huỷ bỏ kết hôn trái pháp luật giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài đều được Nhà nước đảm bảo quốc tịch Việt Nam của mình không bị thay đổi và bảo đảm không làm thay đổi quốc tịch của người vợ hay người chồng khi một trong hai người nhập hoặc mất quốc tịch Việt Nam. Trong giai đoạn 2000 - 2003, Nhà nước Việt Nam đã làm thủ tục thôi quốc tịch Việt Nam để nhập quốc tịch nước ngoài cho 12.818 người, trong đó có 73 trường hợp hiện đang cư trú trong nước. Trong số các trường hợp đang cư trú trong nước, có 67 trường hợp là phụ nữ, chiếm 91,7%. Năm 2002, có 1.553 trường hợp đã được thôi quốc tịch Việt Nam. Do có khung pháp lý rõ ràng, điều kiện kinh tế của đất nước và cá nhân ngày một được cải thiện, điều kiện đi lại dễ dàng và nhận thức về tính cộng đồng ngày càng cao, nên xu hướng thôi quốc tịch ngày càng có chiều hướng giảm dần.

Nhà nước Việt Nam đã thực hiện nghiêm túc các quy định của Luật Quốc tịch, nhằm đảm bảo quyền bình đẳng của phụ nữ về vấn đề quốc tịch của con cái họ. Những trường hợp trẻ em có cha mẹ là công dân Việt Nam được sinh trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam đều được bảo đảm có quốc tịch Việt Nam; những trẻ em có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người kia là công dân nước ngoài, cũng được đảm bảo có quốc tịch Việt Nam nếu có sự thoả thuận bằng văn bản của cả cha và mẹ vào thời điểm đăng ký khai sinh. Trong trường hợp trẻ em được sinh ra có mẹ là người Việt Nam còn cha là người không quốc tịch hoặc không rõ là ai, thì vẫn được mang quốc tịch Việt Nam không kể trẻ em đó được sinh ra trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam.

Có thể nói rằng các quy định của pháp luật Việt Nam cũng như quá trình tổ chức thực hiện của các cơ quan chức n ăng đã hoàn toàn phù hợp với quy định của Công ước về vấn đề quốc tịch.

71

Kết luận

Báo cáo CEDAW lần 5-6

Điều 10 Bình đẳng trong giáo dục

10.1. Quan điểm và mục tiêu giáo dục

Chính phủ đã ban hành hàng loạt văn bản quy phạm pháp luật như: Nghị định số 43/2000/NĐ-CP ngày 30/8/2000 Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục; Nghị định 35/2001/NĐ-CP ngày 09/7/2001 về chính sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục công tác ở trường chuyên biệt, ở vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn; Nghị định số 88/2001/NĐ-CP ngày 22/11/2001 về thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở.

Năm 2001, Thủ t ướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 201/2001/QĐ- TTg về việc phê duyệt Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010, trong đó quy định mục tiêu là tạo bước chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục, thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục và tạo cơ hội học tập ngày càng tốt hơn cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là ở các vùng còn nhiều khó khăn. Năm 2003, Thủ t ướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 26/2003/QĐ-TTg về việc phê duyệt Ch ương trình mục têu quốc gia Giáo dục và Đào tạo đến 2005.

Kế hoạch hành động quốc gia giáo dục cho mọi người giai đoạn 2003-2015 đã coi bình đẳng giới là một mục tiêu ưu tiên với những nội dung cụ thể là "Xoá bỏ bất bình đẳng giới ở bậc tiểu học và trung học vào năm 2005, đạt bình đẳng giới trong giáo dục vào năm 2015, chú trọng đảm bảo trẻ em gái được tiếp cận đầy đủ và công bằng cũng như hoàn thành giáo dục cơ bản với chất lượng tốt".

Quy định tại các văn bản nói trên tiếp tục tuân thủ nguyên tắc bình đẳng trong giáo dục, đồng thời tạo ra các cơ chế và điều kiện cần thiết cho phụ nữ và trẻ em gái được thụ hưởng quyền bình đẳng của mình trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo.

10.2. Thực hiện bình đẳng về cơ hội và điều kiện học tập cho nam và nữ Như Báo cáo trước đã nêu, học sinh nam và nữ trong các cấp học, ở mọi loại trường, từ mầm non cho tới sau đại học, đều học chung một lớp, chung một chương trình với các điều kiện học tập, học bổng, trợ cấp như nhau, không có bất kỳ sự phân biệt nào.

Tỷ lệ chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục liên tục tăng trong những năm qua (đạt 15% năm 2000, 15,6% năm 2001, 15,8% năm 2002 và 16,2% năm 2003). Nhờ có nguồn vốn đầu tư của Nhà nước và sự trợ giúp của các tổ chức quốc tế, cơ sở vật chất kỹ thuật trong nhà trường đã được xây mới và nâng cấp đáng kể. Trường tiểu học đã được xây dựng ở thôn, ấp; trường trung học cơ sở đã được xây dựng ở xã, phường hoặc liên xã; trường trung học phổ thông đã được xây dựng ở quận, huyện, tạo điều kiện thuận lợi để mọi người được đến trường, trong đó có phụ nữ và trẻ em gái.

72

Kết luận

Báo cáo CEDAW lần 5-6 Một hệ thống giáo dục quốc dân tương đối hoàn chỉnh, thống nhất và đa dạng đã được hình thành với đầy đủ các cấp học và trình độ đào tạo từ mầm non tới sau đại học. Hệ thống giáo dục đã bước đầu được đa dạng hoá cả về loại hình, phương thức và nguồn lực, mở ra nhiều cơ hội cho người dân, nhất là phụ nữ thuộc mọi lứa tuổi tham gia học tập. Quy mô giáo dục tiếp tục tăng ở hầu hết các cấp, bậc học, ngành học. N ăm học 2002 -2003 cả n ước có hơn 22 triệu ng ười đi học. N ăm học 2002-2003, số l ượng học sinh, sinh viên ngoài công lập ngày càng tăng, chiếm 76,5% trẻ em ở các nhà trẻ, 58,3% học sinh mẫu giáo, 31,8% học sinh trung học phổ thông và 11% sinh viên đại học. Tỷ lệ trẻ em gái và phụ nữ tham gia học tập theo nhiều phương thức chiếm khoảng 38-40% (năm 2002). Đặc biệt, đối với người lớn, có 4 loại ch ương trình không chính quy: chương trình xoá nạn mù chữ và giáo dục tiếp tục sau biết chữ; chương trình giáo dục đáp ứng yêu cầu của người học; chương trình đào tạo bổ sung, tu nghiệp định kỳ, bồi dưỡng nâng cao trình độ, cập nhật kiến thức, kỹ năng; chương trình giáo dục để lấy văn bằng của hệ thống giáo dục quốc dân theo hình thức vừa học vừa làm, học từ xa, tự học có h ướng dẫn. Do vậy, cơ hội học tập đối với phụ nữ đã được tăng nhiều so với trước.

Công bằng xã hội trong giáo dục cơ sở về cơ bản được đảm bảo. Giáo dục ở những vùng dân tộc thiểu số có những chuyển biến tích cực. Tính đến năm học 2002-2003, trong toàn quốc có 1.545 tr ường phổ thông dân tộc nội trú các cấp. Việc dạy chữ dân tộc đã được đẩy mạnh với 8 thứ chữ được dạy ở các địa phương. Kết quả, tỷ lệ người dân tộc thiểu số mù chữ giảm và đến năm 2002 còn 22,6%. Vấn đề đặt ra hiện nay là mặc dù tỷ lệ nhập học vào trường phổ thông dân tộc nội trú tăng so với giai đoạn 2000, tỷ lệ nữ sinh vẫn thấp và chỉ khoảng 10% trên tổng số. Năm 2002, tỷ lệ trẻ em gái đến trường ở vùng núi cao chỉ chiếm khoảng 10-15%. Nguyên nhân chủ yếu là do các em gái phải lao động giúp đỡ gia đình, ít có điều kiện đi học nội trú xa nhà và do tập quán lấy chồng sớm. Do đó, trong thời gian tới, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ rà soát lại văn bản pháp luật liên quan để quy định tăng tỷ lệ trẻ em gái đến trường. Ngoài ra, các cơ quan hữu quan sẽ tiến hành thực hiện các hoạt động tăng cường nhận thức của người dân về lợi ích và hạn chế của việc giáo dục cho trẻ em gái qua các hệ thống truyền thông; t ăng số lượng giáo viên và hiệu trưởng nữ là người dân tộc thiểu số và chất lượng giảng dạy ở vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu vùng xa.

10.3. Kết quả giáo dục và đào tạo cho phụ nữ

Phát huy thành quả xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, hiện nay cả nước đang tiến hành phổ cập giáo dục trung học c ơ sở. Số tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở : Năm 2002 có 12/61, năm 2003 là 19/61. Năm học 2002-2003, số lượng học viên theo học sau xoá mù chữ là 134.708 người. Mỗi năm, giáo dục th ường xuyên đã tạo cơ hội học tập cho trên một triệu người. Theo Điều tra mức sống hộ gia đình của Tổng cục Thống kê năm 2002, có 92,13% dân cư từ 10 tuổi trở lên biết chữ, trong đó phụ nữ biết chữ chỉ đạt 89,31%. Số năm đi học trung bình của nữ là 5,3 năm và nam giới là 6,5 n ăm (năm 2003). Về c ơ bản, Việt Nam đã đạt được sự bình đẳng nam nữ trong giáo dục tiểu học. Trình độ học vấn của phụ nữ và trẻ em gái đã tăng lên trong ba năm qua.

73

Kết luận

Báo cáo CEDAW lần 5-6 Năm học 2002-2003, cả nước có gần 18 triệu học sinh phổ thông, trong đó tỷ lệ nhập học của nữ sinh gần tương đương với tỷ lệ nam học sinh, cụ thể là: cấp tiểu học 47,49%, ở cấp trung học cơ sở là 47,26%, ở cấp trung học phổ thông là 47,36%. Tỷ lệ tốt nghiệp tương ứng của nữ sinh là 47,57%, 48,17% và 47,17%. Vấn đề tồn tại hiện nay là tỷ lệ trẻ em gái đi học trong độ tuổi thấp hơn trẻ em trai và số lượng học sinh nữ bỏ học còn cao hơn học sinh nam. Tỷ lệ nữ sinh các trường cao đẳng, đại học thuộc khối ngành khoa học, kỹ thuật năm học 2001 -2002 đã tăng lên, tuy không nhiều, phản ánh xu hướng thay đổi tích cực về quan điểm nghề nghiệp đối với phụ nữ trong xã hội (Xem biểu 4.4 của Phụ lục số liệu) 10.4. Cán bộ nữ ngành giáo dục - đào tạo

Tính đến năm 2002, tổng số phụ nữ làm công tác giáo dục đào tạo khoảng 65 vạn người, chiếm 70% tổng số giáo viên, cán bộ toàn ngành. Năm học 2002-2003, tỷ lệ nữ giáo viên ở cấp học mầm non là 99,6%, tiểu học là 78%, trung học cơ sở là 68%, trung học phổ thông là 56%, trung học chuyên nghiệp 42,5%, cao đẳng đại học là 39,7%. Hiện nay, ngành giáo dục có 1 nữ thứ trưởng, 1 nữ vụ trưởng, 6 nữ phó vụ trưởng và 11 nữ giám đốc Sở Giáo dục - Đào tạo ở các tỉnh, thành. Tỷ lệ nữ hiệu trưởng trường mầm non là 100%, trường tiểu học là 34,31, trường trung học cơ sỏ là 21,08%, trường trung học phổ thông 7,92% , trường đại học, cao đẳng là 6,7%. Tỷ lệ nữ giáo sư chiếm 3,54%; nữ phó giáo sư 7,24% (năm 2002). Các con số nêu trên cho thấy đã có những chuyển biến tích cực về sự tham gia của phụ nữ trong ngành giáo dục nhưng chưa tương xứng với khả năng của họ.

Nhằm cải thiện điều kiện làm việc cho nữ giáo viên ở vùng khó khăn, Bộ Giáo dục và Đào tạo thời gian qua đã ban hành những quy định cụ thể, ưu đãi về phụ cấp lưu động, phụ cấp dạy bằng tiếng và chữ viết ng ười dân tộc, trợ cấp chuyển vùng, chế độ luân chuyển... Nhiều địa phương đã chủ động quy định chế độ khuyến khích nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ưu đãi xây nhà công vụ dành riêng cho nữ giáo viên. Hiện nay, có 51/64 tỉnh, thành phố thực hiện chế độ bảo hiểm đối với giáo viên ngoài công lập nói chung, trong đó có 32% nữ giáo viên ngoài công lập tham gia đóng bảo hiểm. 10.5. Vấn đề định kiến giới trong sách giáo khoa

Sách giáo khoa ở các tr ường phổ thông trong giai đoạn vừa qua vẫn còn có một số biểu hiện về định kiến giới. Các hình ảnh và quan niệm được trình bày trong sách giáo khoa vẫn khắc họa vai trò truyền thống của trẻ em gái và phụ nữ nh ư làm việc nhà, làm ruộng và các công việc lao động chân tay. Bên cạnh đó, họ th ường được mô tả là rụt rè, trông cậy vào sự giúp đỡ của người khác và thấp kém hơn nam giới. Trong khi đó, trẻ em trai và nam giới thường được khắc hoạ thông qua hình ảnh các học giả, nhà thám hiểm hay công nhân kỹ thuật được đào tạo và là những người khỏe mạnh, có lý chí, sử dụng kỹ thuật thành thạo, độc lập, được người khác tôn trọng. Để khắc phục những tồn tại nêu trên, sách giáo khoa lớp 1, 2, 6 và 7 đã được nghiên cứu sửa đổi theo hướng: sử dụng những hình vẽ minh hoạ thể hiện tỷ lệ cân bằng về giới tính, nhấn mạnh quyền được đối xử bình đẳng giữa trẻ em trai và gái, 74

Kết luận

Báo cáo CEDAW lần 5-6 phê phán những quan niệm, hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ trong gia đình, ngoài xã hội, trong quan hệ với bạn bè. Việc xóa bỏ định kiến giới trong giáo dục và đào tạo sẽ được Bộ Giáo dục và Đào tiếp tục chỉ đạo thực hiện thông qua các chương trình, dự án về biên soạn sách giáo khoa có tích hợp giáo dục giới.

Hiện nay, toàn ngành giáo dục-đào tạo đang đẩy mạnh việc thực hiện các chương trình quốc gia trong giai đoạn 2000-2005 theo một số định hướng lớn là: biên soạn và triển khai sách giáo khoa phổ thông mới; nâng cao trình độ và thực hiện tiêu chuẩn hoá giáo viên; bảo đảm trang thiết bị dạy học; đầu tư phát triển giáo dục mầm non, đặc biệt là ở 222 xã chưa có cơ sở mầm non và 323 xã chỉ có một lớp mầm non gắn với trường tiểu học; đẩy mạnh phát triển giáo dục dân tộc thiểu số. Việc triển khai tích cực Chương trình mục quốc gia về Giáo dục và Đào tạo, cùng với những nỗ lực nêu trên của toàn ngành đã và sẽ tiếp tục góp phần bảo đảm quyền bình đẳng cho phụ nữ và trẻ em gái trong lĩnh vực giáo dục-đào tạo.

Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục và chuẩn bị trình Quốc hội, trong đó đề cập đến việc mở rộng cơ hội học tập cho người dân. Đề án tăng cường xã hội hóa giáo dục và đào tạo đã và đang được Bộ Giáo dục và Đào tạo hoàn thiện để trình Chính phủ thông qua trong thời gian tới.

75

Kết luận

Báo cáo CEDAW lần 5-6

Điều 11 Bình đẳng trong lĩnh vực việc làm

So với giai đoạn trước, việc bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực việc làm ở Việt Nam đã được cải thiện thông qua việc Nhà nước tiến hành sửa đổi một số điều khoản pháp luật và chính sách cũng như triển khai các biện pháp tích cực để hỗ trợ cho lao động nữ.

11.1. Các quy định mới Bên cạnh các văn bản quy phạm pháp luật đã nêu ở những điều trên, đặc biệt là Điều 4, Nhà nước Việt Nam đã ban hành luật và các v ăn bản pháp luật nhằm tạo cơ hội bình đẳng cho phụ nữ trong lĩnh vực việc làm, cụ thể là :

- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động (năm 2002). Những nội dung được sửa đổi, bổ sung liên quan đến chính sách đối với lao động nữ bao gồm một số vấn đề về bảo hiểm xã hội, tiền lương, bảo hộ lao động, thời hiệu kỷ luật lao động, như đã nêu trong phần báo cáo về tình hình thực hiện Điều 4 của Công ước.

- Nghị định 02/2001/NĐ-CP ngày 9/01/2001 của Chính phủ về Dạy nghề quy định : Học viên nữ không phải bồi thường phí dạy nghề khi chấm dứt hợp đồng học nghề trong trường hợp có giấy chứng nhận của y tế cấp huyện trở lên về việc thực hiện hợp đồng học nghề sẽ bị ảnh hưởng xấu tới thai nhi; sau thời gian nghỉ thai sản, nếu có nguyện vọng và đủ điều kiện, thì được tiếp tục theo học.

- Quyết định số 143/2001/QĐ-TTg của Thủ t ướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia Xoá đói giảm nghèo và việc làm đến năm 2005.

- Nghị định 114/2002/NĐ-CP ngày 31/12/2002 của Chính phủ về tiền l ương đã tiếp tục khẳng định quyền bình đẳng trong trả lương: lao động nữ nếu cùng làm công việc như lao động nam, thì được trả lương như nhau.

- Nghị định 33/2003/NĐ-CP ngày 2/4/2003 của Chính phủ quy định không được xử lý kỷ luật lao động đối với lao động nữ có thai, nghỉ thai sản, nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi và lao động nam đang phải nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi.

- Nghị định 01/2003/NĐ-CP ngày 09/01/2003 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Điều lệ bảo hiểm Xã hội quy định đối tượng tham gia được mở rộng cho người lao động làm việc ở các thành phần kinh tế tập thể và cá thể, trong đó lao động nữ chiếm tỷ lệ khá cao.

- Nghị định 39/2003/NĐ-CP ngày 18/4/2003 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ Luật Lao động về việc làm, trong đó giao cho Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội nghiên cứu trình Chính phủ chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm cho các đối tượng là lao động nữ.

76

Kết luận

Báo cáo CEDAW lần 5-6 11.2. Nhà nước tiếp tục thực thi các biện pháp tích cực nhằm bảo đảm quyền bình đẳng về mọi mặt của phụ nữ trong lĩnh vực việc làm

- Quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực việc làm tiếp tục được phát huy cùng với quá trình thực hiện đổi mới đất nước. Chính phủ Việt Nam trong thời gian qua đã tập trung thực hiện nhiều biện pháp để tạo ra các cơ hội việc làm theo hướng: tăng cường chính sách đầu tư trong và ngoài nước để thực hiện các chương trình kinh tế-xã hội; tiếp tục Chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo và việc làm; mở rộng thị trường xuất khẩu lao động và chuyên gia; đào tạo nghề gắn với việc làm. Số liệu điều tra lao động- việc làm qua các năm cho thấy phụ nữ tham gia hoạt động kinh tế thường xuyên có chiều hướng gia tăng. Dân số trong tuổi lao động là nữ năm 2002 chiếm 59,55%, trong đó thành thị 64,74% và nông thôn 57,79%. Tại thời điểm điều tra 1/7/2002, lao động nữ từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế thường xuyên chiếm 49,30% (tăng 2,49% so với n ăm 2001), trong đó thành thị 48,78% và nông thôn 49,46%1 Về góc độ phân chia theo ngành kinh tế, nữ chiếm 48,20% và chiếm tỷ lệ cao trong các ngành: chế biến 48,72%; thuỷ sản 49,78%; thương nghiệp 63,75%; khách sạn, nhà hàng 68%2. Như vậy, phụ nữ tham gia hoạt động kinh tế với tỷ lệ cao và nhất là ở các ngành dịch vụ, thương mại, xuất khẩu... phù hợp với xu hướng chuyển dịch, có nhiều lợi thế và góp phần tăng nhanh tỷ trọng GDP.

Trong những n ăm qua, số ng ười được giải quyết việc làm năm sau cao hơn năm trước: năm 2002 là 1,42 triệu, năm 2003 là 1,52 triệu, trong đó nữ chiếm tỷ lệ khá cao. Trong kết quả chung đó, việc làm được tạo ra từ các chương trình phát triển kinh tế -xã hội chiếm 78,6%, quỹ quốc gia về việc làm chiếm 21,4%. Hàng n ăm, Chính phủ dành một khoản ngân sách khoảng 200 tỷ đồng để chi cho giải quyết việc làm. Theo quy định mới, từ năm 2003, các hộ gia đình, hợp tác xã và cơ sở sản xuất nhỏ và vừa được vay vốn từ Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm dưới 15 triệu đồng không phải thế chấp, trong đó ưu tiên cho các đối tượng là người tàn tật và đơn vị sử dụng nhiều lao động nữ. Điểm mới trong giải quyết việc làm là mở rộng các mô hình kinh tế trang trại và hộ gia đình, phát triển làng nghề và sản xuất hàng xuất khẩu, phát triển các doanh nghiệp tư nhân, khu công nghiệp, khu chế xuất. Việc mở rộng thị trường xuất khẩu lao động và chuyên gia sang các nước Đông Nam á cũng là một giải pháp tốt nhằm tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho lao động nói chung, trong đó có lao động nữ nói riêng. Từ năm 2001-2003, Việt Nam đã đưa được 158.000 lao động và chuyên gia sang làm việc có thời hạn ở nước ngoài, trong đó nữ chiếm 35%.

Tỷ lệ thất nghiệp nữ trong độ tuổi lao động ở khu vực thành thị có giảm so với thời điểm viết Báo cáo ghép lần thứ 3 và 4 nhưng chưa bền vững: năm 2000 là 6,26% năm 2002 là 6,85% và năm 2003 là 7,22%, trong khi đó tỷ lệ chung là 5,78%. Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động nữ trong độ tuổi lao động ở nông thôn tăng chậm, năm 2000 là 73,71% và năm 2002 là 75,25% và năm 2003 là 77,74% , thấp hơn tỷ lệ chung là 77,94%. Còn có tình trạng chênh lệnh về cơ cấu giới tính trong các ngành

77 1. Trích nguồn Điều tra lao động-Việc làm 1/7/2002 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội. 2. Trích nguồn Điều tra lao động-Việc làm năm 2001 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội.

Kết luận

Báo cáo CEDAW lần 5-6 nghề, nữ chiếm tỷ lệ thấp trong một số ngành nghề (Xem thêm biểu 3.6 Phụ lục số liệu)

-Về đào tạo nghề: So với thời điểm báo cáo trước, đến nay chương trình đào tạo nghề đã phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng. Từ năm 2001-2003, đã đào tạo được hơn 2,9 triệu người, trong đó nữ chiếm 30%. Các ngành nghề đào tạo được mở rộng, trong đó có nhiều ngành nghề phù hợp với nữ. Nét mới trong đào tạo nghề là đã có sự chú trọng đáng kể của các địa phương trong việc đầu tư hỗ trợ phát triển các cơ sở dạy nghề. Chất lượng dạy nghề có nhiều tiến bộ, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động. Một số nghề đạt trên 90% học sinh sau khi tốt nghiệp có việc làm (như nghề bưu chính viễn thông, giao thông, may mặc), trong đó nữ chiếm tỷ lệ khá cao. Số lượng các trường dạy nghề tăng thêm và phân bổ rộng rãi trên toàn quốc, đáp ứng tốt hơn nhu cầu đào tạo nghề đang tăng lên của lao động nam cũng như nữ. Số lượng lao động nữ qua đào tạo đã tăng lên và thu hẹp khoảng cách so với nam giới. Tuy nhiên, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của lao động nữ nhìn chung thấp hơn nam giới và lao động nữ chiếm 3/4 số công việc không có tay nghề (theo kết quả điều tra của Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội và ILO năm 2001).

-Về tuổi nghỉ hưu của nam và nữ: Báo cáo ghép lần thứ 3 và 4 đã đề cập đến sự chênh lệch tuổi nghỉ hưu giữa lao động nam và nữ, đồng thời qua quá trình thực hiện chính sách hưu trí đã có một số ý kiến đề nghị xem xét, điều chỉnh cho phù hợp. Để đáp ứng nguyện vọng trên, Chính phủ đã giao cho Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với các c ơ quan hữu quan tổ chức nghiên cứu, khảo sát về tuổi nghỉ hưu của lao động nữ. Kết quả tổng hợp cho thấy còn nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này và trên 70% số người được hỏi ý kiến cho rằng quy định tuổi hưu như hiện nay là hợp lý. Do vậy, Quốc hội vẫn quyết định giữ nguyên tuổi nghỉ hưu của nữ là 55 và nam là 60 trong lần sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động vừa qua. Tuy nhiên, số năm đóng bảo hiểm xã hội để làm căn cứ tính tuổi nghỉ hưu đã được giảm xuống 25 năm đối với nữ (trước đây quy định là 30 năm) cho phù hợp với tuổi nghỉ hưu.

Trước mắt, để tạo điều kiện cho những người có năng lực, trình độ tiếp tục cống hiến, Chính phủ đã ban hành Nghị định 71/NĐ-CP ngày 23/11/2000 quy định việc kéo dài thời gian công tác của cán bộ, công chức đến độ tuổi nghỉ hưu. Theo đó, các chuyên gia cao cấp, tiến sĩ khoa học, giáo s ư, phó giáo sư không phân biệt nam nữ, được kéo dài thời gian công tác từ 1 đến 5 năm nếu cơ quan, tổ chức thực sự có nhu cầu, người lao động tự nguyện và có đủ sức khoẻ để làm việc.

-Về thực hiện chế độ nghỉ cho con bú: Theo quy định, lao động nữ được nghỉ 60 phút/ngày cho con bú trong thời gian 12 tháng mà vẫn được trả công. Việc thực hiện chính sách này nhìn chung đã được bảo đảm và lao động nữ có thể bố trí linh hoạt thời gian nghỉ cho con bú để phù hợp với điều kiện cá nhân cũng như hoạt động sản xuất. Tuy nhiên, việc áp dụng quy định này gặp khó khăn đối với lao động nữ làm việc theo dây chuyền, nơi làm việc xa nhà hoặc nơi gửi con xa nơi làm việc. Để bù đắp lại, Nhà nước cho phép quy đổi thời gian cho con bú nhưng không thực hiện được ra ngày công để tính thành mức trợ cấp cho lao động nữ.

78

Kết luận

Báo cáo CEDAW lần 5-6

- Về bảo hiểm xã hội: Điều lệ Bảo hiểm xã hội đã được sửa đổi, bổ sung năm 2003, theo đó một số quy định có lợi nhiều hơn cho lao động nữ như đã đề cập ở trên. Theo quy định hiện hành, đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc bao gồm người lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, trong đó có cả doanh nghiệp ngoài quốc doanh và tư nhân. Tính đến năm 2002, có khoảng 4,4 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội, trong đó khu vực Nhà nước là 3,8 triệu người (chiếm 86,4% so với tổng số người tham gia0. Tỷ lệ lao động nữ tham gia bảo hiểm xã hội hiện nay rất cao (chiếm 50,5%), trong đó nữ cán bộ, công chức khu vực hành chính sự nghiệp là 52,2%. Điểm hạn chế hiện nay là tỷ lệ tham gia bảo hiểm xã hội của người lao động ở khu vực ngoài quốc doanh còn thấp, khoảng từ 15- 20%. Nguyên nhân chủ yếu là do n gười sử dụng lao động chưa nghiêm chỉnh chấp hành luật pháp, đồng thời việc thanh tra, kiểm tra của các cơ quan chức năng chưa được tiến hành thường xuyên để xử lý kịp thời vi phạm. Hiện nay, các cơ quan chức năng đang gấp rút tham mưu cho Chính phủ hoàn t hiện chính sách bảo hiểm xã hội hưu trí tự nguyện để mọi người lao động thuộc các thành phần kinh tế, kể cả người nông dân và lao động tự do được có lương hưu. Khi chính sách này được ban hành, sẽ mở ra cơ hội cho khoảng 30 triệu lao động tham gia.

- Về vấn đề phụ nữ làm kinh tế gia đình: Phụ nữ làm kinh tế gia đình được hưởng các quyền lợi như nam giới theo quy định chung, ngoài ra không có quy định riêng nào khác. Trong những n ăm gần đây, Chính phủ Việt Nam đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm phát triển kinh tế hộ gia đình, đặc biệt phát triển mạnh ở khu vực nông thôn, coi mỗi hộ gia đình là một đơn vị kinh tế, tạo việc làm cho chính các thành viên trong gia đình, thu hút lao động tại chỗ, góp phần xoá đói giảm nghèo và nâng cao đời sống nhân dân. Các mô hình cho vay tín dụng nhỏ từ các ch ương trình việc làm, xoá đói giảm nghèo, kinh tế trang trại, đã giúp phụ nữ vừa có việc làm, vừa tăng thu nhập cho gia đình. Ngoài ra, phụ nữ còn được sự quan tâm của các tổ chức đoàn thể. Đặc biệt các cấp Hội phụ nữ được Chính phủ cho phép đứng ra làm tín chấp để tổ chức cho hội viên vay vốn làm kinh tế gia đình. Hàng năm, có khoảng 30% trong tổng số dự án nhỏ do các cấp Hội phụ nữ đứng ra tổ chức cho phụ nữ vay. Mức thu nhập bình quân của người làm kinh tế gia đình bằng khoảng 40-60% và khoản thu nhập này đã đóng góp vào tăng thu nhập cho bản thân và gia đình họ.

- Về các dịch vụ hỗ trợ người lao động: Cùng với đầu tư tăng trưởng kinh tế, Chính phủ Việt Nam cũng rất quan tâm đến phát triển chính sách xã hội, đáp ứng nhu cầu ngày một t ăng của người dân. Qua đó, phụ nữ cũng được hỗ trợ đáng kể thông qua các dịch vụ xã hội nh ư nhà trẻ, mẫu giáo, giúp việc gia đình, thực phẩm chế biến sẵn... Hiện nay, hệ thống nhà trẻ, mẫu giáo được mở rộng và phát triển với nhiều loại hình (như công lập, bán công, tư thục) ở cả thành thị và nông thôn. Riêng với khu vực thành phố, nhu cầu về giúp việc gia đình cũng ngày càng phổ biến hơn. Việc phát triển loại hình dịch vụ này đã tạo thêm cơ hội việc làm cho lao động nữ, đặc biệt là phụ nữ nông thôn và nữ sinh viên. Lao động giúp việc gia đình đã được pháp luật thừa nhận và bảo vệ theo quy định của Bộ luật Lao động.

11.3. Một số tồn tại và hướng khắc phục

79

Kết luận

Báo cáo CEDAW lần 5-6

Việc thực hiện chính sách đối với lao động nữ trên thực tế còn có bất cập, trong đó nổi lên một số vấn đề như: tuổi hưu của lao động nữ như đã nêu ở trên, lao động nữ khu vực nông thôn chưa được thụ hưởng các chính sách về bảo hiểm xã hội, điều kiện an toàn, vệ sinh lao động và phương tiện sản xuất còn thấp kém, tỷ lệ mắc bệnh nghề nghiệp cao, cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực thi luật lao động tại các doanh nghiệp còn thiếu hiệu quả.

Hiện nay, Bộ Lao động -Thương binh và Xã hội đã đề ra hướng khắc phục trong thời gian tới và tập trung vào một số điểm sau:

- Nghiên cứu việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 23-1996/NĐ- CP của Chính phủ ngày 18/4/1996 để trình Chính phủ. Việc sửa đổi theo hướng: Nhà nước dành một phần kinh phí của ngân sách đào tạo nghề để hỗ trợ các trường nghề tổ chức đào tạo nghề dự phòng cho lao động nữ; quy định một số mục được chi từ khoản tiền được giảm thuế để doanh nghiệp chi thêm cho lao động nữ; Ban nữ công cơ sở được tham gia vào việc xem xét, quyết định các vấn đề liên quan đến quyền lợi lao động nữ như nâng lương, xét thưởng, đi học...

- Xây dựng và trình Chín h phủ ban hành bảo hiểm xã hội tự nguyện, nhằm đảm bảo cho mọi đối tượng đều được thụ hưởng các chính sách bảo hiểm.

- Nghiên cứu và trình Chính phủ giải pháp về tuổi nghỉ hưu của lao động nữ.

- Quy định và hướng dẫn công tác an toàn, vệ sinh lao động trong nông nghiệp, làng nghề có sử dụng nhiều lao động nữ; tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức về an toàn, vệ sinh lao động đối với các cấp chính quyền để chỉ đạo thực hiện tốt công tác này đối với người sử dụng lao động và người lao động.

- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thực hiện chính sách đối với lao động nữ, nhất là đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh; sửa đổi, bổ sung các hành vi vi phạm về thực hiện chính sách đối với lao động nữ trong Nghị định xử phạt các hành vi vi phạm pháp luật lao động; nghiên cứu xây dựng chế độ khen thưởng và xử phạt đối với các doanh nghiệp thực hiện chính sách đối với lao động nữ.

80

Kết luận

Báo cáo CEDAW lần 5-6

Điều 12

Tiếp cận bình đẳng của phụ nữ tới dịch vụ chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ 12.1. Chủ trương, chính sách về chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân

Ngày 22/01/2001, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 06- CT/TW về việc củng cố và hoàn thiện mạng l ưới y tế cơ sở, nhằm nâng cao chất lượng và đẩy mạnh công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân. Nghị quyết Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 2001) quy định : Nâng cao tính công bằng và hiệu quả trong tiếp cận và sử dụng các dịch vụ chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ của nhân dân; tiếp tục thực hiện các mục tiêu về y tế quốc gia; nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ ở tất cả các tuyến; đặc biệt, coi trọng tăng cường dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ cho trẻ em, người bị di chứng chiến tranh, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng căn cứ cách mạng, vùng sâu, vùng xa; giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng, tỷ lệ tử vong của trẻ dưới 5 tuổi, tỷ lệ tử vong của bà mẹ có liên quan đến thai sản.

Để thể chế hoá các chủ trương nói trên của Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật với mục tiêu chung là bảo vệ quyền chủ động, tự nguyện, bình đẳng của mỗi cá nhân, trong đó có phụ nữ đối với việc tiếp cận, thụ hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ có chất lượng, ổn định và nâng cao rõ rệt chất lượng dân số.

Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Người cao tuổi (năm 20000 và Pháp lệnh Dân số (n ăm 2003). Lần đầu tiên, vấn đề giới đã được quy định rõ nét trong Pháp lệnh Dân số nh ư : Cấm lựa chọn giới tính của thai nhi d ưới mọi hình thức; quy định trách nhiệm của Nhà nước trong việc ban hành chính sách và biện pháp nhằm loại trừ mọi hình thức phân biệt giới, phân biệt đối xử giữa con trai và con gái; đảm bảo việc chủ động, tự nguyện, bình đẳng của mỗi cá nhân, gia đình trong chăm sóc sức khoẻ sinh sản, thực hiện quy mô gia đình ít con.

Chính phủ đã ban hành các Nghị định số 74/2000/NĐ-CP về kinh doanh và sử dụng các sản phẩm thay thế sữa mẹ để bảo vệ và khuyến khích việc nuôi con bằng sữa mẹ; Nghị định số 12/2003/NĐ-CP về sinh con theo phương pháp khoa học; Nghị định số 104/2003/NĐ-CP Quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Dân số.

Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định phê duyệt Chiến lược quốc gia về chăm sóc sức khoẻ sinh sản đến năm 2010; Chiến lược dinh dưỡng quốc gia đến năm 2010; Chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân giai đoạn 2001- 2010; Chiến lược Dân số Việt Nam giai đoạn 2001-2010 (Quyết định số 147/2000/QĐ- TTg); Chương trình mục tiêu quốc gia Phòng, chống một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm và phòng, chống AIDS đến năm 2005 (Quyết định số 190/2001/QĐ- TTg); Chương trình mục tiêu quốc gia Dân số và Kế hoạch hóa gia đình đến năm

81

Kết luận

Báo cáo CEDAW lần 5-6 2005 (Quyết định số 18/2002/QĐ-TTg); Quyết định số 139/2002/QĐ-TTg ngày 15/10/2002 về việc khám, chữa bệnh cho người nghèo.

Để hướng dẫn thực hiện các quy định nói trên, Bộ Y tế đã ban hành những văn bản quy định về các nhiệm vụ kỹ thuật trong lĩnh vực chăm sóc sứ c khoẻ sinh sản, chuẩn quốc gia về y tế xã giai đoạn 2001-2010 và chuẩn quốc gia về ch ăm sóc sức khoẻ sinh sản với 6 nhóm dịch vụ (như làm mẹ an toàn, kế hoạch hoá gia đình, phòng chống các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản, các bệnh lây truyền qua đường tình dục và phòng chống lây nhiễm HIV/AIDS, chăm sóc sức khoẻ sinh sản vị thành niên, phá thai an toàn, tư vấn). Đây chính là những công cụ giúp các c ơ sở y tế nâng cao chất lượng dịch vụ và hạn chế tối đa những sai sót có thể xảy ra gây thiệt hại cho sức khoẻ nhân dân, nhất là đối với phụ nữ.

Trong thời gian qua, chi ngân sách Nhà nước dành cho lĩnh vực y tế tăng : năm 2002 là 7.262,4 tỷ đồng; năm 2003 là 7.751 tỷ đồng (khoảng 4,5% trong tổng chi ngân sách Nhà nước).

12.2. Cơ chế tổ chức và bộ máy chăm sóc sức khoẻ phụ nữ Trước tháng 5/2003, Bộ y tế đã được củng cố và hoàn thiện theo quy định tại Nghị định số 01/1998/NĐ-CP ngày 03/01/1998 của Chính phủ.

Hiện nay, Bộ Y tế đang được củng cố và hoàn thiện tổ chức theo quy định tại Nghị định số 49/2003/NĐ-CP ngày 15/5/2003 của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Y tế. Theo quy định tại Nghị định này, Vụ Bảo vệ sức khoẻ bà mẹ, trẻ em và kế hoạch hoá gia đình đã được đổi tên thành Vụ Sức khoẻ sinh sản.

Các cơ sở y tế từ trung ương đến cơ sở, cả y tế công lập và ngoài công lập, đều có nhiệm vụ cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản và đang triển khai thực hiện Hướng dẫn Chuẩn quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản. Nhờ đó, hệ thống tổ chức và cơ chế hoạt động thêm hoàn thiện, đội ngũ cán bộ kỹ thuật được chuyên môn hoá, chất lượng công tác ngày càng cao, đặc biệt là phát triển nhân lực y tế cơ sở. Đến cuối năm 2002, 100% số xã, phường, thị trấn trong cả nước có cán bộ y tế, trong đó số xã có bác sỹ tăng từ 33,86% năm 1999 lên 61,5% năm 2002. Tính đến 31/12/2003 có 93,2% số trạm y tế xã có nữ hộ sinh hoặc y sĩ sản nhi. Số thôn, bản có nhân viên y tế tăng từ 59,41% năm 1999 lên 89,8% năm 2002. Tại 61 Trung tâm Bảo vệ sức khoẻ bà mẹ và trẻ em và kế hoạch hoá gia đình có 321 bác sỹ chuyên khoa sản, 60 bác sỹ chuyên khoa nhi, 228 y sỹ sản nhi và 367 nữ hộ sinh. Với sự phát triển nhanh chóng của các điểm bán lẻ thuốc, trong đó có cơ sở của tư nhân (chiếm 72% thị trường bán lẻ), đã tạo nên mạng lưới cung ứng thuốc thiết yếu tới tận các xã, phường vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo và đạt chỉ tiêu của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đề ra. Đây là những điều kiện quan trọng đảm bảo cho phụ nữ Việt Nam được tiếp cận và sử dụng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ngày càng thuận lợi và có chất lượng. Nhờ có Quyết định số 139/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ quy định việc mua thẻ bảo hiểm y tế hoặc thanh toán trực tiếp cho 82

Kết luận

Báo cáo CEDAW lần 5-6 mọi dịch vụ khám, chữa bệnh từ 50.000-70.000VNĐ/người/năm nên việc khám, chữa bệnh cho phụ nữ nghèo cũng được bảo đảm. Hàng năm, có khoảng 6 triệu phụ nữ được hưởng chính sách này.

Đội ngũ nữ cán bộ y tế chiếm 62% tổng số cán bộ ngành y tế và chiếm tỷ lệ lớn ở tất cả các khâu khám, chữa bệnh, nghiên cứu khoa học và đào tạo. Hiện nay, Bộ trưởng Bộ Y tế là nữ. Tỷ lệ cán bộ nữ tham gia lãnh đạo trong ngành nói chung còn rất khiêm tốn, cụ thể là: cấp cục, vụ, viện, bệnh viện là 14,4%, cấp sở là 17,6%. Nhận thức rõ vai trò quan trọng của phụ nữ trong sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ nhân dân, Kế hoạch hành động vì sự tiến bộ phụ nữ đến năm 2005 của ngành y tế đã đặt chỉ tiêu phấn đấu đến năm 2005 có 30-35% nữ tham gia lãnh đạo các cấp trong toàn ngành. 12.3. Công tác chăm sóc sức khoẻ phụ nữ và cung cấp các dịch vụ KHHGĐ

So với năm 2000, tình hình chăm sóc sức khoẻ cho phụ nữ nói chung và chăm sóc sức khoẻ sinh sản nói riêng của Việt Nam tiếp tục có những chuyển biến đáng kể. Trong 4 năm qua, tuổi thọ bình quân tăng. Năm năm 2002, tuổi thọ bình quân đạt 71 tuổi, trong đó 73 tuổi với phụ nữ và 70 tuổi với nam giới. Tổng tỷ suất sinh giảm (năm 2000 là 2,28, năm 2001 là 2,25, năm 2002 là 2,28 và năm 2003 là 2,13). Sự cam kết chính trị mạnh mẽ cùng với mạng l ưới chăm sóc sức khoẻ rộng khắp trên toàn quốc là một trong những yếu tố quan trọng góp phần làm giảm đáng kể tỷ lệ chết mẹ và chết trẻ em ở Việt Nam. Năm 2002, tỷ lệ chết trẻ em gái d ưới 5 tuổi là 31,4% và trẻ em trai 34,2%. Năm 2003, tỷ lệ chết mẹ là 85/100.000 trẻ đẻ sống, tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 1 tuổi là 21%o (trong đó trẻ em trai là 40,2%o, trẻ em gái 32,9%o). Các tỷ lệ này của Việt Nam được coi là tốt hơn nhiều so với các quốc gia có cùng mức thu nhập quốc dân bình quân đầu người.

Theo thống kê của Bộ Y tế n ăm 2003, khám phụ khoa đạt 5,7 triệu lượt người, số lần khám thai bình quân tăng lên đáng kể và đạt 2,5 lượt, tỷ lệ phụ nữ sinh con được cán bộ y tế chăm sóc đạt 95,8%; có 91% phụ nữ có thai được tiêm chủng uốn ván hai lần trở lên và đạt 2,5 lần/phụ nữ có thai.

Năm 2003, số l ượt người nạo hút thai là 174.505 (giảm 19,84% so với năm 2000) do các cặp vợ chồng áp dụng biện pháp tránh thai đạt kết quả tốt hơn. Công tác tuyên truyền và cung cấp các dịch vụ KHHG Đ hiện đại ngày càng thuận lợi cho người sử dụng, giúp phụ nữ có nhiều cơ hội chủ động lựa chọn biện pháp tránh thai phù hợp. Số ng ười tiếp cận và sử dụng các biện pháp tránh thai ngày càng nhiều, tăng từ 71,9% năm 1999 lên 76,9% năm 2002 (Xem thêm Biểu 5.3 Phụ lục số liệu). Có được sự chuyển biến trên là do ngành dân số và y tế triển khai Chiến lược Dân số giai đoạn 2001-2010 và Chương trình Làm mẹ an toàn giai đoạn 2003-2010, đồng thời triển khai các biện pháp tích cực như tiếp thị bao cao su. Tuy nhiên, điểm đáng lưu ý hiện nay là sự tham gia của nam giới vào công tác KHHG Đ còn rất hạn chế, gánh nặng chủ yếu vẫn dồn sang phụ nữ và điều này được thể hiện rõ qua cơ cấu sử dụng các biện pháp tránh thai: tỷ lệ sử dụng vòng tránh thai là 57%, thuốc tránh thai 11,4%, bao cao su 7,5%, triệt sản nam 0,5% (n ăm 2003). Nguyên nhân là do nhận thức về vai trò, trách nhiệm của nam giới chưa đầy đủ, hạn chế của công tác truyền

83

Kết luận

Báo cáo CEDAW lần 5-6 thông, vận động cũng như rào cản của phong tục tập quán, khó khăn trong khả năng cung cấp các dịch vụ bảo đảm chất lượng và sự tiện lợi.

Công tác chăm sóc sức khoẻ phụ nữ cao tuổi cũng có nhiều chuyển biến nhờ những cải thiện đời sống của nhân dân và việc triển khai thực hiện Pháp lệnh người cao tuổi. Người cao tuổi được hưởng dịch vụ ưu tiên như khám, chữa bệnh tại các cơ sở y tế và các cụ trên 90 tuổi được cấp miễn phí thẻ bảo hiểm y tế theo Nghị định 120/2003/CP của Chính phủ.

12.4. Vấn đề dinh dưỡng

Thực hiện các mục tiêu của Chiến lược quốc gia về Dinh dưỡng giai đoạn 2001- 2010, trong thời gian vừa qua, Việt Nam đã tích cực triển khai đồng bộ nhiều giải pháp phòng, chống suy dinh dưỡng cho người dân nói chung và cho bà mẹ mang thai, trẻ em dưới 5 tuổi nói riêng. Mô hình dinh dưỡng gia đình "màu xanh rau ngót, màu vàng đu đủ, màu đỏ trứng gà" được nhân ra diện rộng để mỗi gia đình chủ động tự giải quyết vấn đề dinh dưỡng qua từng bữa ăn. Năm 2000 nhiệt l ượng tiêu dùng bình quân đạt 1931 Kcal/người/ngày. Kết quả là tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ có thai giảm từ 52% năm 1995 xuống còn 32% n ăm 2000. Để góp phần thực hiện các mục tiêu của Chiến lược Quốc gia về Dinh dưỡng, Bộ Y tế đã ban hành "10 lời khuyên dinh dưỡng". Các địa phương đã hưởng ứng, phát động và tổ chức hội thi nhân "Ngày vi chất dinh d ưỡng 1 và 2/6" hàng năm nhằm theo dõi thể trạng trẻ sơ sinh, cung cấp Vitamin cho trẻ em, cung cấp viên sắt cho phụ nữ có thai, thiếu nữ 15 tuổi và bà mẹ sau đẻ. Đặc biệt, “10 lời khuyên dinh dưỡng” đã được chuyển thể thành thơ, ca, hò, vè giúp nhân dân dễ nghe, dễ hiểu, dễ nhớ để thực hiện. Vấn đề còn tồn tại là tỷ lệ thiếu máu, suy nhược cơ thể của phụ nữ cao hơn so với nam giới. 12.5. Công tác phòng chống các bệnh lây truyền qua đường tình dục, bao gồm cả HIV/AIDS

Tình hình mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục tuy có giảm nhưng không đáng kể và ch ưa bền vững. Số mắc giảm từ 199.188 tr ường hợp năm 1998 xuống còn 180.125 trường hợp năm 2002. Nguyên nhân một phần do chất l ượng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản còn thấp, phụ nữ nông thôn miền núi còn ít được tiếp cận.

Tình hình lây nhiễm HIV/AIDS tiếp tục gia t ăng, xuất hiện nhiều nhất ở nhóm nghiện chích ma tuý. Số người nhiễm HIV/AIDS được phát hiện tăng từ 11.201 trường hợp năm 2000 lên 76.180 tính đến tháng 12/2003, trong đó nữ chiếm 13,98%. Năm 2002, trong tổng số những ng ười nhiễm bệnh thì 60% là do tiêm chích ma tuý, 6,03% lây qua đường tình dục và 4% là phụ nữ bán dâm. Tình hình nhiễm HIV trong nhóm phụ nữ tr ước khi sinh con tăng từ 0,2% n ăm 2000 lên 0,34% năm 2001 và 0,39% năm 2002. Đặc biệt, số trẻ bị nhiễm HIV do mẹ truyền sang cũng gia tăng: năm 2000 là 67 trường hợp và năm 2001 là 83. Hiện nay, Chính phủ đang triển khai Chiến lược quốc gia phòng, chống HIV/AIDS đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 nhằm hạn chế số người lây mới và điều trị cho những người đã nhiễm.

84

Kết luận

Báo cáo CEDAW lần 5-6

Trong thời gian tới, ngành Y tế và ngành Dân số, Gia đình và Trẻ em tiếp tục phối hợp với Hội LHPNVN, Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và các ban, ngành, đoàn thể có liên quan ở Trung ương và các địa phương triển khai thực hiện có hiệu quả các quan điểm, mục tiêu, giải pháp về chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân, trong đó chú trọng tới công tác chăm sóc sức khoẻ sinh sản, phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em, phòng chống các bệnh lây qua đường tình dục, phòng chống HIV/AIDS... Công tác tuyên truyền giáo dục về giới tính và tình dục an toàn cũng sẽ tiếp tục được đẩy mạnh hơn nữa, nhất là trong đối tượng thanh niên, vị thành niên. Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với các cơ quan hữu qu an tiếp tục triển khai Chiến lược quốc gia phòng, chống HIV/AIDS đến năm 2010 và tầm nhìn 2020; chuẩn bị trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án đẩy mạnh xã hội hoá công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân.

Để đẩy mạnh công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân, Chính phủ sẽ trình Quốc hội dự án Luật bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân (sửa đổi) và dự án Pháp lệnh phòng, chống HIV/AIDS (sửa đổi).

85

Kết luận

Báo cáo CEDAW lần 5-6

Điều 13

Phúc lợi kinh tế-xã hội và văn hoá

- Pháp lệnh số 28/2000/PL-UBTVQH10 ngày 25/9/2000 của Uỷ ban th ường vụ Quốc hội về Thể dục thể thao. Pháp lệnh này quy định việc khuyến khích và tạo điều kiện để toàn dân tham gia hoạt động và hưởng thụ các giá trị thể dục, thể thao, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, đồng thời giữ gìn và phát triển thể thao dân tộc. Như vậy, với tư cách là công dân, phụ nữ hoàn toàn bình đẳng với nam giới trong việc tham gia vào các hoạt động thể dục, thể thao.

13.1. Các quy định luật pháp, chính sách mới

- Nghị định số 07/2000/NĐ-CP của Chính phủ ngày 09/3/2000 về chính sách cứu trợ xã hội. Nghị định này được ban hành nhằm hỗ trợ, giúp đỡ về vật chất và tinh thần cho người già cô đơn, trẻ mồ côi, người tàn tật nặng... Phụ nữ cô đơn không nơi nương tựa, không có nguồn thu nhập, từ đủ 55 tuổi trở lên thuộc diện cứu trợ xã hội thường xuyên.

- Nghị định số 111/2002/NĐ-CP của Chính phủ ngày 31/12/2002 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Thể dục, thể thao.

- Quyết định số 19/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 28/01/2003 phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa đến năm 2005.

- Quyết định số 170/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 14/8/2003 về Chính sách ưu đãi hưởng thụ văn hóa nhằm trợ giúp các đối tượng chính sách được tiếp cận tới các dịch vụ văn hóa xã hội.

- Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg của Thủ t ướng Chính phủ ngày 02/12/2003 về việc phê duyệt Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 nhằm cải thiện chất l ượng môi trường sống cho nhân dân.

- Chương trình phối hợp số 330/CTPH ngày 11/8/2000 giữa Hội LHPNVN và Uỷ ban Thể dục- Thể thao về chỉ đạo phong trào thể dục, thể thao của phụ nữ giai đoạn 2000 - 2002. Một trong các nội dung của Chương trình này là hàng năm, TW Hội LHPNVN chỉ đạo các cấp Hội tổ chức cho phụ nữ tham gia các giải thể thao quần chúng do ngành thể dục thể thao và các liên đoàn thể thao tổ chức.

13.2. Bảo đảm quyền được hưởng các phúc lợi gia đình và xã hội cho phụ nữ

Chính sách phúc lợi xã hội ở Việt Nam không có bất cứ sự phân biệt nào về giới tính cũng như thành phần, tín ngưỡng, đồng thời có ưu tiên cho đồng bào dân tộc, các đối tượng chính sách xã hội. Việc đảm bảo cho phụ nữ được hưởng các phúc lợi gia đình đã được nêu trong báo cáo trước vẫn được duy trì và có phần cải thiện nhờ kết quả triển khai Luật Hôn nhân và Gia đình (năm 2000) và các tiến bộ về kinh tế - xã hội nói chung của đất nước trong 4 năm trở lại đây.

86

Kết luận

Báo cáo CEDAW lần 5-6

Trong giai đoạn này, Nhà nước Việt Nam chú trọng phát triển chính sách phúc lợi xã hội, đặc biệt hướng mạnh vào khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Những chính sách đó chủ yếu được thực hiện thông qua các chương trình, dự án phát triển kinh tế-xã hội, xoá đói giảm nghèo và việc làm cũng như các chương trình viện trợ phát triển, nhân đạo quốc tế. Thông qua đó, đời sống của người phụ nữ ở nông thôn đã được cải thiện một bước. Những thành quả đạt được đã tạo điều kiện cho khoảng 70% phụ nữ được hưởng thụ từ những công trình phúc lợi công cộng về điện thắp sáng, đường giao thông, điểm bưu điện, văn hoá, trạm y tế, trường học.

13.3. Bảo đảm cho phụ nữ quyền được vay tiền, cầm cố tài sản và tham gia các hình thức tín dụng

Chính sách của Việt Nam về lĩnh vực này có nhiều đổi mới, tạo điều kiện cho phụ nữ được tham gia ngày càng nhiều hơn và tiếp cận thuận lợi hơn tới các nguồn tài chính. Chương trình vay tín dụng đối với các hộ nghèo ngày càng được nhiều phụ nữ tham gia. Theo báo cáo của Ngân hàng chính sách xã hội, tính đến tháng 12/2002, số hộ nghèo do nữ làm chủ hộ được vay vốn tín dụng chiếm khoảng 60% (tăng 20% so với thời điểm báo cáo lần 3 và 4). Tỷ lệ hộ nghèo vay vốn tín dụng khá cao, tập trung ở một số tỉnh miền núi phía Bắc (nh ư Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hoà Bình, Hà Giang). Đặc biệt, Chính phủ đã có những thay đổi về mặt chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho người vay có khả năng đầu tư lớn hơn. Cụ thể, Ngân hàng nâng mức cho vay từ 3 triệu lên 7 triệu và thời hạn được kéo dài từ 36 tháng lên 60 tháng. Đặc biệt, năm 2000, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn đã ký với Hội LHPNVN Nghị quyết liên tịch về tổ chức thực hiện cho vay vốn đối với phụ nữ. Sau 3 năm triển khai Nghị quyết này, tính đến 30/6/2003, đã có 57/90 chi nhánh tổ chức cho 1,3 triệu phụ nữ vay với tổng số vốn 5.134 tỷ đồng. Đây là một mô hình tiêu biểu do tỷ lệ nợ quá hạn rất thấp (0,71%), phụ nữ sử dụng rất hiệu quả đồng vốn được vay và cũng giúp xã hội hoá một bước công tác tín dụng ngân hàng. Nghị quyết này đã được hai ngành tổng kết, rút kinh nghiệm và triển khai tiếp trong thời gian tới.

Tuy nhiên, những khó kh ăn hiện nay đối với phụ nữ khi vay vốn là trình độ hiểu biết cũng như kỹ năng quản lý vốn còn hạn chế, thiếu n ăng lực xây dựng phương án sản xuất, kinh doanh đạt hiệu quả cao...

13.4. Quyền được tham gia các hoạt động giải trí, thể thao và văn hoá

Pháp lệnh Thể dục, thể thao đã quy định quan điểm của Nhà nước trong việc khuyến khích toàn dân tham gia thể dục, thể thao với nhiều loại hình phong phú và đa dạng. Bên cạnh đó, phụ nữ còn tham gia vào các chương trình hoạt động thể dục, thể thao do Hội LHPNVN và Uỷ ban Thể dục – Thể thao phối hợp tổ chức. Theo báo cáo của Uỷ ban Thể dục- Thể thao về kết quả thực hiện chương trình này, đã có hàng chục vạn phụ nữ tham gia các hoạt động thể thao quần chúng. Năm 2003, Hội LHPNVN đã phát động phong trào “Mỗi hội viên phụ nữ chọn cho mình một môn thể thao thích hợp để luyện tập hàng ngày”. Hai ngành đã tổ chức gặp gỡ các nữ vận động viên đạt thành tích cao tại Đại hội Thể thao khu vực Đông Nam á 21 (SEAGAME) và trao tặng phẩm cho các nữ vận động viên tiêu biểu do Báo thể thao 87

Kết luận

Báo cáo CEDAW lần 5-6 Việt Nam bình chọn năm 2001; tổ chức thi đấu giao hữu dành riêng cho phụ nữ với các môn thể thao (chạy việt dã, bóng chuyền, bóng bàn, cầu lông…); tổ chức các câu lạc bộ thể dục thể thao. Hiện nay, đã có khoảng 1000 câu lạc bộ thể dục, thể thao với các loại hình (CLB thái cực quyền, CLB dưỡng sinh, CLB thẩm mỹ... ). Kết quả, qua 2 kỳ SEAGAME lần thứ 21 và 22 được tổ chức vào các năm 2001 và 2003, tỷ lệ vận động viên nữ đạt huy chương các loại chiếm trên 60%.

Tiếp tục thực hiện chủ trương xã hội hoá trong lĩnh vực thể thao, văn hoá theo tinh thần Nghị định 73/1999/NĐ-CP của Chính phủ, đến nay phong trào thể thao, văn hoá đã phát triển mạnh và rộng khắp trên cả nước, thu hút mọi đối tượng tầng lớp dân cư tham gia, trong đó có phụ nữ. Đặc biệt, có khoảng 80% địa phương cấp quận, huyện và tương đương đã tạo điều kiện, quy hoạch đất đai dành cho hoạt động văn hoá, thể thao, vui ch ơi giải trí. Trong thời gian từ 2000- 2002, hưởng ứng Đại hội thể dục thể thao toàn quốc, 85% xã phường tổ chức Đại hội, thu hút trên 64 vạn người tham gia, trong đó phụ nữ chiếm một tỷ lệ đáng kể.

Trong lĩnh vực v ăn hoá, việc thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” cũng thu được nhiều kết quả đáng khích lệ, góp phần tăng tỷ lệ người dân được thụ hưởng các phương tiện thông tin đại chúng. Kết quả thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 2003 cho thấy: 93% số hộ nghe ch ương trình phát thanh của Đài tiếng nói Việt Nam; 86% số hộ được xem chương trình của Đài truyền hình Việt Nam; diện phủ sóng truyền hình cả nước đạt 90% và phát thanh đạt 92%.

Việc thực hiện chủ trương xã hội hoá văn hoá đã tăng thêm nhiều c ơ hội cải thiện, nâng cao đời sống tinh thần cho phụ nữ. Các loại hình hoạt động văn hoá phát triển ngày một phong phú, đa dạng mang đậm bản sắc dân tộc trên phạm vi toàn quốc. Đặc biệt, Nhà nước rất chú trọng tới đời sống văn hoá của các vùng đồng bào dân tộc thiểu số qua các chương trình hỗ trợ, đầu tư kinh phí để xây dựng nhà văn hoá để nhân dân tiện sinh hoạt cộng đồng. Hiện nay, có nhiều đài phát thanh và truyền hình địa phương phát sóng chương trình bằng tiếng Việt và các thứ tiếng dân tộc. Chỉ còn tỷ lệ nhỏ phụ nữ ở vùng xa xôi, hẻo lánh, dân cư sống thưa thớt, chưa có điều kiện thụ hưởng các chương trình văn hoá, nghệ thuật, phát thanh, truyền hình.

Để đạt những kết quả tiến bộ kể trên, Nhà nước đã đầu tư ngân sách cho lĩnh vực văn hoá- thông tin với mức kinh phí ngày càng t ăng qua các năm (năm 2001 là 820 tỷ đồng, năm 2002 là 996 tỷ đồng và năm 2003 là 1302,7 tỷ đồng).

Bên cạnh việc tham gia và thụ hưởng các chương trình văn hoá, thể thao, phụ nữ đã có nhiều đóng góp tích cực vào lĩnh vực này và đã được Nhà nước ghi nhận, trao tặng các danh hiệu cao quý. Tính đến năm 2002, Nhà nước đã khen thưởng cho các tập thể và cá nhân nữ nh ư sau: Nghệ sỹ nhân dân có 35 chị/152 (chiếm 23%); Nghệ sỹ ưu tú có 459 chị/1245 (chi ếm 36,86%); Nhà giáo nhân dân có 3 chị/ 137 (chiếm 2,18%); Nhà giáo ưu tú có 513 chị/3419 (chiếm 15%); Thầy thuốc nhân dân có 42 chị/109 (chiếm 12,8%); Thầy thuốc ưu tú có 470 chị/2467 (chiếm 18,56%); Giải thưởng Côvalepxcaia có 26 chị và 10 tập thể nữ. Nhà nước đã ghi nhận công lao và phong tặng danh hiệu cho 19 nữ anh hùng và 272 nữ chiến sỹ thi đua trong thời kỳ đổi mới.

88

Kết luận

Báo cáo CEDAW lần 5-6

Đặc biệt, tại cuộc bình chọn Phụ nữ ấn tượng khu vực Châu á năm 2002, Việt Nam đã được nhận 01 giải thưởng về lĩnh vực doanh nghiệp. Như vậy, có thể thấy, vai trò, vị trí của phụ nữ Việt Nam đã ngày càng được khẳng định cả trong nước và quốc tế.

So với báo cáo trước, mức độ thụ hưởng của phụ nữ trong lĩnh vực thể thao, văn hoá, xã hội đã được cải thiện, chất lượng cuộc sống của nhân dân nói chung trong đó có phụ nữ nói riêng đã được nâng cao. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế hạn chế cũng như những định kiến giới vẫn còn tồn tại nên sự tham gia và thụ hưởng các hoạt động thể thao, văn hoá, xã hội của phụ nữ vẫn ở mức thấp h ơn so với nam giới, cũng như so với nhu cầu thực tế của chị em. Để cải thiện tình hình trên, trong thời gian tới, các cơ quan hữu quan sẽ tiếp tục triển khai các biện pháp tích cực hơn nữa nhằm đảm bảo cho phụ nữ được thụ hưởng các phúc lợi nêu trên. Công tác xã hội hoá các lĩnh vực văn hoá, thể thao sẽ tiếp tục được đẩy mạnh, nhằm tạo thêm các điều kiện và cơ hội tham gia của người dân nói chung, trong đó có phụ nữ.

89

Kết luận

Báo cáo CEDAW lần 5-6

Điều 14 Phụ nữ nông thôn

Nhà nước Việt Nam tiếp tục thực hiện chủ trương công bằng xã hội. Đây là điều kiện c ơ bản để phụ nữ nông thôn được tham gia và thụ hưởng bình đẳng các thành quả phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn. 14.1. Vai trò và những thách thức đối với phụ nữ nông thôn

Nông nghiệp giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. N ăm 2003, nông nghiệp chiếm 21,8% GDP và 75% dân số sống ở nông thôn.

Phụ nữ nông thôn chiếm 50,8% dân số và khoảng 49% lao động nông thôn (năm 2002). Năm 2002, tỷ suất hoạt động kinh tế của phụ nữ nông thôn tương đối cao, đạt 71% (phụ nữ thành thị đạt 56%). Phụ nữ nông thôn tham gia hầu hết các khâu trong sản xuất nông nghiệp, nhiều khâu giữ vai trò chính (chiếm tới 70 - 80% lực lượng lao động) như gieo cấy, chăm sóc, thu hoạch, chăn nuôi. Phụ nữ chiếm 60- 70% lao động trong các nghề như đan lát, bện tết (mâ y, tre, nứa), thêu ren, ươm tơ, dệt vải, dệt chiếu, chế biến lương thực, thực phẩm vv...

Trong 4 năm qua, các chính sách về phát triển nông nghiệp - nông thôn tiếp tục được ban hành như : Quyết định số 132/2000/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 24/11/2000 về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn; Quyết định số 132/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 07/9/2001 về cơ chế tài chính thực hiện chương trình phát triển đường giao thông nông thôn, cơ sở hạ tầng nuôi trồng thủy sản, cơ sở hạ tầng làng nghề ở nông thôn. Đặc biệt, để tăng cường bình đẳng giới và nâng cao vị thế của phụ nữ nông thôn, ngày 28/10/2003, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã thông qua Chiến l ược giới trong ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn đến năm 2010 và KHHĐ về giới trong nông nghiệp và phát triển nông thôn đến năm 2005. Mục tiêu của Chiến lược là điều phối và thúc đẩy nỗ lực của các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội cũng như người dân nhằm đạt được bình đẳng giới trong lĩnh vực nông nghiệp và các khu vực nông thôn- nơi mà chủ yếu là ng ười nghèo và các nhóm đối tượng có hoàn cảnh khó khăn sinh sống, đặc biệt những nơi mà phụ nữ chiếm phần đông lực l ượng lao động nông nghiệp. Đây cũng là lĩnh vực ưu tiên của Chiến l ược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ.

Những năm qua, Nhà nước Việt Nam luôn coi việc phát triển nông nghiệp và nông thôn là ưu tiên hàng đầu. Do vậy, giai đoạn 2000 – 2003 mặc dù giá nông sản trên thị tr ường thế giới giảm sút mạnh nhưng ngành nông nghiệp vẫn có sự t ăng trưởng liên tục, với mức bình quân khoảng 4%/năm. Đó là điều kiện cơ bản để cải thiện đời sống của đại bộ phận tầng lớp nông dân, trong đó có phụ nữ.

Tuy nhiên, những thiệt thòi và thách thức đối với phụ nữ nông thôn như đã nêu trong các báo cáo trước về cơ bản vẫn tồn tại. Do quá trình công nghiệp hoá và đô thị hóa, diện tích đất nông nghiệp đang ngày càng bị thu hep. Số l ượng nông dân, chủ yếu là nam giới ra thành phố tìm việc làm ngày càng tăng, họ chỉ trở về nhà tham gia sản xuất nông nghiệp trong thời gian mùa vụ nên những công việc nặng 90

Kết luận

Báo cáo CEDAW lần 5-6 nhọc trong gia đình đè lên vai người phụ nữ. Thời gian lao động được sử dụng của lao động trong độ tuổi ở nông thôn đã tăng lên và đạt 77,65% (năm 2003), trong đó nữ là 77,36%. Bình quân một phụ nữ phải dành đến 13,6 giờ/tuần (năm 2002) cho các công việc nội trợ, chăm sóc gia đình - những công việc không đem lại thu nhập. Mặt khác, thu nhập của nữ nông dân nhìn chung thấp hơn và chỉ bằng 73% thu nhập của nam giới (năm 2002). Phụ nữ nông dân ở vùng sâu, vùng xa, nhất là nữ chủ hộ độc thân, phụ nữ cao tuổi thuộc vào nhóm người nghèo dễ bị tổn thương nhất. Đặc biệt, phụ nữ dân tộc thiểu số còn chịu nhiều thiệt thòi so với nam giới vì ít quyền quyết định, trình độ học vấn và cơ hội cũng ít hơn. 14.2. Phụ nữ tham gia xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển và hoạt động cộng đồng

Nhờ chủ trương phát huy quyền làm chủ của nhân dân theo c ơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, phụ nữ ngày càng được tạo điều kiện tham gia nhiều hơn vào công tác quản lý nhà n ước, quản lý cộng đồng. Việc tổng kết 5 năm thực hiện Quy chế dân chủ c ơ sở đã cho thấy ph ương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đã được triển khai xuống tất cả các xã phường trong toàn quốc. Riêng Hội LHPNVN đã có kế hoạch cụ thể hướng dẫn cho các cấp hội vận động phụ nữ tham gia như: tích cực đi họp, nhân dân chủ động tham gia bàn bạc các chủ trương và quy định đóng góp xây dựng c ơ sở hạ tầng, công trình phúc lợi, xây dựng các quy ước văn hoá, các biện pháp phòng, chống tệ nạn xã hội tại địa bàn v.v... Việc ban hành Nghị định 79/2003/NĐ-CP của Chính phủ về Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (thay thế cho Quy chế đã nêu ở trên) với nhiều quy định mới đã tạo thêm các cơ hội thuận lợi cho phụ nữ tham gia bàn bạc, quyết định, thực hiện và giám sát các kế hoạch phá t triển ở cơ sở. Bên cạnh đó, phụ nữ còn có tiếng nói đại diện thông qua hoạt động và những đóng góp của các cấp hội phụ nữ trong quản lý nhà nước ở các địa phương theo tinh thần Quyết định số 163/HĐBT năm 1988 của Hội đồng Bộ trưởng và nay là Nghị địnhôsoos 19/2003/NĐ-CP của Chính phủ (Xem thêm Điều 7). 14.3. Về chăm sóc sức khoẻ và kế hoạch hoá gia đình

Như đã nêu tại Điều 12, phụ nữ nông thôn đã được hưởng sự chăm sóc sức khoẻ tốt hơn nhờ chủ trương về tăng cường y tế cơ sở. Nhà nước đã có chính sách bảo hiểm y tế tự nguyện cho những đối tượng nông dân với mức đóng bảo hiểm theo quy định của Uỷ ban nhân dân từng tỉnh,.

Bên cạnh đó, hệ thống y tế miền núi, dân tộc ngày càng được củng cố và nâng cấp đã tạo điều kiện cho phụ nữ dân tộc được tiếp cận tốt hơn đến các dịch vụ y tế và KHHGĐ: Năm 2002, 100% số xã miền núi có trạm y tế, trong đó 83,24% được kiên cố hoá, 69% có trang thiết bị, 80% có điện nước phục vụ; 100% số huyện thực hiện mô hình trung tâm y tế huyện. Đội ngũ cán bộ y tế phát triển đáng kể từ bác sỹ đến nhân viên y tế thôn bản, phục vụ t ương đối kịp thời, đáp ứng được nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân. Năm 2002, có 81,02% phụ nữ nông thôn khi sinh đẻ được cán bộ y tế giúp đỡ (ở thành thị là 97,27%) và 70,79% phụ nữ có thai được khám thai (ở thành thị là 95,78%). Chất lượng khám, chữa bệnh và phòng, chống sốt rét, 91

Kết luận

Báo cáo CEDAW lần 5-6 bướu cổ... được tăng cường và nâng cao. Công tác tuyên truyền phòng, chống các bệnh phụ khoa cho phụ nữ, vệ sinh em gái, chăm sóc sức khoẻ sinh sản ( đẻ sạch, nuôi con theo khoa học ...) được chú trọng và tăng cường hơn. Điều này thể hiện sự cố gắng của NHà nước trong việc cung cấp các dịch vụ y tế cho đồng bào dân tộc thiểu số nói chung và phụ nữ dân tộc thiểu số nói riêng.

Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng suy nhược sức khoẻ của một số bộ phận phụ nữ nông dân, điều kiện phục vụ của các cơ sở y tế nông thôn còn thiếu thốn, chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu chăm sóc sức khoẻ cho phụ nữ, các phụ nữ và trẻ em gái nghèo không đủ tiền mua thuốc chữa bệnh... 14.4. Về giáo dục, đào tạo và hoạt động khuyến nông Như đã nêu ở Điều 10, về mặt luật pháp và chính sách, không có sự phân biệt đối xử giữa nông thôn và thành thị trong việc tiếp cận giáo dục. Tuy nhiên, trên thực tế, tình trạng khá phổ biến ở nông thôn là khi gia đình gặp khó kh ăn về kinh tế thì học sinh nữ thường phải nghỉ học đi làm nhiều hơn nam.

Kết quả đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật nông nghiệp của các trường đại học, trung học và dạy nghề nông, lâm nghiệp trực thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT cho thấy, tỷ lệ nữ sinh trúng tuyển năm học 2 002-2003 là: đại học 27,58%, cao đẳng 52,66%, trung học 52,89% và dạy nghề 27,9%. Năm 2002, tỷ lệ nữ tham gia đào tạo ở các bậc học có sự khác nhau: Tiến sĩ 18,70%, Thạc sĩ 57,4%, Đại học 11,8%, Trung học 40,8% và dạy nghề 13,4%.

Tình hình phụ nữ tham gia các hoạt động khuyến nông đã được cải thiện. Với ưu điểm là cẩn thận, chuyên cần, chu đáo và là người tham gia vào hầu hết các khâu trong quá trình canh tác nông nghiệp nên việc áp dụng khoa học công nghệ của phụ nữ khá hiệu quả. Theo số liệu điều tra của Hội LHPNVN n ăm 2003, cả n ước có 2.796.685 phụ nữ tham gia vào h ướng dẫn, phổ biến, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ mới. 14.5. Vấn đề bảo hiểm xã hội

Như đã nêu trong báo cáo trước, trên cơ sở những kết quả đã đạt được từ việc tiến hành thí điểm bảo hiểm xã hội tự nguyện cho nông dân tại một số địa phương. Tuy nhiên, do điều kiện phát triển kinh tế nông thôn còn nhiều hạn chế, nên các cơ quan hữu quan đã và đang thực hiện những biện pháp thiết thực hơn để chính sách này đạt hiệu quả. Theo điều tra của Bộ Lao động-Thương binh và xã hội, 90% lực lượng lao động có nguyện vọng tham gia bảo hiểm hưu trí tự nguyện nh ưng chỉ có khoảng 10% là có khả năng tham gia và cũng chỉ có 10% đối tượng điều tra có nhu cầu về bảo hiểm thai sản. Nguyên nhân là do thu nhập của nhân dân, trong đó có phụ nữ nông thôn còn rất thấp. 14.6. Cơ hội tiếp cận tín dụng cho phụ nữ nông thôn

92

Kết luận

Báo cáo CEDAW lần 5-6

Trước yêu cầu phát triển nông nghiệp và ngành nghề nông thôn, nhu cầu được tiếp cận với tín dụng, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ và thông tin thị trường ngày càng lớn. Nghị định 78/2002/NĐ-CP của Chính phủ về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chiính sách khác quy định : đối với khoản vay dưới 10 triệu đồng, người vay chỉ cần nộp đơn và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, không phải thế chấp tài sản; tổ chức tín dụng cho các cá nhân, gia đình nghèo vay vốn có bảo lãnh bằng tín chấp của các đoàn thể xã hội như Hội phụ nữ, Hội nông dân... Hiện nay, phụ nữ có thể vay vốn sản xuất kinh doanh từ các nguồn: quỹ của Hội phụ nữ, nhóm phụ nữ tín dụng tiết kiệm, vốn “Ngày tiết kiệm vì phụ nữ nghèo”, vốn ưu đãi cho hộ nghèo, Quỹ xóa đói giảm nghèo, Ngân hàng nông nghiệp và PTNT, Ngân hàng chính sách xã hội ... Theo thống kê của Hội LHPNVN, n ăm 2003 cả n ước có 3,55 triệu phụ nữ được tiếp cận vốn vay từ các nguồn nói trên; số phụ nữ nghèo được vay vốn là 1,04 triệu người, trong đó có trên 29% là phụ nữ nghèo làm chủ hộ. Phụ nữ nông thôn chiếm đa số trong các khoản vay đó.

14.7. Quyền sử dụng đất của phụ nữ nông thôn

Hiến pháp, Luật Đất đai và Luật Hôn nhâ n và Gia đình đảm bảo cho phụ nữ và nam giới được hưởng các quyền như nhau đối với đất đai (Xem thêm Điều 15). Nghị định 70/2001/NĐ-CP của Chính phủ quy định : các hộ gia đình đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trước đây mà chỉ ghi tên chủ hộ thì có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có ghi tên cả vợ và chồng.

Trên thực tế, phụ nữ còn thụ động, ít có cơ hội tham gia vào quá trình giao đất một phần là do chưa nhận thức được đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình trong vần đề đất đai, mặt khác do phong tục, tập quán lâu đời của nông thôn Việt Nam, người chồng thường là chủ hộ, nên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cũng như sổ địa chính của địa phương đều chỉ đăng ký tên chủ hộ. Tình trạng này đã gây khó khăn cho phụ nữ khi họ cần thế chấp quyền sử dụng đất để vay vốn, chia quyền sử dụng đất khi ly hôn, khi đi lấy chồng hoặc nhận thừa kế quyền sử dụng đất khi người chồng qua đời.

Tính đến cuối năm 2002, cả n ước đã cơ bản hoàn thành việc giao ruộng đất cho gần 12 triệu hộ nông dân sử dụng đất nông nghiệp và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp cho 91,74% số hộ, chiếm khoảng 87,02% diện tích đất nông nghiệp. Số giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do phụ nữ đứng tên chiếm khoảng 10-12% do chủ hộ là nữ độc thân hay góa chồng.

14.8. Cơ sở hạ tầng và vệ sinh môi trường nông thôn

Chính phủ Việt Nam rất quan tâm đến việc phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, coi đó là một trong những biện pháp quan trọng nhằm phát triển kinh tế- xã hội ở địa phương và xoá đói giảm nghèo cho người dân nói chung trong đó có phụ nữ nông thôn. Bằng nhiều nguồn vốn khác nhau, chủ yếu bằng kinh phí của Nhà n ước, các công trình điện, đường, trường, trạm đã được xây dựng. Tính đến tháng 6/2003, 100% huyện và 80% xã đã có điện lưới quốc gia. Trong khuôn khổ chương trình đầu 93

Kết luận

Báo cáo CEDAW lần 5-6 tư của Ngân hàng phát triển Châu á và Cơ quan phát triển Pháp cho 23 tỉnh nghèo, mục tiêu năm 2003 và 2004 là nâng diện tích t ưới lên 47.000 ha, cải tạo và nâng cấp 1.980 km đường giao thông nông thôn, cấp nước sinh hoạt cho 1.063.000 người, xây dựng khoảng 3.000 chợ nông thôn (hiện đã có khoảng 5.000 chợ) trong đó tập trung xây dựng các chợ đường biên, chợ cá, chợ rau, chợ nổi ở đồng bằng sông Cửu Long. Xây dựng các trung tâm buôn bán ở các vùng hàng hóa tập trung nhằm giúp phụ nữ nông thôn mua, bán nông sản thuận lợi tạo điều kiện phát triển kinh tế, tăng thu nhập.

Về nước sạch và môi trường nông thôn: Một trong những hoạt động thành công là việc triển khai Ch ương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn trong giai đoạn 1998-2000 và giai đoạn 2001-2005. Mục tiêu của Chương trình là tăng cường sức khoẻ cho nhân dân nông thôn, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em thông qua việc giảm các bệnh liên quan đến nước và vệ sinh; nâng cao điều kiện sống và xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, thu hẹp khoảng cách giữa nông thôn và thành thị. Tính đến năm 2002, cả n ước đã xây dựng h ơn 1,7 triệu công trình vệ sinh nông thôn, trong đó có hơn 1,2 triệu hố xí bảo đảm vệ sinh, 516.600 công trình xử lý chất thải chăn nuôi. Đến cuối năm 2003, cả n ước có 41% số hộ được sử dụng các công trình vệ sinh nông thôn, t ăng 10% so với n ăm 1998; có 55% số dân nông thôn được cấp nước sạch (năm 1998 là 32%). Tính đến hết năm 2003, Chương trình đã cơ bản hoàn thoành việc xây dựng quy hoạch cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn cho 7 vùng và 61 tỉnh, thành.

Về bưu chính viễn thông: Tính đến tháng 4/2003, cả nước có 6.755 điểm bưu điện văn hóa xã, trong đó có 6.014 điểm đã đi vào hoạt động. Tuy nhiên, đến nay, trong số 2.362 xã đặc biệt khó khăn mới có 1.089 xã có điểm bưu điện văn hóa xã (chiếm 46,1%). Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông đang thực hiện ch ương trình trợ giúp thông tin cho những xã đặc biệt khó khăn. 14.9 Phương hướng trong thời gian tới

94 Mặc dù có nhiều cơ hội như đã nêu trên, song phụ nữ nông thôn Việt Nam vẫn phải chịu nhiều thiệt thòi hơn nam giới. Nguyên nhân chính là do còn có sự bất bình đẳng trong tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực chủ yếu trong nông nghiệp, các dịch vụ sản xuất nông nghiệp thiếu nhạy cảm giới... Để khắc phục tình trạng trên, trong thời gian tới, các Bộ, ngành, địa phương sẽ tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ đến năm 2010, trong đó chú trọng các địa bàn nông thôn, vùng dân tộc thiểu số , miền núi, hải đảo. Bộ Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn tiếp tục thực hiện các biện pháp cụ thể triển khai Chiến lược và KHHĐ về giới của ngành. Nhằm đạt được sự bình đẳng và các lợi ích kinh tế-xã hội cho phụ nữ và nam giới, Chiến lược và KHHĐ về giới của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn đã xác định các mục tiêu là tăng cường nhận thức và trách nhiệm giới; tăng khả năng tiếp cận và kiểm soát của phụ nữ đối với các nguồn lực chủ yếu (đất đai, tín dụng, nguồn nước, cơ sở hạ tầng và các dịch vụ công), giáo dục đào tạo và thông tin; đưa các chỉ tiêu giới vào các chính sách, chương trình, dự án của ngành; tăng tỷ lệ nữ tham gia các hoạt động nông nghiệp và phát triển nông thôn, các cương vị lãnh đạo và củng cố bộ máy vì sự tiến bộ phụ nữ.

Kết luận

Báo cáo CEDAW lần 5-6 Để góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập và chuyển dịch c ơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn, Chính phủ sẽ xem xét và ban hành Nghị định về khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn. Ngoài ra, trên cơ sở đề xuất của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Khoa học và Công nghệ, Thủ t ướng Chính phủ đang xem xét thông qua mô hình tín dụng thực hiện hiệu quả Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn đến năm 2020 và Chương trình xây dựng mô hình ứng dụng và chuyển giao khoa học và công nghệ phục vụ phát triển kinh tế-xã hội nông thôn và miền núi đến năm 2010. Đây sẽ là những biện pháp tích cực thúc đẩyphát triển kinh tế - xã hội khu vực nông thôn và miền núi, góp phần cải thiện đời sống người dân, trong đó có phụ nữ.

ủy ban Dân tộc đang xây dựng để trình Quốc hội Dự án Luật Dân tộc nhằm tiếp tục cải thiện điều kiện kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Sắp tới, Quốc hội sẽ thông qua Luật Bảo hiểm Xã hội, tiếp đó, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ trình Chính phủ ban hành chính sách quốc gia về bảo hiểm xã hội tự nguyện cho nông dân.

95

Kết luận

Báo cáo CEDAW lần 5-6

Điều 15 Bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong các quan hệ dân sự trước pháp luật

Kể từ khi Báo cáo ghép về việc thực hiện Công ước CEDAW lần thứ 3 và 4 của Việt Nam được thông qua năm 2000, nguyên tắc không phân biệt đối xử với phụ nữ trong mọi lĩnh vực tiếp tục được đảm bảo và ngày càng được đề cao trong xã hội. Phụ nữ có đầy đủ quyền bình đẳng với nam giới trước pháp luật, trong việc độc lập tham gia vào các quan hệ dân sự, giao kết hợp đồng, quản lý tài sản, tự do lựa chọn nơi cư trú và tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi của mình tại các cơ quan pháp luật.

15.1. Phụ nữ có địa vị pháp lý bình đẳng như nam giới trong các quan hệ dân sự

Như đã nêu trong các báo cáo trước, Luật pháp Việt Nam luôn có cơ chế đảm bảo cho phụ nữ có tư cách pháp nhân như nam giới và có những c ơ hội bình đẳng với nam giới để thực hiện tư cách pháp nhân của mình trên thực tế. Điều này thể hiện ở việc ngày càng có nhiều phụ nữ tham gia vào các giao dịch dân sự. Cụ thể:

Phụ nữ có quyền tham gia các hoạt động nghề nghiệp như nam giới: tỷ lệ nữ tham gia vào các hoạt động nghề nghiệp ngày càng cao hơn so với trước (tham khảo Điều 11). Riêng trong hoạt động tư pháp, tỷ lệ nữ thẩm phán tại Toà án Nhân dân Tối cao chiếm 22%; tại toà án cấp tỉnh thành là 27%; tại toà án cấp quận, huyện là 35%. Tính đến hết quý I/2003, nữ luật sư trong cả nước chiếm 20%, có 12,75% văn phòng luật sư và công ty luật do phụ nữ đảm trách. Theo quy định của pháp luật, khi tham gia tố tụng bảo vệ thân chủ của mình tr ước toà và hội đồng xét xử, các luật sư nam và nữ không bị phân biệt đối xử.

Quyền tự do kinh doanh không phân biệt đối xử giữa nam và nữ vẫn tiếp tục được khẳng định và thực thi trên thực tế. Các quy định này đã tạo ra một khung pháp lý mềm dẻo, thông thoáng hơn, bảo đảm cho phụ nữ dễ dàng tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần nâng cao địa vị của người phụ nữ trong xã hội. Theo báo cáo của Phòng th ương mại và Công nghiệp Việ t Nam, trong 4 năm thực hiện Luật Doanh nghiệp, có trên 27% người mới đăng ký kinh doanh là phụ nữ và 40% hộ gia đình tổ chức sản xuất kinh doanh phụ nữ quản lý, điều hành. Năm 2003, ở Việt Nam, lao động nữ chiếm tỷ lệ khá cao trong các doanh nghiệp: khu vực doanh nghiệp Nhà nước là 42%; khu vực kinh tế tư nhân là 39%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 65%. Tỷ lệ nữ chủ doanh nghiệp tăng so với tr ước: giai đoạn 1990- 1995, tỷ lệ nữ chủ doanh nghiệp là 15 -17%; năm 2001 tỷ lệ này là 24,74%; n ăm 2002 tỷ lệ này là 20%.

Quyền nhân thân gắn liền với tài sản: theo quy định tại Điều 47 của Bộ luật Dân sự, mọi cá nhân không phân biệt nam nữ đều có quyền tự do sáng tạo và các sản phẩm trí tuệ của họ được Nhà nước bảo hộ. Bộ Luật Dân sự, tại Điều 780 và 781 có quy định: các cá nhân, không phân biệt nam nữ được Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu của mình đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp, bao gồm sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, quyền sử dụng đối với tên gọi 96

Kết luận

Báo cáo CEDAW lần 5-6 xuất xứ hàng hoá và quyền sở hữu đối với các đối tượng khác theo quy định của pháp luật. Luật pháp bảo vệ quyền của chủ sở hữu khi có hành vi xâm phạm quyền này. Riêng năm 2002, có 37 phụ nữ trong tổng số 121 ng ười được cấp văn bằng bảo hộ đối với các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp.

Quyền sở hữu tài sản của phụ nữ (bao gồm quyền quản lý, sử dụng và định đoạt): các quy định trước đây trong Hiến pháp và pháp luật về vấn đề này vẫn tiếp tục được duy trì. Phụ nữ không chỉ hoàn toàn bình đẳng với nam giới trong việc quản lý tài sản, mà còn bình đẳng trong việc sử dụng và định đoạt đối với tài sản của mình, có thể bán, cho, tặng hay đầu tư vào quá trình sản xuất kinh doanh; hoặc để lại di sản thừa kế. Mọi hành vi nhằm hạn chế quyền sở hữu hợp pháp của bất kỳ chủ thể nào, không phân biệt nam hay nữ, đều bị xử lý theo pháp luật. Riêng đối với dân tộc thiểu số, một số vùng còn gặp nhiều khó khăn về kinh tế - xã hội nên việc thực thi quyền sở hữu tài sản của đồng bào nói chung chưa được đảm bảo và chưa có điều kiện để thực hiện. ở một số dân tộc thiểu số tồn tại chế độ mẫu quyền, phụ nữ là chủ gia đình và có quyền định đoạt mọi tài sản của gia đình.

Về quyền được giao đất, thuê đất : Với quy định mọi công dân, không phân biệt nam nữ, khi có nhu cầu sử dụng đất hoàn toàn có quyền được nhà nước giao đất, cho thuê đất, Vì vậy, phụ nữ khi có nhu cầu sử dụng đất hoàn toàn có quyền được nhà nước giao đất, cho thuê đất, cho dù người phụ nữ đó tham gia với t ư cách cá nhân, đại diện cho hộ gia đình hay chủ doanh nghiệp. Phụ nữ cũng ho àn toàn có quyền bình đẳng trong việc thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, cho thuê, cho thuê lại, thế chấp quyền sử dụng đất. Đối với hộ gia đình, người đại diện cho hộ gia đình để thực hiện quyền sử dụng đất là chủ hộ (vợ hoặc chồng) hoặc người được chủ hộ uỷ quyền (nữ hoặc nam).

Về việc đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và nhà ở: Nhà nước đã có biện pháp cụ thể đảm bảo cho người vợ được đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cùng với người chồng. Thông tư số 1900/2001/TT-TCĐC của Tổng cục Địa chính đã hướng dẫn thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, trong đó không phân biệt nam nữ. Thực hiện Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001 quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình, các địa phương đã tiến hành cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và nhà ở mới cho các hộ gia đình. Bắt đầu từ ngày 18/10/2001, tất cả các tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng kể cả đất canh tác và nhà ở khi đăng ký quyền sở hữu đều thực hiện ghi tên của cả vợ và chồng. Còn đối với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trước đây đã cấp chỉ ghi tên chủ hộ, khi hộ gia đình thực hiện các quyền hoặc hộ gia đình có nhu cầu thì c ơ quan Nhà nước có thẩm quyền sẽ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới ghi cả tên vợ và tên chồng. Luật Đất đai sửa đổi năm 2003 cũng đã quy định thống nhất giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải ghi cả họ, tên vợ và họ, tên chồng trong trường hợp quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ và chồng (Điều 48). Điểm mới này sẽ giúp cho việc thực hiện Luật Hôn nhân và Gia đình về đăng ký quyền sở hữu chung của vợ chồng được thuận lợi hơn so với tr ước đây đồng thời bảo đảm được quyền tiếp cận tới đất đai cho phụ nữ.

Quyền tự do giao kết hợp đồng của phụ nữ: Pháp luật Dân sự vẫn tiếp tục khẳng định quyền của phụ nữ được bình đẳng như mọi công dân trong việc giao kết 97

Kết luận

Báo cáo CEDAW lần 5-6 hợp đồng. Các hợp đồng dân sự mà phụ nữ giao kết trong thời gian qua chủ yếu liên quan đến các khoản vay của tổ chức tín dụng, nhằm phát triển sản xuất kinh tế nông thôn. Theo kết quả khảo sát tại một số địa phương, số hộ gia đình do phụ nữ làm chủ hộ và đứng tên trên giấy tờ bảo đảm vay vốn tín dụng là khoảng 37%. Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 178/1999/NĐ-CP về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng, theo đó, những phụ nữ nghèo không có vốn sản xuất có thể vay tiền tại các tổ chức tín dụng được bảo đảm bằng uy tín của các tổ chức chính trị - xã hội tại địa phương, với điều kiện phụ nữ nghèo phải là thành viên của các tổ chức này. Quy định này đã góp phần tạo điều kiện về vốn giúp đỡ phụ nữ tham gia vào các giao dịch dân sự nói riêng và tham gia vào các cơ hội kinh tế nói chung.

Về quyền thừa kế của phụ nữ : theo quy định của Bộ luật Dân sự, các cá nhân, không phân biệt nam nữ đều có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật cũng như hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Trên nguyên tắc bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật, phụ nữ hoàn toàn có cơ hội và điều kiện để thực hiện quyền bình đẳng với nam giới trong lĩnh vực thừa kế. Để bảo đảm bình đẳng trong việc thực hiện quyền thừa kế của phụ nữ, cũng như nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình, phụ nữ có quyền khởi kiện tại toà án nhân dân trong thời hạn 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn một số v ướng mắc, tồn tại trong lĩnh vực thừa kế cần được khắc phục. Có những vụ tranh chấp về thừa kế kéo dài, nhất là các vụ án tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất, tạo tâm lý e ngại cho phụ nữ khi tham gia tố tụng tại Toà án. Ngoài ra, một thực tiễn khá phổ biến hiện nay ở Việt Nam là đối với đồng bào dân tộc thiểu số cũng như đồng bào ở vùng nông thôn, người con gái khi đi lấy chồng trong nhiều trường hợp không được hưởng di sản thừa kế của bố mẹ đẻ. Còn bản thân phụ nữ thì do có thói quen cam chịu, nên cũng không đòi hỏi quyền thừa kế của mình. Đây là tập quán lạc hậu, tạo ra sự bất bình đẳng trong việc thực hiện quyền thừa kế đối với phụ nữ, đòi hỏi các cơ quan hữu quan phải có biện pháp tuyên truyền, vận động để xoá bỏ.

Để bảo vệ quyền bình đẳng của phụ nữ khi tham gia vào các giao dịch dân sự, Điều 12 Bộ luật Dân sự đã quy định : Trong trường hợp quyền và lợi ích hợp pháp của công dân bị xâm phạm, họ có quyền yêu cầu T oà án hoặc c ơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác giải quyết. Bộ Luật Dân sự cũng quy định: các giao dịch dân sự sẽ bị coi là vô hiệu nếu một trong các bên tham gia giao dịch lấy lý do khác biệt về giới tính để cưỡng ép phụ nữ phải ký kết hợp đồng, phải tham gia vào các giao dịch hoặc lợi dụng các trường hợp khó khăn của phụ nữ buộc họ phải tham gia vào giao dịch dân sự. Ngoài ra, để bảo đảm sự bình đẳng cho người phụ nữ khi tham gia vào quá trình tố tụng, Điều 8 Luật Tổ chức Toà án Nhân dân quy định: Toà án xét xử theo nguyên tắc mọi công dân đều được bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 cũng quy định: Công dân không phân biệt nam nữ, theo thủ tục do pháp luật quy định, có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án Nhân dân bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình (Điều 1) và các đương sự bình đẳng về quyền và

98

Kết luận

Báo cáo CEDAW lần 5-6 nghĩa vụ trong tố tụng dân sự (Điều 4). Tương tự nh ư vậy, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 quy định : Cá nhân không phân biệt nam nữ, pháp nhân, theo thủ tục do pháp luật quy định, có quyền khởi kiện vụ án kinh tế để yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình (Điều 1) và các đương sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong quá trình giải quyết vụ án (Điều 6). 15.2 Phụ nữ có quyền tự do đi lại và cư trú

Bên cạnh các điều khoản được quy định trong Hiến pháp (Điều 68, 73) và quy định trong Bộ luật Dân sự (Điều 42) đã nêu trong báo cáo trước, một số luật khác cũng đã quy định và có chế tài quy định để đảm bảo quyền này: Điều 20 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định “Nơi cư trú của vợ, chồng do vợ chồng lựa chọn, không bị ràng buộc bởi phong tục, tập quán, địa giới hành chính”. Bộ luật Hình sự cũng đã quy định chế tài áp dụng đối với những người có hành vi : Khám xét trái pháp luật chỗ ở, đuổi trái pháp luật người khác khỏi chỗ ở của họ hoặc có những hành vi trái pháp luật khác xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng tới một năm (Điều 124). Điều 275 Bộ luật này cũng quy định: Người nào tổ chức, cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài, hoặc ở lại nước ngoài trái phép thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm, phạm tội nhiều lần hoặc gây hậu quả nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng thì bị phạt tù từ năm năm tới mười hai năm hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười hai năm tới hai mươi năm. Các quy định này đã giúp cho phụ nữ không còn phải chịu sự phân biệt đối xử trong việc lựa chọn nơi cư trú, đi lại, kể cả khi người đó đã kết hôn. Các chế tài hình sự cũng đã thể hiện rõ quyết tâm của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền tự do đi lại, cư trú cho mọi công dân nam nữ ( Xem thêm biểu 1.5 Phụ lục số liệu)

Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn còn tồn tại một số phong tục tập quán với quan niệm bất bình đẳng giữa nam và nữ và không đảm bảo được quyền lợi của phụ nữ như quan niệm “thuyền theo lái, gái theo chồng”, “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Chính phủ Việt Nam đang vận động xóa bỏ tập quán này và tuyên truyền người dân thực hiện theo pháp luật.

Một số thủ tuc hành chính phức tạp như thủ tục chuyển hộ khẩu từ nông thôn về thành phố (Nghị định số 51/NĐ-CP năm 1997 về Đăng ký và quản lý hộ khẩu), cũng là nguyên nhân khiến cho một số phụ nữ không thực hiện được quyền tự do cư trú và lựa chọn chỗ ở. Mặt khác, phụ nữ dân tộc thiểu số chưa nhận thức được quyền của mình. Các yếu tố khách quan như địa bàn cư trú xa các trung tâm kinh tế phát triển, cơ sở hạ tầng yếu kém, thiếu phương tiện giao thôn g, cũng gây nên sự khó khăn cho phụ nữ cũng nh ư nam giới trong việc thực hiện quyền tự do đi lại và lựa chọn nơi cư trú cho bản thân và gia đình.

Để khắc phục tình trạng trên, Bộ Công an đang hoàn thiện Dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 51/NĐ-CP năm 1997 về Đang ký và quản lý hộ khẩu để trình Chính phủ. Bộ Tư pháp đang chủ trì xây dựng dự án Bộ Luật Dân sự (sửa đổi), Bộ Công an đang chủ trì xây dựng dự án Luật Cư trú, Bộ Xây dựng đang chủ trì xây dựng dự án Luật Nhà ở và Bộ Tư pháp đang chủ trì xây dựng dự án Luật Trưng cầu

99

Kết luận

Báo cáo CEDAW lần 5-6 dân ý. Các dự án Luật nói trên sẽ được Chính phủ trình Quốc hội xem xét trong thời gian tới. Điều này sẽ góp phần xây dựng hành lang pháp lý thuận lợi hơn cho người dân, trong đó có phụ nữ được thụ hưởng đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ dân sự của mình.

100

Kết luận

Báo cáo CEDAW lần 5-6

Điều 16 quyền bình đẳng của phụ nữ trong quan hệ hôn nhân và gia đình

16.1. Pháp luật về hôn nhân và gia đình

Trong 4 năm qua, quyền tự do và bình đẳng của phụ nữ trong quan hệ hôn nhân và gia đình tiếp tục được duy trì thực hiện và ngày càng được đảm bảo bằng luật pháp. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, có hiệu lực thi hành từ 01/01/2001, đã tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc để đảm bảo quyền bình đẳng của phụ nữ và nam giới trong các vấn đề : Quyền nhân thân; về việc đứng tên trong giấy tờ đăng ký quyền sở hữu tài sản; chia tài sản khi ly hôn; vấn đề cấp dưỡng; trong việc nuôi dạy con cái...như đã nêu trong báo cáo ghép 3 và 4.

Luật Hôn nhân và Gia đình quy định chuẩn mực pháp lý của mô hình gia đình Việt Nam là no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững (Điều 1), đồng thời quy định các nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam là tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng; hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, các tôn giáo, giữa người theo tôn giáo với ng ười không theo tôn giáo, giữa công dân Việt Nam với ng ười nước ngoài đều được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ; vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình; cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con thành công dân có í ch cho xã hội; không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con; Nhà nước và xã hội có trách nhiệm bảo vệ phụ nữ và trẻ em, giúp đỡ các bà mẹ thực hiện chức năng cao quý của ng ười mẹ (Điều 2).

Để giúp cho việc thực hiện Luật Hôn nhân và Gia đình được hiệu quả, Nhà nước đã tiếp tục ban hành một số văn bản nhằm cụ thể hoá như sau:

Nghị quyết của Quốc hội số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 về việc thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình quy định khuyến khích đăng ký kết hôn đối với các trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập tr ước ngày 30/01/1987; nếu quan hệ vợ chồng được xác lập trong giai đoạn từ 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 thì phải có nghĩa vụ đăng ký kết hôn; quan hệ vợ chồng được xác lập từ sau ngày 01/01/2001 trở đi mà không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng. Quy định này sẽ đảm bảo được quyền lợi cho người phụ nữ trong hôn nhân cũng như khi ly hôn. Năm 2001, Chính phủ đã ban hành các Nghị định số 70/2001/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình; Nghị định số 77/2001/NĐ-CP quy định chi tiết về đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35 của Quốc hội; Nghị định số 87/2001/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Ngày 10/7/2002, Nghị định số 68/2002/NĐ-CP của Chính phủ đã được ban hành, quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố n ước ngoài. Đặc biệt, Nghị định số 32/2002/NĐ-CP của Chính phủ về việc áp dụng Luật Hôn nhân và Gia đình đối với các dân tộc thiểu số đã quy định phải từng bước xoá bỏ những phong tục, tập quán lạc hậu không có lợi 101

Kết luận

Báo cáo CEDAW lần 5-6 cho phụ nữ của người dân tộc thiểu số bằng hai hình thức mềm dẻo và nghiêm khắc như: Vận động xóa bỏ các phong tục, tập quán không bảo đảm quyền bình đẳng giữa vợ và chồng trong quan hệ hôn nhân gia đình (Điều 10); các phong tục,tập quán thể hiện sự phân biệt đối xử giữa con trai và con gái (Điều 13); nghiêm cấm tập quán buộc người vợ góa, chồng goá phải lấy một người khác trong gia đình chồng cũ, vợ cũ mà không được sự đồng ý của người đó (Điều 6); việc thách cưới cao mang tính gả bán và các hành vi cản trở việc kết hôn hoặc xâm phạm đến nhân phẩm người phụ nữ (Điều 9); cha mẹ có hành vi phân biệt đối xử giữa các con (Điều 13); phong tục, tập quán đòi lại của cải, phạt vạ khi vợ chồng ly hôn. 16.2. Vấn đề kết hôn và ly hôn

Về vấn đề kết hôn: Luật Hôn nhân và Gia đình không quy định ngoại lệ cho các trường hợp kết hôn nam trước 20 tuổi, nữ trước 18 tuổi. Việc kết hôn vi phạm quy định này thì bị coi là tảo hôn (trái pháp luật) và phải bị Toà án huỷ bỏ. Bộ luật Hình sự quy định người nào tổ chức cưới, đăng ký kết hôn cho những ng ười chưa đến tuổi kết hôn thì có thể bị phạt tù tới hai năm. Trên thực tế, tuổi kết hôn trung bình lần đầu của nữ là 22,8 và nam là 26 (Xem biểu 2.1, Phụ lục số liệu). Trong 4 năm qua, đại bộ phận nhân dân đã tuân thủ nghiêm túc các quy định của pháp luật về thủ tục đăng ký kết hôn. Tuy nhiên, ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, do điều kiện đi lại khó kh ăn nên nhiều ng ười dân không thể đi đăng ký kết hôn theo luật định. Mặt khắc, ở vùng này, nhiều phong tục tập quán lạc hậu vẫn chưa được xoá bỏ hoàn toàn như : Tảo hôn, tục nối dây của một số dân tộc thiểu số (người em trai chưa có vợ hoặc vợ đã chết thì có quyền lấy chị dâu làm vợ trong trường hợp anh trai của người đó đã chết (dân tộc Brâu), anh rể được phép lấy em gái của vợ nếu vợ đã chết (dân tộc Rơ Măm).... Vì vậy, để tạo bảo vệ quyền lợi của đồng bào dân tộc thiểu số nói chung và của phụ nữ người dân tộc thiểu số nói riêng trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, tại Điều 11 khoản 2, Luật Hôn nhân và Gia đình đã giao cho Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Năm 2002, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 32/2002/NĐ-CP Quy định việc áp dụng Luật Hôn nhân và Gia đình đối với đồng bào dân tộc thiểu số đang sinh sống ở vùng sâu, vùng xa. Hiện nay, Nghị định này đã và đang được triển khai thực hiện có hiệu quả, góp phần phát huy các phong tục tập quán tốt đẹp về hôn nhân và gia đình, xoá bỏ các phong tục tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình.

102 Vấn đề ly hôn : Luật Hôn nhân và Gia đình đảm bảo cho cả nam và nữ quyền được ly hôn. Tuy nhiên, ở một số vùng dân tộc thiểu số, ly hôn nhiều khi không được giải quyết theo luật pháp mà giải quyết theo phong tục tập quán của dân tộc mình. Luật Hôn nhân và Gia đình cũng đảm bảo sự bình đẳng trong việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn, đặc biệt là chia quyền sử dụng đất và chia nhà ở, bằng việc quy định tất cả các tài sản có giá trị đều phải được đăng ký tên cả vợ và chồng. Đây chính là cơ sở pháp lý quan trọng giúp cho Toà án xét xử công bằng về tài sản đối với các trường hợp ly hôn trong thời gian vừa qua. Năm 2002, Toà án đã thụ lý 60.265 vụ án về hôn nhân và gia đình, trong đó, số vụ án do phụ nữ đứng đơn chiếm 44% và số vụ án do cả vợ và chồng đứng đơn chiếm 18%.

Kết luận

Báo cáo CEDAW lần 5-6 16.3. Quyền bình đẳng trong thời gian hôn nhân

Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 tiếp tục khẳng định quyền bình đẳng nam nữ như một nguyên tắc nền tảng xuyên suốt toàn bộ chế độ hôn nhân và gia đình của Việt Nam trong thời kỳ mới: "Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt trong gia đình" (Điều 19). Điều này có nghĩa là vợ chồng có quyền và trách nhiệm như nhau trong vai trò làm cha mẹ; về các vấn đề liên quan đến con cái; trong việc định đoạt tài sản chung của gia đình.

Pháp lệnh Dân số năm 2003 quy định mỗi cặp vợ chồng và cá nhân có quyền và nghĩa vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản, sử dụng các biện pháp KHHGĐ, thực hiện quy mô gia đình ít con. Nghị định 104/2003/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Dân số quy định về công bằng giới: Nghiêm cấm các hành vi cản trở, c ưỡng bức thực hiện KHHGĐ; cấm đe doạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm phạm thân thể người sử dụng biện pháp tránh thai, người sinh toàn con trai hoặc toàn con gái (Điều 9); nghiêm cấm các hành vi lựa chọn giới tính thai nhi (Điều 10). Đặc biệt, Nghị định này đã dành hẳn một điều quy định về quyền bình đẳng giới: Tuyên truyền về bình đẳng giới; xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử dựa trên cơ sở giới tính; tạo điều kiện cho nữ giới chủ động thực hiện chăm sóc sức khoẻ sinh sản, KHHGĐ và được tiếp cận bình đẳng về giáo dục, đào tạo, nâng cao trình độ mọi mặt và tham gia các hoạt động xã hội; nam giới có trách nhiệm thực hiện KHHGĐ; loại bỏ mọi sự phân biệt đối xử với trẻ em gái; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em gái trong sinh hoạt, khám bệnh, chữa bệnh, học tập, vui chơi giải trí và phát triển toàn diện. Những quy định này thực sự có ý nghĩa trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam, do một bộ phận nhân dân vẫn còn giữ tư tưởng trọng nam coi thường nữ, tạo nên sức ép đối với người phụ nữ trong gia đình - phải đẻ con trai cho nhà chồng. 16.4. Tệ ngược đãi phụ nữ trong gia đình

Hiện tượng ngược đãi phụ nữ trong gia đình vẫn còn tồn tại và tập trung chủ yếu ở vùng nông thôn, nơi tư tưởng của người dân vẫn còn lạc hậu và phụ nữ thiếu hiểu biết về quyền và các lợi ích của mình. Theo một nghiên cứu gần đây, 80% phụ nữ được hỏi đã từng trải qua một số hình thức ngược đãi, trên 15% phụ nữ trong diện khảo sát đã từng bị chồng đánh đập.

Nguyên nhân cơ bản dẫn đến tệ ngược đãi phụ nữ trong gia đình: trước hết là do tư tưởng coi thường phụ nữ vẫn còn tồn tại trong xã hội; kinh tế của nhiều gia đình khó khăn dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng. Mặc dù đã được phổ biến, thông tin về các quyền lợi của mình, nhưng một bộ phận phụ nữ, nhất là ở vùng sâu, vùng xa vẫn chưa nhận thức sâu sắc về các quyền lợi hợp pháp của mình. Ngoài ra, còn do tác động của các tệ nạn xã hội như: nghiện rượu, cờ bạc, mại dâm, ma tuý, ngoại tình; còn tồn tại quan niệm phụ nữ lấy chồng phải đẻ được con trai nối dõi cho nhà chồng; những xung khắc giữa mẹ chồng và nàng dâu...

Các ngành, các cấp nhất là Hội phụ nữ đã có nhiều biện pháp nhằm ngăn ngừa tệ ngược đãi đối với phụ nữ và hỗ trợ, giúp đỡ các nạn nhân. Chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói, giảm nghèo đã giúp cho đời sống nhiều hộ gia đình được đảm bảo 103

Kết luận

Báo cáo CEDAW lần 5-6 hơn. Nổi bật, Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp đã tích cực triển khai chương trình giáo dục và phổ biến pháp luật cho phụ nữ, tuyên truyền nâng cao nhận thức của xã hội và của phụ nữ về vấn đề bình đẳng giới, đồng thời tăng cường công tác hoà giải và đề xuất với chính quyền xử lý nghiêm khắc các đối tượng có hành vi ngược đãi phụ nữ.

Trong thời gian tới, để đảm bảo quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực hôn nhân gia đình, các cơ quan chức năng nhà nước tiếp tục cùng các tổ chức quần chúng và nhân dân thực thi và giám sát pháp luật, xử lý các hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ. Hiện nay, Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em đang hoàn thiện Chiến lược Gia đình Việt Nam đến năm 2010 để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Bộ Tư pháp đang chuẩn bị trình Chính phủ Nghị định sửa đổi, bổ sung nột số điều của Nghị định 68/2002/NĐ-CP của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và GIa đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.

104

Kết luận

Báo cáo CEDAW lần 5-6

Kết luận

Trong giai đoạn 2000-2003, Việt Nam đã đẩy tới một bước việc thực hiện các điều khoản của Công ước như đã cam kết tại khoá họp lần thứ 25 của Uỷ ban CEDAW khi đoàn đại biểu Việt Nam trình bày các báo cáo lần thứ hai, ba và bốn. Các thành tựu đạt được trước đó tiếp tục được củng cố và phát huy. Từ năm 2000 đến nay, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ mới, tập trung vào các mặt chủ yếu sau đây:

- Quyền tự do và bình đẳng của phụ nữ được bảo đảm hơn. Phụ nữ được tạo thêm điều kiện và cơ hội tham gia và có đóng góp tích cực vào các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước. Vai trò và địa vị của phụ nữ trong gia đình và cộng đồng được nâng cao.

- Cải thiện rõ rệt về giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khoẻ và chất lượng cuộc sống cho phụ nữ và trẻ em gái. Việt Nam đ ạt được về cơ bản bình đẳng nam nữ trong giáo dục tiểu học và đang phấn đấu thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Các chỉ số về chăm sóc sức khoẻ là khá cao so với mức thu nhập bình quân đầu người.

- Nhà nước đã áp dụng các biện pháp tích cực để khắc phục về cơ bản tình trạng bất bình đẳng giới trong một số lĩnh vực, đặc biệt là trong tiếp cận đất đai và phúc lợi xã hội, tạo điều kiện cho phụ nữ cùng đứng tên với chồng trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và nhà ở và được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội bình đẳng như nam giới.

- Việt Nam thuộc nhóm có thành tựu tốt nhất khu vực Đông Nam á-Thái Bình Dương về chỉ số phát triển giới (GDI)

Một trong những yếu tố quan trọng giúp Việt Nam đạt được các kết quả đáng khích lệ trên xuất phát từ những thành tựu của công cuộc đổi mới theo phương châm tăng trưởng kinh tế một cách bền vững đi đôi với xoá đói giảm nghèo và giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Bài học lớn nhất được rút ra trong 4 năm qua đó là sự phối hợp, cộng đồng trách nhiệm giữa các cấp chính quyền, bộ máy vì sự tiến bộ phụ nữ và Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam trên cơ sở quyết tâm chính trị cao của Nhà nước và nhân dân cùng phấn đấu khắc phục bất bình đẳng giới và nâng cao quyền năng cho phụ nữ. Chủ trương nhất quán của Việt Nam về bình đẳng giới và tiến bộ phụ nữ đã một lần nữa được thể hiện thông qua việc công bố Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến 2010. Chúng tôi ý thức đầy đủ được rằng, còn nhiều khó khăn và thách thức đang đặt ra đối với Việt Nam trên chặng đường khắc phục sự phân biệt đối xử với phụ nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, Nhà nước và toàn thể nhân dân Việt Nam quyết tâm phấn đấu thực hiện đầy đủ các cam kết đối với Công ước CEDAW./.

105