intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chuyên đề: Kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh

Chia sẻ: Trần Văn Chương | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:21

344
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mời các bạn cùng tìm hiểu lý luận giá trị lao động của các nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh; lý luận giá trị lao động của Các Mác (Karl Marx) được trình bày cụ thể trong "Chuyên đề: Kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh". Cùng tìm hiểu để nắm bắt nội dung thông tin tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chuyên đề: Kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh

  1.  Chuyên đề Mác – Lênin 2                                                             GVHD: ThS Ngô Đ   ức Hồng  LỜI MỞ ĐẦU Chủ  nghĩa Trọng thương là một bộ  phận đặc biệt quan trọng của kinh tế  chính trị tư sản cổ điển. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã làm cho những luận  điểm của chủ nghĩa trọng thương trở nên lỗi thời. Trọng tâm chú ý của các nhà kinh  tế  học ngày càng chuyển từ  lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất. Chủ  nghĩa  trọng thương nhường chỗ cho chủ nghĩa trọng nông. Mặc dù là giai đoạn cao hơn   so với chủ nghĩa trọng thương, nhưng chủ nghĩa trọng nông còn nhiều hạn chế, đặc  biệt là chỉ  giới hạn  ở  lĩnh vực sản xuất trong nông nghiệp và chưa có khái niệm  đúng đắn về giá trị. Chủ nghĩa trọng nông nhường chỗ cho kinh tế học chính trị  tư  sản cổ điển mà tiêu biểu là kinh tế học chính trị tư sản cổ điển Anh. Kinh tế chính   trị  tư sản cổ điển Anh mở đầu từ  W. Petty và kết thúc ở  D. Ricardo. Lý thuyết giá   trị  lao động là một trong những lý thuyết quan trọng của các nhà kinh tế  tư  sản cổ  điển Anh. Qua đánh giá các điểm giá trị  khoa học và hạn chế  của W. Petty, Adam  Smith và Ricardo trong lý luận giá trị  lao động để  ta thấy được Mác đã kế  thừa và  phát triển tư tưởng của họ như thế nào. SVTH: Trần Văn Chương – MSSV: 6106603 Trang 1
  2.  Chuyên đề Mác – Lênin 2                                                             GVHD: ThS Ngô Đ   ức Hồng  NỘI DUNG Chương 1: LÝ LUẬN GIÁ TRỊ LAO ĐỘNG CỦA CÁC NHÀ KINH TẾ CHÍNH TRỊ TƯ SẢN CỔ ĐIỂN ANH 1.1. Khái quát sơ  lược về  lý luận giá trị  lao động của các nhà kinh tế  chính trị tư sản cổ điển Anh. Kinh tế chính trị cổ điển Anh là một trong những xu hướng tư tưởng  tiến bộ,   đã để  lại dấu  ấn sâu sắc trong lịch sử  phát triển các luận thuyết kinh tế. Nhiều   quan điểm chủ đạo của trường phái này vẫn còn lưu giữ ý nghĩa đến tận ngày nay.  Xu hướng tư  tưởng của trường phái cổ  điển bắt đầu xuất hiện từ  và phát triển   mạnh mẽ đến nửa cuối. Đặc điểm chung của kinh tế chính trị  tư sản cổ điển Anh thể hiện nó là một  trường phái kinh tế  khoa học đầu tiên của giai cấp tư  sản, tuy vậy những lý luạn  trong thời gian này còn khá đơn sơ và hạn chế về nhiều mặt. Trường phái kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh bắt đầu từ  William Petty và   kết thúc ở David Ricardo. 1.2. Lý luận giá trị lao động của các nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển   Anh. 1.2.1. Lý luận giá trị lao động của William Petty. 1.2.1.1. Khái lược về tiểu sử và các tác phẩm của William Petty. SVTH: Trần Văn Chương – MSSV: 6106603 Trang 2
  3.  Chuyên đề Mác – Lênin 2                                                             GVHD: ThS Ngô Đ   ức Hồng  ­ William Petty (1623 – 1687) sinh ra trong một gia đình làm nghề  thủ  công.  Ông là người học rộng, biết nhiều và có nhiều tài trên các lĩnh vực hoạt động khoa  học và thực tiễn. Nhờ có tài năng nên thu nhập lớn, ông bước vào hàng ngũ các nhà  địa chủ  quý tộc và là một nhà tư  bản công nghiệp lớn. Do hoạt động lý luận gắn  liền với hoạt động thực tiễn nên thế  giới quan là phương pháp luận của ông vượt  xa những người trọng thương thời đó. Ông đi sâu vào tìm hiểu bản chất bên trong  các quá trình kinh tế và thừa nhận các quy luật kinh tế khách quan . Đó là một mốc  đánh dấu sự phát triển tư tưởng kinh tế trong lịch sử. ­ Những tác phẩm chủ yếu của William Petty: + Bàn về thuế khóa và lệ phí (Năm 162). + Giải phẫu học chính trị Ireland (Năm 1672). + Số học chính trị (Năm 1676). + Bàn về tiền tệ (Năm 1682). Những tác phẩm đầu tay, William Petty còn chịu  ảnh hưởng của chủ  nghĩa  trọng thương, đến tác phẩm xuất bản năm 1682 ông mới hoàn toàn đoạt tuyệt với   chủ nghĩa trọng thương. ­ Công lao lớn nhất của William Petty là đưa ra nguyên lý giá trị lao động, điều  đó làm cho ông xứng đáng là người sáng lập của kinh tế chính trị học. 1.2.1.2. Lý luận giá trị lao động của William Petty. Công lao to lớn của W.Petty là  ở  chỗ, ông là người đầu tiên xây dựng học   thuyết về giá trị lao động. W. Petty đã có nhận xét đúng đắn khi vạch rõ vai trò của   lao động trong việc tạo ra giá trị, tức nguồn gốc thật sự của của cải. Chỉ riêng điều   này có thể nói ông là người khai sinh ra lý luận giá trị lao động. ­ Khi nghiên cứu về giá trị lao động, ông dùng thuật ngữ “giá cả” và chia thành  “giá cả chính trị” và “giá cả tự nhiên”. Theo ông, giá cả tự nhiên do lượng lao động  SVTH: Trần Văn Chương – MSSV: 6106603 Trang 3
  4.  Chuyên đề Mác – Lênin 2                                                             GVHD: ThS Ngô Đ   ức Hồng  hao phí để sản xuất ra hàng hóa quyết định. Như vậy, W.Petty đã hiểu đúng giá trị ­   lao động với thuật ngữ  “Giá cả  tự  nhiên” và có giá cả  chính trị  chính là giá cả  thị  trường, nó thường thay đổi theo những điều kiện chính trị, do đó khó hiểu rõ được   nó. ­ William Petty cũng đã thấy được mối quan hệ  giữa năng suất lao động với  “giá cả  tự  nhiên”, nó tỷ  lệ  nghịch với năng suất lao động. Ông đã so sánh khối  lượng lao động hao phí để sản xuất lúa mì. Nếu năng suất lao động sản xuất ra bạc  tăng lên thì giá trị của nó giảm. Ông có đề cập đến lao động giản đơn và lao động   phức tạp nhưng chưa phân tích đầy đủ.  ­ Tuy nhiên, ông còn chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa trọng thương khi cho rằng   chỉ có lao động khai thác bạc (tiền tệ) mới tạo ra giá trị, lao động trong các ngành   khác chỉ tạo nên của cải khi so sánh với lao động tạo ra tiền. Theo ông giá trị  của  hàng hóa là sự  phản ánh giá trị  của tiền, giống như ánh sáng Mặt trăng là sự  phản   chiếu ánh sáng Mặt trời vậy. Ông còn cho rằng lao động thương nghiệp có năng  suất cao hơn nông nghiệp và ngành thương nghiệp là ngành kinh tế  có lợi nhất.   Đồng thời W. Petty đã đưa ra nguyên lý nổi tiếng “Lao động là cha và đất là mẹ   của của cải”. Mặc dù phát triển này tạo ra sự thừa nhận đầu tiên và sâu sắc về hai   “yếu  tố  nguyên thủy trong sản xuất”, nhưng ít có giá trị  phân tích. Chắc chắn nó   không tạo ra thuyết giá trị. Quan trọng hơn là nguyên cứu của W.Petty nhắm vào  việc phát hiện “sự  ngang hàng tự  nhiên” giữa đất đai và lao động với nhau bằng  việc xác định cần phải có bao nhiêu đất để  sản xuất “lương thực cho một người   trong một ngày”, xem giá trị của sản lượng như thế ngang bằng với giá trị lao động   trong một ngày. Mục đích trong nỗ  lực của W.Petty là phải hình thành một đơn vị  đánh giá qua đó nhằm giảm bớt số lượng giá trị của hai yếu tố, đất đai và lao động,  với số  lượng đồng nhất của “sức sản xuất” sau đó dùng những tiêu chuẩn giá trị  tuyệt đối, nỗ lực này cũng chứng tỏ là ngõ cụt phân tích. 1.2.2. Lý luận giá trị lao động của Adam Smith. 1.2.2.1.   Khái   lược   về  tiểu sử  và các tác phẩm của   Adam Smith. SVTH: Trần Văn Chương – MSSV: 6106603 Trang 4
  5.  Chuyên đề Mác – Lênin 2                                                             GVHD: ThS Ngô Đ   ức Hồng  Adam   Smith   (1723   –   1790)   sinh   tại   Kieccondi,   một   thành   phố   nhỏ   của  Scotland. Bố ông là một quan chức trong ngành thuế. Ông đã học tập và có được một học vấn toàn diện tại các trường Đại học của  nước Anh. Năm 1748 Ông tốt nghiệp đại học, ông giảng dạy văn học và tu từ  học  ở trường Đại học Edinbua. Từ năm 1751 trở đi, ông giảng dạy logic, triết học, đạo  đức tại Trường Đại học Glasgow và tích cực tham dự câu lạc bộ kinh tế chính trị. Năm 1759, những bài giảng của ông được xuất bản. Cuốn  Lý luận về những   tình cảm đạo đức đã làm ông nổi tiếng. Công tước Beclay đã mời ông làm giáo sư  giảng dạy cho mình. Năm 1765, Ông sang Pháp, ở đây ông đã tiếp xúc và trao đổi với những người   theo trường phái trọng nông. Điều đó có ý nghĩa lớn trong quá trình hình thành các  quan điểm kinh tế ở  ông. Sau một năm  ở  lại nước Pháp, Ông về  nước Anh và xin   thôi việc giảng dạy. Suốt 12 năm, ông nghiên cứu và viết tác  phẩm Nghiên cứu về   bản chất và nguyên nhân  giàu có của các nước xuất bản năm 1776. Tác phẩm của  ông bao gồm 5 quyển: Quyển I: Trình bày về lý luận giá trị, về phân phối (Tiền lương, lợi nhuận, lợi   tức, địa tô). Quyển II: Trình bày tích lũy tư bản – tái sản xuất. Quyển III: Lịch sử thời trung cổ ­ phê phán chế độ phong kiến. Quyển IV: Phê phán những lý luận phổ  biến nhất của kinh tế chính trị  ­ chủ  nghĩa trọng thương, chủ nghĩa trọng nông. Quyển V: Thu, chi của nhà nước, chính sách thuế khóa, cho vay. SVTH: Trần Văn Chương – MSSV: 6106603 Trang 5
  6.  Chuyên đề Mác – Lênin 2                                                             GVHD: ThS Ngô Đ   ức Hồng  Tác phẩm đó đã làm cho ông nổi tiếng trên thế  giới. Với bản chất giản dị,   khiêm tốn, mười bốn năm cuối đời, ông chỉ  làm một quan chức nhỏ  trong ngành  thuế ở địa phương. 1.2.2.2. Lý thuyết giá trị lao động của Adam Smith. So với William Petty, Adam Smith có những bước tiến bộ  hơn. Ông khẳng   định rằng tất cả các loại lao động đều tạo ra giá trị  chứ  không giới hạn như  trong   khai thác vàng của William Petty. Đồng thời, Adam Smith cũng bác bỏ  quan điểm  cho rằng giá trị  của hàng hóa được quyết dịnh bởi ích lợi của nó. Hơn nữa, Adam   Smith còn phân tích lược giá trị  của hàng hóa và cho rằng nó được xác định trong  điều kiện lao động trung bình của xã hội. Lý luận về  giá trị  của Adam Smith chủ  yếu giải quyết ba vấn đề  cơ  bản: ­ Thứ nhất: Thước đo thật sự của giá trị trao đổi là gì, hay nói cách khác là cái  gì đã tạo ra giá trị thực sự của mọi thứ hàng hóa. ­ Thứ hai: Các bộ phận tạo nên giá trị thực sự rốt cuộc là cái gì?   ­ Thứ ba: Trường hợp nào đã khiến cho một bộ phận hay toàn bộ  giá cả  nói  trên có lúc cao hơn giá cả  tự  nhiên hoặc giá cả  bình thường của chúng, có lúc lại   thấp hơn giá cả tự nhiên hoặc giá cả bình thường của chúng.   Giải đáp lý luận về ba vấn đề này là nội dung của lý luận về giá trị của ông.   Trước khi nêu vấn đề và bắt đầu nghiên cứu lý luận giá trị, trước hết ông phân biệt  hai cách dùng của từ “giá trị”: Giá trị sử dụng và giá trị trao đổi. Ông nói: từ “giá trị  có hai nghĩa khác nhau, có lúc nó biểu thị hiệu quả sử dụng như là một vật phẩm   đặc biệt, có lúc biểu thị sức mua do chỗ chiếm hữu một vật nào đó mà nó có được   đối với vật khác. Cái trước gọi là giá trị  sử  dụng, cái sau gọi là giá trị  trao dổi.   Tiếp đó ông còn chứng minh rõ quan hệ giữa giá trị sử dụng và giá trị trao đổi”. Những thứ có giá trị sử dụng rất lớn, thường có giá trị  trao đổi cực nhỏ, thậm  chí không có. Ngược lại, những thứ  có giá trị  trao đổi rất lớn, thường có giá trị  sử  dụng cực nhỏ, hoặc không có giá trị  trao đổi. Việc phân biệt rõ ràng hai khái niệm  giá trị sử dụng và giá trị trao đổi này đồng thời giải thích rõ là giá trị trao đổi lớn hay   nhỏ  không có liên quan gì đến giá trị  sử  dụng, đó là công lao của Adam Smith.   SVTH: Trần Văn Chương – MSSV: 6106603 Trang 6
  7.  Chuyên đề Mác – Lênin 2                                                             GVHD: ThS Ngô Đ   ức Hồng  Nhưng ông cho rằng những thứ không có giá trị sử dụng có thể có giá trị trao đổi thì  lại là sai lầm. Khi xây dựng lý luận giá trị, trước hết ông giải quyết vấn đề   “Thế  nào là   thước đo thực sự của giá trị trao đổi”. Ông cho rằng trao đổi hàng hóa chẳng qua là  trao đổi lượng giá trị  lao động thể  hiện trong hàng hóa đó. Vì thế, giá trị  trao đổi  của hàng hóa là do lao động quyết định. Điều đó là hoàn toàn tự  nhiên. Lao động là   thước đo thực sự để xác định giá trị trao đổi của mọi loại hàng hóa. Việc xác nhận  lao động quyết định giá trị của hàng hóa là công lao và thành tích khoa học của ông.   Nhưng ông không hiểu được tính chất xã hội của loại lao động này. Vì thế, khi đi  sâu tìm hiểu thêm xem là lao động gì quyết định giá trị  của hàng hóa, lao động xác  định giá trị của hàng hóa như thế nào thì ông rơi vào sự hỗn loạn. Một mặt ông cho   rằng lao động quyết định giá trị  của hàng hóa là lao động tiêu hao để  sản xuất ra   hàng hóa. Lượng giá trị  của hàng hóa tỷ lệ thuận với lượng thời gian lao động hao   phí trong sản xuất. Đồng thời ông còn nghiên cứu sự  phân biệt giữa lao động đơn giản và lao  động phức tạp, ông cho rằng trong cùng một đơn vị thời gian, lao động phức tạp có  thể  tạo ra giá trị  nhiều hơn là lao động đơn giản. Mặc khác ông lại giải thích lao   động là sự hi sinh, “yên vui, tự do và hạnh phúc”. Đồng thời ông cho rằng, lao động  quyết định giá trị  hàng hóa là lao động mua được hoặc có thể  chi phối được hàng   hàng hóa trong trao đổi. Như  vậy đã rơi vào suy luận lẫn quẫn dùng giá trị  quyết  định giá trị. Điều này hiển nhiên là sai lầm. Ông đã lẫn lộn vấn đề  giá trị  đã được   quyết định như thế nào trong sản xuất và giá trị đã biểu hiện như thế nào trong trao   đổi. Khi giải đáp vấn đề  “giá cả  thật”, tức là giá trị  do cái gì tạo nên, ông ý thức   được rằng trong xã hội tư bản chủ nghĩa, lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa  có khối lượng ngang nhau. Nhưng do chỗ ông chưa phân biệt được lao động và sức   lao động, vì vậy ông không thể giải thích lao động (mà tư bản mua được trong điều  kiện trao đổi ngang giá trên cơ sở lý luận giá trị lao động) làm thế nào có thể đẻ ra   lợi nhuận. Thế là đã xa rời lý luận giá trị  lao động, ông khẳng định rằng, quy luật  giá trị chỉ thích hợp với “xã hội mông muội thời kỳ đầu”, mà giá trị không thích hợp  với xã hội tư  bản chủ  nghĩa. Ông cho rằng trong xã hội tư  bản chủ  nghĩa, giá trị  hàng hóa không còn quyết định bởi lượng lao động hao phí trong sản xuất vừa do   SVTH: Trần Văn Chương – MSSV: 6106603 Trang 7
  8.  Chuyên đề Mác – Lênin 2                                                             GVHD: ThS Ngô Đ   ức Hồng  lượng lao động mua được quyết định. Lượng lao động mua được có thể  phân tích   thành ba loại thu nhập là tiền lương, lợi nhụận và địa tô. Ngược lại cũng có thể nói   lượng lao động mua được là do ba loại thu nhập ­ tiền lương, lợi nhuận và địa tô  tạo thành. Như vậy trên thực tế đã chuyển giá trị là do lao động quyết định sang giá  trị quýêt định bởi ba loại thu nhập. Vì vậy, ông nói “tiền lương, lợi nhuận và địa tô   là ba nguồn gốc cơ bản của mọi thu nhập và mọi giá trị có thể trao đổi”. Quan điểm  này của ông được các nhà kinh tế học tư sản sau đó phát triển thành lý luận về chi   phí sản xuất. Ông cho rằng giá trị  hàng hóa được chia thành ba loại thu nhập là sai lầm. Ở  đây ông lẫn lộn giá trị hàng hóa với giá trị sáng tạo mới của lao động. Vấn đề thứ ba trong lý luận giá trị của ông là nghiên cứu quy luật giá trị và tác   dụng của nó. Ông đã phân biệt giá cả thị trường và giá cả tự nhiên. Giá cả tự nhiên  là chỉ  giá cả  cấu tạo nên theo mức tự  nhiên, tức là tiền lương, lợi nhuận và địa tô   chi trả theo mức bình quân. Giá cả thực tế là chỉ giá cả sản xuất thống nhất với giá  trị. Giá cả thị trường do sự thay đổi quan hệ cung cầu của hàng hóa, nên có lúc cao  hơn có lúc thấp hơn giá cả  tự  nhiên, nhưng do tự  do cạnh tranh, giá cả  thị  trường  thường có xu thế  tự  nhiên nhất trí với giá cả  tự  nhiên. Có thể  thấy rằng, không  những ông coi giá cả  dao động xoay quanh giá trị  là một hiện tượng có tính quy   luật, mà còn chứng minh rõ tác dụng điều tiết của quy luật giá trị đối với sản xuất   hàng hoá. Nhưng do chỗ không hiểu được mối liên hệ nội tại giữa giá trị  và giá cả,   ông không giải thích được sự  xa rời giá cả  khỏi giá trị  chính là hình thức tác dụng  của quy luật giá trị. Nguyên tắc của trao đổi hàng hóa là ngang giá: Hai hàng hóa đựơc trao đổi  ngang bằng nhau vì số  lao động đã chi phí để  sản xuất ra chúng là ngang nhau.  Người sản xấut hàng hóa này mua hàng hóa khác, nghĩa là, lao động hao phí của anh  ta đã ngang bằng với hao phí lao động của ngừơi bán. Ông cho rằng, trong xã hội   trước chủ nghĩa tư bản thì toàn bộ giá trị do người lao động tiêu dùng hết. Nó bằng  tiền lương của người lao động. Nhự  vậy, giá trị  do lao động tạo ra chỉ  đúng trong   nền kinh tế hàng hóa giản đơn. SVTH: Trần Văn Chương – MSSV: 6106603 Trang 8
  9.  Chuyên đề Mác – Lênin 2                                                             GVHD: ThS Ngô Đ   ức Hồng  A. Smith cho rằng, trong chủ  nghĩa tư  bản, quy luật giá trị  đã bị  vi phạm,  nguyên tắc ngang giá đã không được tuân thủ giữa người công nhân và nhà tư bản .   Ông thấy rằng nhà tư bản chỉ trả cho người công nhân một phần giá trị, phần khác  của giá trị  được nhà tư  bản giữ  lại với tư  cách là lợi nhuận. Từ  đó, ông cho rằng,  trong chủ  nghĩa tư  bản, giá trị  đuợc quyết định bởi thu nhập, nó bao gồm tiền   lương, lợi nhuận và địa tô. “Tiền lương, lợi nhuận, địa tô là ba nguồn gốc đầu tiên   của mọi thu nhập cũng như là của bất kỳ giá trị trao đổi nào”. Đây là giáo điều của  A.Smith đã lẫn lộn giữa sự  hình thành giá trị  và phân phối giá trị. Ông đã xem  thường yếu tố tư liệu sản xuất trong việc hình thành giá trị (chỉ có V + M mà thiếu   C). Ông đã biến các bộ phận thu nhập từ giá trị nguồn gốc của giá trị. Như vậy, ông  đã xa rời lý luận giá trị­lao động. Tóm lại, do hạn chế về lập trường, quan điểm và phương pháp, nên lý luận   giá trị  của ông vừa có yếu tố  khoa học vừa có yếu tố  tầm thường, đồng thời trên   thực tế  ông đã rơi vào tình trạng hỗn loạn. Nhưng lý luận giá trị  của ông không   không kể  là chiều sâu hay chiều rộng đều vượt các bậc tiền bối của ông, nhất là   ông lại là người đầu tiên trình bày một cách có hệ  thống lý luận giá trị  lao động,   đồng thời về cơ bản ông đã kiên trì dùng lý luận giá trị lao động để nghiên cứu vấn  đề lợi nhuận và địa tô. Đó là đóng góp chủ yếu của ông về mặt khoa học. 1.2.3. Lý luận giá trị lao động của David Ricardo. 1.2.3.1. Khái lược về tiểu sử và các tác phẩm của David Ricardo. David Ricardo (1772 – 1823) sinh ra trong một gia đình giàu có tại nước Anh.   Bố  là người Hà Lan di cư  sang Anh, một nhà kinh doanh chứng khoán ở  Châu Âu.  David Ricardo là một nhà khoa học, một nhà kinh doanh chứng  khoán, một nhà quý tộc, một nhà hoạt động chính trị. Năm   1784,   ông  được   gởi   sang  học   ở   Amstecdam.   Học   xong trung học ông đã tự  ý lấy vợ và phải sống tự lập từ  năm   21 tuổi. Năm 1797, ông tiếp tục học tập và nghiên cứu các môn  khoa học cơ  bản  mà sở  thích của ông là kinh tế  chính trị. Từ  năm 1807, ông chuyên nghiên cứu về kinh tế chính trị và công bố nhiều tác phẩm về  tiền tệ. Tác phẩm Giá cả cao của thoi nén là bằng chứng của việc giảm giá ngân   SVTH: Trần Văn Chương – MSSV: 6106603 Trang 9
  10.  Chuyên đề Mác – Lênin 2                                                             GVHD: ThS Ngô Đ   ức Hồng  phiếu công bố  năm 1811, với quan điểm “Giá trị  tiền tệ  quyết định số  lượng tiền   tệ” đã gây chấn động trong khoa học cũng như các tầng lớp tư sản. Năm 1815, ông   xuất bản cuốn Bàn về giá của lúa mì. Ông đã luận chứng sự cần thiết phải bãi bỏ  thuế quan về lúa mì và lên án các đạo luật bảo vệ lợi ích người thu tô. Năm 1817, ông xuất bản tác phẩm Những nguyên lý khoa kinh tế chính trị hay  Những nguyên lý cơ bản của chính sách kinh tế và thuế khóa.  Tác phẩm này đã làm  ông nổi tiếng trên toàn thế giới. 1.2.3.2. Lý thuyết giá trị lao động của David Ricardo. Ông là người kế thừa và phát triển lý luận của Adam Smith, đã đứng vững trên   quan điểm giá trị lao động: ­ Phân biệt giá trị  và của cải (giá trị  sử  dụng), giá trị  khác xa của cải, giá trị  không phụ thuộc có nhiều hay ít của cải mà phụ thuộc vào điều kiện sản xuất khó  khăn hay dễ dàng. Tức là ông đã phân biệt hai thuộc tính của hàng hóa là giá trị  sử  dụng và giá trị  trao đổi. Ông cho rằng giá trị  sử  dụng rất cần thiết nhưng không   quyết định giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi do lao động quyết định. ­ Đã gạt bỏ sai lầm của A .Smith về giá trị và cho rằng giá trị hàng hóa do lao   động hao phí quyết định không chỉ dungd trong kinht  ế hàng hóa giản đơn, mà còn  đúng trong nền kinh tế hàng hóa phát triển (kinh tế hàng hóa TBCN). D. Ricardo cho rằng giá trị hàng hóa được phân chia thành các nguồn thu nhập   nói trên: David Ricardo khẳng định giá trị không chỉ do lao động trực tiếp (lao động   sống) mà còn do lao động trước đó nữa tạo ra,như  máy móc,nhà xưởng, công trình   sản xuất. Ông đã biết đến một phần trong giá trị của lao động quá khứ trong giá trị  hàng hóa.  Ông nghiên cứu  ảnh hưởng của năng suất lao động đến giá trị  hàng hóa. Cho   rằng khi năng suất lao động trong một phân xưởng tăng lên,thì khối lượng sản   phẩm làm ra tăng lên,nhưng giá trị của một đơn vị sản phẩm lại giảm xuống. Ông nghiên cứu mối quan hệ giữa giá trị  với giá trị  trao đổi và giá cả.Đây là   một trong những vấn đề  phức tạp nhất của kinh tế  chính trị  học đương thời. Cho  rằng giá cả hàng hóa là giá trị trao đổi của nó được biểu hiện bằng tiền, còn giá trị  SVTH: Trần Văn Chương – MSSV: 6106603 Trang 10
  11.  Chuyên đề Mác – Lênin 2                                                             GVHD: ThS Ngô Đ   ức Hồng  được đo bằng số lượng lao động hao phí để sản xuất  ra hàng hóa. Ông đã phân biệt   được giá trị với giá trị trao đổi. Những hạn chế trong lý luận giá trị ­ lao động của David Ricardo: ­ Không thấy được mâu thuẫn giữa giá trị  và giá trị  hàng hóa,chưa làm rõ mặt   vật chất giá trị do chưa biết đến tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa,  chưa chỉ ra được giá trị là biểu hiện quan hệ xã hội của những người sản xuất hàng  hóa. ­ Mặc dù đã nêu ra khái niệm thời gian lao động xã hội cần thiết, lao động  phức tạp và lao động giản đơn, nhưng chưa xác định đúng nội hàm của các phạm   trù này. Tuy đã quan tâm đến  ảnh hưởng của năng suất lao động tới lượng giá trị  hàng hóa, nhưng chưa nghiên cứu đầy đủ mặt lượng giá trị, chưa làm rõ các nhân tố  ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa . ­ Chưa nghiên cứu hệ  thống các hình thái giá trị, nên chưa thấy được nguồn  gốc và bản chất của tiền. ­ Lý luận của David Ricardo còn mang tính siêu hình, phi lịch sử cho rằng giá   trị là phạm trù vĩnh viễn, là thuộc tính của mọi vật. 1.2.4. Đánh giá chung. Nhìn chung, lý luận giá trị của trường phái cổ điển đã có những đóng góp đáng   kể, tạo tiền đề cho lý luận của Các Mác. Tuy nhiên, học không thể giải quyết triệt   để  những vấn đề  của lý luận giá trị  lao động như: Giá trị  sử  dụng và giá trị  của  hàng hóa được tạo ra như  thế  nào, chưa thấy được vai trò của máy móc, thiết bị  trong việc hinh thành giá trị do đó chưa phân tích đủ lược giá trị của hàng hóa. Chính   điều đó đã làm cho trường phái kinh tế chính trị cổ điển Anh không thể tiến sâu tới  chân lý khoa học, chưa khái quát thành những quy luật kinh tế chi phối sự vận động  của nền sản xuất hàng hóa. 1.2.5. Những tiến bộ  trong lý luận giá trị  lao động của David Ricardo so với   Adam Smith. ­ Chiếm vị trí trung tâm trong học thuyết kinh tế của D.Ricardo là lý luận giá   trị ­lao động. Ông đã kế thừa và phát triển tư tưởng của A.Smith. Ông gạt bỏ những  sai lầm và mâu thuẫn trong lý luận của A.Smith. SVTH: Trần Văn Chương – MSSV: 6106603 Trang 11
  12.  Chuyên đề Mác – Lênin 2                                                             GVHD: ThS Ngô Đ   ức Hồng  ­ Ông cho rằng, “Giá trị  sử dụng không là thước đo của giá trị trao đổi, mặc   dù nó rất cần thiết cho giá trị trao đổi. Nếu đối tương không cần thiết cho chúng ta   nó sẽ mất đi giá trị trao đổi”. Như vậy, ông đã thấy được sự  khác biệt giữa giá trị  sử dụng và giá trị trao đổi. Giá trị sử dụng không quyết định giá trị trao đổi. Trên thị  trương số lượng hàng hóa dựa vào tính chất khan hiếm của mình để có giá trị cao là  rất ít. Chủ yếu giá trị hàng hóa là do lao động của người sản xuất quyết định. ­ Ông  ủng hộ  lý luận giá trị  lao động của A.Smith. Ông cho rằng, trong định   nghĩa về giá trị  của A.Smith thì định nghĩa “giá trị do hao phí lao động quyết định”  là đúng và định nghĩa còn lại là sai. Đây là một tiến bộ của ông so với A.Smith. Với   khẳng định này thì K.Marx gần với D.Ricardo nhất. ­ Về  cơ  cấu giá trị, ông thấy rằng, giá trị  không chỉ  được quyết định bởi lao   động sống mà còn phải bao gồm lao động đã chi phí để tạo ra công cụ  lao động…  Ông có đề cập đến thời gian lao động xã hội cần thiết nhưng lại cho rằng lao động   hao phí trong điều kiện xấu nhất là lao động xã hội cần thiết. ­ Về giá cả, ông phân biệt được giá cả thị trường và giá cả tự nhiên. Giá cả tự  nhiên phản ánh giá trị của hàng hóa còn giá cả thị trường chịu ảnh hưởng của cung  cầu. Việc tăng giá đột biến ông giải thích do cầu tăng cao và giá trị  tiền tệ  giảm  xuống. ­ Về  tiền tệ, ông xem tiền là hàng hóa có giá trị  bên trong. Giá trị  của tiền   được quyết định bởi lao động sản xuất ra nó. Tiền là hàng hóa đặc biệt, nó là thước  đo giá trị của các hàng hóa khác và là phương tiện lưu thông. Ông nêu lên khái niệm   giá cả là thước đo bằng tiền của giá trị. ­ Khi phân tích lưu thông tiền tệ, ông cho rằng số  lượng tiền giấy phải phù  hợp với giá trị hàng hóa nằm trong lưu thông. Tiền giấy không có giá trị nội tại của  nó. Giá trị của tiền giấy được quyết định bởi giá tị của số vàng mà chúng đại biểu. Tóm lại, so với A.Smith thì D.Ricardo có những tiến bộ  nhất định trong phân  tích lí luận giá trị lao động. Ông được đánh giá là nhà lý luận giá trị lao động. Chương 2: LÝ LUẬN GIÁ TRỊ LAO ĐỘNG CỦA CÁC MÁC (KARL MARX) SVTH: Trần Văn Chương – MSSV: 6106603 Trang 12
  13.  Chuyên đề Mác – Lênin 2                                                             GVHD: ThS Ngô Đ   ức Hồng  2.1. Khái quát chung về tiểu sử và tác phẩm của Các Mác. Các Mác (1818 – 1883) là nhà kinh tế học người Đức. Ông là người thầy của  giai cấp vô sản quốc tế và của nhân dân lao động. Năm 1836, ông đỗ khoa Luật của   Đại học BecLin. Năm 1841, ông nhận học vị Tiến sĩ, năm 1842 oonh bắt đầu nghiên  cứu khoa học và hoạt động cách mạng. Cuốn sách nổi tiếng ông viết và được cả  thế giới biết đến là “Bộ Tư bản”. 2.2. Lý luận giá trị lao động của Các Mác. 2.2.1. C. Mác đã phân tích đầy đủ hai thuộc tính của hàng hóa. Giá trị sử dụng:  Mỗi hàng hóa đều có một hoặc một số công dụng nhất định có thể  thỏa mãn  nhu cầu nào đó của con người. Chính những công dụng này làm cho hàng hóa có giá   trị sử dụng. Như vậy, giá trị sử dụng chính là công cụ của hàng hóa đó để thỏa mãn  nhu  cầu của con người. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là giá trị  sử dụng mang   tính chủ quan phụ thuộc vào những thuộc tính tự nhiên cấu tạo nên hàng hóa. Đồng  thời, do giá trị  sử  dụng phụ  thuộc vào thuộc tính tự  nhiên nên nó là phạm trù vĩnh  viễn. Mỗi hàng hóa có công dụng khác nhau. Do đó, xã hội sản xuất được càng   nhiều loại hàng hóa thì càng có nhiều giá trị  sử dụng. Do hàng hóa là một phạm trù mang tính xã hội nên giá trị  sử  dụng của hàng  hóa cũng mang tính xã hội vì nó nhằm phục vụ cho nhu cầu của xã hội chứ  không   phải là nhu cầu của người sản xuất. Giá trị: Khi tiến hành trao đổi những giá trị  sử  dụng với nhau thì hàng hóa có giá trị  trao đổi. Giá trị  trao đổi trước hết nó biểu hiện thành những tỷ  lệ  trao đổi giữa   những giá trị  sử  dụng với nhau. Một hàng hóa có thể  trao đổi với nhiều loại hàng  hóa khác nhau nên có giá trị trao đổi khác nhau. Giá trị trao đổi không thể do giá trị sử dụng quyết định bởi vì mỗi hàng hóa có  giá trị trao đổi khác nhau. Nhưng sựu khác nhau về giá trị sử dụng là điều kiện cần   để trao đổi vì không ai lại trao đổi những giá trị giống nhau. SVTH: Trần Văn Chương – MSSV: 6106603 Trang 13
  14.  Chuyên đề Mác – Lênin 2                                                             GVHD: ThS Ngô Đ   ức Hồng  Giá trị  là biểu hiện của lao động. Con người lấy giá trị  để  trao đổi hàng hóa,  thực tế là trao đổi lao động của mình đã ẩn chứa bên trong những hàng hóa đó. Cho  nên, giá trị hàng hóa còn thể hiện mối quan hệ mà những người sản xuất hàng hóa   trao đổi với nhau, đây thực chất là giá trị. Giá trị sử dụng và giá trị vừa mâu thuẫn vừa thống nhất với nhau. Mặt thống nhất thể hiện ở chỗ: Hai thuộc tính này đồng thời tồn tại trong một  hàng hóa tức là  một vật có dầy đủ hai thuộc tính này mới trở thành hàng hóa. Mâu thuẫn giữa hai mặt thuộc tính thể hiện ở chỗ: ­ Với tư  cách là giá trị  sử  dụng thì các hàng hóa không đồng nhất về  chất.  Ngược lại, với tư cách là một giá trị thì lại đồng nhất với nhau, đều là “những cục   kết tinh đồng nhất của lao động mà thôi”. ­ Cái mà nhà sản xuất quan tâm là gíá trị  còn cái thực sự  có quan trọng với  người mua là giá trị sử dụng. Hàng hóa có hai thuộc tính không phải là do hai quá trình lao động hay hai loại   lao động tạo ra mà nó chỉ là kết quả của quá trình lao động có tính hai mặt. 2.2.2. Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa. C.Mác đã phát hiện ra tính hai mặt của  lao động sản xuất hàng hóa là lao động  cụ thể và lao động trừu tượng. Nhờ phát hiện này mà C.Mac đã: ­ Chỉ rõ lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng còn lao động trừu tượng tạo ra  giá trị hàng hóa. ­ Phát hiện ra mâu thuẫn giá trị  sử  dụng và giá trị  hàng hóa và mâu thuẫn cơ  bản của nền sản xuất hàng hóa. ­ Khẳng định khi phân tích các quy luật chi phối nền sản xuất hàng hóa tư bản   chủ nghĩa phải bắt đầu từ việc phân tích hàng hóa và coi hàng hóa là tế bào cấu tạo  nên phương thức sản xuất này. K.Marx cho rằng: “Trong những xã hội do phương   thức sản xuất tư bản chủ nghĩa chi phối thì của cải biểu hiện ra là một đống hàng   hóa khổng lồ còn từng hàng hóa một thì biểu thị ra hình thái nguyên tố của cải ấy”. ­ Tạo tiền đề phát hiện ra hàng hóa sức lao động, đưa sức lao động trở lại thế  giới sản xuất hàng hóa với hai thuộc tính đặc biệt, trên cơ sở đó phát hiện ra tư bản   SVTH: Trần Văn Chương – MSSV: 6106603 Trang 14
  15.  Chuyên đề Mác – Lênin 2                                                             GVHD: ThS Ngô Đ   ức Hồng  bất biến và tư  bản khả  biến làm cơ  sở  để  xây dựng thành công học thuyết giá trị  thặng dư –hòn đá tảng của chủ nghĩa Marx sau này. ­ Nhờ  phát hiện ra  tính hai mặt của  lao  động sản xuất hàng hóa, K.Marx   đãvượt qua D.Ricardo trong việc phân tích một cách khoa học giá trị  của hàng hóa.  Theo đó là lượng thời gian lao động xã hôi cần thiết kết tinh, nó được đo bằng  cường độ lao động trung bình, trình độ  thành thạo trung bình trong  điều kiện bình  thường của xã hội chứ không phải trong điều kiện lao động xấu như D.Ricardo.  ­ K.Marx đã phân biệt được rõ giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị  hàng hóa và ông đã trình bày một cách khoa học bốn hình thái biểu hiện của giá trị  trao đổi trong lịch sử sản xuất và trao đổi hàng hóa là hình thái giản đơn ngẫu nhiên,   hình thái mở rộng, hình thái chung và cuối cùng cố định ở hình thái tiền tệ, với năm  chức năng cơ bản của nó. ­ Dựa   vào tính chất của giá trị  hàng hóa là lao động kết tinh, lao động trừu  tượng, lao động xã hội  kết tinh vào lượng giá tri hàng hóa là lượng thời gian lao  động cần thiết kết tinh, K.Marx đã trình bày một cách  khoa học quy luật giá trị, quy   luật cơ bản của sản xuất và lưu thông hàng hóa từ  đó hoàn chỉnh lí luận giá trị­lao  động.    Tóm lại, vượt qua các cửa ải lí luận trên K.Marx đã hệ thống và kế thừa các   nhân tố khoa học trong lí luận giá trị của các bậc tiền bối mà trực tiếp là D.Ricardo.  Ông đã khảo sát và phân tích hàng hóa với tư  cách là tế  bào kinh tế  của phương  thức sản xuất tư  bản chủ  nghĩa, trong đó chứa đựng mối quan hệ  cơ  bản của   phương thức này trên các mặt bản chất đại lượng, hình thái biểu hiện và quy luật  tác động để hình thành học thuyết giá cả của mình. 2.2.3. Lượng giá trị hàng hóa. Do không tìm được tính chất hai mặt của hàng hóa nên các nhà kinh tế chính trị  cổ điển Anh không thể phân tích một cách đầy đủ, khoa học lượng giá trị  của hàng  hóa. Trái lại, nhờ vào sự phát hiện tính chất hai mặt của hàng hóa  mà Mác đã phân   tích rỗ bằng cách nào hình thành nên giá trị của hàng hóa. Xét về  mặt chất, giá trị  hàng hóa là do lao động trừu tượng của người sản   xuất hàng hóa kết tinh vào bên trong nó. Do vậy, về lượng giá trị hàng hóa được đo  SVTH: Trần Văn Chương – MSSV: 6106603 Trang 15
  16.  Chuyên đề Mác – Lênin 2                                                             GVHD: ThS Ngô Đ   ức Hồng  bằng lao động tiêu hao để tạo ra hàng hóa quyết định. Lượng lao động tiêu hao này   được tính bằng lượng thời gian lao động xã hội cần thiết. Thời gian lao động xã hội cần thiết là “là thời gian lao động đòi hỏi để  sản  xuất một giá trị  sử  dụng nào đó với trình độ  thành thạo lao động và cường độ  lao   động trung bình của xã hội trong điều kiện sản xuất bình thường của xã hội”. Lượng giá trị của hàng hóa còn phụ thuộc vào mức độc phức tạp của lao động   cụ thể. Nếu xét mặt này, lao động cụ thể được chia thành hai loại cụ thể: lao động   giản đơn và lao động phức tạp. 2.2.4. Giá cả thị trường và giá cả sản xuất. Giá cả  thị  trường chính là giá trị   xã hội của hàng hóa, là giá trị  bình quan củ  hàng hóa được sản xuất ra trong một khu vực nhất định. Trong nền sản xuất hàng   hóa, sựu cạnh tranh giữa những người sản xuất trong cùng một ngành không ngừng   diễn ra. Chính sự cạnh tranh này dẫn đến sự hình thành thị trường của hàng hóa. Khi nền sản xuất hàng hóa phát triển đến một giai đoạn nhất định, sự  cạnh   tranh không những chỉ  diễn ra trong nội bộ  ngành mà còn diễn ra giữa các ngành.   Tình hình đó làm cho giá trị hàng hóa chuyển hóa thành giá cả sản xuất. Khi hình thành tỷ  suất lợi nhuận bình quân   thì giá trị  hàng hóa chuyển hóa  thành giá cả sản xuất. Giá cả sản xuất = k + p’ Khi hình thành giá cả  sản xuất thì giá cả  thị  trường của hàng hóa được bán  dựa trên cơ sở là giá cả sản xuất. 2.2.5. Những kế thừa, phát triển và phê phán  về lý luận giá trị của cá Mác đối   với William Petty, Adam Smith và David Ricardo. 2.2.5.1.Những kế thừa và phát triển của Karl Marx: ­ Phân biệt hai thuộc tính của hàng hóa là giá trị sử dụng và giá trị, khẳng định  hai thuộc tính này không chỉ đơn thuần có quan hệ với nhau mà đó là một quan hệ  biện chứng vừa thống nhất vừa mâu thuẫn nhau. ­ Đứng vững trên quan điểm của các nhà cổ  điển về  nguoond gốc của giá trị  hàng hóa là lao động và trên cơ sở phát hiện tích chất hai mặt của lao động sản xuất   SVTH: Trần Văn Chương – MSSV: 6106603 Trang 16
  17.  Chuyên đề Mác – Lênin 2                                                             GVHD: ThS Ngô Đ   ức Hồng  hàng hóa. K.Marx đã chỉ  ra giá trị  hàng hóa do lao động trừu tượng của người sản   xuất hàng hóa quyết định. ­ Phát triển quan điểm lượng giá trị  hàng hóa và các nhân tố   ảnh hưởng đến  lượng giá trị hàng hóa. ­ Phát triển nhận thức về hình thức biểu hiện của giá trị hàng hóa, xác định các  hình thái giá trị, lịch sử của nó, sự ra đời và bản chất của tiền. ­ Phát triển quan điểm giá trị hàng hóa, chứng minh quy luật giá trị là quy luật  kinh tế cơ bản của sản xuất và lưu thông hàng hóa. 2.2.5.2. Những phê phán của Karl Marx: ­ Học thuyết giá trị­lao động của A.Smith còn trộn lẫn hai yếu tố khoa học và   tầm thường, không nhất quán trong khái niệm về  giá trị  hàng hóa, lẫn lộn trong   phân phối giá trị  và cấu thành giá trị, đã để  cho hai yếu tố  đó khoa học và tầm   thường sống yên ổn bên nhau. ­ Học thuyết của D.Ricardo mặc dù đã đứng vững trên cơ  sở giá trị  lao động,   nhưng ông vẫn không giải quyết triệt để lý luận này. SVTH: Trần Văn Chương – MSSV: 6106603 Trang 17
  18.  Chuyên đề Mác – Lênin 2                                                             GVHD: ThS Ngô Đ   ức Hồng  KẾT LUẬN Kinh tế chính trị tư sản cố điển Anh ra đời vào cuối thế kỉ XVII, tồn tại, phát   triển   cho   đến   giữa   thế   kỉ   XIX   với   các   tác   giả   chủ   yếu:   W.Petty,   A.Smith   và  D.Ricardo. Lần đầu tiên các nhà kinh tế này xây dựng hệ thống phạm trù, quy luật  của kinh tế thị trường, trong đó có học thuyết giá trịlao động với những ý nghĩa to   lớn của nó. Bên cạnh những thành tựu mà những nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh   đã đóng góp thì cũng có rất nhiều những hạn chế to lớn cần phải xóa bỏ. Kế thừa   những tư  tưởng từ  William Petty cho đến David Ricardo, C. Mác đã lần lượt giải  đáp được những vấn đề còn vướng mắc trong thời kỳ trước đó. Đây là tiền đề phát  triển mạnh mẽ cho kinh tế chính trị sau này. Qua đó, Karl Marx đã hệ thống, kế thừa, chọn lọc các nhân tố khoa học trong   lí luận giá trị  của các bậc tiền bối mà trực tiếp là từ  D.Ricardo để  hình thành học  thuyết giá trị của mình. Công trình nghiên cứu của những nhà kinh tế  chính trị  học nói trên đã để  lại  cho đời sau những giá trị to lớn, tuy còn có những hạn chế riêng nhưng đó là các học   thuyết kinh tế mà tất cả những ai muốn trở thành một nhà kinh tế cần phải học tập  và nghiên cứu. SVTH: Trần Văn Chương – MSSV: 6106603 Trang 18
  19.  Chuyên đề Mác – Lênin 2                                                             GVHD: ThS Ngô Đ   ức Hồng  TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ giáo dục và đào tạo (2010) “Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ   nghĩa Mác – LêNin” Nxb Chính trị quốc gia. 2. GS. PTS Chu Văn Cấp  (1997) “Lịch sử  các học thuyết kinh tế” (Tập bài  giảng) Nxb Chính trị quốc gia. 3. Ths. Ngô Đức Hồng, Ths Phan Văn Phúc (2009) “Giáo trình chuyên đề kinh   tế chính trị”, Tủ sách Đại học cần Thơ. 4. Ths. Ngô Đức Hồng, TS. Trần Văn Hiếu  (2005) “Giáo trình  Lịch sử  các   học thuyết kinh tế”, Tủ sách Đại học cần Thơ. 5. “Giáo trình kinh tế chính trị”, Nxb Giáo dục. SVTH: Trần Văn Chương – MSSV: 6106603 Trang 19
  20.  Chuyên đề Mác – Lênin 2                                                             GVHD: ThS Ngô Đ   ức Hồng  MỤC LỤC Trang LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................ 1 NỘI DUNG. ...............................................................................................................2 Chương 1: LÝ LUẬN GIÁ TRỊ LAO ĐỘNG CỦA CÁC NHÀ KINH TẾ CHÍNH TRỊ  TƯ SẢN CỔ ĐIỂN ANH..........................................................................................2 1.1. Khái quát sơ  lược về  lý luận giá trị  lao động của các nhà kinh tế  chính trị tư sản cổ điển Anh...................................................................................2 1.2. Lý luận giá trị lao động của các nhà kinh tế chính trị  tư sản cổ điển Anh..................................................................................................2 1.2.1. Lý luận giá trị lao động của William Petty..............................................2 1.2.1.1. Khái lược về tiểu sử và các tác phẩm của William Petty.....................2 1.2.1.2. Lý luận giá trị lao động của William Petty............................................3 1.2.2. Lý luận giá trị lao động của Adam Smith.................................................4 1.2.2.1. Khái lược về tiểu sử và các tác phẩm của Adam Smith.......................4 SVTH: Trần Văn Chương – MSSV: 6106603 Trang 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2