
Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 28 * Số 4* 2025
122 | https://www.tapchiyhoctphcm.vn https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2025.04.15
Sau bơm surfactant, có sự cải thiện về mặt hình ảnh trên
siêu âm phổi: giảm bất thường đường màng phổi, tăng A – line,
giảm hình ảnh phổi trắng, tăng hình ảnh ≥3 B – line. Hình ảnh
đông đặc phổi không có sự cải thiện rõ rệt (Bảng 5).
4. BÀN LUẬN
Trong thời gian từ 01/12/2023 đến 30/06/2024, chúng tôi
thu thập được 34 trường hợp trẻ sinh non <32 tuần tuổi thai
và cân nặng lúc sinh <1500 gram mắc bệnh màng trong,
chưa bơm surfactant. Các trẻ nhập khoa sẽ được ổn định về
mặt hô hấp, huyết động, thân nhiệt. Thời điểm thực hiện siêu
âm ngực ngay sau khi trẻ được chụp X – quang ngực. Trung
vị thời gian từ lúc trẻ sinh ra đến lúc chúng tôi tiến hành siêu
âm phổi là 4 giờ. Nghiên cứu của chúng tôi có 27 ca (79,4%)
cần được bơm surfactant.
Nghiên cứu của chúng tôi sử dụng phân loại mặt cắt 6
vùng phổi như của tác giả Raimondi F, với mỗi vùng phổi
được phân thành 3 vùng là mặt cắt trước ngực, mặt cắt thành
bên và mặt cắt sau ngực [3]. Hình ảnh siêu âm phổi ở cả ba
mặt cắt trước ngực, thành bên và sau ngực đều cho thấy
không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Điều này phù hợp
với bệnh sinh của bệnh màng trong là tình trạng thiếu hụt
surfactant ảnh hưởng cả 2 phổi thường tương đồng nhau.
Khi đánh giá hình ảnh siêu âm phổi giữa 2 nhóm có chỉ
định bơm và không bơm surfactant, chúng tôi ghi nhận được
nhiều sự khác biệt về mặt hình ảnh siêu âm phổi giữa 2 nhóm
này. Về hình ảnh bất thường đường màng phổi, chúng tôi ghi
nhận có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê trên cả 3 mặt cắt,
với 17 ca (63%) trước ngực, 19 ca (70,4%) thành bên và 22
ca (81,5%) sau ngực có dấu hiệu bất thường đường màng
phổi ở nhóm bơm surfactant, trong khi ở nhóm không bơm
surfactant trên cả 3 mặt cắt đều không ghi nhận dấu hiệu này.
Nghiên cứu của tác giả Oktem A ghi nhận 37/40 ca (92,5%)
có hình ảnh bất thường đường màng phổi [4]. Nghiên cứu
của tác giả Trịnh Thị Thuần cho thấy có 97,2% trường hợp
bất thường đường màng phổi [5]. Hình ảnh A – line trên siêu
âm thấy được ở cả 7 ca (100%) không bơm surfactant. Trong
khi đó, ở nhóm bơm surfactant, số lượng A – line trên hình
ảnh siêu âm ghi nhận được chỉ khoảng 50%, với 14 ca
(51,9%) ở mặt cắt trước ngực, 11 ca (40,7%) ở mặt cắt thành
bên và chỉ có 8 ca (29,6%) ở mặt cắt sau ngực. Sự khác biệt
về hình ảnh A – line giữa 2 nhóm bơm và không bơm
surfactant có ý nghĩa thống kê trên cả 3 mặt cắt. Nghiên cứu
của tác giả Oktem A ghi nhận không có trường hợp nào còn
hình ảnh A – line [4]. Nghiên cứu của tác giả Trịnh Thị Thuần
ghi nhận chỉ có 16,7% bệnh nhân còn hình ảnh A – line [5].
Hình ảnh ≥3 B – line ở nhóm bơm surfactant thấp hơn nhóm
không bơm surfactant, nhưng chỉ có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê ở mặt cắt sau ngực. Không có trường hợp nào
không bơm surfactant ghi nhận hình ảnh phổi trắng trên siêu
âm. Ngược lại, ở nhóm bơm surfactant, hình ảnh phổi trắng
chiếm đa số trên cả ba mặt cắt, với 16 ca (59,3%) ở mặt cắt
trước ngực, 18 ca (66,7%) ở mặt cắt thành bên và 21 ca
(70,4%) ở mặt cắt sau ngực. Nghiên cứu của chúng tôi không
ghi nhận trường hợp nào không bơm surfactant có hình ảnh
đông đặc phổi. Ở nhóm có chỉ định bơm surfactant, trên mặt
cắt trước ngực và thành bên, có 7 ca (25,9%) có hình ảnh
đông đặc phổi, ở mặt cắt sau ngực có 15 ca (55,6%) có hình
ảnh đông đặc phổi. Có thể thấy hình ảnh đông đặc phổi ở
vùng sau ngực chiếm tỷ lệ nhiều nhất, và có sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê của hình ảnh này ở mặt cắt sau ngực giữa 2
nhóm bơm và không bơm surfactant, với p <0,05. Kết quả
này cho thấy việc khảo sát hình ảnh vùng phổi sau ngực có
khả năng phát hiện hình ảnh đông đặc phổi cao hơn và có ý
nghĩa hơn so với 2 vùng phổi trước ngực và sau ngực.
Đối với nhóm thông khí xâm lấn, khả năng có bất thường
đường màng phổi và có hình ảnh phổi trắng trên siêu âm cao
gấp 8,3 lần và 6,3 lần so với nhóm thông khí xâm lấn, với
p < 0,05. Ngược lại, khả năng ghi nhận hình ảnh A – line và
≥3 B – line ở nhóm thông khí xâm lấn thấp hơn so với nhóm
thông khí không xâm lấn 0,1 lần và 0,2 lần (p <0,05). Nhóm
thông khí xâm lấn sớm là nhóm có mức độ bệnh màng trong
nặng hơn, tình trạng suy hô hấp xảy ra sớm và suy hô hấp
nặng cần đặt nội khí quản, do đó khả năng ghi nhận hình ảnh
bất thường đường màng phổi và phổi trắng ở nhóm này cao
hơn so với nhóm thông khí không xâm lấn là phù hợp.
Sau khi bơm surfactant, hình ảnh bất thường đường màng
phổi đều giảm ở cả ba mặt cắt, sự thay đổi này có ý nghĩa
thống kê (p <0,05). Ở mặt cắt trước ngực, bất thường đường
màng phổi trước bơm surfactant gặp ở 17 ca (63%) trước
bơm surfactant, giảm xuống còn 7 ca (25,9%) sau bơm. Kết
quả ở mặt cắt thành bên và sau ngực trước bơm surfactant là
19 ca (70,4%) và 22 ca (81,5%) lần lượt giảm xuống còn 6
ca (22,2%) và 12 ca (44,4%) sau bơm surfactant. Nghiên cứu
của tác giả Trịnh Thị Thuần cho thấy thời điểm trước bơm
surfactant có 30 ca (83,3%) ghi nhận dấu hiệu bất thường