intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chính sách huy động, phân phối và sử dụng nguồn lực tài chính tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam

Chia sẻ: LaLi Sa | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:15

24
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết này nhằm chỉ ra hệ thống, đánh giá thực trạng chính sách huy động, phân phối và sử dụng nguồn vốn tài chính - tín dụng đối với DNNVV, từ đó đề đưa ra các giải pháp hoàn thiện chính sách huy động, phân phối và sử dụng nguồn vốn tài chính - tín dụng đối với DNNVV để giúp DNNVV phát triển ổn định, bền vững.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chính sách huy động, phân phối và sử dụng nguồn lực tài chính tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam

  1. HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 CHÍNH SÁCH HUY ĐỘNG, PHÂN PHỐI VÀ SỬ DỤNG NGUỒN LỰC TÀI CHÍNH - TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI VIỆT NAM33 Ngô Xuân Thanh, Viện Chiến lược và Chính sách tài chính Tóm tắt: Ở Việt Nam, doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) đã và đang trở thành một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Với số lượng lớn, chiếm 98,1% tổng số doanh nghiệp trên cả nước [Tổng cục Thống kê, 2018], các DNNVV đóng góp đáng kể vào tổng thu nhập quốc dân, tạo công ăn việc làm, huy động các nguồn vốn trong nước cho hoạt động sản xuất - kinh doanh, giải quyết các vấn đề xã hội. Ch nh vì có vai trò to lớn, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành khá nhiều ch nh sách đối với DNNVV, trong đó có ch nh sách tài ch nh - t n dụng, tạo điều kiện cho DNNVV huy động, phân phối và sử dụng nguồn vốn được hiệu quả. ài viết này nhằm ch ra hệ thống, đánh giá thực trạng ch nh sách huy động, phân phối và sử dụng nguồn vốn tài ch nh - tín dụng đối với DNNVV, từ đó đề đưa ra các giải pháp hoàn thiện ch nh sách huy động, phân phối và sử dụng nguồn vốn tài ch nh - t n dụng đối với DNNVV để giúp DNNVV phát triển ổn định, bền vững. Theo đó, DNNVV tiếp tục có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Từ khóa: Tài ch nh DNNVV, huy động nguồn lực cho DNNVV, hỗ trợ tài ch nh doanh nghiệp. THE POLICIES OF MOBILIZING, DISTRIBUTING AND UTILIZING FIANANCE - CREDIT RESOURCES FOR SMALL AND MEDIUM - SIZED ENTERPRISES IN VIETNAM Abstract: In Vietnam, small and medium - sized enterprises (SMEs) have played an important part of Vietnam's economy. Accounting for 98.1% of the total number of businesses across the country (GSO, 2018), SMEs contribute significantly to gross national income (GNI), created jobs, mobilized capital resources for operating activities and dealt with social issues. Therefore, the Communist Party of Vietnam and the Government have issued many policies for SMEs, including financial and credit policies that support SMEs to mobilize, distribute and utilize 33 Toàn bộ nội dung bài viết là quan điểm riêng của tác giả, không đại diện cho Viện Chiến lược và Chính sách tài chính. 575
  2. INTERNATIONAL CONFERENCE: DEVELOPMENT OF SMALL AND MEDIUM ENTERPRISES IN VIETNAM IN THE CONTEXT OF INDUSTRIAL REVOLUTION 4.0 capital resources effectively. This paper aims to identify the system, assess the current situation of mobilization, distribution and utilization of financing resources for SMEs, thereby proposing solutions to complete policies related to the mobilization, distribution and utilization of financing resources for SMEs. Thanks to completed policies, SMEs are able to develop sustainably and make great contributions to Vietnam‟s socio-economic development. Keywords: Finance of SMEs, mobilizing resources for SMEs, corporate finance support. I. Giới thiệu Để triển khai về phát triển DNNVV cả về số lượng và chất lượng, giúp DNNVV có những đóng góp cho nền kinh tế, thì chính sách tài chính - tín dụng có vai trò như là ―bà đỡ‖ giúp cho DNNVV huy động được nguồn lực, trong đó có nguồn vốn tài chính - tín dụng. Thông qua các tổ chức tín dụng, phát hành trái phiếu doanh nghiệp (TPDN), Quỹ bảo lãnh tín dụng, Quỹ phát triển DNNVV… cũng như các chính sách tài chính hỗ trợ miễn, giảm, giãn, gia hạn cho DNNVV, đã giúp DNNVV đa dạng hóa được kênh huy động vốn, tận dụng được nguồn vốn tài trợ để phân phối và sử dụng được hiệu quả. Tuy nhiên, các chính sách huy động, phân phối và sử dụng nguồn vốn đối với DNNVV vẫn còn những hạn chế, bất cập, cần phải có những giải pháp tháo gỡ trong thời gian tới. II. Thực trạng chính sách huy động, phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính - tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam 2.1. Chính sách huy động về tín dụng a. Huy động vốn qua tổ chức tín dụng Đây là kênh huy động vốn khá phổ biến của các DNNVV Việt Nam. Trước đây, việc cho tổ chức, cá nhân vay vốn của tổ chức tín dụng (TCTD) được thực hiện theo Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của NHNN và một số văn bản khác liên quan đến hoạt động cho vay. Tuy nhiên, để điều chỉnh khung pháp lý chung điều chỉnh hoạt động cho vay của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng (khách hàng không phải là TCTD) phù hợp với quy định tại Luật Các TCTD năm 2010, Bộ Luật Dân sự năm 2015... ngày 30/12/2016, NHNN đã ban hành Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 quy định về hoạt động cho vay của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng để thay thế cho Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN, quy định cho vay ngày đối với khách hàng nói chung và DNNVV nói riêng vẫn đang được áp dụng. Đáng chú ý, Thông tư số 39/2016/TT-NHNN cũng quy định về cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên. Thông qua việc triển khai chính sách cho vay đối với các doanh nghiệp (chủ yếu là DNNVV) cho thấy, giai đoạn 2011 - 2018, tín dụng cho vay đối với DNVV tăng trưởng khá, đạt 798.543 tỷ đồng (năm 2011), tăng lên 1,3 triệu tỷ đồng (năm 2018), tương ứng tăng 62,79% (trung bình tăng 8,97%/năm). Mức tăng này được đánh giá là thấp so với mức tăng trưởng tín dụng bình quân chung cả nước cho thấy, DNNVV là đối tượng nhận được ít khoản vay hơn các đối tượng khác từ các TCTD, có thể dẫn đến tình trạng thiếu vốn cho sản xuất - kinh doanh. 576
  3. HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 Đơn vị: Tỷ đồng 1400000 1300000 1202142 1200000 1124859 1000000 923455 919293 870344 798543 830744 800000 600000 400000 200000 0 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 Hình 1. Tổng dư nợ tín dụng DNNVV, 2011 - 2018 Nguồn: Tổng hợp từ NHNN Tăng trưởng dư nợ tín dụng năm sau so với năm trước cho vay đối với doanh nghiệp biến động mạnh theo xu hướng tăng lên trong giai đoạn 2013 - 2018. Cụ thể, năm 2013, tỷ lệ tăng trưởng này là 6,1%, nhưng đến năm 2018 là 54,48%. Đáng chú ý, tăng trưởng dư nợ tín dụng năm 2014 so với năm 2013 là -0,45%, phản ánh đây là thời điểm có nhiều điểm nghẽn về chính sách đối với DNNVV cần được tháo gỡ, hoặc môi trường kinh doanh tiềm ẩn nhiều rủi ro Đây cũng có thể do tác động của bất ổn của môi trường kinh doanh trong nước trước các tác động của sự phục hồi yếu trong khu vực EU cũng như Nhật Bản và Nga. Việc tăng trưởng tín dụng âm trong năm 2014 cũng cho thấy, mặc dù chính sách tiền tệ được điều hành theo hướng nới lỏng thận trọng để hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế, song việc hấp thụ vốn còn thấp, đặc biệt đối với ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản (chỉ chiếm 10,6% tổng dự nợ trong năm). Đơn vị: % 70 60 58.48 50 Tăng trưởng tín dụng cả nước 40 30 30.84 Tăng trưởng dư nợ 20 đối với DNNVV (năm 17.29 18.71 18.17 15.57 14 sau/so với năm 12.51 14.16 10 trước) 6.1 6.42 0 -0.45 2013 2014 2015 2016 2017 2018 -10 Hình 2. Tăng trƣởng tín dụng cả nƣớc, dƣ nợ cho vay đối với DNNVV năm sau so với năm trƣớc liền kề Nguồn: NHNN 577
  4. INTERNATIONAL CONFERENCE: DEVELOPMENT OF SMALL AND MEDIUM ENTERPRISES IN VIETNAM IN THE CONTEXT OF INDUSTRIAL REVOLUTION 4.0 Nghiên cứu khả năng tiếp cận tín dụng của DNNVV qua hệ thống các ngân hàng thương mại rất hạn chế. Báo cáo của Hiệp hội DNNVV Việt Nam cho thấy, năm 2011 chỉ có khoảng 30% DNNVV được vay vốn ngân hàng, 70% DNNVV sử dụng vốn tự có hoặc vay từ nguồn khác34. Trong các năm 2011 - 2013, có hơn 1/3 DNNVV (gần 36%) trong số các DNNVV đang hoạt động có tiếp cận vốn ngân hàng. Đến năm 2018, số DNNVV tiếp cận được vốn ngân hàng, tổ chức tín dụng lại giảm xuống, có 70% DNNVV chưa tiếp cận được nguồn vốn tín dụng ngân hàng, trong đó có hơn 30% là DNNVV không thể tiếp cận nguồn vốn ngân hàng và 30% doanh nghiệp khác cho biết rất khó khăn khi tiếp cận nguồn vốn ngân hàng. Gần 70% DNNVV còn lại phải tiếp tục sử dụng nguồn vốn tự có hoặc vay từ nguồn vốn khác với chi phí rất cao, nhiều rủi ro. Tỷ lệ dư nợ cho DNNVV chiếm trung bình khoảng 22 - 25% tổng dư nợ cho vay toàn bộ nền kinh tế trong giai đoạn 2012 - 2017…[VCCI, 2018]. Điều này phản ánh các DNNVV đang phải tìm kiếm (khoảng 2/3) các nguồn vốn bên ngoài để phục vụ cho hoạt động của mình, trong khi khả năng tiếp cận nguồn vốn của DNNVV lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố rất nhiều đặc tính của doanh nghiệp như quy mô, số năm hoạt động, ngành nghề kinh doanh, mức độ phát triển của quốc gia, vòng đời kinh doanh và loại hình doanh nghiệp. Bên cạnh đó, đặc điểm của chủ doanh nghiệp như kinh nghiệm quản lý, khả năng tài chính, quản lý nhiều hơn một công ty cũng quyết định khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp [Harvie et al., 2013]. Việc DNNVV tiếp cận vốn của các TCTD khó khó khăn còn thể hiện qua quy mô, tốc độ và tỷ lệ gia tăng dự nợ cho vay qua các năm so với tốc tăng trưởng số lượng DNNVV. Mặc dù các DNNVV hoạt động ở cả 3 ngành kinh tế (nông nghiệp, công nghiệp và thương mại) tăng lên hằng năm, tính riêng giai đoạn 2012 - 2017, số lượng DNNVV tăng nhanh nhất 1,53 lần, chiếm 98,1% tổng số doanh nghiệp, trong khi đó doanh nghiệp lớn chỉ chiếm tỷ lệ khiêm tốn với 1,9% (năm 2012: Cả nước có 338.916 doanh nghiệp; năm 2013: 365.181 doanh nghiệp; năm 2014: 393.915 doanh nghiệp; năm 2015: 433.453 doanh nghiệp; năm 2016: 495.010 doanh nghiệp; năm 2017: 517.900 doanh nghiệp... ), tuy nhiên điều nghịch lý là tỷ trọng tăng trưởng dư nợ tín dụng cho vay ngân hằng năm sau so với năm trước lại cao hơn nhưng tổng dư nợ cho vay DNNVV giai đoạn 2012 - 2017 chỉ tăng 1,35 lần (dư nợ cho vay DNNVV năm 2012: 830.744 tỷ đồng; năm 2013: 870.344 tỷ đồng; năm 2014: 923.455 tỷ đồng; năm 2015: 919.293 tỷ đồng; năm 2016: 1.202.142 tỷ đồng; năm 2017: 1.124.859 tỷ đồng; năm 2018: 1,3 triệu tỷ đồng), làm cho tỷ lệ dư nợ bình quân cho vay đối với từng DNNVV ngày giảm giảm. Việc khó tiếp cận nguồn vốn dẫn đến DNNVV thường có quy mô nhỏ về vốn và gặp một số khó khăn ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động sản xuất - kinh doanh như hạn chế về khả năng mở rộng sản xuất, đầu tư đổi mới công nghệ, mở rộng thị trường; hạn chế khả năng tiếp cận thông tin; hạn chế về khả năng tiếp cận đất đai, các nguồn vốn. Những hạn dẫn tới hiệu quả sản xuất - kinh doanh của DNNVV chưa cao, lợi nhuận thấp. 34 Báo cáo tình hình trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa 2012, Cục Phát triển doanh nghiệp. 578
  5. HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 Bảng 1. Kết quả sản xuất - kinh doanh của DNNVV Doanh nghiệp có lãi Doanh nghiệp lỗ Lãi bình Lãi bình Số doanh quân 1 Số doanh quân 1 Tổng Tổng Năm nghiệp doanh nghiệp doanh mức lãi mức lãi (doanh nghiệp (doanh nghiệp (Tỷ đồng) (Tỷ đồng) nghiệp) (Triệu nghiệp) (Triệu đồng) đồng) 2000 2491 44617 17911 587 -6295 -10723 Doanh 2005 3901 112747 28902 980 -9691 -9889 nghiệp 2010 5811 315325 54263 1210 -39536 -32675 lớn 2015 7016 579827 82644 1978 -92176 -46600 2000 27944 6907 247 7274 -4476 -615 2005 61644 21316 346 29517 -8564 -290 DNNVV 2010 173306 132161 763 69015 -51648 -748 2015 201330 208761 1037 189823 -143666 -757 Nguồn: Doanh nghiệp Việt Nam 15 năm đầu thế kỷ Về quy mô vốn của doanh DNNVV: Theo Tổng cục Thống kê, trong giai đoạn 2007 - 2015, quy mô tổng nguồn vốn doanh nghiệp Việt Nam tăng lên gấp 5 lần, từ 4.801 nghìn tỷ đồng lên đến 23.882 nghìn tỷ đồng. Trong khi đó quy mô doanh nghiệp tăng gấp 3 lần và quy mô lao động trong doanh nghiệp có tăng, nhưng dừng lại ở con số 1,7 lần. Điều này cho thấy quy mô vốn của các doanh nghiệp Việt Nam trong đó có khu vực DNNVV đang có dấu hiệu mở rộng, giúp cho DNNVV có thêm tiềm lực để đầu tư vào hoạt động sản xuất - kinh doanh. Đơn vị: % 60 50 40 Tăng trưởng vốn 30 Tăng trưởng lao động 20 Tăng trưởng số lượng 10 0 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 Hình 3. Tốc độ tăng trƣởng vốn, lao động và số lƣợng Nguồn: Sách trắng DNNVV năm 2017 579
  6. INTERNATIONAL CONFERENCE: DEVELOPMENT OF SMALL AND MEDIUM ENTERPRISES IN VIETNAM IN THE CONTEXT OF INDUSTRIAL REVOLUTION 4.0 Giai đoạn 2007 - 2011 cũng chứng kiến sự tăng lên mạnh mẽ của cả tổng nguồn vốn và lao động, đến giai đoạn 2011 - 2015, mức tăng trưởng này có phần chững lại. Cụ thể, bình quân giai đoạn 2007 - 2011 tổng nguồn vốn tăng trung bình khoảng 40%/năm, số lao động bình quân cũng tăng khoảng 20%/năm. Giai đoạn 2011 - 2015, vốn vẫn tăng trưởng, song với tốc độ nhỏ hơn, chỉ khoảng 15%/năm và tốc độ tăng trưởng lao động khoảng 4,1% mỗi năm. So sánh sự tăng trưởng của số lượng doanh nghiệp, lao động và nguồn vốn của các doanh nghiệp Việt Nam, dễ dàng nhận thấy nguồn vốn luôn tăng với tốc độ vượt trội hơn hẳn so với tốc độ tăng của số lượng doanh nghiệp hay lực lượng lao động, xu hướng này cho thấy doanh nghiệp Việt Nam đang tăng trưởng dựa nhiều hơn vào đồng vốn hơn là lao động, dẫn đến năng suất của DNNVV Việt Nam không được tăng nhanh qua các năm so với các nước trong khu vực. b. Thông qua bảo lãnh tín dụng Ngày 30/6/2009, Chính phủ ban hành Nghị định số 56/2009/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNNVV (thay thế Nghị định số 90/2001/NĐ-CP), quy định 8 nhóm hỗ trợ phát triển DNNVV. Nghị định quy định 8 nhóm chính sách trợ giúp DNNVV, trong đó có quy định trợ giúp về tài chính. Theo đó, Nhà nước khuyến khích thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV; xây dựng cơ chế thành lập và hoạt động của các Quỹ bảo lãnh tín dụng trình Thủ tướng Chính phủ quyết định và hướng dẫn thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV. Tiếp đó, ngày 15/10/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 58/2013/QĐ-TTg về Quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV. Để triển khai Luật Hỗ trợ DNNVV năm 2017, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 34/2018/NĐ-CP ngày 08/3/2018 về thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV đã bước đầu giải quyết vấn đề khó khăn tài chính của các Quỹ. Quỹ Bảo lãnh tín dụng là quỹ tài chính ngoài ngân sách do ủy ban nhân dân tỉnh thành lập, với vai trò cấp bảo lãnh tín dụng cho DNNVV, hoạt động độc lập theo mô hình Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn. Các DNNVV được xem xét cấp bảo lãnh tối đa bằng 100% giá trị khoản vay (bao gồm cả vốn lưu động và vốn trung, dài hạn) tại tổ chức cho vay với điều kiện: Doanh nghiệp có dự án đầu tư, phương án sản xuất - kinh doanh hiệu quả, có khả năng hoàn trả vốn vay; dự án đầu tư, phương án sản xuất - kinh doanh được Quỹ bảo lãnh tín dụng thẩm định và quyết định bảo lãnh; có phương án về chủ sở hữu tối thiểu 20% tham gia dự án đầu tư, phương án kinh doanh; không có các khoản nợ thuế từ 01 năm trở lên. Tính đến cuối tháng 5/2019, dư nợ cho vay DNNVV trên cơ sở bảo lãnh của Quỹ bảo lãnh tín dụng phát sinh tại 11 địa phương đạt khoảng 500 tỷ đồng, giảm 22% so với dư nợ thời điểm tháng 12/2018 [Ngân hàng Nhà nước, 2019]. Việc ra đời và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng này đã tạo điều kiện thuận lợi cho DNNVV trong việc tiếp cận nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng; giúp doanh nghiệp có vốn để duy trì, mở rộng, phát triển hoạt động sản xuất - kinh doanh, góp phần phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Quỹ Phát triển DNNVV được thành lập để hỗ trợ cho các DNNVV có dự án, phương án sản xuất - kinh doanh khả thi thuộc lĩnh vực ưu tiên, khuyến khích của Nhà nước, phù hợp với mục đích hoạt động của Quỹ nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, góp phần làm tăng thu nhập, tạo việc làm cho người lao động. 580
  7. HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 Tuy nhiên, nguồn vốn của những Quỹ này chủ yếu do ngân sách địa phương góp, tổ chức tín dụng có tham gia góp vốn nhưng ở mức khiêm tốn. Tổ chức bộ máy và năng lực điều hành của Quỹ còn nhiều hạn chế. Việc huy động nguồn vốn cho Quỹ gặp nhiều khó khăn. 2.2. Chính sách huy động về tài chính a. Thông qua Quỹ phát triển DNNVV Nhằm trợ giúp phát triển DNNVV theo Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2019 của Chính phủ, Quỹ Phát triển DNNVV theo Quyết định số 601/QĐ-TTg đã được thành lập ngày 17/4/2013. Từ tháng 9/2014, Quỹ đã hình thành bộ máy tổ chức và đi vào hoạt động ổn định. Tiếp đó, ngày 12/8/2015, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 119/2015/TT-BTC hướng dẫn cơ chế quản lý tài chính của Quỹ, theo đó Bộ Tài chính công bố lãi suất cho vay của Quỹ trong từng thời kỳ phù hợp với diễn biến lãi suất của thị trường theo quy định lãi suất cho vay của Quỹ không vượt quá 90% lãi suất cho vay thương mại, áp dụng từ ngày 01/10/2015. Nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển DNNVV, tại Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016, Chính phủ đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư xem xét, sửa đổi và bổ sung chức năng, nhiệm vụ của Quỹ Phát triển DNNVV để hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo. Nhờ đó, Quỹ Phát triển DNNVV đã được bổ sung chức năng và nhiệm vụ về cho vay, đầu tư, tài trợ để hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, DNNVV tham gia chuỗi giá trị bền vững, hình thành cụm liên kết ngành (Điều 20, Luật Hỗ trợ DNNVV). Trên cơ sở đó, ngày 10/5/2019, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 39/2019/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Quỹ Phát triển DNNVV (Thay thế cho Quyết định số 601/QĐ-TTg). Quỹ phát triển DNNVV (theo Quyết định số 601/QĐ-TTg) thành lập theo mô hình Công ty TNHH MTV do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, với vốn tối thiểu là 2 nghìn tỷ đồng. Đối tượng quan tâm của Quỹ là DNNVV khởi nghiệp sáng tạo và DNNVV tham gia cụm liên kết ngành được vay vốn tối đa 80% tổng vốn đầu tư để thực hiện dự án, phương án sản xuất - kinh doanh với lãi suất cho vay trực tiếp bằng 80% mức thấp nhất lãi suất cho vay thương mại, thời hạn cho vay không quá 7 năm. Quỹ chủ yếu hoạt động thông qua hình thức ủy thác vốn cho Ngân hàng Phát triển Việt Nam và các ngân hàng thương mại (NHTM) đáp ứng điều kiện hoặc cho vay trực tiếp. Tính đến tháng 5/2018, cả nước đã có trên 1.600 DNNVV tiếp cận trực tiếp với Quỹ và được hỗ trợ tư vấn về điều kiện, tiêu chí, hồ sơ, thủ tục vay vốn của Quỹ. Hiện tổng số vốn Quỹ đã chấp thuận ủy thác cho ngân hàng để giải ngân cho DNNVV là 149,8 tỷ đồng. Như vậy, so với tổng số DNNVV ở thời điểm năm 2017 là 508 nghìn doanh nghiệp, thì số DNNVV tiếp cận tài chính từ quỹ chỉ đạt con số rất nhỏ là 0,31%, phản ánh việc tài trợ vốn cho DNNVV từ quỹ chưa có hỗ trợ nhiều cho DNNVV. Tuy nhiên, với Nghị định số 39/2019/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Quỹ Phát triển DNNVV (Thay thế cho Quyết định số 601/QĐ-TTg). Quỹ được đánh giá là tăng cơ hội tiếp cận vốn cho DNNVV. Bởi đây là quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. Lãi suất cho vay trực tiếp bằng 80% mức thấp nhất lãi suất cho vay thương mại, đây là mức lãi suất ưu đãi hơn so với lãi suất cho vay theo Quyết định số 601/QĐ-TTg. Hơn thế, mức cho vay đối với mỗi dự án, phương án sản xuất - kinh doanh tối đa không quá 80% tổng 581
  8. INTERNATIONAL CONFERENCE: DEVELOPMENT OF SMALL AND MEDIUM ENTERPRISES IN VIETNAM IN THE CONTEXT OF INDUSTRIAL REVOLUTION 4.0 mức vốn đầu tư của từng dự án, phương án. Tổng mức cho vay của quỹ đối với một DNVVN không được vượt quá 15% vốn điều lệ thực có của quỹ. Với những điều kiện cởi mở này, tạo điều kiện DNNVV tiếp cận với quỹ được tốt hơn, song vấn đề gặp phải cũng như quỹ Bảo lãnh là nguồn vốn của quỹ thường không nhiều so với nhu cầu của DNNVV, dẫn đến khả năng phục vụ khách hàng bị hạn chế. b. Thông qua chính sách hỗ trợ miễn, giảm, giãn thuế Kể từ sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008 - 2009, nền kinh tế Việt Nam gặp không ít thách thức, khó khăn, trong đó có DNNVV. Theo đó, Nhà nước đã ban hành các chính sách tháo gỡ khó khăn cho thị trường nhằm hỗ trợ sản xuất - kinh doanh như Nghị quyết số 08/2011/QH13, Nghị quyết số 29/2012/QH13, Nghị quyết số 13/2012/NQ-CP và Nghị quyết số 02/2013/NQ-CP. Trong đó đã hỗ trợ miễn, giảm, giãn nhiều loại thuế, phí cho DNNVV như: Giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) phải nộp năm 2011 đối với: DNNVV và doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động trong lĩnh vực sản xuất, gia công, chế biến nông sản, lâm sản, thủy sản, dệt may, da giầy, linh kiện điện tử, xây dựng các công trình hạ tầng kinh tế - xã hội; giảm 50% số thuế TNCN phải nộp từ ngày 01/8/2011 đến hết ngày 31/12/2012 đối với hoạt động chuyển nhượng chứng khoán của cá nhân... Bên cạnh đó, Luật thuế TNDN đã đặt ra lộ trình mà Chiến lược cải cách thuế giai đoạn 2011 - 2020 đã đặt ra. Từ ngày 01/01/2009 giảm từ 28% xuống 25% và từ 01/01/2014 giảm từ mức 25% xuống 22%, riêng doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa được áp dụng mức 20% ngay từ 1/7/2013. Từ ngày 01/01/2016, mức thuế suất phổ thông là 20% [Vụ Chính sách Thuế, 2019]. Để tiếp tục khuyến khích DNNVV phát triển theo Nghị quyết số 35/NQ-CP, cụ thể hóa quy định tại Luật Hỗ trợ DNNVV, tháng 3/2019, Bộ Tài chính trình Chính phủ trình Quốc hội cho doanh nghiệp trong nhóm DNNVV được giảm thuế suất thuế TNDN xuống còn 15 - 17%. Việc giảm thuế suất thuế TNDN xuống mức 15 - 17% đảm bảo sự khuyến khích đối với DNNVV (mức này bằng với mức thuế suất ưu đãi áp dụng cho các dự án đầu tư mới tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, lĩnh vực chế biến nông sản, thủy sản và theo mức thuế suất này thì mức độ khuyến khích đối với DNNVV thậm chí còn cao hơn giai đoạn 2014 - 201535)36. Theo đánh giá, các giải pháp hỗ trợ DNNVV miễn, giảm thuế 2011 - 2013 theo Nghị quyết số 08/2011/QH13, Nghị quyết số 29/2012/QH13, Nghị quyết số 13/2012/NQ-CP và Nghị quyết số 02/2013/NQ-CP đã hỗ trợ cho các doanh nghiệp năm 2012 là 2.468 tỷ đồng tiền thuế TNDN (trong đó có 197.719 DNNVV được giảm thuế với tổng số tiền là 1.827 tỷ đồng và 892 doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động được giảm thuế với tổng tiền là 640 tỷ đồng); miễn 62,4 tỷ đồng tiền thuế TNDN và thuế GTGT (1,4 tỷ đồng từ thuế TNDN và 61 tỷ đồng tiền thuế GTGT) cho tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tham gia ổn định sản xuất - kinh doanh và khoảng 1.388 tỷ đồng thuế TNCN trong 6 tháng cuối năm 2012 cho cá nhân có thu nhập tính thuế từ tiền lương, 35 Giai đoạn 2014 - 2015, DNNVV áp dụng mức thuế suất 20%, tức là được giảm 2% so với mức thuế suất phổ thông (22%). Hiện nay, mức thuế suất phổ thông là 20% nên đề xuất mức thuế suất 15%, 17% thì DNNVV được giảm 3% - 5% so với mức thuế suất phổ thông. 36 Dự thảo Tờ trình Chính phủ của Bộ Tài chính về việc xây dựng dự án Nghị quyết của Quốc hội về một số chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp hỗ trợ, phát triển DNNVV. 582
  9. HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 tiền công và từ kinh doanh. Theo đại diện của một số DNNVV hưởng thụ chính sách, thì những ưu đãi trên giúp cho DNNVV tiết kiệm được chi phí sản xuất - kinh doanh (do Nhà nước gia hạn thuế tức doanh nghiệp được sử dụng vốn của nhà nước thêm 1 thời gian mà không phát sinh chi phí), quay vòng nhanh sản xuất - kinh doanh… Tuy nhiên, DNNVV vẫn phải thực hiện nhiều nghĩa vụ thuế khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ, dẫn đến tình trạng không đảm bảo dòng tiền để thanh toán các nghĩa vụ thuế. Bên cạnh đó, hiện tượng lợi dụng chính sách hoàn thuế để chiếm đoạt tiền có thể xảy ra nếu việc thanh, kiểm tra thiết chặt chẽ đối với DNNVV. Đối với Dự thảo Tờ trình Chính phủ việc xây dựng dự án Nghị quyết của Quốc hội về một số chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp hỗ trợ, phát triển DNNVV (tháng 3/2019), theo đánh giá của Bộ Tài chính, những giải pháp về thuế ở Dự thảo này có tác động lớn đến việc thúc đẩy phát triển sản xuất - kinh doanh đối với khu vực DNNVV, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, minh bạch và cải cách thủ tục hành chính. Việc thực hiện các giải pháp này có thể làm giảm thu NSNN khoảng 9.200 tỷ đồng/năm (trong đó giải pháp giảm thuế suất cho doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ giảm khoảng 6.500 tỷ đồng và giải pháp miễn thuế trong vòng 02 năm đối với doanh nghiệp chuyển đổi từ hộ kinh doanh khoảng 2.722 tỷ đồng/năm). Mặc dù việc giảm nghĩa vụ này trong ngắn hạn có gây áp lực lên cân đối NSNN nhưng về dài hạn sẽ tạo điều kiện để doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ tăng tích tụ, tích lũy, tái đầu tư, phát triển sản xuất - kinh doanh, từ đó góp phần tăng thu từ thuế TNDN cho NSNN vào những năm sau [Bộ Tài chính, 2019]. c. Huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu doanh nghiệp Huy động vốn của DNNVV thông qua kênh phát hành TPDN giai đoạn 2011 - 2018 được thực hiện theo Nghị định số 90/2011/NĐ-CP ngày 14/10/2011 của Chính phủ. Trong quá trình triển khai thực hiện Nghị định số 90/2011/NĐ-CP, cùng với sự thay đổi của cơ chế chính sách và tình hình thị trường có nhiều biến động, Nghị định số 90/2011/NĐ-CP đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế cần phải sửa đổi để phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế và thị trường tài chính. Do đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 163/2018/NĐ-CP. Nghị định số 163/2018/NĐ-CP được đánh giá tạo bước đột phá trong việc huy động vốn cho DNNVV trong trung và dài hạn, tạo tiền đề cho DNNVV. Nghị định cũng đã tháo bỏ điều kiện doanh nghiệp phát hành trái phiếu phải có kết quả hoạt động sản xuất - kinh doanh của năm liên kề trước năm phát hành có lãi; bổ sung quy định điều kiện phát hành trái phiếu chia thành nhiều đợt, không quy định bắt buộc doanh nghiệp xây dựng phương án phát hành và đăng ký chương trình phát hành trái phiếu trong năm tài chính... đã tạo điều kiện cho DNNVV huy động được nguồn vốn ngoài kênh truyền thống là TCTD. Để giúp doanh nghiệp huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu, ngày 14/10/2011, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 90/2011/NĐ-CP. Trong giai đoạn từ năm 2011 - 2018, thị trường TPDN có sự tăng trưởng, phát triển so với giai đoạn trước cả về quy mô huy động vốn và số lượng doanh nghiệp phát hành trái phiếu. Từ khi Nghị định số 90/2011/NĐ-CP có hiệu lực thi hành đến cuối năm 2016, đã có 367 đợt đăng ký phát hành theo hình thức riêng lẻ tại thị trường trong nước với khối lượng đăng ký phát hành là 183.550 tỷ đồng, trong đó có 359 đợt phát hành với khối lượng phát hành thực tế là 129.636 tỷ đồng; năm 2018 có 107 thương vụ phát hành 583
  10. INTERNATIONAL CONFERENCE: DEVELOPMENT OF SMALL AND MEDIUM ENTERPRISES IN VIETNAM IN THE CONTEXT OF INDUSTRIAL REVOLUTION 4.0 TPDN của các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán với khối lượng phát hành thành công là 224.000 tỷ đồng, tăng 94,5% so với năm 2017. Dư nợ TPDN phát hành trong nước đến cuối năm 2018, dư nợ thị trường TPDN đạt mức 474.500 tỷ đồng, bằng 8,6% GDP năm 2018 và tăng 53% so với cuối năm 2017. Cũng trong giai đoạn 2011 - 2018, giá trị phát hành trái phiếu năm 2018 tăng hơn 15 lần so với năm 2011, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 39%. Tuy nhiên, dư nợ thị trường TPDN hiện vẫn rất thấp. Cụ thể, thời điểm cuối năm 2018, dư nợ TPDN tăng 53% so với cuối năm 2017, nhưng chỉ bằng 8,5% GDP, trong khi bình quân của các nước trong khu vực là 22%. Đáng chú ý, nếu so sánh với các nước trong khu vực cho thấy thị trường TPDN Việt Nam còn khá nhỏ. Cụ thể chỉ tính riêng năm 2016 thì giá trị phát hành TPDN của Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan lần lượt là 23; 118,97; 18; 97; 81,45 tỷ USD. Trong 6 tháng đầu năm 2019, tổng mức phát hành TPDN là 116.085 tỷ đồng, tăng 7,4% so với cùng kỳ 2018. Ngân hàng thương mại phát hành 36.700 tỷ đồng (chiếm 36%), doanh nghiệp bất động sản là 22.122 tỷ đồng (19%), lượng phát hành của công ty chứng khoán chiếm 3,5%, còn lại là các doanh nghiệp khác. Đến cuối tháng 6/2019, quy mô vốn hóa thị trường TPDN bằng 10,22% GDP, tăng 21% so với cùng kỳ 2018, vượt mục tiêu đặt ra là 7% GDP vào năm 2020. Cũng trong 6 tháng đầu năm 2019, khối lượng TPDN phát hành đạt 89.483 tỷ đồng, bằng 134% so với cùng kỳ năm 2018. Tính đến ngày 24/6/2019, dư nợ thị trường TPDN đạt 10,2% GDP năm 2018, tăng 19,2% so với cuối năm 2018 (8,6% GDP), quy mô thị trường TPDN đã vượt mục tiêu đề ra đến năm 2020 (tại Quyết định số 1191/QĐ-TTg ngày 14/8/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt lộ trình phát triển thị trường trái phiếu giai đoạn 2017 - 2020, trong đó dư nợ thị trường TPDN đạt 7% GDP vào năm 2020). Đơn vị: Tỷ đồng 500000 436773 450000 400000 350000 310017 Giá trị TPDN phát hành mới 300000 trong năm 238474 250000 200000 156544 146038 142138 150000 127980 115416 Giá trị TPDN 97413 100000 81715 hiện hành 48047 42769 50000 28707 34412 0 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 Hình 4. Kết quả phát hành TPDN, 2011 - 2018 Nguồn: T nh toán của tác giả từ số liệu của ộ Tài ch nh Về lãi suất phát hành, lãi suất TPDN bình quân là bằng và cao hơn khoảng 0,5% so với mức cho vay phổ biến của các thương mại. Trong đó lãi suất một số đợt phát hành TPDN cao 584
  11. HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 trong thời gian gần đây, từ 12 - 14%. Cá biệt, có doanh nghiệp bất động sản phát hành tới 14 - 15%, cao hơn lãi suất cho vay của ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác [Chinhphu.vn, 2019], dẫn tới tiềm ẩn những nguy cơ rủi ro cao khi hầu như tất cả trái phiếu phát hành này chưa được các tổ chức xếp hạng tín nhiệm. Lãi suất TPDN cao cũng cao có thể ảnh hưởng đến việc kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Về cơ cấu doanh nghiệp phát hành, các ngân hàng (chiếm trên 26%), công ty bất động sản (khoảng 22%) là những trái chủ chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu phát hành trái phiếu của doanh nghiệp do có tiềm lực về vốn, khả năng tiếp cận thông tin nhanh cũng như năng lực phân tích đầu tư chuyên nghiệp. Trong khi đó, lĩnh vực sản xuất, nông nghiệp, xây dựng hạ tầng cần khuyến khích lại có tỷ trong phát hành thấp chỉ khoảng 13%/lĩnh vực. Tuy nhiên, thị trường TPDN đối tượng phát hành chủ yếu là các tập đoàn tư nhân lớn (thuộc khối doanh nghiệp vừa) và chủ yếu phát hành riêng lẻ cho đối tác, không phải phát hành ra công chúng, trong khi các doanh nghiệp siêu nhỏ và doanh nghiệp nhỏ ít thực hiện huy động vốn qua hình thức phát hành trái phiếu. Đáng chú ý, tổ chức phát hành trái phiếu doanh nghiệp hầu như chưa được xếp hạng tín nhiệm nên tiềm ẩn rủi ro cho nhà đầu tư, nhất là nhà đầu tư cá nhân không đủ thông tin phân tích rủi ro. 70% doanh nghiệp phát hành trái phiếu sử dụng tài sản và tài sản hình thành từ nguồn hình thành trái phiếu nhưng chưa được định giá bởi tổ chức định giá độc lập và khó xác minh các tranh chấp pháp lý. 98% các đợt phát hành là riêng lẻ. d. Huy động vốn tài chính thông qua vốn tự có, vốn góp Trong các nguồn vốn của DNNVV, nguồn vốn tự có, vốn góp hay vốn chủ sở hữu có vai trò khá quan trọng. Trong vốn chủ sở hữu có vốn điều lệ, việc huy động nguồn vốn này được thực hiện theo quy định về thành lập theo Luật Doanh nghiệp 2014, Bộ Luật Dân sự (chủ yếu thông qua quy định về hợp đồng kinh tế về góp vốn) và các quy định liên quan. Giai đoạn 2000 - 2015, nguồn vốn chủ sở hữu của các DNNVV để thực hiện hoạt động sản xuất - kinh doanh đạt khoảng 38 - 43% tổng số vốn của DNNVV, trong đó trong giai đoạn từ năm 2010 - 2015, tỷ lệ này có xu hướng giảm từ 40,3% xuống còn 38,4%, phản ánh năng lực tài chính thực có của DNNVV ngày càng giảm xuống; đồng thời DNNVV ngày càng dựa nhiều vào nguồn vốn bên ngoài, dẫn đến DNNVV phải trả chi phí vốn ngày càng cao. Tuy nhiên, so với khối doanh nghiệp lớn, nguồn vốn chủ sở hữu của DNNVV lại cao hơn khoảng gần 2 lần, cho thấy khối DNNVV có năng lực tài chính tự có hơn đối với các doanh nghiệp lớn. Nếu xét về giá trị nguồn vốn chủ sở hữu để thực hiện hoạt động sản xuất - kinh doanh thì lại đáng ngạc nhiên khi giá trị này của khối doanh nghiệp lớn tương đồng, thậm chí còn cao hơn so với khối DNNVV, khẳng định việc chiếm đa số về số lượng doanh nghiệp của DNNVV nhưng không chiếm lợi thế về giá trị vốn chủ sở hữu. Đáng chú ý, khối DNNVV và doanh nghiệp lớn đều nằm trong tình trạng là nguồn vốn chủ sở hữu lại thấp hơn nợ phải trả qua các năm, đơn cử đối với DNNVV: Năm 2010, vốn chủ sở hữu là 1.878.866, nợ phải trả là 2.824.296; năm 2015 vốn chủ sở hữu và nợ phải trả tương ứng là 3.656.908, 5.972.790. Điều này cho thấy, nguồn vốn huy động thông qua vốn điều lệ nói riêng và các nguồn vốn chủ sở hữu nói chung không đủ bù đắp cho những khoản doanh nghiệp nợ, trong đó có những khoản nợ vay ngân hàng, nợ tiền hàng… 585
  12. INTERNATIONAL CONFERENCE: DEVELOPMENT OF SMALL AND MEDIUM ENTERPRISES IN VIETNAM IN THE CONTEXT OF INDUSTRIAL REVOLUTION 4.0 e. Thông qua nguồn huy động khác: Nguồn vốn này có thể là nguồn vốn từ các doanh nghiệp đối tác thông qua hình thức triết khấu, trả chậm mà doanh nghiệp đối tác tạo điều kiện cho bên mua. Việc huy động các nguồn vốn này chủ yếu thông qua những cam kết của DNNVV với đối tác thông qua các điều khoản hợp đồng, phù hợp với quy định hiện hành, đặc biệt là Bộ Luật Dân sự 2015. Trong đó các chủ thể quy định các quyền và nghĩa vụ tương ứng. Tuy nhiên, nguồn vốn này chỉ mang tính tạm thời, không đem lại nhiều lợi ích cho DNNVV bởi nếu DNNVV nhận triết khấu khi mua hàng hay trả chậm cho đối tác bán hàng, thì khi doanh nghiệp này là đơn vị bán hàng hóa lại phải chịu khoản thiệt thòi cho đối tác mua khác. 2.3. Chính sách phân phối và sử dụng nguồn lực tài chính - tín dụng Việc phân phối nguồn vốn cho hoạt động sản xuất - kinh doanh được thực hiện theo các pháp luật chuyên ngành, tùy từng mục đích của DNNVV đầu tư vào lĩnh vực nào thì chịu sự điều chỉnh về pháp luật liên quan đến lĩnh vực đó. Chẳng hạn, DNNVV phân phối và sử dụng nguồn lực vào lĩnh vực xây dựng cầu đường thì chịu sự điều chỉnh của Luật Xây dựng, Luật Đầu tư…; sử dụng vốn vào mục đích sản xuất nông nghiệp thì chịu sự quản lý trong lĩnh vực quản lý chuyên ngành về nông nghiệp… Thông qua việc sử dụng nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp cho thấy, giai đoạn 2010 - 2017: Về giá trị, doanh nghiệp ngoài nhà nước có giá trị vốn dành cho sản xuất - kinh doaonh nhiều nhất, đạt 5451,8 (năm 2010) tăng lên 16115,7 nghìn tỷ đồng (năm 2017), cao gấp hơn gần 2 lần khối DNNN và hơn 3 lần đối với doanh nghiệp FDI, điều này phản ánh mong muốn mở rộng của khối doanh nghiệp ngoài nhà nước ngày càng cao. Xét theo cơ cấu vốn, trong cùng giai đoạn, doanh nghiệp ngoài nhà nước có tỷ trọng vốn phân phối vốn cho sản xuất - kinh doanh chiếm 50,81% trong tổng vốn của các doanh nghiệp (chủ yếu là DNNVV) đầu tư cho sản xuất - kinh doanh; tiếp đến là DNNN chiếm 31,21%, doanh nghiệp FDI chiếm 17,98%. Bình quân giai đoạn 2016 - 2017, mỗi năm doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả sản xuất - kinh doanh thu hút 30,55 triệu tỷ đồng vốn cho sản xuất - kinh doanh, tăng 62,3% so với vốn bình quân giai đoạn 2011 - 2015 [Sách trắng doanh nghiệp 2019]. Mặc dù vốn sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiêp tăng đều qua các năm, nguyên nhân chủ yếu là do đóng góp của doanh nghiệp ngoài nhà nước, còn khối DNNN và FDI lại có xu hướng giảm trong những năm gần đây, cho thấy nguồn vốn phân phối chưa được hiệu quả của hai khối doanh nghiệp này. Phân theo nhóm ngành, thì các các nhóm nhận được nhiều vốn đầu tư nhất gồm có hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm; công nghiệp chế biến, chế tạo; hoạt động kinh doanh bất động sản; bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác; xây dựng. Còn những ngành nhận được ít vốn đầu tư của DNNVV gồm: Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải; nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản; hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ… cho thấy việc đầu tư của các DNNVV còn tập trung nhiều vào ngành mang tính thương mại, còn những ngành ít thu được lợi nhuận ít được chú trọng đến, đặc biệt là ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản. Về kết quả sử dụng nguồn vốn đầu tư cho sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp nhìn chung là đem lại hiệu quả rõ rệt. Mặc dù vậy, hiệu quả ở các khối doanh nghiệp lại tương đối khác nhau, cụ thể: Giai đoạn 2010 - 2017, doanh thu thuần hoạt động sản xuất - kinh doanh 586
  13. HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 của doanh nghiệp đã tăng 2,76 lần, từ 7487,7 tỷ đồng (năm 2010) lên 20664,3 tỷ đồng (năm 2017). Trong đó khối doanh nghiệp FDI tăng cao nhất (4,18 lần), tiếp đến là doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 2,89 lần, DNNN (chủ yếu là doanh nghiệp lớn) tăng 1,54 lần. Chứng tỏ tính hiệu quả trong việc sử dụng đồng vốn của ngoài nhà nước và doanh nghiệp nhà nước là chưa cao. Theo Tổng cục Thống kê, xét theo ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp cho thấy doanh thu được tạo ra nhiều nhất ở các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác; xây dựng; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí… điều này phù hợp với tỷ trọng đầu tư vào những ngành này của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, do khó khăn của nền kinh tế, công với chủ trương siết chặt tín dụng thị trường bất động sản, cho nên ngành này có doanh thu không cao trong khi lượng vốn đầu tư lại tăng mạnh. Dẫn đến nợ xấu và tồn kho bất động sản gia tăng. III. Giải pháp hoàn thiện chính sách huy động, phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính - tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam Để tạo dựng môi trường thuận lợi hỗ trợ doanh nghiệp, phấn đấu đến năm 2020 cả nước có ít nhất 1 triệu doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, đồng thời nâng cao khả năng tiếp cận cũng như phân phối, sử dụng hiệu quả nguồn lực tài chính - tín dụng đối với DNNVV thì cần những giải pháp tháo gỡ về mặt chính sách cũng như hỗ trợ các DNNVV, bao gồm: 1. TCTD vẫn là nơi cung cấp nguồn vốn chính cho DNNVV, trong khi các DNNVV lại đang khó tiếp cận vốn vay như đã phân tích. Do vậy, cần đánh giá thực hiện tình hình cho vay đối với DNNVV theo Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016, trong đó bao gồm cả cho vay theo các lĩnh vực ưu tiên để có những tháo gỡ kịp thời, đảm bảo một mặt giúp ổn định hệ thống ngân hàng nhưng vẫn tạo điều kiện cho DNNVV tiếp cận vốn vay để phục vụ sản xuất - kinh doanh. Đơn cử như cần tháo gỡ vướng mắc trong việc việc cho vay đối với doanh nghiệp tư nhân vì về nguyên tắc, doanh nghiệp tư nhân (tổ chức không có tư cách pháp nhân) không thể tự mình tham gia quan hệ dân sự, nên không thể vay theo Thông tư số 39/2016/TT-NHNN, trong khi nhu cầu vay của khối doanh nghiệp này là lớn...; tháo gỡ vướng mắc về tài sản đảm bảo; tháo gỡ về lãi suất cho vay… 2. để phát triển thị trường TPDN nhằm cung cấp vốn cho DNNVV trong trung và dài hạn, cần tiếp tục hoàn thiện Dự thảo Luật Chứng khoán sửa đổi. Trong đó, nên quy định cụ thể phát hành trái phiếu riêng lẻ theo hướng chỉ dành cho nhà đầu tư chuyên nghiệp có năng lực phân tích tài chính và khả năng đánh giá rủi ro. Đối với việc phát hành phát hành trái phiếu ra công chúng, cần sửa đổi các quy định để rút ngắn quy trình phát hành, thúc đẩy doanh nghiệp huy động vốn theo phương thức này, gắn phát hành ra công chúng bắt buộc với xếp hạng tín nhiệm. Đồng thời, cần nghiên cứu thể chế chính sách để phát triển dịch vụ xếp hạng tín nhiệm trong phát hành trái phiếu bởi hiện thị trường này vẫn còn khá trầm nắng. Bên cạnh đó, cần phân định ngưỡng yêu cầu để các nhà đầu tư có thể tham gia mua trong đợt phát hành riêng lẻ. Dự thảo Luật Chứng khoán sửa đổi cần xác định rõ ràng ngưỡng nào mà một nhà đầu tư đủ điều kiện tham gia mua trong đợt phát hành trái phiếu riêng lẻ. Nghị định số 163/2018/NĐ-CP hiện vẫn cho phép nhà đầu tư không chuyên nghiệp được mua trái phiếu riêng lẻ dù đã thắt chặt điều kiện hơn trước và cần sửa đổi theo khi Luật Chứng khoán sửa đổi được Quốc hội thông qua. 587
  14. INTERNATIONAL CONFERENCE: DEVELOPMENT OF SMALL AND MEDIUM ENTERPRISES IN VIETNAM IN THE CONTEXT OF INDUSTRIAL REVOLUTION 4.0 3. Tiếp tục thực hiện giải pháp hỗ trợ về tài chính chính cho DNNVV bởi DNNVV đánh giá khá tốt về các giải pháp hỗ trợ của Nhà nước trong thời gian qua. Do đó, để triển khai Luật Hỗ trợ DNNVV, Nhà nước cần thực hiện giảm thuế TNDN37 cho DNNVV như sau: Doanh nghiệp nhỏ áp dụng thuế suất 17%; Doanh nghiệp siêu nhỏ áp dụng thuế suất 15%. Trong đó tiêu chí để xác định DNNVV cụ thể là: Doanh nghiệp siêu nhỏ là doanh nghiệp có tổng doanh thu năm dưới ba tỷ đồng và có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 10 người; doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 100 người, đồng thời đáp ứng điều kiện có tổng doanh thu năm từ 3 - 50 tỷ đồng. Doanh thu làm căn cứ xác định doanh nghiệp thuộc đối tượng được áp dụng thuế suất 15% và 17% nêu trên là tổng doanh thu của năm trước liền kề. Trường hợp doanh nghiệp mới thành lập, Chính phủ quy định cụ thể tổng doanh thu làm căn cứ áp dụng. Tuy nhiên, mức thuế suất 15% và 17% không được áp dụng đối với các trường hợp: Thu nhập từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng quyền góp vốn; thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản (trừ nhà ở xã hội quy định tại Luật thuế thu nhập doanh nghiệp), thu nhập từ chuyển nhượng dự án đầu tư, chuyển nhượng quyền tham gia dự án đầu tư, chuyển nhượng quyền thăm dò, khai thác khoáng sản; thu nhập nhận được từ hoạt động sản xuất - kinh doanh ở ngoài Việt Nam; Thu nhập từ hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu, khí, tài nguyên quý hiếm khác và thu nhập từ hoạt động khai thác khoáng sản; thu nhập từ sản xuất - kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc diện chịu thuế TTĐB theo quy định của Luật Thuế TTĐB; Công ty con hoặc công ty có quan hệ liên kết mà doanh nghiệp trong quan hệ liên kết không phải là doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ thuộc các đối tượng quy định tại Nghị quyết này. Bởi đây là những lĩnh vực mà Nhà nước chưa cần thiết phải hỗ trợ mà cần phải siết chặt. Để tránh việc tận dụng kẽ hở trong việc ưu đãi thuế của DNNVV, việc kiểm tra của cơ quan thuế đối với các DNNVV thuộc diện ưu đãi là cần thiết. Theo đó, Nhà nước cần thực hiện kiểm tra, đánh giá trước, trong và sau quá trình DNNVV nhận các ưu đãi về thuế, đảm bảo ưu đãi đúng đối tượng, đồng thời đảm bảo cho việc đánh giá được hiệu quả của những giải pháp hỗ trợ này. 4. Do Quỹ bảo lãnh doanh nghiệp, Quỹ Phát triển doanh nghiệp có vốn điều lệ không lớn, trong khi nhu cầu cần hộ trợ cho vay bảo lãnh đối với DNNVV, do vậy Nhà nước cần có cơ chế tài chính khuyến khích các tổ chức tài chính tham gia góp vốn vào Quỹ để nâng cao khả năng cho vay của quỹ đối với DNNVV. 5. Nhà nước cần tiếp tục cụ thể hóa Luật Hỗ trợ DNNVV, cũng như đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 35/NQ-CP… trong đó đặc biệt chú trọng triển khai các giải pháp về mặt tài chính để tăng cường nguồn lực cho DNNVV phát triển ổn định, bền vững./. Kết luận Chính sách huy động, phân phối và sử dụng nguồn vốn tài chính - tín dụng đối với DNNVV là một trong những chính sách có tính quyết định đến sự tồn tại, phát triển của DNNVV. Việc nghiên cứu, đánh giá những thực trạng trong việc huy động, phân phối và sử 37 Nguồn: Dự thảo Nghị quyết về một số chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp hỗ trợ, phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. 588
  15. HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 dụng nguồn vốn tài chính - tín dụng trên nền tảng các chính sách sách hiện hành đã giúp đề ra những giải pháp tháo gỡ về mặt chính sách đang cản đường DNNVV, giúp cho DNNVV tiếp cận được nguồn vốn không chỉ trung mà còn cả dài hạn để phục vụ cho sản xuất - kinh doanh trong môi trường đầy biến động. Việc nghiên cứu giúp cho việc nhận diện đâu là tài chính, đâu là tín dụng, chính sách nào còn dư địa, tạo thuận lợi cho DNNVV để các DNNVV có cách tiếp cận phù hợp nhất khi huy động nguồn vốn. Quá trình đánh giá tính hiệu quả của việc phân phối và sử dụng nguồn vốn cũng cho thấy được hiệu quả sử dụng vốn của DNNVV ở Việt Nam là chưa cao. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Chính phủ (2019), Dự thảo Nghị quyết của Chính phủ một số chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp hỗ trợ, phát triển DNNVV, năm 2019. 2. Cục Phát triển doanh nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2019), Sách trắng DNNVV 2017, NXB Thống kê. 3. Tổng cục Thống kê (2019), Doanh nghiệp Việt Nam 15 năm đầu thế kỷ, NXB Thống kê. 4. Tổng cục Thống kê (2019), Niên giám thống kê 2018, NXB Thống kê. 5. Tổng cục Thống kê (2018), Kết quả tổng điều tra kinh tế 2017, NXB Thống kê (tập 1, 2). 6. Nghiêm Xuân Thành (2019), Giải pháp nâng cao khả năng tiếp cận vốn cho khu vực DNNVV, Tạp chí Ngân hàng (chuyên đề đặc biệt). 7. Phan Thị Linh, Giải pháp tiếp cận nguồn vốn ngân hàng cho DNNVV, Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 11/2015. 8. Trung tâm Thông tin - Tư liệu, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (2018), Đổi mới phương thức hỗ trợ tín dụng cho DNNVV: Kinh nghiệm quốc tế và một số kiến nghị cho Việt Nam, Chuyên đề số 15. 9. Viện Chiến lược và Chính sách tài chính (2013), Kết quả khảo sát đánh giá tác động của các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong thời gian qua. 10. Vietnam survey và HCM survey (10/5/2018), Tiếp cận tài chính của DNNVV”, cefr.uel.edu.vn. 11. Weebsite: www.mof.gov.vn; www.hnx.vn; hsx.vn; www.tapchitaichinh.vn; www.chinhphu.vn; www.sbv.gov.vn; www.vccith.com.vn/; www.gso.gov.vn... 12. ERIA Discussion Paper Series (2010), Firm Characteristic Determinants of SME Participation in Production Networks. 589
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2