
www.tapchiyhcd.vn
264
4. BÀN LUẬN
Nghiên cứu cho thấy 14,8% người bệnh tăng huyết áp
điều trị ngoại trú có dấu hiệu trầm cảm, cao hơn mức
10% trong nghiên cứu của Sharma [3]. Tuy nhiên, tỷ lệ
trầm cảm trong nghiên cứu này lại thấp hơn hầu hết các
nghiên cứu khác. Trên thế giới, nghiên cứu Ashok và
cộng sự báo cáo tỷ lệ này là 41% trên 200 người bệnh
[5], còn nghiên cứu của Raja cho thấy tỷ lệ cao nhất với
58% [6]. Tại Việt Nam, tỷ lệ trầm cảm ở nhóm người
bệnh tăng huyết áp cũng cao hơn so với nghiên cứu
này. Cụ thể, nghiên cứu của Lý Thị Phương Hoa trên
151 người bệnh tăng huyết áp tại Bệnh viện Nguyễn
Tri Phương cho thấy 26,5% có dấu hiệu trầm cảm [7].
Nghiên cứu của Nguyễn Bá Nam và cộng sự ghi nhận
tỷ lệ là 22,4%, trong khi Nguyễn Văn Thống và cộng
sự phát hiện 31,8% người bệnh cao tuổi có tăng huyết
áp tại Khoa Nội Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần
Thơ có dấu hiệu trầm cảm, dựa theo tiêu chuẩn ICD-10
[4,8]. Sự khác biệt về tỷ lệ trầm cảm ở các nghiên cứu
khác nhau có thể do sự khác biệt về đặc điểm đối tượng
nghiên cứu như nghiên cứu của Nguyễn Văn Thống và
nghiên cứu của Raja được tiến hành trên nhóm người
bệnh tăng huyết áp đang được điều trị nội trú tại bệnh
viện nên nguy cơ xuất hiện dấu hiệu trầm cảm cao hơn
[6,8]. Bên cạnh đó, các nghiên cứu được đánh giá tại các
khu vực và thời điểm khác nhau nên những đặc điểm
đối tượng nghiên cứu có sự khác biệt dẫn đến nguy cơ
xuất hiện dấu hiệu trầm cảm khác nhau. Tuy nhiên, mặc
dù nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ dấu hiệu trầm
cảm thấp hơn hầu hết các nghiên cứu nhưng với tỷ lệ
trầm cảm ghi nhận là 14,8% nghiên cứu khuyến nghị
cần sàng lọc, phát hiện sớm các vấn đề rối loạn tâm lý
ở người bệnh.
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy người bệnh lớn tuổi
có xu hướng xuất hiện dấu hiệu trầm cảm cao hơn, với
kết quả có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Phát hiện này
phù hợp với nhiều nghiên cứu trước đó của Albasara
và cộng sự đã khảo sát 342 người bệnh tăng huyết áp
tại các trung tâm chăm sóc sức khỏe ở Dammam và kết
luận rằng nguy cơ trầm cảm tăng dần theo độ tuổi, đặc
biệt với những người bệnh trên 50 tuổi có khả năng
mắc trầm cảm cao hơn 3,33 lần so với nhóm dưới 50
tuổi (OR=3,33; 95% CI: 1,22-9,10) [9]. Nghiên cứu
của Raja và cộng sự năm 2021 cũng cho thấy mối liên
hệ tương tự. Trong 100 người bệnh tăng huyết áp, tỷ
lệ có dấu hiệu trầm cảm ở nhóm tuổi 41-50 là 75,6%,
cao hơn so với nhóm trên 50 tuổi (68,2%), nhóm 31-40
tuổi (35,0%), và nhóm 21-30 tuổi (25,0%), với sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) [6]. Ngoài ra, nghiên
cứu của Lý Thị Phương Hoa tại Bệnh viện Nguyễn Tri
Phương cũng xác nhận xu hướng này. Trong số 151
người bệnh, tỷ lệ trầm cảm cao nhất ở nhóm tuổi 18-29
(66,7%) và nhóm 50-70 (73,9%), trong khi nhóm 30-
49 tuổi có tỷ lệ thấp hơn (22,2%), với sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê (p<0,05) [7]. Điều này không có gì bất
ngờ khi tình trạng tăng huyết áp mãn tính có thể khiến
người bệnh cảm thấy lo âu và căng thẳng kéo dài. Bên
cạnh đó, người lớn tuổi thường phải sử dụng nhiều loại
thuốc để kiểm soát huyết áp, và một số loại thuốc này
có tác dụng phụ gây ảnh hưởng đến tâm lý và làm tăng
nguy cơ trầm cảm. Do đó, NVYT cần sàng lọc, tư vấn
trên nhóm người bệnh tăng huyết áp lớn tuổi nhằm phát
hiện sớm và có những biện pháp can thiệp tư vấn tâm
lý, hỗ trợ các phương pháp chăm sóc sức khỏe kịp thời.
Nghiên cứu của chúng tôi cùng nhiều nghiên cứu khác
cho thấy tình trạng kinh tế có ảnh hưởng đáng kể đến
nguy cơ xuất hiện dấu hiệu trầm cảm ở người bệnh
tăng huyết áp. Người có thu nhập cao hơn thường ít có
dấu hiệu trầm cảm hơn so với nhóm thu nhập thấp. Cụ
thể, nghiên cứu của Lý Thị Phương Hoa tại Bệnh viện
Nguyễn Tri Phương ghi nhận tỷ lệ trầm cảm là 20,2%
ở người có thu nhập trên 12 triệu đồng, thấp hơn so với
nhóm thu nhập từ 10-12 triệu đồng (23,5%) và đặc biệt
là nhóm thu nhập từ 6-10 triệu đồng (80%), với sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) [7]. Thực trạng kinh tế
khó khăn có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe
tâm lý của người bệnh tăng huyết áp. Gánh nặng chi
phí y tế, cùng với thu nhập giảm do khả năng lao động
hạn chế, khiến người bệnh thường xuyên trầm cảm về
tài chính. Do đó, việc lựa chọn, tư vấn các phương pháp
điều trị phù hợp với từng nhóm đối tượng là cần thiết.
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng người bệnh
không sống cùng bạn đời có nguy cơ cao hơn xuất hiện
các dấu hiệu trầm cảm, do thiếu sự hỗ trợ tinh thần và
tình cảm từ người thân cận nhất. Việc không có bạn đời
bên cạnh có thể khiến người bệnh cảm thấy cô đơn, bị
cô lập, và thiếu sự gần gũi, dẫn đến cảm giác buồn bã và
lo âu. Điều này cũng được xác nhận qua nhiều nghiên
cứu như nghiên cứu của Lý Thị Phương Hoa tại Bệnh
viện Nguyễn Tri Phương chỉ ra rằng người bệnh tăng
huyết áp nhận sự hỗ trợ từ gia đình và xã hội có tỷ lệ
trầm cảm thấp hơn, với tỷ lệ trầm cảm ở nhóm được hỗ
trợ là 19,3%, so với 59,3% ở nhóm không nhận được
hỗ trợ (p<0,05) [7]. Nghiên cứu của Abdisa và cộng sự
tại Ethiopia trên 471 người bệnh tăng huyết áp điều trị
ngoại trú cũng cho thấy nguy cơ trầm cảm cao hơn ở
người bệnh thiếu sự hỗ trợ xã hội, với nguy cơ trầm cảm
gấp 2,81 lần (OR=2,81; 95% CI=1,65-4,77) ở nhóm
không được hỗ trợ [10].
Người bệnh tăng huyết áp có thời gian điều trị lâu hơn
có xu hướng gặp triệu chứng trầm cảm cao hơn. Nghiên
cứu của Lý Thị Phương Hoa tại Bệnh viện Nguyễn Tri
Phương cho thấy người bệnh được chẩn đoán trên 1
năm có tỷ lệ trầm cảm thấp hơn (23,8%) so với nhóm
dưới 1 năm (58,3%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05) [7]. Tương tự, nghiên cứu của Albasara và
cộng sự tại các trung tâm y tế ở Dammam cũng ghi
nhận mối liên quan giữa thời gian mắc bệnh với trầm
cảm; người bệnh có thời gian phát hiện từ 3 năm trở lên
có nguy cơ trầm cảm cao hơn 3,765 lần so với nhóm
dưới 3 năm (p<0,05) [9]. Do đó, chúng tôi đề xuất sàng
lọc tâm lý thường xuyên ở người bệnh tăng huyết áp lâu
năm nhằm phát hiện sớm các rối loạn tâm lý để cải thiện
chất lượng cuộc sống cho người bệnh.
Nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng người bệnh tăng
T.T. Nhi et al. / Vietnam Journal of Community Medicine, Vol. 66, No. 2, 260-265