Ðặc San Về Nguồn 2003 1617 Cheney Road, Knoxville, TN 37922 - http://www.venguon.org – venguon@venguon.org

Anh em ta về cùng nhau ta sum họp vầy…1, 2, 3, 4, 5… Anh em ta về cùng nhau ta sum họp vầy…5, 4, 3, 2, 1… Các bạn mến, Rất có thể lắm bạn chưa nghe qua những lời hát trên. Và cũng rất có thể là bạn đã khá quen thuộc với những lời hát đơn giản và ngắn gọn này. Nhưng dù đã nghe qua một hay nhiều lần, chúng ta không thể nào không có những xúc động nho nhỏ khi đứng bên nhau cùng hát lên những lời hát ngắn gọn nhưng tràn đầy tình người, tình dân tộc này. Và một lần nữa, lần thứ 14, chúng ta lại từ khắp bốn phương trở về để cùng hát lại những lời hát trên tại trại hè Về Nguồn năm 2003. Các bạn, Những lời hát này càng có ý nghĩa hơn đối với những người con xa quê hương, sống giữa một dân tộc, một đất nước mà chúng ta không thể gọi là đất mẹ, cho dù chúng ta được sinh ra hay trưởng thành trên mảnh đất này. Ðâu đó trong tiềm thức của chúng ta, bản chất và bản năng của nòi giống Việt vẫn còn đó, dù trải qua bao nhiêu thay đổi, thăng trầm trong cuộc sống tại xứ người này. Có lẽ đó là lý do chính mà chúng ta lại một lần nữa trở về để cùng nhau hát lại những lời hát trên, cùng xác định lại niềm tin, niềm tự hào là con Rồng cháu Tiên. Chúng ta cùng trở về để tìm lại tình dân tộc mà chúng ta cảm thấy thiếu thốn trong cuộc sống hàng ngày tại đất nước này. Anh chị em trong ban tổ chức trại cũng một lần nữa cố gắng vượt qua những khó khăn, bận rộn riêng tư để cùng về sum họp với các bạn, cùng góp tiếng hát, nỗ lực làm sống lại những giây phút “Việt Nam” mà chúng ta vẫn mong có. Qua ba ngày trại và quyển đặc san này, anh chị em chúng tôi mong mỏi mang lại cho các bạn những giây phút vui vẻ nhưng bổ ích để sau khi tan trại, tất cả chúng ta đều cảm thấy học hỏi được nhiều điều, ngoài những niềm vui từ những nụ cười, tiếng hát vui vẻ của nhau. Và chúng tôi cũng mong rằng tất cả chúng ta không chỉ Về Nguồn trong dịp trại này mà trong tất cả sinh hoạt, suy nghĩ hàng ngày của chúng ta trong cuộc sống. Thân chúc các bạn một kỳ trại vui vẻ. Ban Tổ Chức

1

Mục Lục

• Thư Ngỏ - 1 • Chu Văn An: Chủ Ðề Trại Về Nguồn XIV/2003 - 3 • Tre Tàn Mà Măng Chưa Mọc? - Hoàng Việt Khanh - 8 • Lịch Sử Võ Học Việt Nam - GS Vũ Ðức - 10 • Ngôn Ngữ Của Việt Tộc - Phan Viết Phùng - 17 • Những Cuộc Đổi Họ Lớn Trong Lịch Sử Việt Nam - Trần Gia Phụng - 23 • Ý Nghĩa của Màu Sắc Lá Cờ Việt Nam Tự Do - Khải Chính Phạm Kim Thư - 27 • Quốc Ngữ, Modern Written Vietnamese - Dương Hùng - 29 • Ai Ðặt Quốc Hiệu Việt Nam Ðầu Tiên? - Thành Lân - 32 • Ba Làng Việt Tộc Trong Nội Ðịa Biên Thùy Trung Quốc - Lê Văn Lân - 34 • Chữ Nôm: Văn Hóa Cổ Truyền và Thời Ðại Thông Tin - Nguyễn Quang Hồng, Ngô Thanh Nhàn, Đỗ Bá Phước, Ngô Trung Việt - 37 • Sông Cửu Long, Nguồn Sống Và Mối Đe Dọa Cho Một Phần Dân Tộc Việt Nam - Hoàng Cơ Định - 45 • Ý Nghĩa Quốc Hiệu Lạc Việt - GS Vũ Thế Ngọc - 49 • Đặt Lại Vấn Ðề Nguồn Gốc Dân Tộc và Văn Minh Việt Nam - Nguyễn Văn Tuấn - 53 • Về Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam và “Ðịa Ðàng Phương Ðông” của Oppenheimer - Nguyễn Quang Trọng - 59 • Một Vài Ghi Chép Thêm về Văn Minh Cổ và Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam - Cung Ðình Thanh, Nguyễn Văn Tuấn, Nguyễn Ðức Hiệp - 71 • Tiếng Việt, Dễ Mà Khó - Nguyễn Hưng Quốc - 82 • Tại Sao Các Sử Gia Thế Giới Tôn Vinh Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn Là Đệ Nhất Danh Tướng Thời Trung Cổ? - Trần Vinh - 85 • Văn Chương và Cảm Thức Lưu Vong - Thầy Đồ Họ Tăng - 91 • Hồ sơ Nhân Văn Giai Phẩm - Thụy Khuê, Paris - 94 • Lưu Bút Lưu Ý • Những ý kiến, quan điểm trong bài vở không nhất thiết là của ban tổ chức Về Nguồn hay của trại viên. • Vì thiếu điều kiện, chúng tôi không thể xin phép một số tác giả để đăng lại một số bài vở trong quyển đặc san này. Chúng tôi thành thật xin lỗi cho sự tự tiện không ngoài mục đích giới thiệu đến giới trẻ và lưu trữ những bài vở nàỵ • Ngoài ra, vì sự trục trặc trong việc chuyển mẫu chữ và số trang báo có hạn, chúng tôi phải cắt bớt một số bài vở đã nhận. Mong các tác giả gửi bài đóng góp thứ lỗi.

Liên Lạc Xin quý vị và các bạn gửi bài cho số đặc san năm 2004 qua địa chỉ điện thư: magazine@venguon.org. Xin ưu tiên cho những bài có tính cách tham khảo về các chủ đề liên quan đến văn hóa, lịch sử, và tập quán của dân tộc, đất nước Việt Nam. Ðịa chỉ liên lạc: 1617 Cheney Road, Knoxville, TN 37922 - http://www.venguon.org – venguon@venguon.org

2

Chu Văn An Chủ Ðề Trại Về Nguồn XIV/2003 Phần mở đầu: Khi chọn chủ đề Chu Văn An, chúng tôi không nghĩ đơn giản nhà giáo kiệt xuất Chu Văn An dâng Thất Trảm Sớ để có thể diệt tham nhũng, thối nát mà phải có một nguyên nhân sâu xa tạo nên xã hội suy đồi, loạn lạc triền miên. Cho nên chúng tôi có vượt qua giới hạn một bài chủ đề. Thưa quý vị và các bạn, Chúng tôi nhìn lịch sử theo hướng thời đại, tiếp cận với các nền văn minh khác trên thế giới khi viết về Chu Văn An cho nên không tránh khỏi những khúc mắc và sai sót. Thêm nữa chúng tôi suy nghĩ nhiều mà viết quá cấp bách và bị giới hạn nên có những điều không nói hết, có những điều diễn đạt hạn hẹp, mong quý vị tha thứ và chỉ điểm cho. Chúng tôi sẽ viết lại vào một dịp khác. I. Thân thế và sự nghiệp: Chu Văn An sinh năm 1292, mất năm 1370, thọ 78 tuổi. Ông tên thật là Chu An, hiệu Tiều Ẩn, tên thụy là Văn Trinh (do vua Trần Nghệ Tông ban cho). Có lẽ vì muốn tôn kính ông cho nên đời sau thêm chữ lót Văn vào tên thật của ông, và quen gọi là Chu Văn An. Về thân thế của ông rất mơ hồ. Người ta chỉ biết thân mẫu ông là bà Lê Thị Chiêm, người làng Quang Liệt huyện Thanh Ðàm (nay là Thanh Liệt, Hà Nội) Còn thân phụ ông chẳng ai biết húy danh và lai lịch, chỉ biết là người phương xa đến tạm trú ở quê vợ và sau đó ra đi biệt tích. Thuở nhỏ, có lẽ ông được hấp thụ Khổng giáo từ thân phụ, sau đó ông đọc sách và tự học hỏi lấy. Theo tài liệu xưa nhất trong Nam Ông Mộng Lục của Lê Trừng (Hồ Nguyên Trừng, con trai trưởng của Hồ Quý Ly, thế kỷ XV) cho biết ông là người điềm đạm, ít ham muốn và không đi thi. Vì không có cha và được mẹ tảo tần nuôi dưỡng chăm lo cho ông đèn sách, đó là sự kiện bất thường trong xã hội Việt Nam thời đó nên ông mang mặc cảm và có ấn tượng không tốt với những người trong làng xóm. Ông không đi thi để mong đỗ đạt làm quan như các sĩ tử khác mà mong đạt tâm nguyện làm thầy. Trong xã hội Nho giáo, địa vị ông thầy được trọng vọng hạng nhì sau vua và trên ông cha trong ba ngôi "Quân, Sư, Phụ". Ðó là lý do ông chọn nghề dạy học suốt 40 năm trong cuộc đời ông. Ông chọn đất mở trường ở ranh giới hai làng Quang Liệt và làng Cung Hoàng thuộc huyện Quang Ðàm rất gần kinh đô Thăng Long (khoảng một dặm đường), trên gò đất cao, trước

một đầm nước trong, trường được đặt tên là trường Huỳnh Cung. Ngày dạy học, đêm ông nghiền ngẫm ý tứ, chữ nghĩa kinh sách và đem điều hiểu biết của mình trao truyền cho học trò. Ông nổi tiếng là ông thầy dạy giỏi và nghiêm khắc với học trò. Học trò ông rất đông và có nhiều người đỗ đạt danh vọng như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát đã làm đến Hành Khiển, Tả Bộc Xạ mà vẫn thường lui tới thăm thầy, giữ lễ sụp lạy bên giường của thầy. Kẻ nào làm điều trái khuấy ông quở trách thậm tệ. Nhờ sự tận tâm giảng dạy, và trường gần kinh đô nên tiếng tăm của ông vang tới tai vua Trần Minh Tông và ông được vời vào kinh đô làm chức Tư Nghiệp Quốc Tử Giám (một chức quan nhỏ, không nằm trong triều chính, chỉ để dạy kèm vua học) dạy hai đời vua Hiển Tông và Dụ Tông. Nhưng dưới hai triều vua Hiển Tông rồi Dụ Tông nhà Trần bắt đầu suy vi, nhà vua đam mê tửu sắc, ăn chơi trác táng, trong triều đình nịnh thần ra sức đục khoét. Loạn lạc nổi lên khắp nơi. Chiêm Thành và Ai Lao khuấy phá biên giới. Ông dâng sớ lên vua Trần Dụ Tông xin chém 7 nịnh thần. Sau đó ông treo ấn từ quan về ở ẩn núi Chí Linh và tại đó ông tiếp tục mở trường dạy học. Ðến khi nghe vua Trần Nghệ Tông lên ngôi, ông có trở lại kinh đô để mừng vua mới xong lại trở về Chí Linh. Cuối đời, ông không trở về quê mẹ mà an giấc ngàn thu tại Chí Linh năm 1370. Sau khi ông mất, ông được vua Trần Nghệ Tông truy tặng cho thụy danh là Văn Trinh và cho thờ trong Văn Miếu sau Khổng Tử. Ngoài Văn Miếu ở kinh đô, ông còn được các môn đệ của ông lập đền thờ tại các nơi làng Quang Liệt, trường học Huỳnh Cung và ở núi Chí Linh. Ðối với đời sau, trong thời kỳ Nho giáo độc tôn và thịnh hành, ông được tán dương như một vị thầy vĩ đại, chỉ sau ông Khổng Phu Tử. Theo tương truyền, ông đã viết nhiều tác phẩm ngoài Thất Trảm Sớ (sớ xin chém 7 nịnh thần) còn có Tứ Thư Thuyết Ước, Y Học Yếu Giải, Quốc Ngữ Thi Tập, và Tiều Ẩn Thi Tập. Nhưng hiện nay chỉ còn lại 12 bài thơ được lưu truyền. Có lẽ tất cả tác phẩm của ông cùng với nhiều tác phẩm văn hóa Việt bị nhà Minh thiêu hủy và đem về Tàu trong thời gian đô hộ Việt Nam. II. Về tư tưởng Chu Văn An: Chu Văn An được sinh ra và lớn lên trong ánh hào quang ba lần thắng trận quân Mông Cổ vẻ vang của dân tộc. Xã hội ta

3

Văn An là cấp thiết hơn dẫu rằng trong lòng vẫn mang một nỗi niềm thương nhớ vợ con. 2. Về việc thi cự của Chu Văn An: Người đời sau đã cho ông đậu tiến sĩ hay Thái Học Sinh có lẽ là việc sai lầm chăng? Theo sách Nam Ông Mộng Lục của Lê Trừng đã cho rằng ông Chu Văn An không đi thi. Việc ông không đi thi vì những khó khăn của ông ở làng nước. Mỗi sĩ tử đi thi được làng giới thiệu và chu cấp lệ phí thi, mà ông lại không phải người làng Quang Liệt, vả lại nếu có đi thi, khi thi đậu ông vinh quy bái tổ ở đâu. Làng Quang Liệt chỉ là làng mẹ chứ không phải quê cha. Tất cả những điều nầy cho thấy rằng ông không đi thi hay có hứng thú đi thi. Sau này khi ông làm chức quan Tư Nghiệp trong Quốc Tử Giám để dạy vua (chức vụ này không liên hệ đến triều chính) không phải do việc thi đỗ mà qua sự dạy học nổi tiếng của ông. 3. Việc ông dâng "Thất Trảm Sớ". Theo cuốn "Kể Chuyện Nhà Giáo Kiệt Xuất Chu Văn An" Ðinh Mạnh Thoại có cho biết rằng ông đem sớ đến phòng ngự riêng của vua Trần Dụ Tông, nơi ông thường được đặc cách đến dạy học, chứ không phải dâng vua trực tiếp ở triều đình nơi có mặt tất cả bá quan văn võ đang họp bàn. Vì vậy việc dâng "Thất Trảm Sớ" chỉ có ông và vua Dụ Tông biết đến thôi, chứ bên ngoài làm sao biết được "Thất Trảm Sớ" với những nội dung chứa đựng bên trong. Nếu vua Dụ Tông có đọc thì cũng cho thiêu hủy sớ vì sợ ông bị hệ lụy bởi những người trong sớ vì nhà vua quá bạc nhược để có thể thực hiện những điều trong sớ. Chu Văn An dạy học qua hai đời vua Hiển Tông và Dụ Tông. Thời gian ông ở trong cung khá lâu để hiểu rõ tính tình và tư cách của mỗi ông vua. Ông biết rõ vua Dụ Tông bạc nhược, trác táng không đủ khả năng và tư cách mà ông vẫn viết sớ dâng lên, phải chăng đó là điều quá tiêu cực và gượng gạo lắm không? Hay là việc dâng Thất Trảm Sớ chỉ là cái cớ để ông thoát khỏi chiếc lồng son gò bó để trở về một phương trời cao rộng, phóng khoáng thích hợp với tính tình của ông. Nếu ông muốn dâng Thất Trảm Sớ một cách tích cực thì ông đã tìm cơ hội trình bày lên vua trong khi dạy vua học và cũng có thể trực tiếp bàn bạc với các môn đồ của ông đang ở địa vị nhất phẩm triều đình. Vì ông không làm quan trong triều chính nên việc dâng trảm sớ không được thực hiện trong buổi chầu trước vua và các quan văn võ. Thất Trảm Sớ không có một tác dụng gì để có thể thay đổi một guồng máy thối nát đang dần dà làm sụp đổ ngôi vua nhà Trần. Thế mà đời sau truyền tụng Thất Trảm Sớ có nội dung làm yêu ma phải rợn lòng, chữ viết như phượng múa rồng bay đến nỗi Cao Bá Quát ca tụng: "Thất trảm yêu ma phải rợn lòng Trời đất soi chung vừng hào khí Nước non còn mãi nếp cao phong" Có lẽ việc ca tụng Thất Trảm Sớ chỉ là cái cớ làm gương cho đời sau noi theo. 4. Tiện đây chúng tôi cũng xin nói về thân mẫu Chu Văn An. Chúng ta được biết rằng ông được mẹ nuôi dưỡng ở quê mẹ từ Hùng Vương đến Lý, Trần là một xã hội khoan dung, rộng mở, chấp nhận các học thuyết, các tôn giáo do kẻ cai trị đem lại. Nhưng qua thời gian tổ tiên chúng ta đã tôi luyện, dung hóa thành cái của Việt Nam và mang đặc tính dân tộc. Có lẽ ông Chu Văn An cũng được tắm gội trong nền văn hóa ấy. Nhưng ông là người kín đáo, ít nói, lại không thích đi thi để làm quan. Ông chỉ thường giao du với quan Tư Ðồ Trần Nguyên Ðán (ông ngoại Nguyễn Trãi). Tác phẩm của ông lại không còn nên người ta khó biết được tư tưởng của ông một cách đích xác. Qua bài thơ chúc mừng ông của Trần Nguyên Ðán, chúng ta được biết ông là người sùng tín đạo Nho và tôn trọng đạo Lão. Học hải hối loan tục tái thuần Thượng tướng sơn đẩu đắc tư nhân Cùng kinh bác sử công phu đại Kính lão sùng Nho chính hóa tân. nghĩa: Bể học quang triều sóng, phong tục lại trở nên thuần mỹ Mở trường học gặp người chính đáng như sao Bắc đẩu trên núi cao Người ấy xem hết kinh sử, công phu lớn Vừa tôn trọng đạo Lão, vừa sùng tín đạo Nho, nên chính trị trong nước mới tiến bộ. (Thảo Ðường Di Tập - Lê Quý Ðôn) Chúng ta được biết cuốn Tứ Thư Thuyết Ước không được lưu truyền và có lẽ đã thất lạc dưới thời nhà Minh đô hộ. Nội dung cuốn Tứ Thư Thuyết Ước chẳng có ai biết được. Nhưng đời sau cho rằng cuốn Tứ Thư được Chu Văn An sửa đổi để phù hợp với phong tục tập quán của người Việt. Dầu sao khi sửa đổi cuốn Tứ Thư, về cơ bản Chu Văn An đã chấp nhận Tống Nho mà xa rời Nho giáo thời Khổng Tử, vì danh từ Tứ Thư là sản phẩm của Tống Nho. Ngay như tư tưởng của hai người học trò của ông là Phạm Sư Mạnh và Lê Quát, làm đến chức Hành Khiển, Tả Bộc Xạ là các chức quan cao trong triều đình đều là những người có tinh thần cực đoan, muốn thiết lập một xã hội rập khuôn theo Tàu: trên là vua, con trời nhận mệnh lệnh Thiên Ðế cai quản thần dân, dưới là quan lại là kẻ bầy tôi (tôi tớ của vua) vâng mệnh vua và là "phụ mẫu chi dân". Qua tiểu sử và sự nghiệp của Chu Văn An, chúng tôi nhận thấy mấy vấn đề khúc mắc: 1. Về thân phụ Chu Văn An, chúng tôi nghĩ rằng thân phụ ông là một trí thức người Hoa họ Chu, vì không chịu sự áp bức của quân xâm lăng Mông Cổ nên đã chạy thoát qua Việt Nam tỵ nạn chính trị. Việc chọn làng Quang Liệt, gần với kinh đô Thăng Long để định cư và lấy vợ người Việt ở đó là một thái độ khôn ngoan. Ở đây, ông có cơ hội để dò biết và học hỏi bí kíp kháng chiến chống Nguyên Mông của nhà Trần để sau đó rời bỏ vợ con về Tàu lập các ổ kháng chiến trên đất Tàu. Nếu ông là một người Việt, chắc chắn ông có ra đi rồi cũng sẽ trở về để dẫn vợ con ra mắt quê nội và có trách nhiệm của người chồng, người cha trong một xã hội lấy gia đình làm trọng. Nhưng đằng nầy ông một đi không trở lại, chắc chắn việc giải phóng quê hương Tàu của thân phụ Chu

4

quay về nơi thâm sơn cùng cốc để lo tu hành. Ðến đời vua Lý Nhân Tông, để có nhiều người tài giỏi giúp triều chính, nhà vua nghĩ ngay đến việc giáo dục để đào tạo nhân tài. Năm 1070, nhà vua mở đầu việc giáo dục bằng cách cho dựng nhà Văn Miếu, năm 1076 cho thành lập Quốc Tử Giám, năm 1086 mở khoa thi để chọn người vào Hàn Lâm Viện. Người đỗ đầu khoa thi nầy là Mạc Hiển Tích (ông cố của Mạc Ðỉnh Chi) được bổ vào làm Hàn Lâm Viện Sĩ. Dưới đời nhà Trần, việc giáo dục được kiện toàn chu đáo hơn. Ngoài phép thi tam trường, nhà Trần mở khoa thi tam giáo để chọn người xuất sắc không phân biệt tôn giáo. Thời kỳ nầy Nho học chưa ở địa vị độc tôn. Văn hóa truyền thống của đất Lĩnh Nam với tính chất nhân bản và khai phóng vẫn còn được truyền tụng. Sĩ tử không bị câu chấp trong giáo điều hạn hẹp, nhờ đó họ có tinh thần đạo đức, sự hiểu biết sâu xa và rộng rãi. Xã hội an bình, trên dưới một lòng: trên thì vua chúa làm gương, dưới thì nhân dân kính ngưỡng không làm điều xằng bậy. Qua câu chuyện Mạc Ðĩnh Chi đi sứ Trung Quốc, chúng ta thấy rõ tinh thần sáng tạo và khai phóng của sĩ tử. Trong một buổi yến tiệc thiết đãi các sứ thần, vua Nguyên thử tài ứng đối của các sứ thần mới hỏi Mạc Ðỉnh Chi rằng "Những người đi quan lộ, một ngày có mấy vạn người, sứ thần có biết được không?" Mạc Ðỉnh Chi đáp "Chỉ có hai người". Vua ngạc nhiên, Mạc Ðỉnh Chi thưa "phàm những người đi trên quan lộ không vì danh thì vì lợi, như thế chẳng phải chỉ có hai loại người sao". Vua rất tâm phục nhưng lại ghét vì tài, muốn bắt lỗi để giữ lại nên đặt ra câu hỏi khúc mắc khác để bắt bí ông. "Một vua, một thầy, một cha cùng đi một chuyến đò qua sông, chẳng may đò bị lật, ông ở trên bờ trông thấy phải xuống cứu. Nhưng một thân mình không thể vớt cả ba người mà chỉ vớt được một thôi, ông sẽ vớt ai?" Nhà vua dự tính nếu Mạc Ðỉnh Chi nói vớt vua. Vua sẽ cho là nịnh thần, sẽ kết tội bất nghĩa, bất hiếu. Nếu nói vớt thầy thì bị tội bất trung bất hiếu. Nếu nói vớt cha thì sẽ phạm tội bất trung, bất nghĩa. Ba điều "bất trung, bất nghĩa, bất hiếu" đều được nhắc nhở trong các kinh điển Tống Nho: trên là vua, dưới là thầy, kế là cha. Sĩ tử nào cũng phải thuộc nằm lòng. Câu hỏi thật lắt léo. Vua nghĩ là Mạc Ðỉnh Chi sẽ trả lời theo giáo điều, sẽ bí và sẽ bị bắt tội. Nhưng chúng ta thấy tinh thần truyền thống đất Lĩnh Nam xưa của dân tộc là tinh thần nhân bản, tôn trọng con người, lấy tình nhân ái làm trọng, cho nên nếu có cơ hội cứu ai được thì cứu chứ không phải tìm kiếm một người thật quan trọng để cứu trước và không được thì cho chết tất cả. Thấm nhuần tinh thần ấy, Mạc Ðỉnh Chi từ tốn trả lời: "Nếu bất hạnh thần gặp trường hợp nầy, khi kịp xuống nước gặp ai thì vớt người ấy, không phân biệt". Vua Nguyên chịu phục tài ứng biến của ông và trọng thưởng cho ông rất hậu. Quả xứng đáng là một vị Lưỡng Quốc Trạng Nguyên. Thế nhưng đến đời vua Trần Anh Tông đột nhiên bỏ khoa thi tam giáo. Ông cải tổ lại tất cả việc thi cử chặt chẽ hơn. Chỉ có Nho giáo được làm đề tài chính cho các khoa thi. Các khoa thi Nho giáo được phân chia làm tam trường (tức là thi hương, thi hội và thi đình). Ai đỗ tam trường thì thi Thái Học Sinh (sau nầy lại gọi là thi Hội). Trong số những người đỗ từ hồi còn nhỏ dại đến lúc trưởng thành. Mẫu thân ông quả là một phụ nữ Việt Nam gương mẫu, tiếp nối truyền thống thần mẫu Âu Cơ với đức hy sinh, nhẫn nhục chịu đựng. Bà mẹ Việt Nam coi gia đình, con cái như lẽ sống của đời mình. Không có chồng bên cạnh, bà ở vậy tảo tần buôn thúng bán bưng nuôi con cho con ăn học thành tài, chẳng bao giờ than trách hay nản lòng "Lặn lội thân cò nơi quãng vắng Eo sèo mặt nước buổi đò đông" Dầu qua bao nhiêu thời đại thăng trầm của lịch sử dân tộc, phẩm giá của người phụ nữ Việt không bao giờ thay đổi: Ngoài trận mạc nêu danh người nữ anh hùng bất khuất như hai bà Trưng, bà Triệu, bà Bùi Thị Xuân, cô Giang, cô Bắc... Trong gia đình họ là những hiền thê, hiền mẫu. Từ ngàn xưa cho đến ngày nay, trên đường tỵ nạn cộng sản, bên cạnh những đứa con thành tài đều có những bà mẹ gương mẫu. Nói tới lịch sử Việt Nam anh hùng, vẻ vang, phải nói tới công lao đóng góp to lớn của người phụ nữ Việt Nam vậy. Chính quyền đô hộ Tàu rất sợ tinh thần phụ nữ Việt Nam với đặc tính nhân bản và bình đẳng của văn hóa Việt, nên khi Mã Viện cai trị dân ta đã ra sức thuần hóa phụ nữ bằng văn hóa Khổng Mạnh, đưa người phụ nữ vào địa vị thấp kém. Những "phu xướng phụ tùy" (chồng quyết định điều gì thì người vợ phải theo mà không có ý kiến), "tam tòng" (ở nhà thì phải nghe lời cha mẹ, cha mẹ đặt đâu con ngồi đó không được trái lời, khi lấy chồng phải theo chồng, khi chồng chết phải theo con), "trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng". Vị trí nào danh dự cho người phụ nữ dưới thời đô hộ Tàu và thời phong kiến mà Tống Nho ở địa vị độc tôn? May thay Tống Nho chỉ thịnh hành ở những nơi thành thị trong giới vua quan, những nho sĩ, học sĩ. Ở những thôn quê làng mạc dân chúng không biết chữ Hán, không học những giáo điều Tống Nho nên xã hội vẫn giữ được nếp sống văn hóa Việt. Nếp sống đó đã thấm vào cung cách cư xử, ăn nói, trong huyết quản của mỗi người dân. Có lẽ vì ảnh hưởng Tống Nho, coi nhẹ vai trò người phụ nữ nên trong văn thơ của Chu Văn An không một lần nhắc nhở đến bà mẹ của mình chịu bao điều cay đắng, nhẫn nhục nuôi mình khôn lớn, thành tài. Chính vì xã hội Nho giáo độc tôn nên văn học sử Việt cũng chưa một lần nào nhắc đến bà Lê thị Chiêm với những công lao to lớn của bà đối với sự thành công của Chu Văn An. Ngay cả việc dựng ba bốn đền thờ cho Chu Văn An, có một chỗ nho nhỏ nào trong các đền thờ ấy để ghi ơn sự hy sinh cao cả của người mẹ? Nhưng, thật cao quý thay, chẳng một bà mẹ than trách. Ðối với họ, sự thành đạt của chồng con là đủ, họ coi việc làm của mình tự nhiên như gió thổi mây bay, có chi đáng kể cho đời. III. Bối cảnh giáo dục trước và sau thời đại của Chu Văn An Từ khi nước nhà độc lập cho đến đầu triều đại nhà Lý, mọi sự giao thiệp với nước ngoài và sự cố vấn về nội trị đều nhờ sự giúp đỡ của các chùa chiền. Những vị đóng góp công lớn vào thời kỳ nầy đều là những vị chân tu tài ba như Ngô Chân Lưu, La Thuận, Khuôn Việt, Vạn Hạnh... Nhưng một khi đất nước an bình, họ không muốn dấn thân vào thế sự mà muốn

5

Thái Học Sinh thì chọn ba người xuất sắc nhất gọi là tam khôi gồm Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa. Cách phân chia nầy xuất phát từ đời nhà Tống. Chứng tỏ khoa giáo dục và thi cử bắt đầu giữa đời nhà Trần đã bị ảnh hưởng của Tống Nho khá mạnh. Dưới đời nhà Trần vấn đề giáo dục phát triển mạnh. Ngoài Quốc Tử Giám dành riêng cho con em quý tộc, còn có các trường Từ Thiện Ðường, Toát Trai Ðường, và ở các làng có điều kiện mở trường đều do các thầy đồ, thầy khóa, hay các hào trưởng ở xa được mời về dạy. Chu Văn An mở trường Huỳnh Cung gần kinh đô. Nho sinh được vỡ lòng bằng cuốn Tam Tự Kinh, học thuộc lòng từng chữ như thiên = trời, địa = đất, tử = mất, tồn = còn, lục = sáu, tam = ba, gia = nhà, quốc = nước... Học hết Tam Tự Kinh sang Sơ Học Vấn Tân, Ấu Học Ngũ Ngôn Thi, Dương Tiết, Minh Tâm Bửu Giám, hầu hết những sách đều có vần, dễ thuộc. Học rồi tập viết, viết ám tả. Xong rồi học đến Tứ Thư, Luận Ngữ, Mạnh Tử, Ðại Học, Trung Dung. Học xong Tứ Thư thì bắt đầu làm câu đối như trời đối với đất, gia đối với nước... kế đến học Ngũ Kinh, bắt đầu bằng Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu, Kinh Thư và cuối cùng là Kinh Dịch. Sau đó được học những bài văn mẫu trong đó có đủ loại: phú, văn sách, kinh nghĩa, tứ lục... Tác phẩm phải học là Thông Giám Cương Mục của Chu Hi từ đầu đến thời Bắc Tống, tức là đến năm 1121. Lúc thi cũng chỉ thi từ đầu cho đến Bắc Tống mà thôi. Khi học xong hết, sĩ tử ôn tập, đi thi. Như vậy cách dạy cũng như cách học đều nằm trong khuôn phép, chỉ học thuộc lòng là đủ. Thông minh thì nhanh thuộc, nhớ nhiều. Toàn bộ sách học chỉ trên dưới 5 ngàn trang. Lối học ngày xưa đều lấy sách quyết định tất cả. Nói chung lối học nầy theo từ chương, mất hết đầu óc sáng tạo, đầu óc độc lập. Bất cứ điều gì đều lấy kinh sách giải quyết, chứ không lấy ý kiến riêng của mình mà quyết định. Từ thơ, văn, âm nhạc, kịch nghệ đều mang nặng tính điển tích, từ chương, trích cú. Chính cái học từ chương nầy làm cùn dần tinh thần năng nỗ, sáng tạo của sĩ phu. Cho nên mỗi khi có xâm lăng nước ngoài hay các cuộc cách mạng lật đổ bạo quyền đều trông cậy vào giới nông dân. Từ Ðinh, Lê, Lý, Trần, Nguyễn... những nhà vua khai sáng triều đại đều không ở trong giới quý tộc hay các sĩ phu nho học mà xuất thân từ giới bình dân ít học, như anh hùng áo vải Lam Sơn Lê Lợi, hay nông dân đất Tây Sơn Nguyễn Huệ... Ðất nước ta suốt ngàn năm bị đô hộ Tàu và đến gần một ngàn năm độc lập, giới sĩ phu, trí thức chúng ta chìm đắm trong cơn mông muội của triết thuyết Hán Nho cho đến Tống Nho. Kịp đến khi Tây vô xâm chiếm đất nước, sĩ phu chúng ta mới tỉnh ngộ, lúc đó bắt đầu đạp đổ cái cũ, chạy theo cái mới. Phong trào cải biên ồ ạt mà không nhận chân được cái gì của dân tộc mình, cái gì mình mượn từ văn hóa Tàu. Từ đó các nhà trí thức chúng ta lao đầu vào các học thuyết xa lạ của Tây phương được coi như tiến bộ. Hồ Chí Minh đã du nhập một học thuyết độc hại Cộng Sản vào Việt Nam gọi là giải phóng dân tộc mà thực chất là tạo thêm một cái ách mới tròng vào cổ dân tộc. Chúng ta hãy trở về cội nguồn của dân tộc, xây dựng lại con đường học vấn chân chính dân tộc của mấy ngàn năm dựng nước vua Hùng với tình thương yêu chân thật và bằng một trí tuệ sáng suốt. Chúng ta đã tha hóa quá mức rồi, nên mới nhìn cái gì của người Việt đều xấu rồi phỏng theo Tây theo Tàu viết cuốn Người Việt Xấu Xí. Cái xấu xí của người Việt không phải của tất cả người Việt. Xin hãy trở về nông thôn, nhìn vào những người nông dân để thấy được nếp sống người Việt trong họ. Trong cuốn truyện "Phi Lạc Sang Tàu" học giả Hồ Hữu Tường có câu nói chí lý là khuyên người học giả Tây phương muốn nghiên cứu văn hóa Việt đừng đi vào Viện Viễn Ðông Bác Cổ cũng đừng hỏi các vị trí thức thành thị mà hãy đi vào các làng mạc hỏi thằng mõ Cổ Nhuế. Rõ ràng văn hóa chúng ta mặc dầu bị trấn áp thô bạo của văn hóa Tàu, văn hóa Tây, vẫn âm ỉ cháy trong cuộc sống, trong máu, trong xương tủy của các nông dân chất phác. Chúng ta hãy rửa khuôn mặt trát phấn lem luốc của Tây của Tàu, chúng ta mới nhận chân được thật sự khuôn mặt của chúng ta. Người Việt không xấu xí trong tinh thần NHÂN BẢN VÀ NHÂN CHỦ. IV. Bối cảnh xã hội Việt Nam dưới thời đại nhà Trần trước và sau Chu Văn An Sau khi cướp ngôi nhà Lý từ Lý Chiêu Hoàng, nhờ các biện pháp cứng rắn của Trần Thủ Ðộ, các cuộc nổi loạn trong nước đều được dẹp tan. Nhà Trần từng bước xây dựng và củng cố địa vị trên phạm vi cả nước. Năm 1230 nhà Trần cho biên soạn bộ Quốc Triều Thông Chế để xây dựng lại cơ sở hành chánh. Năm 1242 Trần Thái Tông chia khu vực hành chánh cả nước làm 12 lộ. Mỗi lộ đều có quan cai trị là An Phủ Sứ. Mỗi lộ đều có các đơn vị hành chánh thông thuộc như châu, huyện, xã. Nhà Trần cắt đặt nhân sự để điều khiển mọi hoạt động hành chánh qua việc tuyển dụng bằng khoa cử. Nhưng những chức vụ then chốt đều do quý tộc họ Trần nắm giữ. Và để đề phòng các hoàng tử tranh giành ngôi báu, vua nhà Trần sớm nhường ngôi cho con để lên làm Thái Thượng Hoàng. Quyền lực của Thái Thượng Hoàng trong triều cũng như ngoài xã hội rất lớn. Về thuế má, cũng như đời nhà Lý, nhưng nhà Trần tổ chức hoàn bị hơn. Thuế gồm có thuế thân, thuế ruộng, thuế muối, và các thứ thuế linh tinh khác như tôm cá, rau quả... Nhà Trần cũng khuyến khích khai khẩn đất hoang để trồng trọt. Về thủ công nghệ, giao thông buôn bán được phát triển mạnh. Về ngoại thương, có nhiều thuyền bè ngoại quốc cập bến buôn bán. Về quân đội, nhà Trần chia quân đội làm bốn binh chủng: bộ binh, thủy binh, tượng binh và kỵ binh, nhưng lợi hại nhất là tượng binh và thủy binh. Nhà Trần chủ trương binh quý ở chỗ tinh nhuệ mà không cần nhiều, nên quân được huấn luyện võ nghệ và cả binh pháp. Chính nhờ ổn định xã hội, tổ chức quân đội chặt chẽ nhanh chóng nên quân dân ta đã thắng quân Mông Cổ vẻ vang năm 1258. Năm 1284 và năm 1288, quân Mông Cổ lại hai lần đem quân qua xâm lăng nước ta, quân dân Ðại Việt oanh liệt chống trả và hai lần thắng trận dưới sự thống lãnh của Hưng Ðạo Vương Trần Quốc Tuấn. Nói đến ba lần thắng trận vẻ vang quân Mông Cổ, chúng ta không quên đề cập đến đường lối chính trị đầu đời nhà Trần. Lúc mới tiếp thu ngôi báu của nhà Lý, Trần Thủ Ðộ chủ trương pháp trị với những biện pháp cứng rắn để ổn định. Nhưng dần dần vua Trần Thái Tông đã cho dung hòa với chính sách nhân trị, truyền thống tâm linh của đất Lĩnh Nam. Một cứng, một mềm, quyền lợi

6

đồng lưu hành dưới thời đô hộ của Tàu. Phật giáo và Lão giáo không được khích lệ và áp đặt như Hán Nho nên đã bình lặng đi vào dân gian tạo nên một thế độc lập dân tộc để kình chống quân xâm lăng suốt thời kỳ chịu sự đô hộ của Tàu. Có người gọi ba tôn giáo đồng lưu nầy là tam giáo đồng nguyên. Chúng tôi nghĩ rằng điều nầy không đúng. Phải nói tam giáo đồng lưu mới đúng vì Phật giáo xuất phát từ Ấn độ, Khổng giáo từ Trung hoa, người ta chưa rõ Lão giáo xuất phát từ đâu. Nhưng theo cụ Hoàng Văn Chí thì Lão giáo cũng từ Ấn độ. Cụ cho rằng Lão Tử có lỗ tai dài giống Phật nên người thường quen gọi là Lão Ðam (người có lỗ tai dài). Cho nên Lão Tử là người Ấn đô CảPhật và Lão giáo đều không xuất phát từ Trung hoa nên không thể gọi là đồng nguyên được. Tinh thần dân tộc Việt là tinh thần khai phóng. Trong câu chuyện huyền thoại Tản Viên cuốn sách ước nói lên sự tự do tư tưởng. Người Việt lại có tín ngưỡng dân gian cho nên những tôn giáo phù hợp với những điều họ đang sống, đang suy tư đều được tiếp nhận nồng hậu. Ðời nhà Lý và đời nhà Trần, Phật giáo được hướng dẫn bởi các vị chân tu trí thức nên nghiêng hẳn về thiền tông hơn là tịnh độ. Phật giáo được nghiên cứu và tu học thanh tịnh. Nhưng khi Tống Nho đẩy Phật và Lão vào bóng tối thì Phật, Lão lại được phát triển mạnh trong dân gian qua lễ lượt, cúng bái, cầu an, cầu siêu và có nơi trộn lẫn với Lão giáo đi sâu vào bói toán, đồng bóng, dị đoan. Cho nên càng về sau trong giới Phật giáo hiếm có các bậc chân tu, đạo hạnh hướng dẫn quần chúng như đầu niên đại nhà Trần. Chúng tôi muốn phân tích tinh thần Phật, Lão giáo dưới đời nhà Trần nhưng thời gian và khuôn khổ quá hạn hẹo nên không thể viết thêm cho đầy đủ được. Nhưng qua bối cảnh lịch sử thời Chu Văn An và cuộc đời Chu Văn An, chúng ta thấy rằng nhiệm vụ người trí thức lãnh đạo quần chúng không thể nào giáo điều mà phải có tinh thần cởi mở, sáng tạo. Cái tinh thần đó chỉ được tìm thấy trong tinh thần khai phóng truyền thống của dân tộc. Giáo điều và bế quan dẫn chúng ta đến căn bệnh tự mãn, tham nhũng, thối nát. Xã hội sẽ trở nên loạn lạc và tự hủy diệt. Hiện nay, tín điều cộng sản đã và đang đào cái hố sâu cho toàn dân tộc. Sách tham khảo : - Việt Sử Tiêu Án, Ngô Thì Sĩ - Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam, Phan Ngọc - Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim - Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam, Nguyễn Ðăng Thục - Lịch Sử Triết Học Ðông Phương, Nguyễn Ðăng Thục - Lịch Sử Cổ Trung Ðại Việt Nam, Nguyễn Khắc Thuần - Duy Văn Sử Quan, Hoàng Văn Chí - Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư - Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, Lê Mạnh Thát - Bản Sắc Dân Tộc Trong Văn Học Thiền Tông Thời Lý Trần, Nguyễn Công Lý - Chu Văn An Khuôn Mặt Người Thầy, Hoài Việt - Kể Chuyện Nhà Giáo Kiệt Xuất Chu Văn An, Ðinh Mạnh Thoại - Sự Muôn Năm Cũ, Trần Văn Tích cá nhân và quyền lợi tập thể quyện vào nhau, hòa hợp làm một, tập thể vì cá nhân và cá nhân vì tập thể. Cho nên, từ vua chí dân trên dưới một lòng. Hội nghị Bình Than và hội nghị Diên Hồng nói lên tinh thần đó. Chính nhờ tinh thần nhân bản được thể hiện qua tấm lòng đức độ của các vua Trần mà xã hội đi vào trật tự một cách hòa bình. Từ khi nền giáo dục Nho học phát triển mạnh, giới nho sĩ xuất hiện trong xã hội ngày càng nhiều. Chính tầng lớp trí thức nho gia nầy có khuynh hướng tư tưởng độc tôn, bế quan và từng bước đẩy lùi Lão giáo và Phật giáo vào bóng tốị Ðại diện cho khuynh hướng nầy gồm có Trương Hán Siêu và hai người học trò giỏi của Chu Văn An là Phạm Sư Mạnh và Lê Quát. Trong Cổ Văn Học Sử của Nguyễn Ðổng Chi có viết "Vì nho sĩ 'bạch diện thư sinh' (người học trò mặt trắng) càng ngày càng chịu ảnh hưởng Tống Nho nên mới có tư tưởng thiên lệch, không phản chiếu được nguyện vọng của tầng lớp nông dân là cơ sở của dân tộc..." Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam của giáo sư Nguyễn Ðăng Thục có viết: "Bởi vì dù văn chương hay, chính sự giỏi mà thiếu nhân cách đạo đức, đấy là thiếu tinh thần thực hiện tâm linh nên Lê Quát, Phạm Sư Mạnh, Trương Hán Siêu đã đi vào khuynh hướng Nho học bế quan, không khai phóng nữa..." Từ cuối đời nhà Trần, xã hội bắt đầu loạn lạc. Trong triều đình chia phe cánh, nịnh thần ra sức gây ảnh hưởng chia chác đặc quyền đặc lợi. Dân chúng chịu muôn vàn khổ cực vì quan lại tham ô vơ vét. Giặc giã nổi lên khắp nơi. Ngoài biên cương Lào, Chiêm Thành đem quân quấy phá. Ðỉnh cao loạn lạc bắt đầu vào triều vua Dụ Tông. Nhà vua đam mê tửu sắc, lãng phí của công, kêu nhà giàu vào trong cung đánh bạc... Nhìn cảnh tượng như vậy, Chu Văn An chán ngán thấy dạy người học trò như nước đổ đầu vịt. Ông dâng sớ chém bảy nịnh thần và treo áo từ quan, rút lui về ở ẩn. Cả một xã hội băng hoại kéo theo nhà Trần mau chóng sụp đổ. Hệ thống Tống Nho nầy mỗi ngày một phát triển như một cỗ xe nặng nề, cộc kệch. Những người muốn sửa đổi như Hồ Quý Ly, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ đều bị bánh xe của nó nghiền nát. Cho đến ngày đất nước bị trăm năm ngoại thuộc thực dân Pháp hệ thống này mới chụi sự rã rời. V. Bối cảnh tôn giáo dưới thời Chu Văn An Trước khi các tôn giáo vào nước ta, đất nước ta dưới thời Hùng Vương đã hình thành một nền tư tưởng khá vững vàng. Dân chúng thời ấy có một tín ngưỡng riêng về đạo hiếu, về việc thờ cúng tổ tiên, quỷ thần,và tin tưởng những người chết đi được sinh lại. Ngay cả lịch pháp thời vua Hùng Vương chia mỗi năm có 360 ngày, 90 ngày làm một mùa, và 7 ngày là một tuần. Những thành tựu ấy qua kinh nghiệm trồng lúa của tổ tiên ta. Ngay chính Mã Viện khi đánh thắng Hai Bà Trưng đã phải công nhận rằng luật pháp của ta có mười điều khác với luật pháp Tàu. Như vậy thời Hùng Vương chúng ta đã có một hệ thống chữ viết để mô tả các điều phong phú ấy. Mã Viện khi đô hộ dân ta đã ra sức phá hoại tất cả những di sản văn hóa thời vua Hùng và áp đặt lên dân ta tất cả điều luật Tàu và hệ thống Hán Nho. Trước hay sau thời kỳ nầy, Phật giáo và Lão giáo cũng đã xuất hiện. Như vậy ba tôn giáo nầy

7

Tre Tàn Mà Măng Chưa Mọc? Hoàng Việt Khanh Việc ra đi cùng lúc của hai nghệ sĩ lớn Tám Trí và Ngọc Nuôi trong làng âm nhạc hải ngoại là một cái tang chung cho cả nền âm nhạc truyền thống Việt Nam. Từ mất mát lớn lao ấy, chúng tôi xin có vài suy nghĩ về tình hình duy trì và phát triển âm nhạc truyền thống tại hải ngoại. Đã từ lâu, nhiều người trong chúng ta có những nhận thức sai lạc hoặc phiến diện về nền âm nhạc truyền thống Việt Nam. Hàng ngày, những lời lẽ mang tính miệt thị, coi thường âm nhạc truyền thống với những câu nói đại loại như “đồ cải lương”, “phường chèo bội”, v.v., có thể phát ra một cách vô tình hay hữu ý. Ngay trong cách sử dụng từ ngữ hàng ngày, chúng ta cũng đã vô tình nhầm lẫn khi nói cổ nhạc hoặc tân nhạc. Thoạt tiên, người nghe có thể nghĩ và so sánh đến một loại âm nhạc đã cổ xưa với một loại âm nhạc mới. Thật ra, hai khái niệm này chỉ đúng với nền âm nhạc Việt Nam ở đầu thế kỷ 20 nhằm phân biệt loại âm nhạc truyền thống và loại âm nhạc bị Tây phương hóa. Trong bối cảnh nền âm nhạc Việt Nam và thế giới hiện nay, với sự đa dạng và giao lưu mạnh mẽ, nhiều học giả đồng ý rằng nên sử dụng cụm từ âm nhạc truyền thống để chỉ loại âm nhạc thuần túy Việt Nam, được truyền lại qua nhiều đời và để thay cho danh từ cổ nhạc. Mặt khác, ngay trong số những người đã từng hoạt động lâu năm trong lĩnh vực âm nhạc cũng đã có những cái nhìn rất phiến diện về nền âm nhạc Việt Nam. Chẳng hạn, có luận điểm cho rằng dân tộc Việt Nam hoàn toàn không có các điệu múa dân tộc. Sự thật, chúng ta có khá nhiều thể loại múa dân gian khác nhau như múa Dâng Bông, múa Rồng Rắn, múa Gậy, múa Siêu, múa Đèn, múa Dâng Hương, hoặc múa Xuân Phả – một loại múa màtất cả các diễn viên đều mang mặt nạ – v.v.; dù đa phần các điệu múa dân gian này đã được phối hợp vào trong các loại hình nghệ thuật sân khấu như Chèo hoặc Tuồng (Hát Bội). Cũng có ý kiến nói rằng Việt Nam chỉ có hùng ca kể từ khi có cuộc kháng chiến chống Pháp. Điều này cũng không đúng, vì chúng ta có thể tìm thấy trong Tuồng có rất nhiều hùng ca. Hoặc có người cho rằng Việt Nam chỉ có hát hợp ca từ thời Pháp thuộc, nhưng trong hát Chèo hoặc Hò - với phần họa và xướng- đã xuất hiện thể loại hợp ca từ trước đó rồi! Dựa trên những nhận thức lệch lạc và tầm nhìn phiến diện hiện nay về nền âm nhạc truyền thống Việt Nam, kết quả là chúng ta đang vô tình đánh mất di sản âm nhạc đồ sộ và quí báu của ông bà chúng ta. Mặc dù giáo sư tiến sĩ dân nhạc học Terry Miller ở đại học Kent State, Ohio, đã từng nể phục: “Việt nam có một kho tàng âm nhạc phong phú”, có rất nhiều thanh thiếu niên Việt Nam đã hoàn toàn hoặc phần nào đó không biết gì về nền âm nhạc truyền thống của quê hương mình. Theo đề tài nghiên cứu “Ảnh Hưởng của Kinh Tế Thị Trường Đối với Việc Hình Thành và Phát Triển Nhân Cách Con Người Việt Nam”, thực hiện bởi chính phủ Việt Nam từ

năm 1992-1994, trong số 1542 người được hỏi trên toàn quốc, có 35% thích Cải Lương, 13.9% nghe Dân Ca, 4.3% thưởng thức Chèo, và 2.4% yêu thích Tuồng. Rõ ràng là nghệ thuật Chèo và nhất là Tuồng, một loại sân khấu nhạc kịch mà chính nhạc sĩ người Pháp nổi tiếng Claude Debussy phải thán phục khi được thưởng lãm, sẽ biến mất khỏi kho tàng văn hóa dân tộc. Đáng buồn tương tự, trong hai lần tổ chức trò chơi đố nhạc dành cho khoảng 500 em sinh viên tham dự trại hè ở miền Nam California, chính người viết đã khám phá ra rằng, hầu hết các em không biết và không thể liệt kê chỉ 5 nhạc cụ dân tộc của Việt Nam, và thậm chí họ rất phân vân trước câu hỏi ai là tác giả của một bài Lý phổ thông nào đó. Chúng ta cũng thử tự hỏi, hiện nay có bao nhiêu bà mẹ Việt Nam ở Mỹ biết hát Ru để ru con? Hay họ sẽ cho con họ nghe nhạc Pop, hoặc ngay cả Rap? Rõ là, “Tre tàn mà măng chưa mọc!”. Khi đề cập đến sự tiếp nối, có một giáo sư dạy nhạc truyền thống Việt Nam ở California đã thốt lên rằng: “ Tình hình này, trong vòng 5, 10 năm tới có lẽ chúng ta sẽ mất hẳn nền âm nhạc truyền thống Việt Nam”. Nhưng tôi không bi quan đến như vậy vì chúng ta còn có rất nhiều tấm lòng nặng tình với nền văn hóa truyền thống của quê cha đất tổ. Thực tế đã chứng minh rằng, ngay trong những năm tháng chiến tranh khốc liệt giữa hai miền Nam Bắc, nền âm nhạc truyền thống Việt Nam vẫn được duy trì và phát triển; kể cả khi làn sóng nhạc Pop và Rock tràn vào Việt Nam cùng với những người lính Hoa Kỳ và các phương tiện thông tin hiện đại. Đặc biệt, sau 1975, ở hải ngoại cũng đã có rất nhiều cố gắng của các cá nhân hoặc đoàn thể trong việc duy trì và phát triển văn hóa Việt Nam nói chung và âm nhạc truyền thống Việt Nam nói riêng. Các giáo sư dân nhạc học người Việt như Trần Văn Khê và Nguyễn Thuyết Phong, các nhà nghiên cứu như Trần Quang Hải, Lê Tuấn Hùng, Lê Ngọc Chân, v.v..đã không ngừng tham gia các cuộc hội thảo, biểu diễn, và giảng dạy ở nhiều nơi trên thế giới nhằm quảng bá âm nhạc Việt Nam. Ngay chính tại miền Nam California, các giáo sư và nghệ sĩ như Nguyễn Châu, Nguyễn Thị Mai, Chí Tâm, Hoàng Oanh, Việt Hùng, Tám Trí, Ngọc Nuôi, Dũng Thanh Lâm v..v. đã không ngừng nghỉ tổ chức các lớp dạy nhạc cụ dân tộc, các buổi biểu diễn, các cuộc thi. Các vị ấyï cũng đã đóng góp giọng hát tiếng đàn của mình trong công trình lưu trữ vàphổ biến dân nhạc Việt Nam tại Hoa Kỳ mà giáo sư Nguyễn Thuyết Phong thực hiện từ hơn 10 năm qua thông qua một chương trình do chính phủ Mỹ tài trợ. Tuy nhiên, nhìn chung, các nổ lực quí giá này chỉ giống như “gió vào nhà trống” vì vẫn còn mang tính qui mô nhỏ, cá nhân, thiếu những phong trào rộng lớn cũng như sự hổ trợ tích cực của cộng đồng người Việt tại hải ngoại. Từ hiện trạng của nền âm nhạc truyền thống Việt Nam ở trong và ngoài nước, chúng tôi thiết nghĩ chúng ta cần có sự

8

riêng một ai. Đối với các Trung Tâm Băng Nhạc hải ngoại, chúng tôi đề nghị nên có thêm nhiều các DVD, băng video, hoặc cassette cho các em học hỏi về các loại hình nghệ thuật của âm nhạc truyền thống trong đó có sự dẫn giải nghệ thuật cho từng trích đoạn hoặc bài bản. Các dẫn giải này không nên mang tính học thuật cao mà cần chú trọng vào sự đơn giản, dễ nhớ, dễ tiếp thu, dễ so sánh và liên hệ. Một công việc không kém phần quan trọng khác là việc sưu tầm, thu âm, thu hình, lưu trữ và phổ biến các giá trị âm nhạc truyền thống từ các nghệ nhân lão thành. Các nghệ nhân như Việt Hùng, Tám Trí, Ngọc Nuôi, v.v., là những người mà không có trường lớp hay nhạc viện nào có thể đào tạo nổi. Họ là những người có giọng hát tiếng đàn mang nắng, mưa, và hồn dân tộc từ những năm tháng dâng hiến nghệ thuật cho đời. Họ cũng là những nhân chứng lịch sử giá trị cho sự thăng trầm của âm nhạc truyền thống Việt Nam, là những vốn quí cần được thu âm, thu hình, v.v.. Như đã đề cập, chúng ta đã có thực hiện điều này, nhưng hình như còn thiếu sự liên tục và yểm trợ từ các nhà hảo tâm. Chúng tôi thiết nghĩ, với ý thức về tính kế thừa của thế hệ “tre già” và “măng mọc”, mỗi độc giả cũng có thể tự mình thu âm, thu hình, lưu trữ và trao đổi các làn điệu dân ca, các bài hát ru, hò, bài bản nhạc Tài Tử, các ngón đàn, kể cả các giai thoại về âm nhạc của ông bà, cha mẹ, hoặc các nghệ nhân quen biết. Một biện pháp khác là việc hướng dẫn các em tham dự các buổi trình diễn và thuyết trình về âm nhạc truyền thống Việt Nam tại địa phương của mình. Qua đó các em sẽ được tiếp cận với văn hóa dân tộc trong một môi trường âm nhạc quê hương. Mặt khác, các bậc phụ huynh cũng không nên ngăn cản các em có khuynh hướng yêu thích theo học đại học về ngành dân tộc nhạc học (ethnomusicology). Đây là một ngành học tương đối mới trên thế giới, được thiết lập với mục đích nghiên cứu về âm nhạc truyền thống của mỗi dân tộc hoặc chủng tộc. Người Việt hiện còn đang thiếu các chuyên viên về lĩnh vực này vì số người Việt theo học ngành dân tộc nhạc học ở trong và ngoài nước cũng chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Sau cùng, chúng tôi hy vọng rằng, với những nhận thức đúng đắn về vốn qúi âm nhạc truyền thống Việt Nam, về tính kế thừa trong văn hóa giữa các thế hệ, cùng với tấm lòng yêu quê hương dân tộc tiềm tàng trong mỗi cá nhân, “khi tre già thì măng sẽ mọc” và nền âm nhạc truyền thống Việt Nam ở hải ngoại sẽ được duy trì cũng như phát triển mạnh mẽ. quan tâm và nhận thức đúng mức để có những biện pháp tích cực trong việc duy trì và phát triển âm nhạc Việt Nam. Đối tượng chính yếu để nhận giáo dục âm nhạc truyền thống của chúng ta, cũng như ở bất cứ các quốc gia khác trên thế giới, là thế hệ trẻ vì họ luôn luôn là thế hệ kế thừa. Đúng như một người làm văn hóa đã nói với chúng tôi rằng “Khoa học kỹ thuật có thể có những bước nhảy vọt, nhưng trong văn hóa, không thể có bước nhảy vọt mà phải có thế hệ kế thừa”. Như vậy biện pháp trước tiên, theo chúng tôi, là việc đòi hỏi các bậc phụ huynh thấy sự quan trọng của việc giáo dục âm nhạc truyền thống cho các em trẻ kể cả việc nâng cao trình độ thưởng thức cho chính mình để có thể giúp các em. Thay vì để mặc cho các em dành toàn thời gian nghe các loại nhạc như Rock, Hip Hop, Rap, hoặc Pop, v.v., các em cần được hướng dẫn để có một thời gian thích hợp tìm về nguồn cội để ít nhất biết sự khác biệt căn bản giữa các làn điệu dân ca Quan Họ, Lý, Hò, Veø, v.v... hoặc ở trình độ cao hơn nữa là khác biệt giữa Ca Trù, Ca Huế, Ca Nhạc Tài Tử trong thể loại nhạc thính phòng, hoặc Chèo, Tuồng, và Cải Lương trong nghệ thuật sân khấu. Các phụ huynh nên hướng cho các em học các nhạc cụ dân tộc ngay khi các em còn nhỏ tuổi. Có một học giả về âm nhạc Việt Nam đã cho rằng, do đặc tính thang âm điệu thức của Việt Nam, các em học nhạc cụ Việt Nam sẽ có trình độ thẩm âm cao hơn các em học nhạc cụ Tây Phương. Mặt khác, nếu không có điều kiện để học biểu diễn nhạc cụ dân tộc, các em cũng có thể học nghe và hát dân ca và phân biệt cho được thế nào là một bài dân ca chính thống và một bài dân ca cải biên. Để nâng cao trình độ thưởng thức âm nhạc truyền thống Việt Nam, các cơ sở truyền thông như radio, truyền hình, internet, hoặc các đoàn thể, với chức năng giáo dục của mình, có thể tổ chức các chuyên đề để giải thích những nét tinh tế của một bài dân ca nào đó, hoặc những xử lý tế nhị của một ngón đàn điêu luyện từ một nghệ nhân. Các Trung Tâm Việt Ngữ hoặc các khóa tu nghiệp Sư Phạm cũng sẽ đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc hướng dẫn các em và giáo sinh tìm hiểu âm nhạc truyền thống Việt Nam qua những giờ dẫn giải bởi các nhà chuyên môn. Được biết sắp tới Giải Khuyến Học và các Trung Tâm này hợp tác với giáo sư Nguyễn Thuyết Phong để thực hiện việc giáo dục âm nhạc Việt Nam cho thế hệ trẻ tại hải ngoại. Rõ ràng, đây là một nỗ lực rất đáng khích lệ và cần có sự bảo trợ của nhiều phụ huynh hoặc mạnh thường quân, cũng như phải xem đây là công việc bảo tồn văn hóa chung của chúng ta chứ không

Sáng tác của trại viên Về Nguồn 2002

9