Về cuộc biểu tình chống thuế ở Nghệ Tĩnh năm 1908

Phong trào chống sưu thuế ở miền Trung năm 1908 nổi lên như một sự kiện tiêu

biểu của phong trào yêu nước chống Pháp ở Việt Nam trong những năm đầu thế

kỷ XX. Đây là một cuộc đấu tranh chính trị bất bạo động có quy mô lớn trước đó

chưa từng thấy ở Việt Nam. Có lẽ vì thế mà trong nhiều năm, các nhà nghiên cứu

đã dành nhiều thời gian và tâm huyết viết về phong trào dưới nhiều góc độ khác

nhau. Tuy nhiên, các sự kiện, nhân vật tham gia phong trào, mối liên hệ trong hoạt

động chống thuế ở Nghệ Tĩnh đối với Bắc Trung Kỳ và Trung Trung Kỳ còn mờ

nhạt, đặc biệt ảnh hưởng của phong trào chống thuế năm 1908 ở Nghệ Tĩnh đến

các phong trào đấu tranh giữa "phe hộ" với "phe hào" ở những năm tiếp theo chư

Phong trào chống sưu thuế ở miền Trung năm 1908 nổi lên như một sự kiện tiêu

biểu của phong trào yêu nước chống Pháp ở Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ

XX. Đây là một cuộc đấu tranh chính trị bất bạo động có quy mô lớn trước đó chưa

từng thấy ở Việt Nam. Có lẽ vì thế mà trong nhiều năm, các nhà nghiên cứu đã dành

nhiều thời gian và tâm huyết viết về phong trào dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy

nhiên, các sự kiện, nhân vật tham gia phong trào, mối liên hệ trong hoạt động chống

thuế ở Nghệ Tĩnh đối với Bắc Trung Kỳ và Trung Trung Kỳ còn mờ nhạt, đặc biệt

ảnh hưởng của phong trào chống thuế năm 1908 ở Nghệ Tĩnh đến các phong trào đấu

tranh giữa "phe hộ" với "phe hào" ở những năm tiếp theo chưa được đề cập tới. Bài

viết này nhằm góp phần làm rõ thêm một số vấn đề liên quan đến sự kiện này.

1. Vùng đất Nghệ Tĩnh với việc tổ chức và xây dựng phong trào chống thuế

Nghệ Tĩnh là tỉnh thuộc Bắc Trung Kỳ. Theo cách phân chia của người Pháp,

Bắc Trung Kỳ gồm các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, trong đó vùng An-

Tĩnh được coi là một xứ bởi có nhiều nét tương đồng về địa lý tự nhiên - xã hội,

nơi được xem là "chìa khóa" để mở cánh cửa miền Trung Đông Dương. Từ xưa,

Nghệ Tĩnh được coi là chỗ "làm giới hạn cho hai miền Nam - Bắc, là nơi hiểm yếu như thành đồng, ao nóng của nước và là then khóa của các triều đại" (1). Đó là lý

do vì sao các phong trào yêu nước chống Pháp ở đây thường diễn ra sớm, kịp thời

và có mối quan hệ cũng như chịu ảnh hưởng không nhỏ từ các tỉnh Bắc Kỳ và

Trung Kỳ.

Khi xác lập quyền thống trị trên toàn cõi Việt Nam, thực dân Pháp chia Việt

Nam thành ba kỳ với ba chế độ chính trị khác nhau. Từ đây, vùng đất Nghệ Tĩnh

phải chịu sự thống trị của thực dân Pháp và phong kiến Nam triều. Chính sách cai

trị và bóc lột của thực dân phong kiến làm cho tình hình kinh tế các tỉnh miền

Trung rơi vào tình cảnh điêu đứng, nhân dân đói khổ trước sưu cao thuế nặng.

Cuối tháng 2/1908, nhiều khẩu hiệu mang nội dung “không nộp thuế cho Pháp”

được tuyên truyền phổ biến rộng rãi trong quần chúng nhân dân. Từ đó, hình thành

một phong trào rộng lớn từ Quảng Nam, Quảng Ngãi đến Bình Thuận, lan ra ngoài

vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh… Thực dân Pháp đã tìm mọi cách đàn áp nhưng phong

trào vẫn dâng lên không ngừng.

Nghệ Tĩnh được xem là nơi có cuộc vận động hưởng ứng kháng sưu thuế, xin

xâu cuối cùng ở phía Bắc. Tuy nhiên, phong trào ở nơi đây diễn ra không kém

phần quyết liệt, sôi nổi. Song song với mục tiêu kinh tế là sự kết hợp cuộc vận

động nhân dân bài trừ hủ tục, thực hiện lối sống mới. Cụ thể, cuộc vận động dân

chúng mặc áo cộc, cắt tóc ngắn, tổ chức biểu tình, xin giảm thuế đinh, thuế điền,

thuế

muối, thuế chợ…

Về lãnh đạo: Người đi đầu trong phong trào này là các sĩ phu. Họ từng là những

thành viên trung kiên trong phong trào Cần Vương, tham gia chống Pháp dưới

ngọn cờ “phò vua cứu nước”, họ ẩn náu chờ thời và hi vọng tiếp tục được chiến

đấu có hiệu quả hơn trong một tổ chức mới. Phan Bội Châu và các sĩ phu Nghệ

Tĩnh đã nghĩ tới việc lập nên một “tân Đảng”. Sau nhiều lần đàm đạo với các sĩ

phu tiến bộ trong và ngoài tỉnh cùng một số trí thức quan lại có tinh thần yêu nước

đương thời, Duy Tân hội được thành lập (5/1904). Trong số những thành viên tích

cực của Hội, những người ở Nghệ Tĩnh như: Nguyễn Hàm, Lê Võ, Đặng Tử Kính,

Đặng Thái Thân, Ngô Đức Kế… luôn quan tâm tới phong trào tại địa phương

mình.

Năm 1906, Nghệ Tĩnh bắt đầu hình thành các “hội tương tế”, tạo ra mối liên hệ

giữa quần chúng yêu nước với các tổ chức cơ sở của Duy Tân hội. Các tổ chức cơ

sở được hình thành dưới hình thức hoạt động kinh tế - văn hoá, tương trợ nhau vì

mục tiêu chung là cứu nước cứu dân.

Đi đầu trong phong trào này ở Nghệ Tĩnh là Lê Văn Quyên (tức Đội Quyên),

sinh ra trong gia đình sống bằng nghề thợ rèn tại làng Yên Phúc, tổng Yên Hồ, phủ

Đức Thọ (nay thuộc xã Đức Phúc - Đức Thọ - Hà Tĩnh). Sau thời gian tập hợp các

sĩ phu ở Nghệ Tĩnh, ông Quyên tham dự cuộc họp thành lập Duy Tân hội. Ông

còn là người tham gia tích cực trong việc thành lập quán Triêu Dương với các ông

Đặng Nguyên Cẩn, Ngô Đức Kế, Lê Văn Huân nhằm gây dựng tài chính cho Hội.

Đội Quyên vận động nhân dân khắp các phủ, huyện trong vùng Nghệ - Tĩnh

tham gia kịp

thời phong trào chống sưu thuế ở Nam - Ngãi.

Người lãnh đạo chủ chốt trong phong trào chống thuế ở Nghệ Tĩnh là Nguyễn

Hàng Chi, sinh năm 1884, ở thôn Đông Thượng, xã Ích Hậu, tổng Phù Lưu, huyện

Can Lộc (nay thuộc huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh), trong một gia đình Nho học.

Được anh trai là Nguyễn Hiệt Chi - một sĩ phu trong Nhóm sáng lập Công ty Liên

Thành và Trường Dục Thanh ở Phan Thiết (nơi Nguyễn Tất Thành đến dạy học

năm 1910-1911) - thường xuyên thông tin về cuộc vận động Duy Tân sôi nổi ở

Nam -Ngãi, tinh thần yêu nước cũng như tư duy cứu nước của ông được mở rộng

và thôi thúc mãnh liệt. Khi phong trào chống thuế ở Quãng Ngãi diễn ra, Nguyễn

Hàng Chi đã liên lạc với các sĩ phu trong vùng bàn kế hoạch cổ động nhân dân đứng lên đấu tranh (2).

Ngoài ra, phong trào chống thuế ở Nghệ Tĩnh còn có những nhân vật xuất sắc

như Lê Huân, Ngô Đức Kế (tổng Phù Lưu, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh), Đặng

Văn Bá (Thạch Hà - Hà Tĩnh), Trịnh Khắc Lập quê ở thôn Đông Hội, tổng Phan

Xá (nay là thôn Minh Khai, xã Xuân Thành, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh),

Nguyễn Danh Phương (Hương Khê, Hà Tĩnh), Chu Trạc (Yên Thành, Nghệ An) là

những người đi đầu trong cuộc vận động phong trào chống thuế ở địa phương

mình. Các ông tích cực vận động duy tân, mở rộng Triêu Dương thương quán ra

huyện Nghi Lộc, Quỳnh Lưu, Thanh Chương. Tìm cách liên lạc với các sĩ phu

trong ngoài tỉnh để mở rộng, liên kết phong trào nhằm chống chính sách thống trị

của thực dân Pháp và sự bóc lột của phong kiến tay sai, giành quyền lợi cho quần

chúng nhân dân.

Về lực lượng: Tham gia phong trào xin xâu, giảm thuế chủ yếu là nông dân.

Trước tiên là nông dân huyện Can Lộc (Hà Tĩnh), sau đó lan khắp phủ, huyện

trong tỉnh. Phong trào diễn ra mạnh mẽ và đông đảo nhất ở huyện Nghi Xuân,

Thạch Hà (Hà Tĩnh), huyện Thanh Chương, Hưng Nguyên, Quỳnh Lưu, Yên

Thành (Nghệ An). Phần lớn quần chúng tham gia cuộc đấu tranh vì không thể chịu

được cuộc sống khốn khổ bởi nạn sưu dịch, thuế muối, thuế chợ tăng lên bên cạnh

thuế đinh, thuế điền. Thêm vào đó là cảnh mất mùa xảy ra liên miên, đời sống

nhân dân ngày càng cơ cực, khốn khổ. Nông dân không có khả năng nộp thuế, một

số nhà giàu cũng mất đi quyền lợi nên họ cùng nhau tranh đấu.

Về hình thức đấu tranh: Lúc đầu hưởng ứng phong trào Duy Tân, cải cách xoá

bỏ lối sống cổ hủ, nhằm tiếp cận xã hội mới “hợp thời”, đó là sự kiện “cắt tóc”

diễn ra từ những năm 1906-1907. Để cổ động cho cuộc vận động đổi mới, đoàn

kết cùng nhau đồng lòng chung sức, Mai Lão Bạng (một tín đồ thiên chúa giáo quê

Nghệ An) viết:

“Trước thì gây dựng cuốc cày

Mong làm cơ sở đợi ngày thành công

Tay khai sáng hội canh nông

Mở mang nẻo mới vun trồng đường xa” (3)

Việc “cắt tóc” được hô hào, cổ vũ mạnh mẽ trong dân chúng, khắp các phủ

huyện ở Nghệ Tĩnh, “từ già chí trẻ”, “nhỏ thời cúp trước, lớn thời cúp sau”. Những

câu vè nhằm tuyên truyền cổ động phong trào, dân chúng Thanh - Nghệ - Tĩnh không ai không thuộc (4).

Tiếp đến là cuộc vận động đấu tranh chống thuế xin xâu diễn ra dưới hình thức

biểu tình là chủ yếu. Ban đầu họ cùng nhau dán tờ hiệu triệu lên các cây to ngoài

đường để hô hào nhau cùng tham gia. Họ kéo từng đoàn người với sự trang bị đơn

giản và không hề mang theo vũ khí đi từ trung tâm các phủ. Tại Hà Tĩnh, nông dân

các tổng, xã kéo đến phủ, huyện Nghi Xuân, Can Lộc, Thạch Hà, Đức Thọ... Tại

Nghệ An, nông dân các xã kéo tới phủ, huyện Hưng Nguyên, Nam Đàn, Thanh

Chương, Quỳnh Lưu. Để thực hiện được điều đó, những người tham gia được

chuẩn bị một số vật dụng cần thiết để cùng hô hào theo cuộc vận động giảm sưu

thuế của dân chúng tỉnh Quảng Nam, như những câu vè còn lưu truyền trong nhân

dân Nghệ Tĩnh, phản ánh cảnh cơ hàn, nghèo khổ của người dân đi biểu tình xin

xâu, giảm thuế:

“Lúc bấy giờ ngao ngán

Rồi rủ chắc (nhau) xin xâu

Người đầu bị, đầu niêu

Kẻ nón tời, cơi rách

Gánh giang sơn xốc xếch

Về giữa tỉnh lạy quỳ

Dân khốn khổ ra ri” (5)

2. Diễn biến và kết quả của phong trào đấu tranh chống sưu thuế ở Nghệ

Tĩnh

Theo ghi chép của các yếu nhân trong phong trào còn để lại thì cuộc vận động

chống thuế đã hai lần diễn ra tại Can Lộc (Hà Tĩnh). Lần thứ nhất vào khoảng

tháng 4/1908, Nguyễn Hàng Chi đã tổ chức vận động nhân dân làm một cuộc diễn

tập hưởng ứng phong trào chống thuế ở Quảng Nam. Nông dân các làng xã không

kéo lên huyện mà hẹn nhau nhóm họp ở các ngã ba trên con đường dẫn về tỉnh lỵ,

rồi cứ thế lần lượt dồn đến Tòa sứ giữa thị xã như nước chảy. Đám Công sứ và

quan lại Nam triều bất ngờ thấy dân vây kín thì hoảng hốt lúng túng, không biết

đối phó thế nào, đành phải ra tiếp dân và hứa giải quyết. Một chuyện rất lý thú đã

diễn ra là quan huyện tìm cách dò xem ai là kẻ cầm đầu nên đã gặng hỏi: “Ai xui

đến đây?”. Bên kia nhất loạt đồng thanh: “Bẩm quan, tân thơ” (ý nói sách vở “đổi mới” của thời buổi đó) (6). Thế là không có cách nào tìm ra đầu đảng, các quan

đành phải để dân chúng ra về. Đây là một thắng lợi của người dân song chính

quyền thực dân vẫn làm ngơ trước những yêu cầu bức thiết của dân chúng. Lần

thứ hai, Nguyễn Hàng Chi quyết định tổ chức một cuộc “khiếu sưu” quy mô hơn

lần trước. Lần này ông kêu gọi các huyện khác trong tỉnh cùng nhất tề phối hợp:

“…Nào anh, nào chị/ Nào chú, nào o/ Việc dân dân lo/ Đừng cho quan biết/

Dân ta đói rét/ Cực khổ trăm bề/ Sưu thuế nặng nề/ Không gì nuôi sống…/ Khổ

dân ta nói/ Khổ dân ta kêu/ Giảm thuế, giảm sưu/ Cho dân sống với!…”.

Thông tri do chính Nguyễn Hàng Chi thảo ra gửi đi các nơi để cổ động phong

trào, có nội dung ngụ ý như sau:“Đáng yêu thay dân tỉnh Quảng Nam!/ Đáng kính

thay dân tỉnh Quảng Nam!/ Đáng học thay dân tỉnh Quảng Nam!

Giặc Pháp mượn tiếng bảo hộ, ngược đãi dân ta đã quá lắm. Hàng năm nộp

xong sưu thuế rồi, mình không còn chiếc áo lành, bụng không còn được ăn cơm no,

đi nơi khác tìm ăn, khổ hết chỗ nói. Nếu không một phen đứng dậy tỏ tình kêu nài

thì sưu thuế hẳn còn tăng mãi. Dân ta mười nhà đến chín nhà rỗng không, khó

lòng gánh chịu được. Nếu cứ ngồi mà đợi chết, chi bằng dậy để tìm lối sống. Hét

to gọi lớn, chống lại quân thù. Định lấy ngày 18/4/1908 dân chúng các phủ huyện cùng kéo đến tỉnh, xông vào Toà sứ, đòi bỏ sưu thuế...” (7).

Đúng như dự kiến, ngày 18/4 năm Duy Tân thứ 2 (tức ngày 23/5/1908),

Nguyễn Hàng Chi dẫn đầu hơn 600 người, có cả phụ nữ, ông già, ăn mặc rách rưới,

đội nón cời, cơm đùm cơm nắm kéo lên huyện lỵ Can Lộc. Tri huyện Phạm Doãn

Văn sợ hãi phải bỏ trốn. Đoàn người liền dắt díu nhau kéo về tỉnh lỵ, đi đến đâu

họ cũng kêu vang xin Nhà nước ân giảm sưu cao thuế nặng. Khi đi gần đến Tòa

thị chính, đoàn biểu tình bị cánh quân của Trung úy Gaillard chặn lại và cho lính

đánh đập dữ dội, buộc cả đoàn phải dạt ra thành nhiều nhóm chạy khắp các ngả

đường trong thị xã, vừa chạy vừa kêu gào dữ dội. Tuy thế cũng có nhiều người lọt

được vào dinh các quan tỉnh hò hét đòi người cầm quyền thực hiện lời hứa với dân,

cho đến khi bị đánh lả đi mới thôi.

Tại huyện Nghi Xuân (Hà Tĩnh), Nguyễn Hàng Chi lại phối hợp cùng Trịnh

Khắc Lập tổ chức biểu tình vào ngày 22/5/1908. Giữa chợ Giang Đình, Trịnh

Khắc Lập đã diễn thuyết ủng hộ tờ Thông tri của Nguyễn Hàng Chi, kêu gọi các

nhà Nho bỏ buổi bình văn phù phiếm, vận động nhân dân lên huyện, lên tỉnh kêu

sưu. Ngày hôm sau (23/5/1908), như đã thỏa thuận với Nguyễn Hàng Chi từ trước,

ông cùng Phan Chiên, Phan Cẩn cầm đầu hơn 200 người làm náo động chợ huyện,

kéo tới huyện đường, bắt trói Tri huyện giải về tỉnh kêu sưu. Đoàn biểu tình đi

được độ 20km đến Cồn Gồ thì gặp cánh quân của viên quan binh Pháp Babut. Ông

ta vờ chấp nhận yêu sách của đoàn biểu tình, rồi đề nghị Trịnh Khắc Lập quay lại

huyện lỵ để giải quyết. Vì thiếu kinh nghiệm, những người biểu tình đã cởi trói

cho Tri huyện rồi vào huyện đường đàm phán. Babut liền trở mặt cho bắt các thủ

lĩnh và giải tán đoàn biểu tình. Cuộc biểu tình chống thuế cũng diễn ra với các

mức độ khác nhau tại một số xã ở huyện Kỳ Anh, Thạch Hà (Hà Tĩnh).

Cùng với hoạt động chống thuế ở Hà Tĩnh, ngày 19/7/1908, tại thôn Thanh Đại,

huyện Thanh Chương, Nghệ An, Phạm Ngô Đồng đã viết đơn chống sưu cao thuế

nặng và đem niêm yết ở nhiều chợ, thị trấn trong huyện, hô hào nhân dân đứng lên

biểu tình đòi giảm thuế, xoá sưu, một số hào lý trong vùng cũng đồng tình, trong

đó có Lý trưởng làng Thanh Đại là Nguyễn Văn Tàng. Tại huyện Yên Thành

(Nghệ An), Chu Trạc đấu tranh không bằng con đường thương lượng mà bằng vũ

lực. Để nhanh chóng thực hiện kế hoạch, ông liên hệ với một binh lính tin cậy ở

đồn Rạng tên là Cửu Lương (ở Thanh Chương) và chuẩn bị tiền cho một số đồng

chí ra nước ngoài mua sắm vũ khí trước lúc khởi sự. Lời hiệu triệu được bí mật

vang lên trong lễ tế cờ ra quân: “...Ai là khách anh hùng xin hãy chung lưng đấu

cật. Nước mắt còn chi những phút ni” làm thôi thúc ý chí những người tham gia

phong trào. Tuy nhiên, vì thiếu cảnh giác nên hoạt động chưa kịp thực hiện thì bị

thực dân Pháp ngăn chặn. Âm mưu lợi dụng phong trào nổi lên chống thuế của

nông dân để làm một cuộc bạo động vũ trang của Chu Trạc và các đồng chí bị thất

bại.

Như vậy, sự kết hợp chặt chẽ giữa các cuộc biểu tình chống thuế ôn hoà với

hình thức khởi nghĩa vũ trang là nét đặc sắc nhất của phong trào yêu nước ở Nghệ

Tĩnh trong năm 1908. Giáo sư Trần Văn Giàu đã nhận xét “...Hễ càng xa thì càng

mất đà, nhưng đến Nghệ An thì phong trào biến thành vũ trang khởi nghĩa”. Giáo

sư Đinh Xuân Lâm đã nhận định: “Phong trào chống thuế ở Nghệ Tĩnh là một

hiện tượng đẹp nhất thể hiện sự kết hợp lực lượng của hai phái bạo động và cải

lương”. Tuy các cuộc biểu tình ở nơi đây không lớn như ở Nam Ngãi và diễn ra

muộn, nhưng rất quyết liệt. Đặc biệt, do có sự chuẩn bị từ trước nên tổ chức rất

chặt chẽ, thống nhất. Có được điều này chứng tỏ sự tổ chức của Duy Tân hội và

sức mạnh của tư tưởng mới đã lôi cuốn dân chúng.

Thực dân Pháp mà đại diện là Khâm sứ, Công sứ và chính phủ Nam triều nhanh

chóng dập tắt phong trào bởi “phong trào nổi dậy sẽ lại truyền bá ra phương Bắc” (8) và xem xét nguyên do cuộc khởi loạn mà xét xử những người kích động nhân

dân, những người tạo “yêu thư, yêu ngôn” thì chiếu theo điều khoản “phàm tuyên

bố bậy bạ tạo ngôn, viết ra trương dán, xui giục lòng người, kẻ vi thủ trảm lập quyết, vi tùng đều thủ trảm giam hậu” (9) như các trường hợp Nguyễn Hàng Chi (Hà Tĩnh), Châu Trạc, Phạm Trang, Phạm Ngô Đồng (Nghệ An) (10). Nhân dân

Nghệ Tĩnh đã ghi lại cảnh bắt bớ, giam hãm của chính quyền thực dân qua bài vè

chống thuế tại địa phương: “Kẻ đứng đầu: giam lại/ Bắt cùm kẹp hỏi tra/ Đò tuyệt nỏ cho qua/ Bắt ngăn đường đón lại/ Bắt mọi đường đón lại...” (11).

Thực dân và tay sai Nam triều bắt giam tù nhiều người ở Nghệ Tĩnh, cho rằng

“Các phạm nhân giam sai nói trên có tình tội nặng, đều xin phát đi Côn Lôn phối dịch, để răn...” (12). Còn hành động của nhân dân là “mưu làm phản nghịch”, ai nói

chuyện “tân thơ” là chúng bắt như trường hợp Trịnh Khắc Lập (Hà Tĩnh).

Thảm cảnh những thân sĩ Nghệ Tĩnh bị chính quyền thực dân và tay sai Nam

triều bắt đi đày được Phan Châu Trinh mô tả trong “Trung kỳ dân biến thỉ mạt

ký”: “Lúc dẫn đi đày, duy thân sĩ Quảng Nam được thong dong. Các tỉnh khác tuy

có ngược đãi, nhưng không thái quá. Chỉ có thân sĩ hai tỉnh Hà Tĩnh và Nghệ An

giao cho quan binh áp giải, trói cả tay chân, không cho cựa quậy lấy trành khiêng,

xuống tàu thuỷ rồi cũng không cho mở dây, sắp hàng trên boong tầu, khát không

cho uống, mưa to gió lớn trời lãnh không cho dời đi chỗ khác, có người kêu đau, kêu khổ rất thảm thương” (13).

Cuộc biểu tình diễn ra tuy ngắn ngủi (chỉ trong vòng một tuần lễ) nhưng đã thu

hút đông đảo nhân dân tham gia và biểu hiện những nét mới của phong trào dân

tộc, dân chủ. Khác với các tỉnh Nam Trung Kỳ, phong trào chống thuế ở Nghệ

Tĩnh chưa tổ chức thành một phong trào mạnh mẽ với điểm đến cuối cùng là toà

Công sứ Tỉnh, mà mới chỉ là “lấy Nam Ngãi làm tấm gương soi” để “hò reo như

gió đưa diều”. Nó thể hiện tinh thần kiên cường, tính nhạy cảm trước “thời cuộc”,

hưởng ứng kịp thời và ý thức dân tộc luôn có trong người dân khiến cho thực dân

Pháp phải lo sợ như Toàn quyền Bouhoure đã nêu trong báo cáo đề ngày 22/12/1908 (14). Tinh thần dân tộc luôn là động lực chính ở các cuộc đấu tranh,

trong đó có cuộc biểu tình chống thuế ở Nghệ - Tĩnh đầu thế kỷ XX. Nguyễn Ái

Quốc từng tham gia chống thuế ở Huế, Người đã viết: “Chủ nghĩa dân tộc là động

lực của đất nước, chính nó đã gây nên cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908, nó đã

dạy cho những người “nhà quê” phản đối ngầm trước thuế tạp dịch và thuế muối” (15).

Phong trào đấu tranh của nhân dân Nghệ Tĩnh đã diễn ra sôi nổi, có tổ chức và

vận động có mục tiêu kinh tế, chính trị nhưng vẫn chưa có sự thống nhất chung,

còn mang tính tự phát. Phong trào nơi đây bùng nổ khi cuộc đấu tranh ở các tỉnh

đã bị đàn áp nên bùng lên mạnh mẽ như một phản ứng dây chuyền rồi cũng nhanh

chóng thất bại. Đây cũng là nét chung của phong trào chống thuế của Trung Kỳ

năm 1908.

Kết quả cuộc biểu tình chống thuế năm 1908 ở Nghệ Tĩnh và cả Trung Kỳ nói

chung đã góp phần làm cho thực dân Pháp phải nới tay trong chính sách bóc lột

của chúng như giảm thuế thân từ 2,40 đồng xuống còn 2,20 đồng, giảm 4 ngày sưu

(công ích) xuống 3 ngày và tuyên bố không tăng 5% thuế điền nữa. Ngày

31/12/1908, Toàn quyền Đông Dương chuẩn y giảm số ngày đi xâu làm việc

“hàng tỉnh” từ 8 ngày (theo Nghị định Toàn quyền ngày 31/12/1908) xuống còn 5 ngày (16).

Tiếp nối và phát triển phong trào đấu tranh chống Pháp và tay sai cuối thế kỷ

XIX, phong trào chống sưu thuế đầu thế kỷ XX biểu thị lòng yêu nước, chí căm

thù, sức mạnh quật khởi, khả năng cách mạng to lớn và nguyện vọng sâu sắc của

quần chúng nhân dân mà chủ yếu là nông dân chống thực dân phong kiến. Sau

phong trào chống thuế năm 1908, thực dân Pháp ra sức đàn áp các hoạt động

chống đối chính quyền ở khắp các tỉnh Trung Kỳ, phong trào của nông dân ở các

tỉnh Trung Trung Kỳ và Nam Trung Kỳ hầu như im ắng thì tại Bắc Trung Kỳ, đặc

biệt ở Nghệ Tĩnh, nông dân đã tấn công chính trị, phát triển mạnh mẽ phong trào

đấu tranh công khai giành quyền lợi cho nông dân tại các vùng nông thôn trong

năm 1910-1919 và phong trào đấu tranh giữa phe "hộ" và phe "hào" trong những

năm 20 đầu thế kỷ XX. Điều này cho thấy sức chiến đấu bền bỉ, khéo léo của nông

dân Nghệ Tĩnh góp phần to lớn cho phong trào đấu tranh chống thực dân, phong

kiến.

Phát huy tinh thần đấu tranh cách mạng với chủ nghĩa yêu nước như là một sợi

chỉ đỏ xuyên suốt, nông dân Nghệ Tĩnh đã hưởng ứng cuộc đấu tranh với khí thế

quyết liệt, với tinh thần thông minh sáng tạo. Có thể khẳng định rằng: từ những

đốm lửa của phong trào chống thuế năm 1908, của phong trào đấu tranh những

năm tiếp theo đã bùng lên thành ngọn lửa lớn trong cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh

(1930-1931). Kết quả đấu tranh của phong trào nông dân Nghệ Tĩnh những năm

đầu thế kỷ XX góp phần viết nên những trang sử hào hùng của địa phương cũng

như cả nước thời cận đại./.

Chú thích

(1) Phan Huy Chú (1960), Lịch triều hiến chương loại chí, quyển 2, Nxb Giáo

dục, Hà Nội, tr.70.

(2) Theo Nguyễn Đổng Chi (1962), Hát giặm Nghệ Tĩnh, Nxb Sử học, tr.156.

Đất cũng có khi lở/ Trời cũng có khi nghiêng/ Cứng cũng có khi phải mềm/ Mềm

rồi khi phải cứng/ Dân Quảng Nam hùng dũng/ …/Người ta kéo đoàn kéo lũ/

Người ta vô vạn hằng hà/ Kéo đến tỉnh đến tòa/ Đứng chật cửa, chật nhà/ Đòi

thuế giảm sưu tha/ Bọn Lang sa mất vía/ Bọn Nam triều mất vía.

(3) Phan Bội Châu tuyển tập, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1986. tr.329.

(4) Chương Thâu, Đông Kinh Nghĩa Thục, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1983, tr.63.

“Húi hề! húi hề! Tay trái cầm kéo/ Tay phải cầm lược/ Húi hề! húi hề!/ Thủng

thẳng cho khéo/ Bỏ cái ngu này!/ Bỏ cái dại này”!

(5), (12) Nguyễn Đổng Chi (1962) Hát giặm Nghệ Tĩnh, Nxb Sử học, tr.168.

(9), (10), (11) Nguyễn Thế Anh, Phong trào kháng thuế ở miền Trung qua các châu

bản triều Duy Tân, Bộ Văn hoá Giáo dục và Thanh niên, Sài Gòn, 1973. tr.131.

(6), (7), (13) Phan Châu Trinh, Trung Kỳ dân biến thỉ mạt ký, Lê Ấm, Nguyễn

Quang Thắng chú dịch và giới thiệu, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hoá xuất

bản, Sài Gòn, 1973, tr.89.

(8) Rapport politique pour le mois de mai 1908 Province de Nghệ An.

(14) Chương Thâu, Hồ Song, Ngô Văn Hoà, Nguyễn Văn Kiệm, Đinh Xuân Lâm,

Lịch sử Việt Nam (1897-1918), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998, tr.204-205.

“Bằng cách hành động có hệ thống, những người cầm đầu, trên thực tế, không

phải nhằm giảm nhẹ vài thứ thuế. Họ hướng tới và chính điều đó, tôi xin nhắc lại,

làm cho những triệu chứng này có tính chất nghiêm trọng và khiến chúng ta phải

lo lắng cho tương lai - tạo ra sự phá vỡ tổ chức cai trị trong xứ và chuẩn bị cho sự

thức tỉnh một phong trào dân tộc”.

(15) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.446.

(16) Dương Kinh Quốc, Việt Nam những sự kiện lịch sử (1858-1918), Nxb Giáo

dục, Hà Nội, 2000, tr.314.

■ Dương Thị Thanh Hải