intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Cán cân thanh toán Việt Nam

Chia sẻ: Bùi Huệ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:16

204
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu thông tin đến các bạn thực trạng cán cân vãng lai của Việt Nam và giải thích, thực trạng cán cân vốn của Việt Nam và giải thích. Để nắm chi tiết các nội dung, mời các bạn cùng tham khảo tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Cán cân thanh toán Việt Nam

  1. 1. Thực trạng cán cân vãng lai của Việt Nam và giải thích 1.1 Giai đoạn 1996-2001 Tài khoản vãng lai của Việt Nam tính theo % GDP Nguồn: IMF Từ đồ thị ta có thể thấy, thâm hụt cán cân vãng lai có xu hướng thu hẹp trong  những năm 1996­1998 và trở nên thặng dư vào năm 1999. Thâm hụt cán cân  thương vãng lai đỉnh điểm là vào năm 1996, xấp xỉ ­10%. Những năm sau  chứng kiến sự khởi sắc trong mức độ tăng trưởng, mặc dù vào năm 1997 và  1998 vẫn ở mức thâm hụt đáng cân nhắc, ­5,93% và ­ 3,84% respectively.  Thêm nữa, khủng hoảng khu vực (và sự yếu kém về cơ cấu của nền kinh tế  Việt Nam) đã ảnh hưởng tiêu cực lên nguồn thu FDI của Việt Nam. Năm 1999  là năm chứng kiến sự thặng dư trong cán cân vãng lai và cũng là năm có mức  thặng dư cao nhất trong tất cả các năm, hơn 4%. Nhưng những năm sau đó  mức độ thặng dư dần bị giảm xuống. Giải thích: Trong năm 1999, việc khôi phục các nền kinh tế khu vực dẫn đến việc  tăng nhu cầu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Cũng trong năm 1999, lần đầu  tiên, với tỷ lệ tăng trưởng của hàng nhập khẩu thấp, cán cân vãng lai đã chuyển  sang trạng thái thặng dư. Trong những năm tiếp theo, tốc độ tăng nhập khẩu cao  hơn tốc độ tăng xuất khẩu và kết quả là thặng dư cán cân vãng lai dần dần bị  thu hẹp.  1.2 Thực trạng cán cân vãng lai của Việt Nam giai đoạn 2002-2010 Thời kỳ  thâm hụt 2002­2010,  hình 1 cho thấy trong 5 năm liên tiếp  trước khi gia nhập WTO, Việt Nam đã ghi nhận sự  thâm hụt  ở  quy   mô nhỏ trong các giao dịch tài khoản vãng lai. Tiếp nối xu hướng này,  cán cân vãng lai vẫn thâm hụt trong các năm 2007 và 2008,   lên  đến  gần 7,0 tỷ  USD (hay 9,8% GDP) và 10,8 tỷ  USD (11,9% GDP) tương  ứng. Những mức thâm hụt này  ở  quy  mô  lớn hơn rất nhiều so với  mức thâm hụt hàng năm trong giai đoạn 2002 – 2006, khi  mà cán cân  vãng  lai  chỉ  thâm hụt tối đa gần 1,9  tỷ  USD (4,9% GDP) vào năm  2003. Mặc dù nền kinh tế  Việt Nam đã bước vào giai đoạn thu hẹp 
  2. từ  năm 2008, tuy nhiên xu hướng thu hẹp thâm hụt cán cân vãng lai  chỉ  bắt đầu một năm sau đó. Thâm hụt vãng lai giảm cả  về  con   số  tuyệt đối  và tỷ  lệ  theo GDP, với khoảng 6,6 tỷ  USD (tương đương  6,7% GDP) cho năm 2009 và 4,3 tỷ USD (4% GDP) năm 2010.    (*) Ước tính từ số liệu của Tổng cục Thống kê, Cục Đầu tư nước ngoài. Thời kỳ  thặng dư  2011 ­ 2014. Năm 2011, Việt Nam đã ghi nhận sự  thặng dư  lần  đầu tiên (0,2  tỷ  USD) sau 4 năm liên tiếp thâm hụt  ở  quy mô lớn trong các giao dịch tài khoản vãng lai hậu gia nhập WTO.  Kết thúc năm 2012 cán cân vãng lai của Việt Nam đã bắt đầu thặng  dư 9,3 tỷ USD và cùng với thặng dư của cán cân vốn, tạo thành thặng  dư kép của cán cân thanh toán quốc tế Việt Nam năm 2012.  Sang năm  2013 thặng dư khoảng 7,7 tỷ USD và tăng cao hơn là 9,36 tỷ USD vào   năm 2014(Hình 2). Sau 4 năm thặng dư thì cán cân vãng lai lại trở lại mức thâm hụt 2,04   tỷ  USD vào năm 2015. Sau đó có biến động thất thường thặng dư   ở  mức 0,6 tỷ  năm 2016 và thâm hụt 1,6 tỷ  USD năm 2017. Tiếp tục  thặng dư  lớn  ở  năm 2018 với mức thặng dư  khoảng 5,9 tỷ  USD.  (Hình 2)                                                Hình : Các thành phần của cán cân vãng lai 2011­2018
  3. 1.3 Giải thích thực trạng của cán cân vãng lai Cán cân vãng lai của Việt Nam chủ yếu bao gồm cán cân thương mại hàng hóa,  riêng cán cân dịch vụ và thu nhập đầu tư  ròng có mức thâm hụt nhỏ, còn chuyển  giao ròng tăng đều đặn trong  những năm gần đây. Vì vậy, thâm hụt tài khoản  vãng lai hậu gia nhập WTO tăng lên chủ yếu là do sự gia tăng thâm hụt thương  mại. Mặc dù cả  xuất khẩu và nhập khẩu cùng tăng, nhưng tốc độ  tăng trưởng  của dòng thương mại quốc  tế  đã  ít  cân bằng hơn nhiều, với nhập khẩu tăng  nhanh hơn xuất khẩu. Như  vậy, kể  từ  khi Việt Nam gia nhập WTO, cũng như  hầu hết các nền kinh tế  chuyển đổi khác, việc tự  do hóa các giao dịch thương  mại quốc tế đã làm cho thâm hụt thương mại tăng lên. Trong cuộc khủng hoảng   2008, xuất khẩu giảm mạnh, nhưng khủng hoảng cũng làm thu hẹp nhập khẩu,  cho nên tác động ròng lên cán cân thương mại là tích cực. Cuộc khủng hoảng đã  vô hình chung giúp hạn chế  tốc độ  tăng thâm hụt tài khoản vãng lai, nhưng đây  chỉ  là  tác động nhất thời. Việt Nam sẽ  còn phải  ứng phó với áp  lực thâm hụt  thương mại (và tài khoản vãng lai) khi thực hiện ngày một sâu rộng hơn các cam  kết của WTO.
  4. Thương mại quốc  tế  từ  lâu đã được xem  là  khoản mục chính trong tài khoản  vãng lai của Việt Nam. Trong suốt thập kỷ  qua, cán cân vãng  lai đã vận động  gắn bó chặt chẽ với cán cân thương mại, theo chiều hướng ngày càng thâm hụt  nhiều hơn (Hình 3). Do đó, thâm hụt thương mại thực tế  đã quyết định cán cân  thanh toán của quốc gia với phần còn lại của thế  giới, trong khi một thành phần  khác của tài khoản vãng lai – thu nhập đầu tư  ròng – chỉ  đóng vai trò thứ  yếu.  Tầm quan trọng của dòng thương mại quốc tế  được xác nhận bằng những con  số ròng trong cán cân vãng lai của Việt Nam. Ví dụ, thâm hụt tài khoản vãng lai  năm 2008 chiếm 11,9% GDP, được chia ra thành thâm hụt thương mại (14%  GDP), thâm hụt thu nhập đầu tư ròng – cổ tức và tiền lãi cho vay mà các nhà đầu  tư  Việt Nam kiếm được từ  tài sản của họ ở nước ngoài trừ đi cổ tức và tiền lãi  cho vay phải trả  cho các nhà đầu  tư  nước ngoài nắm giữ  tài  sản  ở  Việt Nam  (4,9%), và thặng dư trong thanh toán chuyển giao ròng và thu nhập từ  xuất khẩu  lao động (8,1%). Những con số này gây ấn tượng rằng thâm hụt thương  mại lấn  át tất cả các thành phần còn lại trong việc giải thích sự  biến động của cán cân  tài khoản vãng lai. (*) Ước tính từ số liệu của Tổng cục Thống kê, Cục Đầu tư nước ngoài. Nguồn: Tính toán của các tác giả từ IMF (2012). Tương phản rõ rệt với cán cân thương mại, thu nhập đầu tư  ròng cho thấy sự  thâm hụt khá  ổn  định,  và rõ ràng  là ít góp phần vào sự  biến động của cán cân  vãng lai. Tuy nhiên, một bức tranh khác hiện ra phía sau những con số ròng này.  Mặc dù thu nhập đầu tư  ròng chỉ chiếm phần nhỏ trong cán cân vãng lai, nhưng 
  5. tỷ  phần của nó ngày càng tăng trong dòng tổng thu nhập giữa Việt Nam với các  quốc gia khác. Đây  là  một sự  phát triển  mà  có thể  quy trực tiếp cho việc hội  nhập  tài  chính sâu rộng của Việt Nam kể   từ  năm 2007. Với sự  hội nhập sâu  rộng vào thị  trường tài chính toàn cầu, giá trị  dòng vốn đầu tư  và dòng tiền và  tiền gửi vào Việt Nam tăng lên đột biến. Sự gia tăng đột biến trong giá  trị tài sản  tài chính mà các nhà đầu tư  nước ngoài nắm giữ thì đòi hỏi sự gia tăng dòng thu  nhập tương  ứng từ  cổ  tức và tiền lãi. Hơn nữa, toàn cầu hóa tài chính đã tiến  triển  ở  tốc  độ  nhanh hơn sự  gia tăng thương  mại  quốc tế, cho   nên dòng thu  nhập tăng lên không chỉ  về  giá trị  tuyệt đối mà cả  về  con số  tương đối so với  dòng thương mại. Do đó, dòng thu nhập này đóng vai trò ngày càng lớn hơn trong   cán cân vãng lai của Việt Nam. Ngoài ra, dòng thu nhập thường biến động hơn   nhiều so với dòng thương mại, đề xuất khả năng rằng cán cân vãng lai sẽ ngày  càng nhạy cảm hơn với sự  biến động của thu nhập đầu  tư  ròng. Những biến  động như thế quả thực là vấn đề vì chúng thường đi cùng và cộng hưởng với sự  bất  ổn của nền kinh tế  nội địa. Vì vậy, việc đánh giá chính xác cơ  chế  truyền  dẫn của các cú sốc từ bên ngoài – đặc biệt là về khía cạnh tài chính – trở nên rất  cần thiết. Cán cân vãng lai của Việt Nam đã có sự  chuyển vị  thế  quan trọng, từ thâm hụt  sang vị thế thặng dư trong năm 2011 và tiếp tục giữ vị thế thặng dư trong những  năm sau đó là do những biện pháp điều chỉnh về mức cung tiền tệ, tăng trưởng  tín dụng và đặc biệt là nâng tỷ giá tăng 9,3% vào tháng 2/2011. Nhằm góp phần  kiềm chế nhập siêu 6 tháng cuối năm 2010, ngày 17/8/2010 Ngân hàng Nhà nước  Việt Nam đã một lần thực hiện điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng, giữa  đồng   Việt   Nam   với   Đô   la   Mỹ,   áp   dụng   từ   ngày   18/8/2010,   từ   mức   18.544  đồng/USD lên mức 18.932 đồng/USD và biên độ tỷ giá quy định vẫn giữ nguyên  +/­ 3%. Ngày 11/02/2011 sau gần 7 tháng duy trì  ở  mức 18.932 đồng/USD Ngân  hàng Nhà nước Việt Nam một lần nữa lại điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân  hàng giữa đồng Việt Nam và Đô la Mỹ lên mức 20.693 đồng/USD (tăng 9,3%)  và  biên độ tỷ giá quy định thì lại thu hẹp xuống chỉ còn +/­ 1%. Với điều chỉnh này,  tỷ giá giữa thị trường tự do và chính thức sẽ được thu hẹp lại và hoạt động đầu   cơ được giảm bớt, người dân cũng như doanh nghiệp chấp nhận bán USD, cung   ­ cầu thị trường cân bằng, thị trường ngoại hối ổn định hơn. Đồng nội tệ  giảm  giá làm cho các doanh nghiệp xuất khẩu gặp nhiều thuận lợi hơn khi hàng hóa  sản xuất có sức cạnh tranh hơn, trong khi đó nhập khẩu giảm đi và cán cân  thương mại được cải thiện. Việc thặng dư cán cân vãng lai còn là kết quả của 
  6. những biện pháp gia tăng chi tiêu và kích cầu từ năm 2009 – 2013 với rất nhiều  các gói cứu trợ doanh nghiệp phục hồi nền kinh tế, kích thích tiêu dùng, tăng chi  tiêu và đầu tư công,... Riêng năm 2009 tổng số tiền hỗ trợ đã là 160.000 tỷ VND;  năm 2012 thêm 29.000 tỷ  VND; năm 2013 gói kích cầu bất động sản 30.000 tỷ  VND. Ngoài ra, những chính sách hỗ  trợ  khác cho các doanh nghiệp như  giãn,  giảm thuế thu nhập, VAT, giảm tiền thuê đất, miễn thuế môn bài… đối với các  đối tượng ưu tiên.          Nền kinh tế tăng trưởng trở lại, nhu cầu nhập khẩu máy móc, thiết bị phụ tùng,   nguyên vật liệu đầu vào tăng mạnh. Theo số  liệu của Tổng cục Thống kê, so  với quý I/2014, giá trị nhập khẩu điện tử, máy tính và linh kiện tăng 31,1%; điện   thoại các loại và linh kiện tăng 25%; máy móc, thiết bị, dụng cụ  và phụ  tùng  khác tăng 44%; thức ăn chăn nuôi và nguyên phụ liệu tăng 24,9%; sản phẩm chất   dẻo tăng 27%. Chỉ riêng 5 nhóm mặt hàng này đã chiếm tới 46% tổng kim ngạch  nhập khẩu của quý I/2015. Các mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu lớn như vải,   nguyên phụ  liệu cho giày dép, kim loại và sắt thép đều có tốc độ  tăng trưởng  dương.  Cần phải lưu ý rằng, trong các nhóm hàng hóa này cũng có rất nhiều  hàng hóa mang tính hàng tiêu dùng, chứ  không chỉ  là nguyên liệu đầu vào như  điện thoại, máy tính, đồ  điện tử… Nhập khẩu tăng cao không chỉ  vì sản xuất  tăng kéo theo tăng nhu cầu nhập khẩu đầu vào, mà còn do nhập khẩu hàng tiêu  dùng cũng tăng cao. Đặc biệt, nhập khẩu ô tô tăng 73,6%, trong đó ô tô nguyên  chiếc tăng tới 154,7%. Trong nhập khẩu máy móc, thiết bị thì tỷ trọng khá lớn là   nhập khẩu đầu vào cho lắp ráp xe ô tô trong nước, mà về bản chất vẫn là hàng  tiêu dùng. Do đó, nguyên nhân cơ bản khác đẩy thâm hụt thương mại tăng cao là  do nhu cầu nhập khẩu hàng tiêu dùng tăng cao. Trong khi đó, những mặt hàng  chủ  lực như  dệt may, giày dép, gỗ  và sản phẩm gỗ, lại bắt đầu tăng trưởng  chậm  lại; cá biệt, dầu thô giảm 40%, cà phê giảm 41%.Mặt khác, cơ  cấu giá  hàng nhập khẩu và hàng xuất khẩu cũng biến động bất lợi, đó là giá hàng nhập  khẩu giảm ít hơn so với giá hàng xuất khẩu. So với quý I/2014, chỉ  số  giá hàng  nhập khẩu giảm 2,61%, trong khi chỉ  số  giá hàng xuất khẩu giảm 3,62%. Đặc  biệt, nhóm hàng có cơ cấu nhập khẩu lớn nhất là máy móc, thiết bị, dụng cụ và   phụ  tùng lại tăng 4,55%.Như vậy, trong bối cảnh nhu cầu nhập khẩu tăng, khả  năng xuất khẩu những mặt hàng chủ  lực bắt đầu bị  giới hạn thì nhập siêu là  điều khó tránh. Trong khi đó, những mặt hàng mới như  máy móc, thiết bị, điện   tử, điện thoại còn phụ thuộc nhiều vào đầu vào nhập khẩu, nên tăng xuất khẩu  những mặt hàng này cũng làm tăng nhập khẩu mạnh đầu vào. Mặt khác, giá 
  7. hàng nhập khẩu tăng tương đối so với giá hàng xuất khẩu cũng góp phần làm  tăng thâm hụt thương mại trong năm 2015 dẫn đến thâm hụt cán cân vãng lai. Năm 2018 cán cân vãng lai thặng dư trở lại do  cán cân thương mại cả năm 2018  xuất siêu 7,2 tỷ USD, trong đó kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước đạt 244,72 tỷ  USD, tăng 13,8% so với năm 2017, trong đó khu vực kinh tế  trong nước chiếm  28% (tăng 15,9%); khu vực có vốn đầu tư  nước ngoài (kể  cả  dầu thô) chiếm  72% (tăng 12,9%). Loại trừ yếu tố giá, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu năm 2018   tăng 12,7% so với năm 2017. Trong khi đó, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu  ước  tính đạt 237,51 tỷ USD, tăng 11,5% so với cùng kỳ  năm trước, trong đó khu vực  kinh tế trong nước chiếm 40% (tăng 11,3%); khu vực có vốn đầu tư nước ngoài   đạt chiếm 60% (tăng 11,6%). Nếu loại trừ yếu tố giá, kim ngạch hàng hóa nhập  khẩu cả  năm tăng 9,5% so với năm 2017. Xét theo quy mô thị  trường, trong bối  cảnh chiến tranh thương mại Mỹ  ­ Trung leo thang, xuất khẩu của Việt Nam   sang Hoa Kỳ tăng mạnh 14,2% so với năm trước, đây là thị trường xuất khẩu lớn  nhất của Việt Nam, trong đó điện thoại và linh kiện tăng 46,7%; giầy dép tăng  15,3%;   hàng   dệt   may   tăng   13,7%.Ở   phía   ngược   lại,   Trung   Quốc   vẫn   là   thị  trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch, tăng 13% so với cùng   kỳ năm 2017, trong đó xăng dầu tăng 89,4%; vải tăng 18%; điện tử, máy tính và  linh kiện tăng 11,4%.Các thị  trường trọng điểm khác như  EU, Hàn Quốc, Nhật  Bản và khu vực ASEAN cũng đều có mức tăng trưởng khá trong năm 2018.                                                                                                              Ngu ồn: T ổng c ục th ống kê Việt Nam
  8. Việc hoạt động xuất hập khẩu ở việt nam có những chuyển biến tích cực là do  cơ  cấu hàng hóa xuất khẩu tiếp tục cải thiện theo hướng tích cực, với quy mô  các mặt hàng xuất khẩu tiếp tục được mở rộng; thị trường xuất khẩu được mở  rộng, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã vươn tới hầu hết các thị trường trên  thế giới, ở tất cả các thị trường mà Việt Nam có ký kết hiệp định thương mại tự  do (FTA) đều ghi nhận mức tăng trưởng tốt; viêc tham gia cac FTA noi chung va ̣ ́ ́ ̀  CPTPP noi riêng có tác đ ́ ộng tích cực đối với việc nâng cao năng lực cạnh tranh   và công tác phát triển thị trường xuất khẩu. 2. Thực trạng cán cân vốn của Việt Nam và giải thích 2.1 Thực trạng cán cân vốn của Việt Nam năm 1996-2001 Nguồn: Ngân hàng thế giới (WB), IMF, Tạp chí ngân hàng số 10/2000, Tạp chí thị trường tài chính số 12/2001. Trong những năm 1996­2000, đầu tư trực tiếp nước ngoài và các khoản vay khác  là những nguồn tài trợ chính cho thiếu hụt cán cân vãng lai bởi việc đầu tư vào  thị trường chứng khoán Việt Nam còn rất nhỏ. Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Từ khi luật đầu tư nước ngoài được ban hành, FDI vào Việt Nam đã tăng đáng  kể và được coi là phần lớn nhất trong tổng luồng vốn vào. Trong những năm  1996­1997, tổng FDI đạt bình quân 2 tỉ USD mỗi năm, nhưng sau năm 1997 đầu  tư đã sụt giản 800 triệu, năm 1998 và từ năm 1999 đến năm 2000 chỉ đạt 600  triệu USD. Sự sụt giảm nhiều nhất là đầu tư từ Nhật Bản và Đông Nam Á, do  tác động của khủng hoảng tài chính khu vực. Hình 4 cho thấy sự biến động của cán cân vốn diễn ra trong năm 2002­2011. Cán  cân vốn tăng tương đối  ổn định từ  năm 2002­2006, so với mức thặng dư  3,1 tỷ  USD (tương đương 5,1% GDP) cho năm 2006, cán cân vốn năm 2007 đã tăng gần  gấp 6 lần lên 17,7 tỷ  USD (24,9% GDP), trước khi giảm khoảng 1/3 vào năm  2008 và khoảng 1/3 nữa vào năm 2009 do cuộc khủng hoảng tài chính và suy   thoái kinh tế  toàn cầu để  đạt đến mức thấp nhất là 6,2 tỷ  USD (5,8% GDP)  trong năm 2010. Năm 2011, cán cân vốn lại có bước cải thiện đáng kể  khi tăng  lên mức 8 tỷ  USD (6,6% GDP) nhờ sự  ổn định tương đối của dòng vốn vào vì  kinh tế toàn cầu phục  hồi.
  9.    (*) Ước tính từ số liệu của Tổng cục Thống kê, Cục Đầu tư nước ngoài. Nguồn: Tính toán của các tác giả từ IMF (2012). Bảng : Cán cân vốn của Việt Nam từ năm 2012­2018                                                                               Đơn vị: tỷ USD  Nguồn:IMF             2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 7,97 ­0,28 5,57 0,97 10,73 20,03 8,47    Cán cân vốn vẫn tiếp tục thặng dư trong giai đoạn 2012­2018, trừ năm 2013 thâm  hụt nhẹ khoảng 0,28 tỷ USD. 2.2 Giải thích thực trạng của cán cân vốn 2.2.1 Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)   Cán cân vốn thặng dư trong giai đoạn 2002­2006 nhưng  ở mức thấp là do dòng  vốn FDI vào Việt Nam thấp. Do  ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính  tiền tệ  châu Á năm 1997 và  môi trường đầu tư  của Việt Nam chậm được cải  thiện vì phải chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các nước khác như  Trung Quốc...   nên   trong giai đoạn 2002­2006, dòng vốn FDI vào Việt Nam có sự  phục hồi  nhưng tốc độ còn chậm.
  10. Tiến trình gia nhập WTO đã góp phần tích cực cho việc huy động vốn đầu tư  nước ngoài vào nền kinh tế. Đi cùng sự hội nhập nhanh chóng của Việt Nam vào   hệ thống thương mại thế giới là sự gia tăng đột ngột của FDI. Dòng vốn FDI đã  thực sự bùng nổ trong năm 2007, tương đương 9,4% GDP, gấp gần 2,5 lần dòng  vốn vào năm 2006; 2008 được coi là năm có số vốn đăng ký FDI cao nhất trong  lịch sử  thu hút đầu tư  trực tiếp vào Việt Nam với 71,7 tỷ USD, gấp hơn ba lần   so với năm 2007 và gấp 6 lần so với năm 2006 dù nền kinh tế  thế  giới đang   trong cuộc khủng hoảng. Đến năm 2009 và 2010, do ảnh hưởng bởi khủng hoảng kinh tế toàn cầu, dòng  vốn FDI vào Việt Nam cũng bị  sụt giảm đáng kể  dẫn đến cán cân vốn cũng bị  sụt giảm mạnh. Từ  2011 đến nay, dòng vốn FDI vào Việt Nam biến động đồng đều qua từng  năm, không có sự  tăng vọt đột ngột như  2008, góp phần làm cho cán cân thanh  toán ổn định, chuyển hướng từ thâm hụt sang thặng dư từ năm 2001 đến nay (trừ  năm 2013 thâm hụt nhẹ 283 triệu USD). (Hình 5)                                Hình : Đầu tư FDI ở Việt Nam giai đoạn 2000 ­ 2016 Tính đến hết năm 2016, cả nước có 22.509 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng   ký đạt gần 293,25 tỷ  USD. Vốn thực hiện lũy kế  của các dự  án FDI đạt hơn  154,54 tỷ USD (bằng gần 53% tổng vốn đăng ký còn hiệu lực). Khu vực FDI đã   đầu tư vào 19 trong tổng số 21 ngành, trong đó lĩnh vực công nghiệp chế biến và  chế tạo chiếm tỷ trọng lớn nhất (58,8% tổng vốn đăng ký), kinh doanh bất động  sản đứng thứ hai (17,7% tổng vốn đăng ký). Có 116 quốc gia và vùng lãnh thổ đã  
  11. đầu tư vào Việt Nam, trong đó Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn nhất với 5.747 dự án  còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 50,7 tỷ  USD (chiếm 17,3% tổng vốn đầu  tư); đứng thứ 2 là Nhật Bản với 3.280 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn   42 tỷ USD (chiếm 14,3% tổng vốn đầu tư). Đến nay, FDI đã có mặt tại 63 tỉnh, thành phố  trên cả  nước, trong đó tập trung  chủ yếu tại các địa bàn trọng điểm, có lợi thế. Xếp theo quy mô vốn, thành phố  Hồ  Chí Minh dẫn đầu với 6.737 dự  án còn hiệu lực, vốn đăng ký hơn 44,82 tỷ  USD, chiếm 15,3% tổng vốn đăng ký cả nước; thứ hai là Bà Rịa ­ Vũng Tàu với   342 dự  án, vốn đăng ký 26,86 tỷ  USD, chiếm 9,2%; thứ  ba là Bình Dương với  3.035 dự án, vốn đăng ký 26,96 tỷ USD, chiếm 9,1%. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã không ngừng được mở rộng và phát triển,   trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế, giải quyết việc làm và nâng cao   chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện trình độ  công nghệ, nâng cao khả  năng  xuất khẩu và hội nhập, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần  tích cực vào công cuộc CNH, HĐH. Có thể thấy rằng dòng vốn FDI luôn là thành phần lớn nhất trong số các dòng  vốn đổ vào Việt Nam. Ngay cả khi vay trung dài hạn tăng giảm thất thường đi  cùng sự đổi chiều dòng vốn ngắn hạn, thì cán cân vốn vẫn thặng dư chủ yếu là  vì dòng FDI đổ vào khá lớn. 2.2.2 Đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) Bảng : Đầu tư gián tiếp nước ngoài của Việt Nam từ 2000 – 2009 Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 FII --- --- --- --- --- 865 1.313 6.243 - 600 100 Nguồn: SBV, IMF, WB Đơn vị: triệu USD Sau cuộc khủng hoảng năm 1997, nguồn vốn FII vào Việt Nam có xu hướng   tăng, nhưng quy mô còn rất nhỏ và chiếm tỷ lệ thấp so với vốn FDI, đầu tư gián  tiếp nước ngoài vào Việt Nam từ  năm 2000 đến năm 2004 trong báo cáo của   IMF về Việt Nam thậm chí còn không được ghi nhận.  Năm 2005, nguồn vốn FII vào Việt Nam mới thực sự khởi sắc, với vốn đầu tư  nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam ước đạt 865 triệu USD, cùng  với sự tăng trưởng nóng của thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2006 và nửa   đầu 2007, con số vốn đầu tư gián tiếp đổ vào Việt Nam cũng tăng lên rất nhanh, 
  12. lên đến 1.313 triệu USD vào năm 2006 và 6.243 triệu USD vào năm 2007. Một   phần nguyên nhân khiến FII tăng trưởng cao trong các năm 2006 và 2007 là có sự  hoạt động mạnh mẽ của các quỹ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.  Do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ  dẫn tới TTCK toàn cầu suy   giảm, trong đó có TTCK Việt Nam khiến cho FII có xu hướng thoái lui khỏi  TTCK Việt Nam vào nửa cuối năm 2008. Tuy nhiên năm 2009, khi TTCK Việt   Nam bắt đầu có những tín hiệu hồi phục với những phiên tăng điểm liên tiếp và   khá bền vững thì dòng vốn này đã có xu hướng quay trở lại.  Luồng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) tiếp tục duy trì xu hướng thặng dư.   Trong quý II/2010, các nhà đầu tư  nước ngoài mua ròng trên thị  trường chứng  khoán khoảng 500 triệu USD. Tính chung 6 tháng đầu năm 2010, vốn FII ròng  đạt mức thặng dư 1,8 tỷ USD . Vốn FII thặng dư lớn là do đầu năm 2010, Chính   phủ Việt Nam đã phát hành thành công 1 tỷ USD trái phiếu ra thị trường quốc tế  (theo phương pháp luận thống kê cán cân thanh toán quốc tế giao dịch này phải  được thống kê vào hạng mục FII thay vì vay nợ  của Chính phủ). Nếu loại trừ  phát hành trái phiếu của Chính phủ  thì trong 6 tháng đầu năm 2010 các nhà đầu  tư nước ngoài vẫn mua ròng trên thị trường chứng khoán Việt Nam khoảng 800  triệu USD (bao gồm cả thị trường OTC), trong đó quý I/2010 là 290 triệu USD. Cùng với vốn đầu tư  gián tiếp FII tăng mạnh, trong năm 2007 cán cân vốn đạt  mức thặng dư  lớn nhất 17,7 tỷ  USD lớn hơn năm 2008 (12,3 tỷ  USD), mặc dù  vốn FDI năm 2018 đạt mức kỉ lục với 71,7 tỷ USD. Điều này cho thấy dòng vốn   FII đã ngày càng đóng góp một vị trị quan trọng trong cán cân vốn. 2.2.3 Nguồn vốn ODA                                                    Bảng : ODA cam kết và giải ngân theo cam kết Giai đoạn 1993-1995 1996-2000 2001-2005 2006-2010 2010-2015 Vốn cam kết 6,01 12,08 14,95 18,05 29,8 Giải ngân 1.88 6,14 7,88 12,40 29,7 Tỉ lệ 31,28 50,00 52,67 44,21 99,6 Nguồn: http://vietnamnet.vn. Nguồn vốn ODA tại Việt Nam được thực hiện dưới 3 hình thức chủ  yếu gồm   nguồn vốn ODA viện trợ không hoàn lại (chiếm khoảng 10%­12%), nguồn vốn  ODA vay  ưu  đãi  (chiếm  khoảng 80%)  và nguồn vốn ODA  hỗn hợp (chiếm  
  13. khoảng 8%­10%). Trong những năm qua, ODA cho Việt Nam không ngừng tăng  lên cả về số vốn cam kết cũng như vốn giải ngân. Giai đoạn 1993 ­ 1995, cộng đồng quốc tế  cam kết dành ODA cho Việt Nam   khoảng 6,01 tỷ USD, tỷ lệ giải ngân đạt gần 32% vốn cam kết. Giai đoạn 1996­ 2000, các nhà tài trợ  cam kết dành cho Việt Nam 12,28%, gấp đôi giai đoạn   trước. Giai   đoạn   2001­2005,   Việt   Nam   khẳng   định   với   thế   giới   về   khả   năng   tăng  trưởng kinh tế và giảm nghèo, trong khi dòng vốn này trên thế giới có xu hướng   giảm thì đối với Việt Nam lại tiếp tục tăng, kết quả trong giai đoạn này thu hút   được 14,96 tỷ USD. Giai đoạn 2006­2010, đây là giai đoạn Việt Nam hội nhập ngày càng sâu vào nền  kinh tế thế giới, trở thành thành viên chính thức của WTO, vốn ODA đạt được  28,05 tỷ USD vốn cam kết và tỷ lệ giải ngân đạt 44,21%. Giai đoạn 2011­2015, tỷ lệ giải ngân được cải thiện đáng kể, tuy nhiên tổng vốn   đã ký kết của giai  đoạn này chuyển sang giai đoạn 2016­2020 khoảng 22 tỷ  USD. Kết quả này có ý nghĩa sâu sắc, bởi nó đạt được trong bối cảnh khối lượng vốn   ODA trên thế giới đang có xu hướng giảm sút, một số đối tác vẫn gia tăng viện   trợ cho Việt Nam như: WB, ADB, Nhật Bản, EU. Điều này khẳng định uy tín và   vị  thế  của Việt Nam ngày càng được nâng lên, bởi tốc độ  tăng trưởng cao và   thành công trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo.... Hơn 80 tỷ USD mà các nhà tài  trợ  đã cam kết dành cho Việt Nam trong gần 20 năm qua không chỉ  mang đến  cho Việt Nam nguồn vốn bổ sung quan trọng, phục vụ quá trình phát triển kinh  tế, xóa đói giảm nghèo, phát triển nông nghiệp, nông thôn, xây dựng hạ  tầng,   đào tạo phát triển nguồn nhân lực... mà quan trọng hơn là sự  cam kết này cũng  đồng thời khẳng định sự ủng hộ mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế đối với công   cuộc đổi mới và chính sách phát triển đúng đắn của Đảng và Chính phủ  Việt  Nam, sự tin tưởng của các nhà tài trợ vào hiệu quả tiếp nhận và sử dụng nguồn   vốn ODA của Việt Nam. Tuy nhiên, tình hình giải ngân của các dự án ODA trong gần 25 năm qua chậm.  Đặc biệt, quy mô nguồn vốn này có xu hướng giảm do hiện nay Việt Nam là  nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình, các quan hệ  kinh tế  chuyển   đổi cơ  bản từ  quan hệ  viện trợ  phát triển sang quan hệ  đối tác. Do vậy vốn  ODA không có ảnh hưởng quá lớn đến cán cân vốn.
  14. 3. Thực trạng cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam và giải thích 2.3 Thực trạng cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam Cán cân thanh toán là chỉ tiêu quan trọng của bất cứ một nền kinh  tế nào. Thặng  dư  hay thâm hụt là mối quan tâm cơ  bản khi nghiên cứu cán cân thanh toán của  mỗi quốc gia. Các quốc gia trên thế giới giải quyết vấn đề này bằng việc quyết   định khối lượng thương mại và đầu tư  giữa chúng. Tương tự, Việt Nam cũng  làm như vậy. Bảng 1 thể hiện diễn biến của cán cân thanh toán Việt Nam trong   giai đoạn 2002 – 2011.  Cán cân tổng thể  thặng dư  trong giai đoạn 2002­2006  nhưng chưa có biến động mạnh, phải đến năm 2007 mới có sự  biến động lớn  trong cán cân tổng thể ­  thặng dư lên đến 10,2 tỷ USD   (gấp 2,4 lần so với năm  2006), nhưng cán cân tổng thể lại giảm mạnh chỉ đạt thặng dư hơn 0,4 tỷ  USD  vào năm 2008; và thậm chí còn ghi nhận sự thâm hụt khá lớn, khoảng 8,4 tỷ USD  (tương đương 9,1%  GDP) trong năm 2009 và 1,7  tỷ  USD (1,7% GDP) cho năm  2010.                                            Bảng : Cán cân thanh toán tổng thể, 2002 – 2011 Khoản mục 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011* Cán cân vãng lai  ­604 ­1.931 ­957 ­560 ­164 ­6.953 ­10.823 ­6.608 ­4.287 245 (triệu USD) ­ % GDP ­1,7 ­4,9 ­2,1 ­1,1 ­0,3 ­9,8 ­11,9 ­8,5 ­4,0 0,2 Cán cân vốn (triệu  2.097 3.279 2.807 3.087 3.088 17.730 12.341 7.171 6.201 8.017 USD) ­ % GDP 5,9 8,3 6,2 6,1 5,1 24,9 13,7 7,7 5,8 6,6 Cán cân tổng thể  448 2.146 935 2.130 4.324 10.210 474 ­8.465 ­1.765 3.100 (triệu USD) ­ % GDP 1,0 5,4 1,9 4,0 7,1 14,4 0,5 ­9,1 ­1,7 2,5 (*) Ước tính từ số liệu của Bộ Công thương, Tổng cục Thống kê, Cục Đầu tư nước ngoài.                                                                                                                                        Nguồn: IMF  Trong giai đoạn 2012­2018, cán cân tổng thể phần lớn  ở trạng thái thặng dư trừ  năm 2015 giảm mạnh từ đang thặng dư 8,375 tỷ năm 2014 xuống mức thâm hụt  6,032 tỷ  USD. Và năm 2013 mặc dù thặng dư  nhưng chỉ  đạt 0,557 tỷ  USD –  thặng dư  rất thấp so với năm liền kề  năm 2012 (11,847 tỷ  USD) và năm 2014   (8,375 tỷ USD). 2.4 Giải thích thực trạng của cán cân thanh toán quốc tế                                                                                                   Đơn vị: Triệu USD
  15. Cán cân tổng thể đã biến đổi mạnh và khó lường trong giai đoạn 2007­2011 sau   khi Việt Nam tham gia WTO. Sự hội nhập sâu rộng vào nền kinh  tế toàn cầu kể  từ  khi Việt Nam tham gia WTO đã làm cho những cú sốc từ  bên ngoài tác động  nhanh và mạnh hơn vào nền kinh tế nội địa. Điển hình là các cú sốc xảy ra trong  cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế  toàn cầu năm 2008 đã tác động  mạnh đến hai tài khoản cấu thành của cán cân tổng thể. Xét từ góc độ  bảng cán  cân thanh toán, hai mối liên kết mạnh mẽ  nhất của Việt Nam với nền kinh  tế  toàn cầu là thương mại quốc tế  và đầu tư  nước ngoài, và cả  hai đã bị  sốc bởi  những sự  kiện bên ngoài sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Cuộc khủng hoảng  và suy thoái toàn cầu đã làm suy yếu nhu cầu bên ngoài về  xuất khẩu của Việt  Nam  và làm suy giảm dòng vốn đầu  tư  nước ngoài  mà nền kinh  tế  Việt Nam  ngày càng trở nên phụ thuộc vào đó (Abbott và Tarp, 2011). Hệ quả là so với giai  đoạn 2002 – 2006, tác động rõ nhất của tiến trình gia nhập WTO trong 5 năm qua  đối với cán cân thanh toán là làm gia tăng sự biến động của mức độ thâm hụt cán  cân vãng lai và lưu chuyển dòng vốn, cả  về  số tuyệt đối và tỷ  lệ  theo  GDP.  Dù  chịu sự tác động của khủng hoảng tài chính thế giới nhưng việc gia nhập WTO   cũng giúp nền kinh tế  Việt Nam hưởng lợi từ  sự  phục hồi kinh tế  toàn cầu.  Theo đó, sang năm 2011 thì cán cân chuyển sang thặng dư sau hai năm thâm hụt. Năm 2013 thặng dư   ở  mức thấp hơn rất nhiều so với năm 2012 là do sức cầu  của nền kinh tế suy yếu. Điều đầu tiên có thể nhận thấy là, tăng trưởng kinh tế  đã không đạt mục tiêu so với kế  hoạch đề  ra, tức chỉ  đạt 5,42% so với 5,5%.  Mục tiêu không đạt chính là biểu hiện của tình trạng khó khăn mà khu vực sản   xuất đang đối mặt so với kỳ  vọng. Theo thống kê, trong năm 2013 có khoảng  60.737 doanh nghiệp ngừng hoạt động, tăng 11,9% so với 2012, trong đó gần   9.818 doanh nghiệp chính thức giải thể hẳn. Con số này được cho là vẫn còn rất   thấp so với tình hình thực tế  bởi vì vẫn còn rất nhiều doanh nghiệp khó khăn  buộc phải tạm ngừng hoạt động mà không khai báo hoặc không thể  thống kê  được. Trong khi đó, tiếp cận vốn của doanh nghiệp vẫn còn rất nhiều trở  ngại   dù lãi suất ngân hàng đã có xu hướng giảm, tăng trưởng tín dụng chỉ khoảng 11%  so với mục tiêu 12%. Tỷ lệ nợ xấu cao của ngân hàng và tình trạng khốn khó tài  chính của doanh nghiệp khiến cho các điều khoản cho vay được các ngân hàng   kiểm soát chặt chẽ  hơn trước. Điều này có thể  tốt cho các ngân hàng nhưng   không có lợi cho nền kinh tế xét trong ngắn hạn. Tỷ giá dù được duy trì tương  đối ổn định, thậm chí có phá giá danh nghĩa, nhưng thực ra đồng Việt Nam vẫn  lên giá thực so với USD đã làm suy giảm đáng kể  năng lực cạnh tranh của nền  kinh tế  cũng như  của hàng hóa Việt Nam trên các thị  trường quốc tế, thậm chí 
  16. ngay chính ở thị trường trong nước. Sự suy giảm của tăng trưởng kinh tế  ngoài  lý do sức cầu tư nhân, gồm cả tiêu dùng và đầu tư suy giảm thì sức cầu của khu  vực chính phủ cũng giảm. Cụ thể, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà   nước năm 2013 đạt 205,7 nghìn tỷ, bằng 101,5% kế hoạch và tăng nhẹ  0,3% so  với 2012, trong đó vốn trung  ương quản lý giảm 18,3%, còn vốn địa phương  quản lý lại tăng 6,3% so với 2012. Dù đầu tư  từ vốn ngân sách suy giảm nhưng  nguồn thu ngân sách còn suy giảm mạnh hơn. Cụ  thể, thu ngân sách năm 2013  chỉ  đạt 790,8 nghìn tỷ  đồng, bằng 96,9% dự  toán. Trong khi đó, tổng chi 986,2   nghìn tỷ đồng, bằng 100,8% dự toán. Trong năm 2013 thâm hụt ngân sách đã lên  đến 5,3% GDP, vượt mốc cho phép 4,8% ban đầu của Quốc hội. Trong tình hình  đó mặc dù cán cân vãng lai vẫn thặng dư nhưng nguồn vốn đầu tư  trực tiếp từ  nước ngoài giảm mạnh thậm chí còn thâm hụt khiến cán cân vốn thâm hụt nên  cán cân tổng thể cũng bị giảm mạnh. Năm 2015 là sự  thâm hụt duy nhất trong giai đoạn 2012­2018 của cán cân tổng  thể.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2