
LỜI GIỚI THIỆU
Các nguyên tắc về không phân biệt đối xử và bình đẳng phản ánh các
khái niệm căn bản về sự đứng đắn, nhân phẩm và kính trọng, và hình thành
nên nền tảng cho sự phát triển của xã hội hoà bình và thịnh vƣợng. Công
ƣớc Trả công nhƣ nhau, 1951 (số 100) và Công ƣớc về Phân biệt đối xử
(Việc làm và Nghề nghiệp), 1958 (số 111) của ILO là hai tiêu chuẩn lao
động quốc tế cơ bản cho việc xoá bỏ tích cực sự phân biệt đối xử trong việc
làm và nghề nghiệp. Từ khi hội nhập toàn cầu bắt đầu gia tăng, hai tiêu
chuẩn lao động cốt lõi này đã đƣợc coi là một phần trong các nguyên tắc
chính, tối thiểu và căn bản cho sự toàn cầu hoá công bằng.
Chính phủ Việt Nam đã cam kết xóa bỏ phân biệt đối xử đối với phụ
nữ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống trong toàn xã hội. Tiếp theo việc phê
chuẩn Công ƣớc về Xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử đối với phụ
nữ (CEDAW) vào năm 1982, Chính phủ Việt Nam đã nhấn mạnh hơn nữa
cam kết của mình đối với thúc đẩy bình đẳng giới giữa nam giới và phụ nữ
trong thị trƣờng lao động thông qua việc phê chuẩn Công ƣớc 100 và Công
ƣớc 111 của ILO vào năm 1997 và dần dần đƣa các nguyên tắc bình đẳng
vào trong pháp luật lao động và thực tiễn.
Sau khi Luật Bình đẳng giới đƣợc thông qua năm 2006, nghiên cứu
này đã đƣợc tiến hành nhằm xác định các khoảng cách về giới trong việc
làm và nghề nghiệp trong nền kinh tế Việt Nam và rà soát những tiến bộ đã
đạt đƣợc trong việc tuân thủ pháp luật về lao động, các quyết định và chính
sách hiện hành trong nƣớc đối với các công ƣớc lao động quốc tế hƣớng tới
thực hiện bình đẳng về cơ hội và đối xử trong công việc, bao gồm trả công
bình đẳng giữa lao động nam và lao động nữ.
Nghiên cứu này đƣợc tiến hành với sự hỗ trợ kỹ thuật của Tổ chức
Lao động Quốc tế (ILO) trong khuôn khổ Chƣơng trình Chung về Bình đẳng
giới giữa Chính phủ Việt Nam và Liên Hợp Quốc. Chúng tôi xin cảm ơn sự
hỗ trợ tài chính của Chính phủ Tây Ban Nha thông qua Quỹ Hỗ trợ thực hiện
mục tiêu thiên niên kỷ (MDGF).
Chúng tôi xin cảm ơn nhóm nghiên cứu: Bà Trần Thị Thuý Lâm, Lê
Ngân Giang và Nguyễn Thị Ngọc Yến. Chúng tôi xin đặc biệt ghi nhận đóng
góp của những ngƣời đã hỗ trợ kỹ thuật nghiên cứu này: Bà Nelien Haspels,
Bà Nguyễn Kim Lan, Bà Annemarie Reerink, và Bà Jonna Naumanen của
ILO, Ông Phạm Ngọc Tiến và Bà Nguyễn Thị Diệu Hồng - Vụ Bình đẳng