
Dow Theory - Lý thuyết Dow
Nếu bạn theo đuổi sự nghiệp trading thì bạn sẽ được nghe rất nhiều về cụm
từ này " Dow Theory" . Vậy Dow Theory - Lý thuyết Dow là gì?
Lý thuyết Dow đã có khoảng gần 100 năm, nhưng kể cả trong thị trường
ngày nay – những thị trường rất biến động và bị các yếu tố công nghệ chi phối, các
yếu tố cơ bản của lý thuyết Dow vẫn giữ vững. Được phát triển bởi Charles Dow,
được William Hamilton chọn lọc lại và hiệu đính lại bở Robert Rhea, lí thuyết
Dow ko chỉ nói về phương pháp phân tích kĩ thuật và hoạt động của giá cả, mà còn
nói về nguyên lý của thị trường. Rất nhiều ý tưởng và nhận xét được Dow và
Hamilton đã trở thành chân lý của Phố Wall. Trong khi có một vài người có thể
nghĩ rằng ngày nay mọi chuyện đã khác, việc đọc kĩ lí thuyết Dow sẽ chứng thực
rằng thị trường chứng khoán ngày nay cũng hoạt động tương tự như 100 năm về
trước.
Lý thuyết Dow thường dùng trong chứng khoán và thường được coi là
nguyên lí cơ bản của phân tích kĩ thuật.
Bản thân Dow thực sự chưa bao giờ sử dụng cụm từ đó. Về sau này các nhà
phân tích mới bắt đầu sử dụng cụm từ này.

Năm 1884 khi Dow cho ra đời chỉ số trung bình của thị trường chứng
khoán gồm 11 cổ phiếu đầu tiên của ông. Từ 11 cổ phiếu cơ bản này, đã có một
vài sự thay đổi và sắp xếp của mức trung bình, cho đến tận năm 1928 ông ổn định
với mức 30 cổ phiếu. Chỉ số này sau này được biết đến với tên gọi chỉ số trung
bình của lĩnh vực công nghiệp ( industrial average) và đó cũng là lí do vì sao mà
chúng ta có cụm từ quen thuộc " Dow Jones Industrial Average" - Chỉ số trung
bình công nghiệp của Dow Jones.
Lý thuyết này thực là không hề khó để giải thích và rất dễ thấy nếu bạn
dành thời gian để suy nghĩ về nó. Mình xin đơn giản nó đi một chút, vì chúng ta
chưa đi vào mặt nào của lý thuyết này:
1. Thị trường giảm giá mọi thứ. Giá mà bạn là giá thực của thị trường. Nếu
bạn đang đi theo một loại cổ phiếu và cổ phiếu đó được định giá ở một mức x thì
đó chính là giá trị hợp lí của nó. Người ta giả sử rằng mọi thông tin được biết đến
về loại cổ phiếu hay tiền tệ đó đều đã được thị trường đưa vào xem xét và phản
ánh lên giá cả . Nếu thông tin mới được giới thiệu thông tin này sẽ làm thay đổi
giá cả và và vẫn sẽ được phản ánh lên giá.
Hamilton ghi chú rằng thi thoảng thị trường phản ánh ngược chiều với
news. Đối với Hamilton, lý do rất đơn giản: thị trường nhìn về phía trước. vào thời
gian mà tin tức lan rộng ra trên phố phường, thì tin này đã được phản ánh sẵn lên
giá cả rồi. Điều này lí giải câu châm ngôn cổ của Phố Wall, “ buy the rumor, sell

the news”. Khi tin đồn bắt đầu được lọc, người mua sẽ bước vào và đẩy giá lên
cao. Khi tin tức được công bố, thì giá đã được nâng lên đủ để phán ánh tin tức này
rồi.
2. Thị trường có 3 xu thế chính. Ở đây bạn sẽ vô tình bắt gặp một vài cụm
từ chuyên ngành dành cho phương pháp phân tích kĩ thuật nhưng hãy nhớ cho
mình và mình sẽ giải thích cho các bạn sau.
Lí giải của Dow về một xu thế là những cuộc chạy đua ( thường được gọi
với từ chuyên ngành là rally) lên cao thì sẽ cao hơn những cuộc chay đua đã cao
sẵn trước đó và những cuộc chay đua xuống thấp thì sẽ thấp hơn những cuộc chay
đua xuống thấp trước đó.
3 xu thế là - xu thế gốc hay xu thế cơ bản ( primary trend), xu thế thứ 2 (
second trend), và những xu thế nhỏ ( minor trends). Điều này rất quan trọng vì sau
này khi các bạn thảo luận về vấn đề này, đây sẽ là yếu tố đóng vai trò chủ chốt
trong phân tích của chúng ta.
Xu thế cơ bản ( primary trend) là lực lượng chính đằng sau xu thế và giống
như một dòng chảy của sông theo một hướng cơ bản. Xu thế thứ 2 giống như một
nhanh của xu thế chính.Nhánh này có thể rẽ ra một lúc nhưng cuối cùng cũng quay
lại đi theo dòng của dòng sông chính. Xu thế nhỏ thì giống như một dòng suối

nhỏ, có lúc chạy theo hướng này và hướng kia nhưng vẫn được dẫn dắt theo một
hướng chung của dòng sông.
Xu thế cơ bản có thể mất nhiều năm để kết thúc và phát triển theo thời gian.
Xu thế thứ 2 có thể xẩy ra bất cứ ở đâu từ một vài tuần tới một vài tháng nếu tính
theo thời gian và xu thế nhỏ có thể đi theo hướng ngược lại của xu thế cơ bản.
Những xu thế nhỏ như là xu thế hàng ngày (daily trend) kéo dài một vài ngày hoặc
tương tự và thường ko có gì quá nổi bật.
3. Ngoài 3 loại trends trên, sau này Dow còn tiếp tục hạn chế hơn nữa xu
thế bằng cách cho rằng xu thế luôn có 3 kì: kì tích lũy ( accumulation stage), kì
tham dự chung ( public participation) và cuối cùng là kì phân phát ( distribution
stage)
4. Vì chỉ số Dow trung bình cơ bản bao gồm các cổ phiếu từ những mảng
khác nhau phân tiếp theo của lý thuyết Dow nói về việc chỉ số trung bình của
những mảng khác nhau phải khẳng định lẫn nhau.
5. Dow cũng xét đến hiệu ứng của khối lượng trong một xu thế. Ông khẳng
định rằng khố lượng nên phát triển theo cùng một hướng với xu thế.
6. Phần cốt lõi cuối cùng của lý thuyết này là: Người ta nên giả sử rằng xu
thế vẫn luôn mạnh đến tận khi có một biểu thị rõ ràng rằng xu thể đó trên thực tế
đã thay đổi.

Giải thích của mình về lý thuyết Dow ở trên rất ngắn gọn vì thực sự để đi
sâu vào từng phần cụ thể của lý thuyết này ở đây là ngoài khả năng.
Và đối với điều mà mình đang cố gắng đạt được ở đây là gợi mở cho các
bạn một ý tưởng lớn về việc làm thế nào mà thị trường lại hoạt động như thế và
làm thế nào để thực hiện giao dịch một cách hiệu quả thì lí thuyết này cũng ko
phải là quá cần thiết.
Điều cốt lõi mà mình muốn các bạn rút ra được từ lý thuyết này là có 3
dạng xu thế : xu thế cơ bản ( primary trend), xu thế thứ 2 ( second trend) và những
xu thế nhỏ ( minor trends). Sau này các bạn sẽ phải cần ý tưởng này để tiếp cận
các giao dịch của bạn đó.
Hamilton và Dow đã công khai thừa nhận rằng lý thuyết Dow ko phải là
một công cụ chính xác 100% để đánh bại thị trường. Lý thuyết này được coi như
một loạt chỉ dẫn và nguyên để trợ giúp các nhà đầu tư và traders với nghiên cứu
của cá nhân họ về thị trường. Lý thuyết Dow cung cấp một cơ cấu cho các nhà đầu
tư sử dụng để giúp loại bỏ cảm tính. Hamilton cảnh báo rằng các nhà đầu tư ko
nên để các mong muốn cá nhân ảnh hưởng tới các tính toán trong giao dịch. Khi
phân tích thị trường, hãy chawscs chắn rằng bạn có mục đích và nhận định những
gì có thật trên thị trường, ko phải những gì mà bạn muốn thấy. Nếu một nhà đầu tư
đang có lệnh mua, thì người đó chỉ muốn thấy những dấu hiệu đi lên và làm lơ đi
bất cứ một dấu hiệu đi xuống nào. Ngược lại với những nhà đầu tư đang có lệnh
bán họ có thể chỉ ép mình tập trung vào những khía cạnh tiêu cục của giá thị