CÂU HỎI ĐỀ CƯƠNG LỊCH SỬ ĐẢNG
lượt xem 54
download
Câu 1: Vị trí, vai trò và thái độ chính trị của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam thời thuộc địa Câu 2: Nội dung cơ bản của chính cương sách lược vắn tắt, ý nghĩa. Câu 3: Phân tích quy quật thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam Câu 4: Hoàn cảnh lịch sử, chủ trương, biện pháp bảo vệ chính quyền non trẻ 1945-1946. Câu 5: Sự lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng trong tồng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 ...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: CÂU HỎI ĐỀ CƯƠNG LỊCH SỬ ĐẢNG
- Huỳnh Thị Hồng Ngọc LỊCH SỬ ĐẢNG Câu 1: Vị trí, vai trò và thái độ chính trị của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam thời thuộc địa I. Giai cấp địa chủ phong kiến: Trong lịch sử Việt Nam giai cấp phong kiến đã từng giữ vai trò tiến bộ nhất định và đó là giai cấp đã từng lãnh đạo đất nước xây dựng nền phong kiến tự chủ. Nhưng từ khi triều đình nhà Nguyễn đầu hàng thực dân Pháp thì giai cấp phong kiến Việt Nam không còn giữ vai trò lãnh đạo dân tộc nữa. Tuy vậy thực dân Pháp không xoá bỏ giai cấp phong kiến mà chủ trương duy trì giai cấp này để làm cơ sở xã hội cho chế độ thuộc địa. Trong hoàn cảnh đó giai cấp địa chủ phong kiến Việt Nam bị phân hoá mạnh mẽ với thái độ chính trị khác nhau: - Một số chạy theo lợi ích ích kỷ trở thành tay sai cho thực dân Pháp. - Một số chống Pháp nhằm khôi phục triều đình phong kiến - Một số cùng nhân dân chiến đấu chống thực dân Pháp và cả triều đình phong kiến - Một số nhỏ chuyển sang kinh doanh. Do sự phân hoá mạnh mẽ của giai cấp địa chủ phong kiến tạo điều kiện cho cách mạng Việt Nam thu hút và tập hợp những người yêu nước trong hàng ngũ này. II. Giai cấp nông dân Việt Nam: Giai cấp nông dân Việt Nam là giai cấp đông đảo chiếm khoảng 90% dân số. Trong chế độ thuộc địa giai cấp nông dân bị bần cùng hoá, không lối thoát do đó họ có tinh thần chống đế quốc và chống phong kiến mạnh mẽ. Họ vừa có yêu cầu về độc lập vừa có yêu cầu về ruộng đất song yêu cầu về độc lập dân tộc là bức thiết nhất. Tuy giai cấp nông dân không thể lãnh đạo cách mạng nhưng họ là lực lượng không thể thiếu của mọi cuộc cách mạng. Nói thế là vì giai cấp nông dân không độc lập về hệ tư tưởng, họ có mặt ở mọi phương thức sản xuất nhưng không thể đại diện và không thể vạch ra kế hoạch cho tương lai. Ngoài ra họ là lực lượng không thể thiếu là vì họ chiều nhiều áp bức bóc lột nhất nên sẽ tham gia vào cách mạng và là lực lượng đông đảo nhất của quần chúng nhân dân. Giai cấp nông dân Việt Nam là lực lượng chủ lực của cách mạng Việt Nam. III. Giai cấp tư sản Việt Nam: Giai cấo tư sản Việt Nam ra đời vào lúc Pháp tổ chức khai thác thuộc địa lần thứ 2 (1918 – 1945) và trong quá trình phát triển giai cấp tư sản phân hoá thành hai bộ phận: - Tư sản mại bản: có quyền lợi gắn liền với thực dân Pháp, phong kiến. Họ không ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc - Tư sản dân tộc (vừa và nhỏ):về chính trị có 2 mặt: 1
- Huỳnh Thị Hồng Ngọc Mặt tích cực: tư sản dân tộc có tinh thần ”phản đế, phản phong“ nên họ có thể là đồng minh có điều kiện của giai cấp vô sản trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Họ có tinh thần ”phản đế“ vì họ ra đời muộn, trong hoàn cảnh thuộc địa nên họ bị thực dân Pháp chèn ép còn tinh thần ”phản phong” vì giai cấp tư sản sử dụng công nhân làm lực lượng lao động nếu phong kiến tồn tại thì công nhân không tồn tại nên trong bản chất cần chống phong kiến để bảo vệ lợi ích giai cấp của mình. Mặt hạn chế: giai cấp tư sản nói chung tồn tại bằng cách bóc lột giá trị thặng dư của người sản xuất nên họ không triệt để cách mạng. Giai cấp tư sản Việt Nam không đủ sức lãnh đạo cách mạng vì họ ra đời muộn hơn tư sản thế giới(hơn 3 thế kỷ), ở trong hoàn cảnh thuộc địa,bị thực dân Pháp chèn ép nên họ yếu đuối về kinh tế, bạt nhược về chính trị. Nói chung giai cấp tư sản Việt Nam chỉ có thể đóng góp lớn nhất khi đi cùng với dân tộc Việt Nam trong cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. IV. Tầng lớp trí thức, tiểu tư sản(tầng lớp trung gian): Tầng lớp trí thức, tiểu tư sản được hình thành trong cuộc khai thác thuộc địa lần 2, thành phần bao gồm sinh viên, tiểu thương, tiểu chủ,… nên tầng lớp này có điều kiện tiếp xúc, có trình độ tri thức nhất định, họ rất nhạy cảm với chính trị và dễ dàng được chân lý thuyết phục. Đời sống bấp bênh, chịu nhiều áp bức nên họ cảm nhận sâu sắc nỗi đau của một dân tộc mất nước, nền văn hoá bị chà đạp, nền dân trí bị giam hãm. Trừ một số ít người làm tay sai còn phần lớn tầng lớp này rất yêu nước và ủng hộ cách mạng. Tầng lớp này cũng giữ một vai trò rất quan trọng trong cách mạng Việt Nam vì trong thời gian đầu thì tầng lớp này giúp Đảng và Bác truyền bá tư tưởng, đường lối chính trị thông qua các tài liệu Bác gởi về từ nước ngoài V. Giai cấp công nhân Việt Nam: Lớp công nhân đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xây dựng một số cơ sở công nghiệp, đôn trại và thành phố phục vụ cho cuộc xâm lược và binh định nước ta. Trước Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), giai cấp công nhân còn ít, chỉ 10 vạn người và trình độ còn thấp. Qua thời kỳ khai thác thuộc địa lần thứ hai (1924-1929), số lượng công nhân chuyên nghiệp đã có 22 vạn người, chiếm 1,2% số dân. Nếu tính số người làm thuê trong các hãng kinh doanh tư nhân vừa, nhỏ và số người vô sản, nửa vô sản sống ở thành thị và nông thôn, thì đội quân vô sản ở Việt Nam trước nǎm 1930 có đến hàng triệu người. Giai cấp này giữ một vị trí rất quan trọng trong “mạch máu kinh tế” nối liền thuộc địa và chính quốc Ngoài những đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc tế như: - Là đại diện của một phương thức sản xuất tiến bộ nhất: phương thức sản cuất xã hội chủ nghĩa. Có ý thức tổ chức kỉ luật cao. - Cá năng lực cách mạng, tinh thần cách mạng triệt để - 2
- Huỳnh Thị Hồng Ngọc Có tinh thần quốc tế vô sản cao cả. - Giai cấp công nhân Việt Nam còn có những đặc điểm: Xuất thân từ nông dân, thuận lợi cho việc thiết lập liện minh công nông. - - Sinh trưởng trong một nước thuộc địa, nửa phong kiến, cũng như nông dân và các tầng lớp lao động khác, giai cấp công nhân Việt Nam bị ba tầng áp bức, bóc lột của đế quốc, phong kiến và tư sản, phần lớn xuất thân từ nông dân. Đó là cơ sở khách quan thuận lợi cho hai giai cấp cơ bản này có sự liên minh tự nhiên từ khi ra đời và phát triển trong quá trình đấu tranh cách mạng. Ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, không có cơ sở xã hội cho chủ nghĩa - công đoàn và chủ nghĩa cải lương thâm nhập, lũng đoạn từ bên trong, do vậy, giai cấp công nhân Việt Nam) tuy còn trẻ, số lượng ít, trình độ văn hoá, kỹ thuật còn thấp, nhưng ở nước ta đó là giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiến bộ nhất, sống tập trung, có ý thức kỷ luật, có năng lực cách mạng triệt để và có tinh thần quốc tế vô sản. Là con đẻ của một dân tộc anh hùng, lớn lên trong thời đại mới, khi mà giai - cấp công nhân Nga dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Bônsêvích đã giành được chính quyền, Quốc tế cộng sản đã thành lập, lại được lãnh tụ Nguyễn ái Quốc giác ngộ, giai cấp công nhân Việt Nam đã từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, nhanh chóng phát triển từ tự phát đến tự giác. Câu 2: Nội dung cơ bản của chính cương sách lược vắn tắt, ý nghĩa. I. Nội dung cơ bản: Từ ngày 3/2/1930 đến 7/2/1930 hội nghị thành lập Đảng họp tại Cửu Long- Hương Cảng-Trung Quốc. Hội nghị thành lập Đảng đã thông qua chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Chương trình vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Các văn kiện đó hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta-Cương lĩnh Hồ Chí Minh. Nội dung cơ bản như sau: - Xác định “phương hướng chiến luợc” của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. - Theo tư tưởng của đồng chí Nguyễn ái Quốc thì cuộc cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản bao gồm hai cuộc vận động là cuộc vận động giải phóng dân tộc và cuộc vận động xây dựng đất nước độc lập tự do hạnh phúc, phần lớn coi giai đoạn cách mạng là giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội. - Hai cuộc vận động này liên quan mật thiết với nhau, ảnh hưởng và thúc đẩy lẫn nhau, cuộc vận động trước thành công tạo điều kiện cho cuộc vận động sau giành thắng lợi, Vì vậy, giữa hai giai đoạn cách mạng này: giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội không có bức tường ngăn cách, không phải tiến hành một cuộc cách mạng chính trị lân thứ hai để giải quyết vấn đê chính quyền như cách mạng Nga và cách mạng Trung Quốc. Xác định những nhiệm vụ cụ thể của cách mạng: - 3
- Huỳnh Thị Hồng Ngọc Về chính trị: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập, dựng ra Chính phủ công nông binh và tổ chức quân đội công nông Về kinh tế: tịch thu toàn bộ các sản nghiệp lớn của bọn đế quốc giao cho Chính phủ công nông binh: tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc làm của công và chia cho dân cày nghèo, mở mang công nghiệp và nông nghiệp, miễn thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm tám giờ. Về văn hoá xã hội: dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục theo hướng công nông hoá. Những nhiệm vụ trên đây bao gồm cả hai nội dung dân tộc và dân chủ, chống đế quốc, chống phong kiến, song nổi lên hàng đầu là nhiệm vụ chống đế quốc giành độc lập dân tộc. Về lực lượng cách mạng: Đảng chủ trương tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân, nông dân và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, lãnh đạo nông dân làm cách mạng ruộng đất; lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông,… đi vào phe vô sản giai cấp; đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng(như Đảng Lập hiến) thì phải đánh đổ. Chủ trương tập hợp lực lượng trên đây phản ánh tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh. Về nguyên tắc liên minh, Sách lược vắn tắt đã viết: "Trong khi liên lạc với các giai cấp phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thoả hiệp". Lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng Sản. ”Đảng là đội tiền phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”. Về quan hệ quốc tế: cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, “liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới nhất là quần chúng vô sản Pháp”. II. Ý nghĩa của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng: Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là một cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo theo con đường cách mạng Hồ Chí Minh Phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới Đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử Nhuần nhuyễn quan điểm giai cấp và thấm đượm tinh thần dân tộc vì độc lập tự do, tiến hành tư sản dân quyền và cách mạng ruộng đất để đi tới xã hội cộng sản là tư tưởng cốt lõi của cương lĩnh này. Câu 3: Phân tích quy quật thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam Đảng cộng sản Việt Nam ra đời mở đầu thời đại mới trong lịch sử nước ta, thời đại giai cấp công nhân và đảng tiên phong của nó đứng vị trí trung tâm, kết hợp mọi phong trào yêu nước và cách mạng, quyết định nội dung, phương hướng phát triển của xã hội Việt Nam. Đây là thời đại nhân dân Việt Nam không chỉ làm nên lịch 4
- Huỳnh Thị Hồng Ngọc sử vẻ vang của mình, mà còn góp phần vào sự nghiệp chung của các dân tộc bị áp bức là xoá bỏ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, giành độc lập, dân chủ, hoà bình và tiến bộ xã hội. Nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Nguyễn ái Quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với phong trào cách mạng các nước, kết hợp nhân tố dân tộc với nhân tố giai cấp, dân tộc với quốc tế, dân tộc với thời đại, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, tạo thành sức mạnh tổng hợp để chiến thắng chủ nghĩa đế quốc xâm lược và xây dựng đất nước giàu mạnh. Quá trình chuẩn bị và thành lập Đảng cộng sản cho ta những kết luận về quy luật thành lập Đảng: - Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là sản phầm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Học thuyết Mác - Lênin khẳng định rằng: Đảng cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân. - Quy luật chung này được đồng chí Nguyễn ái Quốc vận dụng sáng tạo vào điều kiện Việt Nam, nơi giai cấp công nhân còn ít về số lượng, nhưng người vô sản bị áp bức, bóc lột thì đồng. - Sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nông và phong trào yêu nước dẫn đến sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự phát triền cao và thống nhất của phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Đảng ta là con đẻ của phong trào cách mạng của công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động và trưởng thành thông qua đấu tranh chống đế quốc, chống phong kiến. Muốn củng cố và phát triển Đảng, đòi hỏi phải củng cố và phát triển phong trào cách mạng của quần chúng. Đảng mật thiết liên hệ với quần chúng, hướng dẫn, lãnh đạo phong trào quần chúng, thông qua thực tiễn phong trào cách mạng mà củng cố và phát triển Đảng. - Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả thống nhất của phong trào cách mạng trong cả nước, là sự đồng tâm nhất trí của những chiến sĩ tiên phong. Những người cộng sản Việt Nam dù ở trong Đông Dương cộng sản đảng, An Nam cộng sản đảng hay Đông Dương cộng sản liên đoàn, lúc bấy giờ tuy có những vấn đề bất đồng, nhưng đã biết đề cao trách nhiệm của đội tiên phong, đặt lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp lên trên hết nên đã sớm thống nhất vào một đảng duy nhất để lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đường lối chiến lược và sách lược cách mạng của Đảng được thể hiện trong - Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tãt là phù hợp với yêu cầu của toàn Đảng và toàn dân. Cương lĩnh đầu tiên trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết các lực lượng và lãnh đạo phong trào cách mạng từ khi Đảng được thành lập. Thực tiễn cách mạng nước ta ngày càng khẳng định sự đúng đắn và sáng tạo của những tư tưởng chiến lược và sách lược trên đây của đồng chí Nguyễn ái Quốc. Đại 5
- Huỳnh Thị Hồng Ngọc hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã khẳng định: "lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động" của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta trong giai đoạn hiện nay. Câu 4: Hoàn cảnh lịch sử, chủ trương, biện pháp bảo vệ chính quyền non trẻ 1945-1946. I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ NƯỚC TA SAU CMT8: 1. Thuận Lợi: 1.1 Trong Nước: - Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam: kỷ nguyên đất nước được độc lập, tự do; nhân dân lao động được giải phóng khỏi cuộc đời nô lệ trở thành người làm chủ đất nước. - Hệ thống chính quyền cách mạng được xây dựng từ Trung ương tới cơ sở trên cả nước. Từ họat động bí mật, Đảng ta trở thành Đảng lãnh đạo. Mặt trận Việt Minh và chủ tịch Hồ Chí Minh có uy tín lớn trong dân tộc, chính quyền cách mạng được toàn dân ủng hộ. - Phong trào cách mạng, tinh thần yêu nước của nhân dân dấy lên từ cao trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tiếp tục phát triển với những hình thức và nội dung mới nhằm xây dựng, bảo vệ, giữ vững thành quả cách mạng. 1.2 Thế Giới: - Các nước tư bản suy yếu. Phong trào giải phóng dân tộc vì hòa bình, dân chủ phát triển mạnh, hệ thống các nước XHCN được hình thành và nhân rộng. Đây là những nhân tố quan trọng có tác dụng cổ vũ, động viên nhân dân ta trong công cuộc xây dựng và bảo vệ thành quả cách mạng. 2. Khó Khăn: 1.1 Quốc Phòng An Ninh: Ngay từ những ngày đầu của chính quyền cách mạng, các thế lực đế quốc, phản động quốc tế đã cấu kết, báo vây, chống phá hòng thủ tiêu mọi thành quả cách mạng của nhân dân ta, đặt lại ách thống tri của chúng, xoá bỏ nền độc lập mà dân tộc ta vừa giành được. Tình hình cụ thể: Ở phía Bắc: 1.1.1 - Gần 20 vạn quân của chính quyền Tưởng Giới Thạch (Trung Quốc) - Đồng minh của đế quốc Mỹ, kéo vào miền Bắc. Dưới danh nghĩa quân đội Đồng minh vào tước vũ khí quân Nhật, nhưng âm mưu của Quốc dân đảng Trung Hoa là: "Tiêu diệt Đảng ta, phá tan Việt Minh, giúp bọn phản động Việt Nam đánh đổ chính quyền nhân dân, để lập một chính phủ phản động làm tay sai cho chúng". - Cuối tháng 8 đầu tháng 9 năm 1945, quân đội Tưởng do tướng Lư Hán làm tổng chỉ huy đã đóng quân tại Hà Nội và hầu hết các thành phố, thị xã từ biên giới Việt - Trung đến vĩ tuyến 16. - Ngày 11-9-1945, tướng Lư Hán tuyên bố thời gian quân Tưởng ở Việt Nam là không hạn định, tự cho mình quyền kiểm soát trật tự, an ninh trong thành phố. Tiêu 6
- Huỳnh Thị Hồng Ngọc Văn, nhân vật được chính quyền Tưởng giao trách nhiệm xếp đặt chế độ chính trị ở Việt Nam, mà thực chất là thực hiện âm mưu lật đổ đã sớm có mặt ở Hà Nội. Quân Tưởng kéo theo lực lượng phản động người Việt lưu vong ở Trung - Quốc tập hợp trong tổ chức Việt Nam quốc dân đảng (Việt Quốc) của Vu Hồng Khanh và Việt Nam cách mạng đông chí hội (Việt Cách) của Nguyễn Hai Thần. Được quân Tưởng khuyến khích, hỗ trợ, các lực lượng phản động này củng cố chỗ đứng và ngày càng tăng cường chống phá chính quyền cách mạng và chiếm giữ một số địa phương. Tại Hà Nội, dựa vào thế quân Tưởng, bọn Việt Quốc, việt Cách công khai hoạt động tuyên truyền, gây rối chống phá cách mạng, đồng thời ra sức lừa bịp, lôi kéo quần chúng dưới cái vỏ "cách mạng" và "quốc gia, dân tộc" giả hiệu, chúng dựa vào quân Tưởng đã chiếm giữa mốt số nơi ở Yên Bái, Vĩnh Yên, Móng Cái. Chúng quấy nhiễu, phá phách, cướp của, tống tiền, gây rối loạn trật tự trị an. Chúng giải truyền đơn, ra báo công khai xuyên tạc chính sách của Đảng, của Việt Minh, đòi loại bỏ các Bộ trưởng và Đảng viên Cộng sản ra khỏi Chính phủ... . - Ngoài ra còn nhiều tổ chức phản cách mạng khác hoạt động như Đại Việt quốc dân đảng, Đại Việt quốc gia xã hội đảng v.v. đã bị chính quyền cách mạng ra sắc lệnh giải tán nhưng vẫn tìm mọi cách hoạt động phá hoại... Ở phía Nam 1.1.2 - Từ vĩ tuyến 16 (từ Đà Nẵng trở vào), cũng với danh nghĩa lực lượng Đồng minh, quân đội Anh vào tước vũ khí quân Nhật, Nhưng trên thực tế, đế quốc Anh đã giúp cho thực dân Pháp trở lại chiếm Việt Nam và cả Đông Dương. - Anh và Pháp cấu kết đàn áp cách mạng Đông Dương vì "sợ rằng phong trào ấy "làm gương" cho các thuộc địa của Anh". Mặt khác, cũng để ngăn chặn âm mưu của Mỹ muốn tranh giành quyền lợi với Anh, Pháp ở Đông Dương và Đông - Nam á. - Ngày 6-9-1945, quân đội Anh vào Sài Gòn, Gờ-ra-xây - tổng chỉ huy quân đội Anh ở Nam Đông Dương - đòi giải giáp quân đội Việt Nam. - Ngày 12-9-1945, quân Anh chiếm trụ sở Uỷ ban nhân dân Nam Bộ, che chở cho lực lượng của Pháp biểu tình khiêu khích ở Sài Gòn. Chúng tự ý duy trì trật tự trong thành phố, giao cho quân Nhật làm nhiệm vụ cảnh sát, thả 1500 lính Pháp bị Nhật giam giữ trước đây và trang bị cho lực lượng này, đồng thời trắng trợn đòi lực lượng vũ trang Việt Nam nộp vũ khí. - Ngày 23-9-1945, được quân Anh và quân Nhật giúp sức, quân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, mở đâu cuộc xâm lược tân thứ hai của thực dân Pháp hòng đặt lại ách thống trị ở Việt Nam và Đông Dương. Chưa bao giờ trên đất nước ta lại có nhiều kẻ thù xâm lược hung bạo và xảo quyệt như vậy. Các thế lực xâm lược tuy có những ý đồ riêng và hành động cụ thể khác nhau. Song, mục tiêu chung của chúng là tiêu diệt chính quyền nhà nước Việt Nam non trẻ. Gần 30 vạn quân đội của các thế lực đế quốc, thực dân, phản động nước ngoài chiếm đóng trên đất nước ta, cách mạng nước ta không chỉ "bị hǎm trong vòng vây của đế quốc chủ nghĩa" mà còn bị phản kích quyết liệt. Sự chống phá cách mạng của các thế lực phản động ở trong nước cũng là một thách thức lớn Khi vàn nước ta, Chưa thời kỳ nào cách mạng nước ta phải đối đấu với nhiều thế lực, nhiều đảng phái phản động như trong những nǎm 1945-1946. 1.2 Kinh tế: 7
- Huỳnh Thị Hồng Ngọc Nhân dân ta và chính quyền cách mạng còn phải vượt qua những khó khăn lớn về kinh tế, đời sống xã hội. Nền kinh tế nước ta vốn đã nghèo nàn, lạc hậu lại bị thực dân Pháp và phátxít Nhật vơ vét, bị chiến tranh và thiên tai tàn phá nên lại càng nghèo hơn. - Nông nghiệp: Nǎng suất lúa rất thất ( 12 tạ/ha). Nông dân lao động chiếm hơn 95% số hộ nhưng chỉ được sử dụng không quá 40% ruộng đất. Hậu quả nạn đói cuối nǎm 1944 đầu nǎm 1945 chưa kịp khắc phục, thì nạn lụt lớn lại xảy ra, tàn phá 9 tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. 50% ruộng đất bỏ hoang. - Công nghiệp: Công nghiệp chỉ có không quá 200 nhà máy nhỏ bé, trang bị cũ kỹ, đang lâm vào đình đốn hàng hoá khan hiếm. 1.3 Tài chính: - Tài chính quốc gia gần như trống rỗng. - Ngân hàng Đông Dương vẫn nằm trong tay tư bản nước ngoài. - Chính quyền cách mạng chỉ tiếp quản được kho bạc với 1.230.720 đồng, trong đó có 586.000 đồng tiền rách. 1.4 Văn hoá – xã hội: - Hậu quả về mặt xã hội cũng rất nặng nề, trên 90% số dân không biết chữ. Hầu hết số người được đi học chỉ ở bậc tiểu học và vỡ lòng, trên 3 vạn dân mới có một học sinh cao đẳng hoặc đại học và chủ yếu học ở ngành luật và ngành thuốc. - Suốt thời kỳ 1930-1945, số công chức có trình độ cao đẳng và đại học chỉ gồm vài trăm người. Thực tế đó làm cho việc tổ chức, hoạt động của chính quyền mới gặp không ít khó khăn, lúng túng. 1.5 Chính Trị: - Chính quyền Cách Mạng còn non yếu - Nhân dân lao động lần đầu tiên lên nắm chính quyền chưa có kinh nghiệm Những khó khăn, thử thách to lớn cả về quân sự, chính trị, kinh tế và xã hội trên đây, đặt chính quyền cách mạng và vận mệnh đất nước ta trong thế "ngàn cân treo sợi tóc". Tình hình trên đòi hỏi Đảng và chính quyền cách mạng có đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn, phát huy sức mạnh của toàn dân mới có thể bảo vệ và phát triển thành quả cách mạng. II. CHỦ TRƯƠNG, BIỆN PHÁP ĐỂ BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG NĂM 1945-1946: 1. Chủ trương: 8
- Huỳnh Thị Hồng Ngọc - Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và hiện trạng đất nước, Trung ương Đảng, chính phủ lâm thơi và Hồ Chí Minh xác định 3 nhiệm vụ cấp bách trong giai đoạn này là diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm. - Ngày 25/11/1945, BCH Trung ương Đảng ra chỉ thị Kháng chiến kiến quốc xác định tính chất của “cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cuộc cách mạng dân tộc giải phóng” với khẩu hiệu “Dân tộc trên hết, Tổ Quốc trên hết”. Chỉ thị nêu rõ “kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”. Vì vậy, phải “lập Mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược”. - Chỉ thị vạch ra nhiệm vụ chủ yếu của toàn dân là “củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân”. Để thực hiện các nhiệm vụ này, chỉ thị cũng đề ra các công tác cụ thể: - Về nội chính: Đảng nhấn mạnh việc củng cố sức mạnh về chính trị, tinh thần của chế độ mới. Chính quyền là vấn đề cơ bản của cách mạng, do vậy củng cố chính quyền cách mạng là nhiệm vụ hàng đầu. Xúc tiến việc bầu cử Quốc hội, thành lập chính phủ chính thức, lập Hiến pháp, củng cố chính quyền nhân dân. - Về quân sự: động viên lực lượng toàn dân, kiên trì kháng chiến, tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến lâu dài. - Về ngoại giao: kiên trì nguyên tắc “bình đẳng tương trợ”, thêm bạn bớt thù, thực hiện khẩu hiệu “Hoa-Việt thân thiện” đối với quân đội Tưởng Giới Thạch và chủ trương “độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế” đối với Pháp. - Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc đã giải quyết kịp thời và khôn khéo những vấn đề quan trọng trong chỉ đạo chiến lược và sách lược cách mạng trong tình thế vô cùng hiểm nguy của nước nhà. 2. Biện Pháp: - Thực hiện tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, củng cố chế độ mới. - Thực hiện sách lược lợi dụng mâu thuẫn nội bộ kẻ thù để phân hóa chúng, khôn khéo tránh tình thế phải đương đầu với nhiều kẻ thù cùng một lúc. 2.1 Về Nội Chính: - Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương tổ chức sớm cuộc tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu, lập chính phủ chính thức, chấn chỉnh các cơ quan chính phủ, soạn thảo Hiến pháp để khẳng định trên thực tế và về mặt pháp lý, một chính quyền thật sự do nhân dân xây dựng nên, một chính quyền của dân và vì dân. Kết quả cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam ngày 6-1-1946 biểu thị ý chí và sức mạnh của toàn dân xây dựng và bản vệ chính quyền. - Nhìn chung ở cả 71 tỉnh thành trong cả nước, 89% tổng cử tri đã đi bỏ phiếu, phổ biến là 80%, nhiều nơi đạt 95%. Trừ một số nơi phải bầu bổ sung, còn tuyệt đại đa số các địa phương chỉ bầu một lần. Cả nước đã bầu được 333 đại biểu, trong đó, có 57% số đại biểu thuộc các đảng phái khác nhau, 43% không đảng phái, 87% số đại biểu là công nhân, nông dân, chiến sĩ cách mạng, 10 đại biểu phụ nữ và 34 đại biểu các dân tộc thiểu số. - ở các địa phương nhân dân cũng bầu ra Hội đồng nhân dân các cấp và các hội đồng đó cử ra các uỷ ban nhân dân chính thức thay cho các uỷ ban nhân dân lâm thời thành lập trong những ngày tổng khởi nghĩa. Việc kiện toàn chính quyền 9
- Huỳnh Thị Hồng Ngọc cách mạng từ trung ương tới cơ sở có ý nghĩa to lớn cả về đối nội và đối ngoại và là bước tiến quan trọng nhằm tăng cường sức mạnh về chính trị. - 25-2-1946, sau nhiều lần thương lượng, hội nghị liên tịch giữa Việt Minh, Dân chủ, Việt Quốc, Việt Cách đã thống nhất:Thành lập Chính phủ liên hiệp kháng chiến chính thức gồm 10 bộ: Bộ Quốc phòng và Nội vụ để người không đảng phái nắm; các Bộ Tài chính, Giao thông công chính, Giáo dục, Tư pháp do Việt Minh và Dân chủ nắm; các Bộ ngoại giao, Kinh tế, Xã hội, Canh nông do Việt Quốc, Việt Cách nắm. Để tỏ rõ tính chất thống nhất quốc gia của Chính phủ liên hiệp, hai Bộ giao thông công chính và Canh nông sẽ dành cho đồng bào Nam Bộ. Trong khi đại biểu Nam bộ chưa tựu chức, Bộ Giao thông công chính sẽ do Việt Minh hay Dân chủ phụ trách; Bộ Canh nông sẽ do Việt Quốc hay Việt Cách phụ trách. - Đảng chủ trương mở rộng Chính phủ lâm thời thành Chính phủ liên hiệp lâm thời, để cho một số nhân vật của Việt Quốc, Việt Cách (tay sai của Tưởng) tham gia Chính phủ. Quốc hội khoá I, kỳ họp đầu tiên ngày 2-3-1946 thông qua đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh mở rộng thêm 70 ghế trong Quốc hội cho bọn Việt Quốc, việt Cách và để họ nắm gần một nửa số Bộ trong Chính phủ liên hiệp chính thức nhằm thực hiện sách lược của ta đối với chính quyền Tưởng. - Để tăng cường sức mạnh về chính trị, cùng với việc củng cố chính quyền, Đảng chủ trương mở rộng khối đoàn kết toàn dân trên cơ sở phát triển các đoàn thể cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh, tổ chức thêm những đoàn thể cứu quốc mới. - Thu hút vào Mặt trận những tầng lớp tư sản, địa chủ yêu nước và tiến bộ. Theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bên cạnh Mặt trận Việt Minh, một mặt trận mới là Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam, gọi tắt là Liên Việt được thành lập tháng 5- 1946 nhằm đoàn kết tất cả các lực lượng và cá nhân chưa có điều kiện tham gia Mặt trận Việt Minh trước đây cùng phấn đấu cho một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ và phú cường. Khối đoàn kết dân tộc trong Mặt trận Việt Minh và Liên Việt là cơ sở chính trị, xã hội rộng lớn bảo đảm sự vững mạnh của chính quyền nhân dân, của chế độ mới trước những khó khăn thử thách nặng nề. - Một số đoàn thể quần chúng và đảng phái dân chủ lần lượt ra đời như: Mặt trận Liên Việt (28-5-1946), Tổng liên đoàn lao động Việt Nam (27-5-1946), Đảng xã hội Việt Nam (22-7-1946), Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (20-10-1946), v.v... Mặt trận đoàn kết dân tộc thống nhất quốc gia được tăng cường. - Ngày 9-11-1946, Quốc hội thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên của nước ta, khẳng định tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, nước Việt Nam là một khối thống nhất không thể chia cắt. - Sức mạnh chính trị được biểu hiện tập trung ở việc giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, ở việc giữ nghiêm kỷ luật của Đảng và tăng cường số lượng và chất lượng đội ngũ đảng viên. Trong tình hình chính trị có nhiều phức tạp, trước âm mưu chia rẽ, chống phá của giặc ngoài, thù trong, để bảo toàn lực lượng và có lợi cho sách lược đấu tranh, Đảng tạm thời rút vào hoạt động bí mật (ngày 11-11-1945): Nhưng Đảng vẫn giữ vững vai trò lãnh đạo cách mạng, xem đó chỉ là một giải pháp cần thiết, bắt buộc trước tình thế hiểm nghèo của cách mạng, Đảng phải "lãnh đạo kín đáo và có hiệu quả hơn". 2.2 Về quốc phòng an ninh: - Trước hành động xâm lược của thực dân Pháp ở Nam Bộ, Đảng chủ trương nhanh chóng phát triển lực lượng vũ trang, tăng cường sức manh quân sự, động 10
- Huỳnh Thị Hồng Ngọc viên lực lượng toàn dân kiên trì kháng chiến. Ngày 23-9-1945, quân dân Sài Gòn và cả Nam Bộ đã mở đầu cuộc kháng chiến trường kỳ và gian khổ chống thực dân Pháp. ở miền Nam, Đảng phát động toàn dân triệt để tổng đình công, bãi công, bãi chợ, không hợp tác với địch, làm đúng lời thề trong lễ tuyên bố độc lập, đông thời tiến hành chiến tranh du kích rộng khắp, kìm chân và tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, làm thất bại kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của địch. ở miền Bắc và miền Trung, Đảng phát động phong trào "Nam tiến" chi viện người và của cho cuộc chiến đấu ở miền Nam. Chính cuộc đấu tranh vũ trang anh dũng dựa trên sức mạnh của quân dân cả nước đã gây cho địch nhiều khó khăn, làm thất bại kế hoạch đánh nhánh thắng nhanh của chúng, buộc thực dân Pháp phải đàm phán với Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà. - Lực lượng vũ trang cách mạng đến năm 1946 đã lên tới 8 vạn người. Đó là một trong những lực lượng nòng cốt bảo vệ chính quyền, bảo vệ thành quả cách mạng. Ngay từ đâu, Đảng và chính quyền cách mạng đã rất chăm lo xây dựng, củng cố công an nhân dân, coi đó là công cụ trọng yếu bảo vệ thành quả cách mạng. Sự ra đời của công an nhân dân ngày 19-8-1945 và cuộc đấu tranh có hiệu quả chống các thế lực phản cách mạng đã thể hiện tinh thần đó. - Chính quyền cách mạng đã nhanh chóng xoá bỏ bộ máy cai trị của chính quyền cũ như Sở liêm phóng, hiến binh, giải tán các đảng phái phản động. Ngày 5-9- 1945, Chính phủ ra sắc lệnh giải tán "Đại Việt quốc gia xã hội đảng", "Đại Việt quốc dân đảng", ngày 13-9-1945, Chính phủ ra tiếp sắc lệnh quản thúc an trí những người nguy hiểm cho nền dân chủ cộng hoà. - Đảng và chính quyền cách mạng kiên quyết trừng trị bọn phản quốc lợi dụng khó khăn của cách mạng và dựa vào thế lực bên ngoài để chống phá cách mạng. Các âm mưu lật đổ của địch đều bị thất bại. Việc khám phá và đưa ra xét xử vụ bắt cóc, cướp của, giết người của bọn phản động ở phố ôn Như Hầu tháng 7-1946 đã làm thất bại kế hoạch lật đổ chính quyền cách mạng, làm tan rã hàng ngũ bọn phản động, đồng thời biểu lộ sức mạnh và uy tín của chính quyền nhân dân. 2.3 Về kinh tế: - Chính quyền cách mạng với những chính sách và biện pháp có hiệu quả sớm ổn định và cải thiện đời sống nhân dân: - Những biện pháp cơ bản để phát triển kinh tế như khôi phục các nhà máy, hầm mỏ, cho tư nhân góp vốn kinh doanh, khuyến khích giới công thương mở hợp tác xã, lập ngân hàng quốc gia, phát hành giấy bạc, sửa chữa đê điều, định lại các ngạch thuế v.v.., - Đảng đặc biệt nhấn mạnh việc phát triển sản xuất nông nghiệp với khẩu hiệu "không một tấc đất bỏ hoang". Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động chiến dịch tăng gia sản xuất và tiết kiệm để cứu đói, động viên sự đóng góp to lớn của nhân dân. - Hàng loạt chính sách, biện pháp thúc đẩy sản xuất, tiết kiệm, khắc phục khó khăn về kinh tế tài chính, ổn định đời sống, được nhân dân tích cực hưởng ứng và thực hiện có hiệu quả. - Ngày 3/9/1945 phát động phong trào “nhường cơm xẻ áo, thực hành tiết kiệm”, tích cực tăng gia sản xuất. - Tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia cho dân nghèo 11
- Huỳnh Thị Hồng Ngọc - Giảm tô 25%, bãi bỏ các thứ thuế bất công, vô lý, thi hành chế độ ngày làm 8 giờ 2.4 Về tài chính: - Chính phủ đã động viên toàn dân đóng góp tiền của và hưởng ứng "Tuần lễ vàng" xây dựng "Quỹ độc lập". Các tầng lớp nhân dân trên cả nước trong "Tuần lễ vàng", (từ ngày 17 đến 24-9-1945) đã đóng góp được 370 kg vàng, và hơn 60 triệu đồng cho"Quỹ độc lập" và "Quỹ đảm phụ quốc phòng". - Nhiều nhà công thương ở Hà Nội ủng hộ Chính phủ hàng trăm lạng vàng và hàng triệu đồng. - 23/11/1946 Quốc hội cho lưu hành tiền Việt Nam nhằm giải quyết tình trạng thiếu hụt tiền lưu hành trong xã hội và nạn lạm phát. 2.5 Về văn hoá - giáo dục, xã hội: Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng “ Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Vì vậy, chiến dịch diệt giặc dốt được thực hiện rộng khắp trong cả nước. - 8/9/1945 lập Nha Bình Dân học vụ, phát động phong trào xoá nạn mù chữ - Đến 3/1946 ở Bắc và Bắc Trung Bộ đã có 3 vạn lớp học với 81 vạn học viên.Trong vòng 1 năm có 2,5 triệu người biết chữ - Bên cạnh đó, xóa bỏ phong tục cổ hủ và tệ nạn xã hội của chế độ cũ, từng bước xây dựng đời sống văn hóa mới. 2.6 Về ngoại giao: - Thực hiện sách lược hoà hoãn, tranh thủ thời gian chuẩn bị toàn quốc kháng chiến: Khi quyết định sách lược hoà hoãn với Tưởng, Đảng ta cũng nhận rõ những mâu thuẫn, khó khăn trong nội bộ quân Tưởng. Chính quyền Tưởng tuy có Mỹ giúp sức, song đang phải đối phó với sự phát triển của cách mạng Trung Quốc do Đảng cộng sản lãnh đạo và nước Trung Hoa đang đứng trước một cuộc nội chiến mới. Chính quyền Tưởng tuy tham vọng thì lớn, nhưng thực lực có hạn, đội quân Tưởng kéo sang Việt Nam tuy đông nhưng ô hợp, tổ chức kém và hậu cần khó khăn, nên chúng không thể muốn gì là làm được, không thể không trông mong vào những khả năng hậu cần tại chỗ. Do đó, chúng không thể không giao thiệp và dựa vào chính quyền của ta đã được xác lập, để có thể giải quyết những nhu cầu cấp thiết. - Về phía thực dân pháp ta tạm thời hoà với Pháp, cho quân Pháp vào miền Bắc sẽ tránh được tình thế bất lợi cùng một lúc phải chiến đấu với nhiều kẻ thù, bảo toàn được thực lực, có thời gian củng cố chính quyền và thành quả cách mạng, tăng thêm tiềm lực để đưa cách mạng tiến lên bước phát triển mới,tranh thủ thời gian hoà hoãn với Pháp để sớm gật được quân Tưởng và loại trừ bọn tay sai. - Như vậy, sách lược mới của Đảng ta mang ý nghĩa "Hoà Để Tiến". a) Đối với thực dân Pháp: - Ngày 28-2-1946, Tưởng và Pháp đã ký Hiệp ước Hoa - Pháp, thoả thuận để quân Pháp vào miền Bắc thay thế quân Tưởng "canh giữ tù binh Nhật" và "giữ trật tự theo "hiệp ước quốc tế"."Hiệp ước Hoa - Pháp không phải là chuyện riêng của Tàu Tưởng và Pháp. Nó là chuyện chung của phe đế quốc và bọn tay sai của chúng ở thuộc địa. Dù nhân dân Đông Dương muốn hay không muốn, nhất định chúng cũng thi hành Hiệp ước ấy" Thực chất đây là sự mua bán chính trị giữa các thế lực đế 12
- Huỳnh Thị Hồng Ngọc quốc, phản động, một sự áp đặt như "việc đã rồi", bất kể Chính phủ và nhân dân Việt Nam có thừa nhận hay không. - Từ sự phân tích tình hình một cách khách quan, toàn diện, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định tạm thời hoà hoãn và có nhân nhượng cần thiết để cho quân Pháp vào miền Bắc, nhưng không phải hoàn toàn theo Hiệp ước Hoa - Pháp, mà phải theo những điều kiện đàm phán ký kết giữa ta và Pháp. Sự nhân nhượng của ta là có nguyên tắc: Trước hết là Pháp phải công nhận quyền tự chủ (chứ không phải tự trị) của nhân dân Việt Nam được ghi trong Điều 1 của Hiệp định sơ bộ ký ngày 6-3-1946 tại Hà Nội giữa đại diện Chính phủ Cộng hoà Pháp và đại diện Chính phủ Việt Nam.Hai bên đã thoả thuận về các điều khoản sau đây: 1) Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là một quốc gia tự do, có chính phủ của mình, nghị viện của mình, quân đội của mình, tài chính của mình, và là một phần tử trong Liên bang Đông Dương và trong khối Liên hiệp Pháp. 2) Về việc hợp nhất ba kỳ, chính phủ Pháp cam đoan thừa nhận những quyết định của nhân dân trực tiếp phán quyết. 3) Chính phủ Việt Nam tuyên bố sẵn sàng thân thiện tiếp đón quân đội Pháp khi quân đội ấy chiếu theo các hiệp định quốc tế đến thay thế quân đội Trung Hoa. Một hiệp định phụ khoản đính theo Hiệp định sơ bộ này sẽ định rõ cách thức thi hành công việc thay thế ấy. 4) Các điều khoản kể trên sẽ được tức khắc thi hành sau - khi ký hiệp định. Hai chính phủ lập tức quyết định mọi phương sách cần thiết để đình chỉ ngay cuộc xung đột, để giữ nguyên quân đội hai bên tại vị trí hiện thời và để gây một bầu không khí êm dịu cần thiết cho việc mở ngay cuộc điều đình thân thiện và thành thực. - Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm nước Pháp với tư cách là thượng khách của Chính phủ Pháp từ ngày 31-5-1946. Cuộc đàm phán chính thức ở Pan giữa đoàn đại biểu Chính phủ ta và Chính phủ Pháp bắt đầu từ ngày 6-7-1946, nhưng không đạt được kết quả. - Trước khi rời nước Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với Chính phủ Pháp bản Tạm ước Việt - Pháp ngày 14-9-1946, thể hiện thiện chí hoà bình trước sau như một của Chính phủ và nhân dân Việt Nam.Nội dung chính: 1) Ngừng bắn ở Nam Bộ từ 30.10.1946, hai bên cam kết tôn trọng các quyền tự do dân chủ 2) Pháp sẽ thả những người yêu nước Việt Nam bị bắt giữ, hai bên sẽ quyết định thể thức về trưng cầu dân ý ở Nam Bộ; 3) Việt Nam sẽ trả lại các tài sản của người Pháp đã bị tịch thu, sẽ tôn trọng tài sản và cơ sở kinh tế của người Pháp và cho phép họ hưởng các quyền tự do tương tự như các công dân Việt Nam kể cả quyền tự do kinh doanh và sẽ ưu tiên sử dụng các cố vấn và chuyên gia Pháp 4) Việt Nam sẽ cho phép các cơ quan giáo dục, khoa học Pháp được tự do hoạt động, trả lại Viện Paxtơ ở Hà Nội cho Pháp 5) Việt Nam đồng ý coi đồng bạc Đông Dương là đồng tiền duy nhất cho toàn Đông Dương và đồng ý sẽ lập một liên minh hải quan với các thành viên khác của Liên bang Đông Dương. 13
- Huỳnh Thị Hồng Ngọc 6) Hai bên sẽ tiếp tục đàm phán trước 1.2.1947 để đạt tới một hiệp ước dứt khoát. Tạm ước 14.9 đã làm cho nhân dân Pháp và thế giới thấy rõ thiện chí hoà bình của Chính phủ và nhân dân Việt Nam. Mặc dù phải nhân nhượng thêm về quyền lợi kinh tế, văn hoá... cho Pháp, song Việt Nam đã kiên trì quan điểm độc lập trong Liên hiệp Pháp, tiếp tục ngừng bắn, cam kết quyền tự do dân chủ ở Nam Bộ, khẳng định đàm phán sẽ tiếp tục. b) Đối với quân Tưởng Giới Thạch: Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy rõ quân Tưởng vào nước ta với ý đô lật đổ Chính phủ ta, lập nên chính quyền tay sai của chúng nhưng lại dưới danh nghĩa quân Đồng minh làm nhiệm vụ tước vũ khí quân Nhật, nên Đảng ta đề ra chính sách "Hoa - Việt thân thiện", có những nhân nhượng nhất định, chính là chủ động ngǎn chặn và làm thất bại âm mưu lật đổ của chúng, tỏ rõ thiện chí của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là sẵn sàng hợp tác, giúp đỡ quân Đồng minh trong việc giải giáp quân Nhật, không để họ kiếm cớ lật đổ chính quyền của ta. Ngoài ra ta đã có sự nhân nhượng với quân Tưởng trên một số mặt: - Về kinh tế: Chính phủ Việt Nam nhận cho quân Tưởng tiêu tiền "quan kim" mặc dù điều đó làm cho tài chính và thương mại của ta càng thêm nguy ngập . Chính phủ và nhân dân ta nhận cung cấp lương thực, thực phẩm cho quân Tưởng trong hoàn cảnh đất nước chưa ra khỏi nạn đói. - Về quân sự: Đảng chủ trương tránh xung đột với quân Tưởng, tỉnh táo để không rơi vào âm mưu và hành động khiêu khích lật đổ của chúng. - Về chính trị: Trong hoàn cảnh có nhiều đảng phái đối lập công khai dựa vào thế lực bên ngoài để chống phá chính quyền cách mạng, Đảng ta tuy phải rút vào bí mật, nhưng không thể buông lỏng vai trò lãnh đạo chính quyền. Chấp nhận cho các đảng phái đối lập hoạt động, thậm chí tham gia chính quyền là sự nhân nhượng lớn có tính chất bắt buộc, nhưng đó chỉ là sách lược của ta với chính quyền Tưởng lúc này, còn giữ vững sự lãnh đạo của Đảng ta là một nguyên tắc chiến lược. Chúng ta biết rõ các đảng phái phản động (Việt Quốc, Việt Cách..., hoàn toàn dựa vào quân Tưởng, nên khi đội quân đó rút đi thì các tổ chức đó cũng không có chỗ đứng trong lòng quốc gia, dân tộc và chiêu bài "yêu nước", "cách mạng" cũng bị chính những hành động phản nước, hại dân của họ lột bỏ. Đối với các đảng phái thân Tưởng, Đảng ta chủ trương phân hoá nội bộ của chúng, kéo lấy những phần tử trung thực còn có tinh thần yêu nước; đồng thời, chỉ cho quần chúng thấy bọn lãnh tụ các tổ chức đó "chẳng qua là một bọn cơ hội đê hèn, vì chúng chỉ biết vâng lệnh nước ngoài và đặt quyền lợi riêng lên trên quyên lợi dân tộc". III. Thành quả đạt được của Đảng và nhà nước ta: - Như vậy, trong vòng 16 tháng (từ tháng 9-1945 đến tháng 12-1946), một trong những thành công nổi bật của Đảng ta góp phần bảo vệ chính quyền và thành quả cách mạng là đã triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù. Lúc thì hoà hoãn nhân nhượng với Tưởng để rảnh tay đối phó với thực dân Pháp, lúc thì tạm thời hoà hoãn với Pháp để đuổi nhanh quân Tưởng. Đó là những biện pháp cực kỳ sáng suốt và là một mẫu mực tuyệt vời của sách lược về lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù và sự nhân nhượng có nguyên tắc. 14
- Huỳnh Thị Hồng Ngọc - Thành công của sự vận dụng sách lược lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù thời kỳ này bắt nguồn từ nhiều điều kiện: Một là, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nhạy cảm đặc biệt về chính trị đã phân tích, đánh giá đúng âm mưu, hành động, thế và lực của từng kẻ thù để kịp thời có đối sách thích hợp. Không có sự nhạy cảm đặc biệt như một "linh khiếu chính trị" thì không thể chỉ rõ thực dân Pháp là kẻ thù chính trong khi gần 20 vạn quân Tưởng đã kéo vào miền Bắc. Cũng chính nhờ sự nhạy cảm đặc biệt đó mà chỉ trong vòng mấy ngày cuối tháng 2 đầu tháng 3 nm 1946, Đảng đã nhanh chóng chuyển từ hoà với Tưởng để đánh Pháp sang hoà với Pháp để đuổi nhanh quân Tưởng về nước. Hai là, thực hiện hoà hoãn, nhân nhượng với kẻ thù nào, Đảng ta cũng luôn luôn giữ vững nguyên tắc chiến lược, tránh được những sai phạm "tả" hoặc hữu khuynh. Nguyên tắc đó là giữ vững chủ quyền và mục tiêu độc lập thống nhất đất nước, giữ vững chính quyền và thành quả cách mạng. Nguyên tắc hoà với Pháp là giữ vững quyền tự chủ. Giữ vững nguyên tắc nhưng không cứng nhắc mà có sự mềm dẻo về sách lược và linh hoạt về hình thức đấu tranh, luôn luôn nêu cao chính nghĩa và tỏ ra thiện chí của ta. Ba là, phải có thực lực cách mạng, nghĩa là phải có sức mạnh cần thiết. Cách mạng không đủ mạnh thì kẻ thù không bao giờ chịu lùi bước. ở đây sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân là một trong những nhân tố cơ bản. Dựa trên sức mạnh của quần chúng nhân dân để chủ động tiến công, phân hoá hàng ngũ địch. Trên thực tế "muốn ngoại giao thắng lợi, phải biểu dương thực lực". Bốn là, không thể có thành công về lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù nếu không tỉnh táo, sáng suốt về chính trị, hoặc mất cảnh giác, ảo tưởng vào sự thành thật của kẻ thù. Khi hoà hoãn và nhân nhượng phải dự kiến những diễn biến xấu nhất để chủ động đối phó. Bất kể trong tình hình nào cũng phải chủ động. Sự chủ động dựa trên sự phân tích đúng đắn những vấn đề phát sinh phức tạp, lòng tin vững chắc và quyết tâm cách mạng rất cao của đội tiên phong lãnh đạo là Đảng ta, kết hợp với nhiệt tình cách mạng của nhân dân ta. Giữ vững chính quyền nhân dân ở nước ta trong những nǎm 1945-1946 làm nổi bật kinh nghiệm về cách mạng biết tự bảo vệ trong bối cảnh lịch sử cực kỳ khó khǎn, phức tạp. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng một lúc nhân dân ta phải thực hiện nhiều nhiệm vụ lớn: kháng chiến chống xâm lược giữ vững nền độc lập; trấn áp các thế lực phản động, xây dựng và củng cố chính quyền, xây dựng chế độ mới; phát triển kinh tế, vǎn hoá để từng bước ổn định đời sống nhân dân v.v.. Những chủ trương, biện pháp đúng đắn đó đã khơi dậy sức mạnh to lớn của cả dân tộc, do đó chẳng những đã bảo vệ được chính quyền, mà còn đưa cách mạng tiếp tục phát triển vững chắc và giành thế chủ động ngay từ đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Câu 5: Sự lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng trong tồng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 I. Giới Thiệu: - Chiến dịch mùa xuân 1975 là tên gọi của những cuộc tấn công quân sự cuối cùng của các lực lượng Mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam và quân đội Việt 15
- Huỳnh Thị Hồng Ngọc Nam cộng hoà trong chiến tranh Việt Nam bắt đầu từ 4/3 và kết thúc vào ngày 30/04/1975. - Gồm 3 chiến dịch: Chiến dịch Tây Nguyên(từ 4/3 đến 24/3) Chiến dịch giải phóng Huế-Đà Nẵng(từ 21/3 đến 29/3) Chiến dịch Hồ Chí Minh(từ 9/4 đến 30/4)(tên chiến dịch ban đầu là Chiến dịch giải phóng Sài Gòn-Gia Định sau đó đổi thành Chiến dịch Hồ Chí Minh vào ngày 14/4/1975) - Những trận đánh này được thực hiện sau khi Hoa Kỳ rút hẳn khỏi cuộc chiến. - Kết thúc thắng lợi quân sự của quân giải phóng trong chiến dịch này là kết thúc chiến tranh Việt Nam, thống nhất đất nước. II. Diễn biến của chiến dịch: 1. Chiến dịch Tây Nguyên Chiến dịch Tây Nguyên là cuộc tấn công mở đầu trong chiến dịch Mùa xuân năm 1975 gồm 3 trận thắng giòn giã và có ý nghĩa quyết định: - Đánh chiếm thị xã buôn mê thuộc(từ 5-8/3/1975) - Đập tan cuộc phản kích từ Phước An, tiêu diệt sư đoàn 23 Nguỵ(13- 16/3/1975) - Chặn đánh tiêu diệt địch rút lui trên đường số 7(17-23/1975) - 2. Chiến dịch giải phóng Huế-Đà Nẵng: Chiến dịch này từ ngày 21 đến ngày 29/3/1975 trong khi chiến dịch Tây Nguyên còn chưa kết thúc. - Chiến dịch này xoá bỏ Quân khu 1, Quân đoàn 1 của Việt Nam cộng hoà. - Phối hợp với quân Tây Nguyên, quân ta ở Quảng Trị đẩy mạnh tấn công. - 19/3/1975 giải phóng Quảng Trị, địch lo sợ bỏ chạy về giữ Huế - 25/3/1975 giải phóng Huế - 29/3/1975 giải phóng Đà Nẵng. Chiến dịch này đã giải phóng Huế và Đà Nẵng khi tinh thần chiến đấu của quân Việt Nam Cộng hoà rất hoảng loạn. Kết thúc chiến dịch khoảng 10 vạn sĩ quan, binh lính Việt Nam Cộng hoà ra hàng 3. Chiến dịch Hồ Chí Minh: - Chiến dịch kéo dài từ ngày 9/4 đến ngày 30/4/1975 - Ngày 9-21/4/1975 quân ta đánh chiếm Xuân Lộc, tiêu diệt và làm tan rã căn cứ phòng thủ trọng yếu của địch bảo vệ Sài Gòn từ phía Đông. - Ngày 16/4/1975 phá vỡ tập đoàn phòng ngự của địch ở Phan Rang. 16
- Huỳnh Thị Hồng Ngọc - 16-25/4/1975 trên đường tiến công quân ta và đồng bào địa phương đã nổi dậy tấn công và giải phóng tỉnh Bình Thuận và thị xã Phan Thiết. - Ngày 26,27,28/4/1975 trên trục đường số 1 quân ta đánh chiếm Trảng Bom, bao vây Biên Hoà. - Ngày 28/4/1975 quân giải phóng từ 5 hướng(đông, nam, tây, bắc, tây-bắc) đã vây chặt Sài Gòn. - Ngày 29/4/1975 các binh đoàn chủ lực của quân giải phóng đã tiến hành tổng công kích các tuyến phòng thủ cuối cùng của địch. - 9 giờ 30 phút ngày 30/4/1975 quân ta đã chiếm phủ tổng thống Nguỵ - 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975 cờ cách mạng đã cắm trên phủ tổng thống Nguỵ. Sài Gòn đã hoàn toàn giải phóng - Ý nghĩa của chiến dịch: Chiến dịch mùa xuân 1975 mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người. Đi sâu vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ 20 Chiến dịch mùa xuân 1975 đã đưa đất nước ta hoàn toàn độc lập thống nhất. III. Nhận định cục diện trước chiến dịch 1. Tình hình của địch(quân lực của quân Việt Nam cộng hoà) trên chiến trường: - Mỹ đã rút quân song vẫn còn can thiệp vào niền Nam nhưng sự can thiệp này chỉ có ở mức độ tức thời là tiếp tục viện trợ để chính quyền Thiệu tự lực đứng vững được - Hiệp định Paris đề cập đến vấn đề hoà bình, hoà hợp dân tộc và điều này đi ngược với ý muốn của Thiệu. - Giữa năm 1974 Tổng thống Nguỵ quyền Nguyễn Văn Thiệu đề ra chủ trương “đánh giặc kiểu con nhà nghèo” vì quốc hội Mỹ cắt bỏ viện trợ bổ sung. 2. Tình hình của ta: Hội nghị lần thứ 21 Ban chấp hành Trung Ương khoá III(tháng 7/1973). Đảng chủ trương: - Trong bất kì tình huống nào, ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững chiến lược tấn công. - Khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là con đường bạo lực cách mạng, kiên quyết chống ảo tưởng hoà bình, mất cảnh giác, mơ hồ về địch. - Đảng uỷ mặt trận tập trung quán triệt cho cán bộ, chiến sĩ thấu suốt ý chí tấn công, nhận rõ bản chất, âm mưu và khả năng của địch. - Tích cực xây dựng lực lượng quân sự, lực lượng chính trị, phát huy hiệu lực trên 3 mũ: chính trị, quân sự, binh vận. 17
- Huỳnh Thị Hồng Ngọc IV. Những nhận định và lãnh đạo của Đảng trước tình hình trên - Nắm vững toàn bộ tình hình phát triển của cục diện chiến trường, thế và lực mới của ta đã hình thành ngày càng rõ nét. - Dựa trên thay đổi về so sánh lực lượng và cục diện chiến trường, chuẩn bị theo hai bước. Giành thắng lợi có ý nghĩa quyết định, tạo khả năng thành lập chính phủ liên hợp Phát triển tổng công kích, tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn. - Hai hướng chiến lược quan trọng là Tây Nguyên và niền Đông Nam Bộ. Hướng chủ yếu và quyết định nhất là miền Đông nhưng chỉ làm khi có điều kiện dứt điểm. Trên hai hướng chiến lược này, phải có biện pháp nghi binh, tạo yếu tố bất ngờ, không để lộ lực lượng để địch đề phòng. Trước mắt chủ lực chỉ hoạt động ở mức độ vừa phải. - Có kế hoạch riêng cho miền Bắc: chi viện cả người và vật chất cho miền Nam, đề phòng chiến tranh phá hoại trở lại và kế hoạch tác chiến trong trường hợp địch đổ bộ vào ven biển nam khu 4. - Xây dựng lực lượng, biên chế hợ lý, động viên tuyển quân, bồ dưỡng đội ngũ cán bộ. - Vừa rút kinh nghiệm vừa tổng kết đề đánh phá kế hoạch “Đình Bịnh” của giặc, nghiên cứu kinh nghiệm tác chiến của các đơn vị chủ lực đánh tiêu diệt chi khu, quận, thị xã chiến đoàn địch, xây dựng đơn vị tác chiến hiệp đồng binh chủ quy mô lớn. - Tổ chức quân đội tham gia vào xây dựng kinh tế, chuẩn bị phục hồi đường sắt từ nam khu 4 trở vào. V. Sự chỉ đạo của Đảng: 1. trong chiến dịch Tây Nguyên: - Chọn Buôn Ma Thuột là trận mở đầu vì: Tây Nguyên có một vị trí chiến lược rất quan trọng, chiếm được Tây Nguyên sẽ là bàn đạp để tiến xuống phía Đông, giải phóng các tỉnh ven biển miền Trung của quân khu 2 Cắt Nam Việt Nam thành 2 phần: Quân khu 1(gồm Quảng Trị, Thừa Thiên, Huế và Đà Nẵng) bị cô lập ở phía Bắc và quân khu 3, 4 ở miền Nam. - Băm nát các tuyến đường xung quanh dẫn tới các căn cứ của Địch ở Tây Nguyên bị chia cắt. - Đánh nghi binh, buộc địch phải tập trung lực lượng để bảo vệ Plâyku, điều sư đoàn 23 là sư đoàn duy nhất rời khỏi Buôn Ma Thuột, tạo nên sơ hở lớn. - Đập tan cuộc phản kích của sư đoàn 23 địch khi chúng vừa “chân ướt chân ráo” quay lại Buôn Ma Thuột - Quân ta đã biết trước ý định tháo chạy của địch nên đã tổ chức chặn đánh địch trên đường số 7 18
- Huỳnh Thị Hồng Ngọc - Trong chiến dịch này, Đảng chỉ đạo kết hợp 3 mũi tấn công, đó là: tấn công quân sự, sự nổi dậu của quần chúng và vận động binh sĩ địch nên nhanh chóng thắng lợi. - Ý nghĩa thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên: Nhờ sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng, chiến dịch Tây Nguyên đã hoàn toàn thắng lợi và mang lại một ý nghĩa hết sức to lớn đó là: Chiến thắng là đòn điểm trúng huyệt, làm rung chuyển toàn bộ hệ thống phòng thủ Tây Nguyên, khiến cho quân địch hết sực bất ngờ và choáng váng. Thế trận của địch bị đảo lộn và sụp đổ nhanh chóng buộc bè lũ Mỹ- Thiệu thay đổi kế hoạch chiến lược từ ”phòng thủ diện địa” sang “co cụm chiến lược”. 2. Trong chiến dịch Huế-Đà Nẵng: Nhận thấy lực lượng đối phương đang tan vỡ, không còn chiến đấu có tổ chức chặt chẽ nữa. Đảng chỉ đạo lập ngay các đơn vị chiến đầu trên mặt trận Trị-Thiên, tiến công chiếm cố đô Huế- Đà Nẵng. - Ngày 25/3/1975 Đặc khu uỷ họp thông qua kế hoạch tác chiến giải phóng Đà Nẵng do Bộ Tư lệnh mặt trận 44 đề xuất: - Nếu các đơn vị chủ lực chưa cơ động kịp, địch ở trong tình thế tan rã, rút chạy thì sử dụng lực lượng địa phương kết hợp với lực lượng quần chúng nổi dậy giải phóng Đà Nẵng. - Nếu chủ lực Quân khu từ phía Nma tiến ra kịp thì lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị phối hợp chặt chẽ với nhau tiến công nổi dậy. - Nếu địch co cụm ta phải sử dụng lực lượng tiến công bằng hiệp đồng binh chủng trên quy mô lớn thì chuẩn bị cho quần chúng phối hợp khi có thời cơ. Khu uỷ cũng chỉ đạo:dù phương án nào, Quảng-Đà cũng phải làm tốt 3 việc: - Phải chặn đường rút lui của địch không cho địch rút về cố thủ Sài Gòn. - Không để địch đưa dân vào Nam. - Phải bảo vệ nguyên vẹn thành phố, bảo vệ an toàn tài sản cho nhân, có kế hoạch tiếp quản thành phố, nhanh chóng thiết lập trật tự. 3. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh: - Sau khi dành thắng lợi chiến dịch Tây Nguyên và sau đó là giải phóng Huế và Đà Nẵng, Bộ chính trị quyết định: Từ giờ phút này trở đi là trận quyết chiến cuối cùng của quân và dân ta nhằm hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam và thống nhất tổ quốc. Đảng chỉ đạo tấn công với tư tưởng “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng” , với tốc độ “ một ngày bằng 20 năm” - Đầu tháng 4/1975 Trung ương cục miền Nam chỉ thị cho quân và dân Nam bộ và Nam Trung Bộ hãy “táo bạo đánh các điểm then chốt … khi có thời cơ” - Bộ chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn quyết định mở chiến dịch chia cắt địch trong toàn Nam bộ và Nam Trung Bộ để bao vây, cô lập địch ở Sài Gòn. 19
- Huỳnh Thị Hồng Ngọc Qua sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt, khoa học và quyết tâm của Đảng, chiến dịch quân sự mùa xuân năm 1975 đã hoàn toàn thắng lợi. Non sông đất nước đã quy về một mối.Năm tháng sẽ trôi qua nhưng chiến thắng vĩ đại Mùa xuân năm 1975 của quân và dân ta sẽ đi vào lịch sử như một bản anh hùng ca. Câu 6: Hoàn cảnh lịch sử và nội dung cơ bản của đường lối đổi mới 1986-nay. Những thành tựu và hạn chế. Công cuộc đổi mới của nước ta từ 1986-nay đã trải qua các đại hội Đảng: Đại hội VI của Đảng đã nghiêm khắc kiểm điểm, chỉ ra những yếu kém trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế- xã hội 1991 - 2000 Các Nghị quyết của Đại hội VII, Đại hội VIII và các Nghị quyết Trung ương sau đó đã cụ thể hoá hơn nữa đường lối đổi mới ở nước ta. (tiếp theo phần tài liệu cô cho) 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
10 Câu hỏi ôn tập môn Lịch sử Đảng
13 p | 212 | 416
-
Hướng dẫn ôn tập lịch sử Đảng
7 p | 931 | 404
-
Thi chính trị lịch sử Đảng
4 p | 521 | 265
-
HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG - NGÂN HÀNG CÂU HỎI THI HẾT HỌC PHẦN - LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
3 p | 821 | 144
-
CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
30 p | 400 | 94
-
Đề cương Lịch sử văn minh thế giới
13 p | 504 | 71
-
Thiết kế bài giảng Lịch Sử 12 nâng cao tập 1 part 2
28 p | 260 | 64
-
Thiết kế bài giảng Lịch Sử 12 nâng cao tập 1 part 4
28 p | 238 | 48
-
Thiết kế bài giảng Lịch Sử 12 nâng cao tập 1 part 3
28 p | 204 | 44
-
Thiết kế bài giảng Lịch Sử 12 nâng cao tập 1 part 10
23 p | 162 | 37
-
Thiết kế bài giảng Lịch Sử 12 nâng cao tập 1 part 9
28 p | 186 | 35
-
Thiết kế bài giảng Lịch Sử 12 nâng cao tập 1 part 5
28 p | 180 | 35
-
Thiết kế bài giảng Lịch Sử 12 nâng cao tập 1 part 8
28 p | 114 | 34
-
Đề Cương ôn tập môn Lịch sử Đảng Cộng Sản
7 p | 312 | 32
-
Thiết kế bài giảng Lịch Sử 12 nâng cao tập 1 part 7
28 p | 149 | 32
-
Thiết kế bài giảng Lịch Sử 12 nâng cao tập 1 part 6
28 p | 146 | 32
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh Nghệ An (1954-2014): Phần 2
257 p | 12 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn